Tại
câu lạc bộ Ba Đình ở Hà Nội mà một số người coi như đó là câu lạc bộ
phù phiếm vì số người này đến đó không phải để bơi lội hay rèn luyện
thân thể mà chủ yếu là uống bia và nói chuyện phiếm, tôi được nghe đủ
thứ chuyện trên trời dưới đất, từ chuyện thời sự xã hội đến chuyện
phòng khuê vua chúa, chuyện địa ngục thiên đường. Một buổi chiều, có
dịp ngồi gần nhà báo họ Trương, tôi nghe anh nói:
Ra về nhớ cảnh, nhớ người
Một làn tương ngộ suốt đời không quên.
Anh
Trương kể chuyện anh đi chơi Đà Lạt như chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên
Thai, chuyện tiên cảnh giữa trần ai. Nào chuyện hồ xanh thác trắng; cái
thú nhìn sương mù buổi sáng trên hồ Xuân Hương, đi chơi thác Prenn nhìn
trời tuôn nước đến thác Đatanla biến tiên, nơi xưa kia các nàng tiên
trên núi xuống tắm, vì thác nằm dưới thung lũng sâu, cây lá um tùm, một
nơi tắm kín đáo "Thang lan rủ bước, trướng hồng tầm hoa", chính anh bị
hấp dẫn bởi huyền thoại cũng đã ngủ lại đó một đêm, ngủ bằng nóp, loại
nóp hiện đại bằng cao su anh mang từ nước ngoài về. Nào chuyện đồi cao
lũng thấp; anh đi chơi thung lũng Tình yêu, trưa nắng nghỉ dưới rặng
thông, có chụp tấm ảnh trong đó có mấy thiếu nữ xinh đẹp, anh khoe tấm
ảnh và liên hệ cảnh Marcel (Marcel Proust) đi chơi với các thiếu nữ
đang xuân và tưởng tượng như mình đang sống giữa những nữ thần. Anh đến
Đồi Cù ngồi dưới gốc thông hít thở không khí trong lành thoảng hương
thông ấm áp dễ chịu. Anh tiếc chưa có dịp trèo lên đỉnh núi Bà (Pic
Lang Bian) song mắt anh luôn hướng tới quả núi hùng vĩ có hai cái đỉnh
gần kề nhau như hai bầu vú thiên nhiên mang nguồn sống bất tận, anh
bỗng liên hệ truyền thuyết bà Âu Cơ từ giã Lạc Long Quân đem 50 người
con gái lên núi và tự hỏi: Phải chăng đó là tượng đài Mẹ Âu Cơ. Việt
Nam ta có núi Vọng Phu, song chưa thấy có một tượng đài tương xứng với
hình ảnh mẹ Việt Nam, người mẹ đã sinh ra nhiều thế hệ ngoan cường có
sức mạnh, có khả năng trải qua gian nan thử thách để tồn tại và phát
triển 4000 năm với những bước đi tới vững chãi hào hùng.
Nói
nhiều về cảnh đẹp Đà lạt, anh Trương không quên nhắc đến con người Đà
Lạt: Merveilleux, merveilleux! (Kỳ diệu! Kỳ diệu!). Anh dùng tiếng Pháp
(anh là cộng tác viên của tờ báo Pháp Humanité), anh nhắc lại với nỗi
nhớ bạn hữu, hình ảnh một thanh niên lái honda đưa anh đi chơi một số
nơi xa thành phố, vừa lái xe, vừa thuyết minh, lúc nào cũng vui vẻ
nhiệt tình, thật là hiền, thật lịch sự, thật dễ thương, nói chuyện với
anh, chàng thanh niên Đà Lạt xưng "con" ngọt xớt, đi tới nơi, về tới
chốn, cần mẫn chu đáo.
Nghe
anh Trương nói chuyện, anh em chúng tôi náo nức được đi Đà Lạt một
chuyến, tưởng chừng như nếu không đi, không biết Đà Lạt thì đến lúc nào
đó phải nằm xuống thì sẽ không yên lòng...
Vậy
là sau đó tôi có dịp đến làm việc ở Đà Lạt. Trăm nghe không bằng một
thấy; có nhìn thấy tận mắt, có tiếp cận với cảnh, với người, có nhân
thân cảm nhận thì mới nói ra được. Nói ra cảm nhận của mình về một nơi
cảnh đẹp người hiền là một điều thú vị, một hạnh phúc, dù điều mình nói
ra đã có người khác nói rồi.
Đà
Lạt là tiên cảnh giữa trần ai, đúng như anh Trương nói. Ai cũng biết
đấy là cách nói ẩn dụ, tức là nói ngoa, thế nhưng những người đến Đà
Lạt nói như vậy, người ở Đà Lạt lâu cũng nói vậy, và tôi, người đến
sau, chưa hiểu sâu về Đà Lạt cũng cảm nhận như vậy, dù tôi cũng đã nghe
đã thấy thành phố này có cái hay cái đẹp của nó, đồng thời có những yếu
kém khuyết tật của nó. Đâu có gì lạ, đây là hiện thực Việt Nam, và Việt
Nam sau những năm dài kháng chiến anh dũng và tài giỏi, đã rơi vào tình
cảnh khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt kể cả mặt tinh thần đạo đức.
Nay ta đang đổi mới cố gắng vượt qua khủng hoảng, đang có những tiến bộ
nhanh rất đáng khích lệ, tuy nhiên công cuộc đổi mới là một quá trình
cần có quyết tâm và có thời gian, cho nên có chuyện nghịch thường là
trong một cuộc họp, một cuộc hội thảo, ta có dịp nghe đồng thời những ý
kiến ca ngợi tốt đẹp và những ý kiến phê phán, kêu ca về Đà Lạt xuống
cấp. Hai loại ý kiến khác nhau đều có cơ sở thực tế và đều mang ý nghĩa
tích cực, người ca ngợi về Đà Lạt không tiếc lời vì cảm thấy rợn ngợp
về cảnh đẹp, người hiền Đà Lạt và vô cùng ngạc nhiên về sự khác nhau
rất xa về mặt tinh thần đạo đức giữa Đà Lạt với nhiều thành phố khác ở
Việt Nam.
Không
phải ngẫu nhiên mà người ta hay nói đến phong cách Đà Lạt. Nói phong
cách là nói cái đã định hình, cái có tính tương đối bền vững của một cá
nhân, một dân tộc, một miền đất. ở đây nói phong cách Đà Lạt là nói
những nét tính tình nổi rõ nhất ở người Đà Lạt. Vậy thử xem những nét
đó ra sao. Do đâu mà có, ý nghĩa và tác dụng của nó đối với đời sống
hiện nay và đối với những diễn biến trong tương lai gần với công cuộc
đổi mới.
Hiền
hòa, lịch sự, giàu lòng từ ái và tinh thần hành thiện, đó là nét nổi rõ
ở người Đà Lạt, bên cạnh những nét được xem như hằng tính mang tính
truyền thống của mỗi người Việt Nam: yêu nước và anh dũng giữ nước,
đoàn kết tương thân tương ái.
Người Đà Lạt tự thấy vui mừng được sống giữa những con người hiền hòa lịch sự. Do đâu mà có được những tính tình đó?
Có
thể dựa vào lý luận tam tài (thiên, địa, nhân) của phương Đông để phân
tích. Theo lý luận này, thiên (trời) là linh hồn vạn vật, địa (đất) là
nguồn sống vạn vật, nhân (người) là cái đạo làm cho vạn vật trở nên
sinh động. Nói về nhân tố người, cũng có thể tham khảo thêm ý niệm về
cái căn tính địa lý - dân tộc - văn hóa (identite géo ethnoculturelle)
để phân tích tính tình người Đà Lạt. Nói phong cách người Đà Lạt tức
nói phong cách người Việt Nam ở Đà Lạt, đó là người Việt Nam mang sẵn
tính cách truyền thống Việt Nam, đồng thời mang những tính tình mới
hình thành trong quá trình sinh sống ở Đà Lạt, chịu tác động của thiên
nhiên, địa lý và con người Đà Lạt. Nói phong cách Đà Lạt, tức nói phong
cách người Việt Nam đã có một quá trình Đà Lạt hóa.
Thiên
nhiên, khí hậu Đà Lạt có tầm quan trọng lớn trong việc quy định tính
tình người Đà Lạt. Những thác nước hùng vĩ từ núi cao đổ xuống, chảy
qua những thảm đá, tràn xuống những lũng sâu làm thành những hồ lớn thơ
mộng như hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Đa Thiện hay những hồ nhỏ hơn,
những con lạch nước tưới cây. Những đồi thông bạt ngàn, cây thông đứng
thẳng giữa trời, hiên ngang phong cách người quân tử, với lá thông che
mát, hương thông mang tính thanh lọc khí thở, với sóng tùng dìu dặt đu
đưa làm êm dịu tâm hồn người, chưa nói chuyện thông là nguồn lợi kinh
tế lớn, là rừng vàng của Đà Lạt - Lâm Đồng. Những loại cây ăn quả, cây
hoa tốt tươi, quả to và giàu chất dinh dưỡng như quả hồng, quả táo, quả
bơ, hoa thì sắc màu đa dạng, có hoa trồng và hoa dại, nhiều giống hoa
lạ, làm cho người đi đường vui mắt, quên mỏi chân, thích đi tản bộ. Hoa
lan phong phú nhiều loại (phong lan, địa lan) có vẻ đẹp quyến rũ du
khách, cũng là nguồn thu lợi của Đà Lạt.
Khí
hậu Đà Lạt mát mẻ, một ngày như có bốn mùa (sáng, trưa, chiều, tối)
nhiệt độ có khác nhau, nói chung dễ chịu như có cái máy điều hòa nhiệt
độ khổng lồ toàn thành phố.
Đất
Đà Lạt màu mỡ, thuận lợi cho việc canh tác, cho sản xuất vật phẩm nuôi
sống con người. Đất trồng rau, trồng hoa, trồng cây ăn trái ở Đà Lạt
tương đối dễ làm và đem lại thu nhập khá, nhờ đó thao tác lao động của
người trồng rau cũng tương đối nhẹ và năng suất không thấp (nhiều người
dùng máy cày, tưới nước bằng máy bơm, đi giày cao su, mang găng tay khi
lao động). Sản phẩm làm ra thường có xe chuyển đi: canh tác thuận lợi,
đời sống người dân khấm khá lên. Tình hình đó ảnh hưởng tốt tới tinh
thần đạo đức người trồng, đến thái độ vui vẻ, cởi mở, hiếu khách của
họ.
Thái
độ người sản xuất ảnh hưởng tới thái độ người vận chuyển, người mua đi
bán lại, kể cả những người bán hàng ở chợ và những người khác. Khách từ
nơi khác đến lỡ đường xin quá giang xe, lắm khi người lái xe không lấy
tiền, khách mua hàng ngoài chợ sơ ý đưa thừa tiền hay bỏ quên tiền,
quên túi thường được trả lại, nét thật thà, lịch sự đó làm cho người
mới đến Đà Lạt vui và yên tâm.
Quan
hệ giữa viên chức cơ quan Nhà nước với dân chúng cũng ít phiền toái hơn
nhiều nơi khác. Quan hệ đó nói chung là có lý, có tình. Tình hình này
có quan hệ với lịch sử hình thành đô thị ở Đà Lạt, một thành phố được
tạo dựng trước tiên nhằm đáp ứng yêu cầu nghỉ dưỡng, sau đó có thêm yêu
cầu đào tạo cán bộ, yêu cầu du lịch. Bộ máy quan chức hành chánh được
cấu trúc theo yêu cầu đó tạo thuận lợi cho quan hệ giữa giới cầm quyền
và dân chúng, quan hệ này vừa có tính chất cai trị chuyên chính, vừa có
tính chất giáo dục, hỗ trợ, tính chất sau nổi rõ và xu hướng trở thành
tính chất được quan tâm phát huy, có sự khác biệt so với nhiều nơi khác
trong nước.
Góp
phần vào sự hình thành nét hiền hòa của người Đà Lạt không thể quên nói
đến vai trò của người dân tộc thiểu số và của những người tu sĩ tôn
giáo khác nhau.
Đà
Lạt có người dân tộc thiểu số. Công lao của người dân tộc thiểu số đối
với sự nghiệp bảo vệ và phát triển Tổ quốc Việt Nam rất lớn, đó là điều
đã có trong truyền thuyết cũng như trong thực tế. Ngày nay ở Đà Lạt,
anh em người dân tộc tiếp tục góp phần tích cực vào đời sống xã hội và
quản lý xã hội, đáng nói ở đây cái chất phác thật thà của người dân tộc
thiểu số góp phần tích cực vào tính hiền lành thật thà của người dân Đà
Lạt nói chung.
Đà
Lạt có nhiều người đến tu. Đà Lạt với cảnh đẹp thiên nhiên khác thường,
với cảnh núi rừng yên vắng, với sức hấp dẫn lạ lùng của những thắng
cảnh kiểu Tô Đông Pha "mù tỏa Lô Sơn khói Chiết Giang" chính là miền
đất hứa của người đi tu, đi ẩn.
Tu
sĩ ở Đà Lạt thuộc nhiều tôn giáo khác nhau đã cho thấy vai trò tích cực
của họ trong việc làm từ thiện, truyền bá tinh thần đạo đức góp phần
thăng bằng hóa đời sống kinh tế và đời sống văn hóa đạo đức. Không nói
ở đây về những chuyện ma giáo, tu dỏm mà thời nào cũng có, ở đâu cũng
có, tôi nghĩ rằng tu sĩ ở Đà Lạt tu trì dưới hình thức khác nhau, kể cả
hình thức tự lập am thất, tịnh xá tự tu tự dưỡng, hầu hết là người có ý
thức góp phần vào việc nâng cao đạo đức con người, không chỉ lo độc
thiên kỳ thân mà còn lo cứu nhân độ thế, theo cách riêng của mỗi người.
Nhìn đôi mắt sáng trong phản chiếu lòng ưu nhân ái đức của nhiều tu sĩ,
tôi bỗng liên hệ tới cái không khí tốt đời đẹp đạo của thời Lý Trần,
một thời thịnh trị hiếm có ở nước ta, cũng có một thời đoàn kết tôn
giáo "tam giáo đồng nguyên". Ngày nay các tôn giáo ở Việt Nam không chỉ
có ba (Nho, Phật, Lão) mà có nhiều hơn, tất cả đều đoàn kết trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, vấn đề đặt ra không chỉ là phát huy tự do tín
ngưỡng mà còn kiếm tìm biện pháp thích hợp khích lệ các tu sĩ phát huy
yêu nước và tu thân, tu thân và hành thiện, tu sĩ cùng toàn dân ra sức
làm cho người dân bớt khổ đau, đất nước thịnh vượng. Lâu nay, các tu sĩ
đã hành đạo theo phương hướng này thì nay càng nên phát huy mạnh hơn
trong tình hình mới.
Vậy
ở Đà Lạt, con người còn giữ được nhiều cái hồn nhiên thật thà, cái tính
thiện, lòng nhân ái. Đà Lạt là miền đất hiếm có, nơi có sự gần gũi giữa
lời nói và hành vi cư xử, với hoạt động xã hội chính trị với truyền
thống nhân nghĩa Việt Nam, là miền đất cảnh đẹp người hiền.
Từ
khi hình thành đến nay, qua 100 năm phát triển, Đà Lạt trải qua nhiều
thay đổi, song nói chung không có những đổ vỡ xáo trộn lớn về đời sống.
Nhưng từ nay về sau, chuyện gì sẽ xảy ra? Và trong tương lai gần, khi
mà cả nước ta đang mở ra làm bạn với tất cả các nước?
Mở
ra hợp tác như vậy đương nhiên có lợi, đồng thời có lo. Về cái lợi thì
cũng dễ thấy, như chúng ta thấy ở công trường nâng cấp Đồi Cù. Đồi Cù
vốn rất đẹp, nay lại càng đẹp hơn, cách điệu hóa, tôn tạo lên trình độ
một sân golf tầm quốc tế. Trước mắt, cả ngàn người hàng ngày có việc
làm. Nhưng bên cạnh cái lợi có cái lo. Lo cho dân ta có người nhẹ dạ,
có thể bị ảnh hưởng bởi thói hư tật xấu của những người nhiều tiền
thích ăn chơi trác táng, lo cho tình trạng tha hóa vì đồng tiền đã diễn
ra ở nhiều nơi. Đương nhiên người nước ngoài đến cũng có nhiều người
đem tài năng, kiến thức mới đến giúp ta, đem lối sống nhân văn trình độ
cao đến với Đà Lạt như đã có tấm gương sáng của bác sĩ Yersin mà chúng
ta kính cẩn tưởng niệm nhân 100 năm Đà Lạt. Đồng thời người nước ngoài
đến cũng có người đem theo bệnh tật đến, như ta thấy, bệnh SIDA, mối
nguy lớn cũng từ người nước ngoài mang đến.
Do
đó, ngay từ đầu, ta cần đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, đề cao tính
chủ thể Việt Nam, đề cao nhân cách, truyền thống tốt đẹp Việt Nam trong
tình hình mới. Tranh thủ thời cơ làm cho người dân no ấm, đất nước
thịnh vượng, đồng thời không tự để rơi vào khủng hoảng mới như đã diễn
ra ở nhiều nước.
Giữ gìn lối sống lành mạnh đức hạnh Việt Nam, giữ gìn bản sắc dân tộc, cái gốc Việt Nam:
Gốc đã tươi hoa quả cũng tươi
Có luân thường đạo lý mới ra người.
Trong
tinh thần đó, những người trẻ tuổi cần coi trọng những thành tích của
hai cuộc kháng chiến vừa qua, niềm tự hào riêng của Việt Nam mà nhiều
nước không có. Thành tích đó có ý nghĩa tích cực lâu dài đến nghìn đời
sau, không nên vì thấy nước ta nghèo, nước bạn giàu mà coi nhẹ công lao
của người đi trước. Cũng trong tinh thần đó, trong quá trình tiếp tục
đổi mới, những người trẻ tuổi cần lắng nghe ý kiến, kinh nghiệm của
người già, kính trọng người già, người có công, tránh thái độ vong ân
bội nghĩa. Người trẻ sẽ dần dần thay người già gánh vác trách nhiệm
trong giai đoạn mới có nhiều thuận lợi song không ít khó khăn thử
thách. Hãy tỏ ra xứng đáng.
Trong
khi hợp tác với người nước ngoài, cần nhớ rằng lối sống Việt Nam khác
lối sống phương Tây; phương Tây coi trọng cá nhân là đúng, nhưng họ xu
hướng tôn thờ cá nhân đến mức cực đoan, coi thường cuộc sống gia đình,
đó là không hay, trong khi đó thì ở Việt Nam, vai trò của gia đình lại
rất quan trọng đối với cuộc sống cá nhân, đối với quá trình tu dưỡng
trưởng thành của cá nhân.
Lối
sống Việt Nam cũng có cái riêng khác lối sống các nước láng giềng Đông
Nam á. Ta làm bạn với họ, hợp tác với họ, khiêm tốn học những cái hay
của họ, tránh xa những cái không hay, không hợp với ta. Trong công cuộc
mở ra hợp tác với nước ngoài, ta có những khó khăn mới và những thuận
lợi, một trong những thuận lợi cơ bản là phong cách sống tốt đẹp của
người Đà Lạt.
Đà
Lạt là viên ngọc quý của Việt Nam. Đà Lạt là hoa hậu được mọi người ưa
chuộng, càng trưởng thành càng xinh đẹp, càng hòa nhã, lịch sự, rộng
lượng, bao dung. Đồng thời, Đà Lạt luôn giữ lối sống trung hiếu, kiên
trinh, giàu ý chí và nghị lực như mẹ Âu Cơ hiện ra với chúng ta dưới
vóc dáng Núi Bà hiên ngang kiêu hãnh dưới bầu trời đẹp lộng lẫy nơi
miền đất cao nguyên Việt Nam.
HỒ TẤN TRAI
Nguyên Giáo sư Văn học - Đại học Đà Lạt
Đà
Lạt, một nơi là tuổi thơ của ai đó, là nơi lớn lên của ai đó, là điểm
dừng chân trong một phần cuộc đời. Có người thoáng đến, thoáng đi,
nhưng vẫn dõi theo những sự thay đổi của Đà Lạt như một phần của mình.
Hãy trải lòng mình ra với những kỉ niệm với Đà lạt.
Độc giả TLoan đã bộc bạch: "Còn
nhiều điều muốn nói nhưng tôi chợt nhớ ra rằng bất cứ một sự so sánh
nào cũng là khập khiễng, và sự so sánh giữa quá khứ và hiện tại, giữa
hoài niệm và những điều đang diễn ra trước mắt mình lại càng khập
khiễng. Cuộc sống là dòng chảy và không ai có thể tắm hai lần trên một
dòng sông... "
Buổi
tối lang thang trên mạng và tình cờ lạc vào một phố hoa, tôi bất chợt
nhớ về Dalat. Lần về VN vừa rồi tôi không có dịp trở về thành phố tuổi
thơ của mình, nhưng những điều từ Dalat tôi đã mang đi theo từ lần ghé
về cách đây chưa đầy năm vẫn còn nguyên vẹn. Nếu bạn chưa một lần đến
Dalat tôi khuyên bạn đừng bao giờ lên thành phố cao nguyên này, có lẽ
bạn sẽ ngạc nhiên vì lời khuyên của tôi, nhưng quả thật tôi không muốn
bạn lại như tôi, 10 năm sau khi bạn quay lại Dalat lần thứ hai bạn sẽ
thất vọng vì Dalat của 10 năm sau không còn là Dalat của ngày lần đầu
bạn đặt chân đến. Lý do đơn giản, tất cả những gì thuộc về quá khứ
dường như bao giờ cũng đẹp hơn, đẹp hơn rất nhiều, và tôi, hình như tôi
thuộc típ người hoài cổ, hoài cổ một cách hơi quá thái.
Thành
phố vẫn trong vòng xoáy của sự phát triển, dù nhanh, dù chậm. Ngày xưa
người Dalat còn vất vả, thành phố còn nhiều những ngôi nhà bằng gỗ
thông. Tôi yêu những căn nhà ấy, những căn nhà bạc thếch màu sơn, những
căn nhà còn thơn mùi nhựa thông, vì những căn nhà ấy tạo cho tôi một
cảm giác gần gũi với rừng. Giờ cuộc sống khá lên người ta đã tháo bỏ
những căn nhà gỗ ấy và xây cho mình những ngôi nhà kiên cố, những ngôi
nhà bằng xi măng, sắt, thép. Tôi vẫn biết trong những ngôi nhà xi măng
sắt thép ấy người ta sẽ không còn phải mất ngủ vì những cơn mưa đập vào
mái tôn suốt cả đêm, người ta không còn phải sợ những cơn gió lạnh mùa
đông luồn qua khe gỗ, người ta không còn lo lắng chống đỡ những cơn bão
gió giật ầm ầm muốn bay cả mái nhà, hay vơi hẳn đi những nỗi lo thần
lửa. Trong những căn nhà ấy giờ đây là sự bình yên, sự no ấm. Không
hiểu sao khi nghĩ về sự bình yên ấy tôi lại liên tưởng đến một sự cân
bằng không bền, như một hòn bi, chỉ cần đụng đến là lăn. Có thể tôi
sai, nhưng tôi vẫn thích những căn nhà gỗ ấy.
Thành
phố ngày xưa nhà không chen chúc như bây giờ, trừ ở hai con đường
Nguyễn Văn Trỗi và Phan Đình Phùng nhà cửa san sát, những con đường
khác đa phần chỉ có những căn nhà nho nhỏ, một hai tầng, với những góc
sân, khoảng vườn và bờ giậu dâm bụt, dạ lý hương hay cúc quỳ xinh xắn.
Nhà ở Dalat giờ cũng chẳng khác gì nhà ở Sài Gòn hay nhiều thành phố
khác nếu không muốn nói là có phần quê kệch hơn một chút. Những mảnh
ghép kiến trúc Âu, Á từ thế kỷ trước, thậm chí từ cả ngàn năm trước vẫn
thấp thoáng đâu đấy ở thành phố cao nguyên này, những chiếc cột nhà
phỏng theo những cột ở các ngôi đền thờ thời Hy Lạp cổ đại có thể đỡ
một mái nhà kiểu cung điện Trung Hoa, màu sắc tuờng nhà, sơn cửa cứ như
muốn đánh nhau chan chát, các họa sỹ trường phái Dã Thú có sống lại
cũng phải bỏ của chạy lấy người. Có sự pha trộn tinh tế tạo cảm giác ưa
nhìn, nhưng cũng có sự phối hợp mà nhìn vào người ta có thể nghĩ ngay
đến những câu tục ngữ như „dùi đục chấm mắm tôm“ hay „hoa nhài cắm bãi
cứt trâu“. Không trách ai được, tâm lý người Việt ai cũng cho việc „tậu
nhà, tậu ruộng“ là việc làm lớn trong đời, khi nghèo khó ai chẳng mơ
ước có một ngôi nhà, và trong mơ họ cũng đã tự vẽ cho mình một ngôi nhà
mơ ước, ngôi nhà có tất cả những thứ mà họ đã từng một lần nhìn thấy
trong đời, kiến trúc sư lại không đủ bản lĩnh trước khát vọng của chủ
nhà. Mà có lẽ điều ấy cũng chẳng làm bận tâm nhiều người, sự khó chịu
của vài người khó tính và quan niệm về cái đẹp của họ không thay đổi
được quan niệm của số đông. Thế nhưng xét cho cùng nhìn không hợp nhãn
thì nói thế thôi, có khi đến lúc giàu lên, xây nhà mới chắc tôi cũng
khó thoát khỏi lối mòn ấy!
Thành
phố nằm trên những ngọn đồi, nhà cửa nhấp nhô trên những bậc thang.
Ngày xưa ở đây người ta xây những căn nhà kiểu Pháp hay kiểu Việt cổ,
mặt trước cũng đẹp, mặt sau cũng ... có thể xem như mặt trước, bên hông
là những ô cửa sổ xinh xắn. Bây giờ đất chật người đông, nhà cửa xây
theo kiểu hình ống như những ngôi nhà phố ở các thành phố khác, nhưng
khổ nỗi Dalat lại không phải là những thành phố khác. Ở Sài Gòn người
ta có thể không thấy ... ngứa mắt khi mặt sau của những ngôi nhà chỉ là
những bức tường trơn phủ một lớp sơn chống thấm đen sì, thỉnh thoảng
điểm bởi những ô cửa sổ làm vụng về qua loa, tương phản hẳn với mặt
trước của ngôi nhà. Lý do đơn giản là chẳng mấy khi người ta có dịp
nhìn những bức tường đó, khoảng không giữa mặt sau của nhà này và nhà
khác bé đến nỗi người ngoài chẳng mấy ai có cơ hội nhìn thấy những bức
tường xấu xí đó cả. Nhưng Dalat thì không thế, ở Dalat mái nhà đằng sau
có thể chỉ ngang bằng nền nhà của nhà đằng trước vì nhà cửa và các con
đường được xây trên các sườn đồi, và cứ thế, tất cả cái mặt hậu xấu xí
kia cứ ngang nhiên phơi ra trước bàn dân thiên hạ. Hơn thế nữa, không
phải chỉ cái mặt hậu mà ngay cả hai cánh cũng có thể ung dung phơi bày
cho thiên hạ sự cẩu thả làm cho qua chuyện, lỗi chỉ tại con đường,
đường Dalat không thẳng mà lại cong cong uốn lượn theo những sườn đồi!
Người Dalat bắt chước người Sài Gòn xây nhà, bắt chước một cách hoàn
hảo, và họ quên rằng Dalat không phải Sài Gòn, quên rằng có những điều
chỉ nhìn ngang người ta sẽ không phát hiện ra khiếm khuyết nhưng nếu
nhìn từ trên cao xuống, tất cả những dị tật cứ lồ lộ ra.
Dalat
thành phố hoa, ai từng nghe đến cái tên Dalat đều biết điều đó, nhưng
dọc những con đường giữa trung tâm Dalat người ta chẳng mấy khi gặp
hoa. Những cây anh đào, người Dalat gọi là mai, bên hồ Xuân Hương hay
dọc dốc Hòa Bình nhìn quặt quẹo đến tội nghiệp, không hiểu vì thiếu sự
chăm sóc hay vì khói bụi xe máy. Ngày xưa, bên hồ nhiều gốc mai, tuy
chưa là cổ thụ nhưng cũng đủ lớn, đủ xù xì gân guốc để tạo sự tương
phản hài hòa với những làn sương mong manh, với mặt nước phẳng lặng.
Giờ những cội mai ấy đa phần đã chết, thay vào những cây nhỏ khẳng
khiu, mùa mai nở sắc hồng không đủ làm ấm không gian mênh mang quanh
hồ. Không biết có phải lúc còn bé nhìn cái gì cũng to không mà tôi cảm
giác như cả khu „rừng mai“ nho nhỏ ở Ủy ban thành phố cũ (nằm ở góc cầu
Ông Đạo, giờ thuộc về công ty du lịch) giờ cũng vắng dần những bóng
mai. TV, cô bạn thân từ hồi học phổ thông của tôi tuyên bố „nếu tao là
chủ tịch thành phố tao sẽ cho trồng mai dọc tất cả các con đường
Dalat“, tiếc thay TV lại chỉ là một cô giáo cấp 3.
Dã
quỳ cũng là một loài hoa đã đi vào thơ vào nhạc và hoài niệm của bao kẻ
ở người đi. Người Dalat gọi hoa bằng cái tên ngắn gọn, hoa quỳ. Ngày
xưa hoa quỳ len vào từng góc phố, hình như đường nào cũng có những giậu
hoa quỳ, vàng rực cả mùa đông. Ngay trung tâm thành phố, trên con đường
vào chợ, nếu bạn nhìn lên phía tay phải, khu Công An TP cũ, cũng ấm áp
sắc quỳ. Giờ những hàng giậu hoa đã được thay bằng những hàng rào sắt,
những con đường nhựa mới tráng lại với nhà cửa sát nhau và những loài
hoa quý phái hơn đã tranh mất chỗ của quỳ, quỳ lui dần về ngoại ô, ven
những cánh rừng, ven những vườn rau. Hôm Tết cô bạn ở Sài Gòn lên chơi
cứ nằng nặc bắt tôi chở đi xem hoa quỳ, tôi chở cô bạn đến khu Đa
Thiện, Vạn Kiếp và chỉ những vạt hoa bên bờ những vườn rau rồi rủ bạn
xuống đấy, bạn từ chối vì sợ đau chân!
Dalat
giờ cũng có những con đường chạy song song giữa hai hàng cây, đường Hồ
Tùng Mậu đoạn vòng quanh khách sạn Palace giờ vẫn còn những gốc mai
trắng (ngày xưa bọn tôi gọi thế) nhưng những cây mai này đã biến trên
đoạn từ cây xăng Kim Cúc vào đến hồ Xuân Hương và được thay bằng hai lề
đường sạch bong nhưng nhìn vô cảm lạ lùng. Đường Trần Phú thay bằng
những cây mai đã chết giờ là những cây lạ, hoa màu trắng, người ta bảo
đấy là hoa ban, tôi không biết đấy có phải là hoa ban Tây Bắc không.
Dẫu sao tôi vẫn thích sắc hoa mai (anh đào) hơn, vì hoa mai nở vào cuối
đông, vì sắc hồng của mai cũng đồng màu với sắc hồng trên má những cô
gái Dalat, làm cho mùa đông ấm hơn. Thành phố mùa nào cũng có những
khoảnh khắc se lạnh, những khoảnh khắc bồng bềnh trong sương mù, giữa
những hư ảo ấy màu trắng dường như quá nhạt nhòa.
Còn
nhiều điều muốn nói nhưng tôi chợt nhớ ra rằng bất cứ một sự so sánh
nào cũng là khập khiễng, và sự so sánh giữa quá khứ và hiện tại, giữa
hoài niệm và những điều đang diễn ra trước mắt mình lại càng khập
khiễng. Cuộc sống là dòng chảy và không ai có thể tắm hai lần trên một
dòng sông... Thế nhưng hình như đâu đó vẫn có chỗ cho nuối tiếc... Nếu
bạn chưa đến Dalat lần nào bạn hãy thử đến một lần, tôi không ngăn bạn
nữa đâu, vì nếu bạn thích sự thay đổi, 10 năm nữa bạn quay lại bạn sẽ
thú vị khi thấy Dalat thay đổi, còn nếu bạn là người hay hoài niệm bạn
sẽ có những hình ảnh của ngày hôm nay, thời gian sẽ đánh bóng những
hoài niệm ấy, như những giọt nhựa thông, thời gian đã biến những giọt
nhựa thông thành những viên hổ phách đẹp đến lạ kỳ.
TLoan
Chuyện Đalạt của tôi
Tôi
sinh ra ở Đalạt. Mẹ tôi sinh ra ở Đalạt. Ông ngoại tôi là người nấu bếp
và lo phát gạo cho phu thợ xây khách sạn Palace. Nếu dựa vào tuổi mẹ
tôi năm nay 80, thì dòng họ ngoại của tôi đã có mặt ở Đalat ít nhất là
80 năm nay. Nói như thế để thấy mình gắn bó với Đalạt đến chừng nào ,
và cho mình cái tự tin để tản mạn câu chuyện về Đalat của tôi.
Ông
ngoại tôi kể. Cái thuở ấy, trung tâm Đalạt nằm ở cây số 6. Có nhiều bạn
chưa hình dung cây số 6 là ở đâu? Này nhé. Bên trái khu nghĩa trang
Đalạt là cây số 4. Con đường bên phải của nghĩa trang về phía Núi Bà
thêm độ 2 km là khu phố 6, cũng gọi là cây số 6. Thuở ấy khu Hoà Bình
vẫn còn hoang dã. “Tây cho tao khu đất của Vĩnh Chấn bây giờ, mà tao
đâu có thèm”. Ông nói, không có gì tiếc nuối về cái từ chối của mình.
Không như thằng cháu đang trố mắt “Phải chi ông chịu thì…” Ước vọng của
ông chẳng cao xa chi. Ngày hai buổi, đơn giản, bằng lòng. Ông ngoại tôi
còn kể thêm “Thuở ấy, hồ ông Đạo (sau này gọi là hồ Xuân Hương) chưa
có. Ở đó chỉ có con suối nước trong, có nai chạy cả đàn kêu bép bép.
Con đường của mình đây (Phan Đình Phùng) chỉ có vài xóm nhà. Chạng vạng
tối, muốn đi đâu phải đốt đuốc, khua thùng thiếc, đánh phèng la rùm
beng. Chứ không cọp nó rinh (rinh, không với dấu huyền). Mọi người đều
nghèo khổ, tứ xứ đến đây. Nhiều nhất là dân từ miền Trung khô cằn sỏi
đá. Ông nói, hồi dó tao phải đi bộ từ Phanrang lên đến đây. Gặp con gái
mọi để ngực trẩn thấy mum múm đã thèm. Ông không màng đến mấy chữ Hoàng
Triều Cương Thổ, nơi mà muốn vào, phải có giấy phép của Tây hay Vua
quan chi đó. Và tôi lớn lên cũng chỉ biết có vầy vậy.
Tôi
hãnh diện là dân Đalạt chính tông, nhất là những khi người ta nói về
Đalạt. Nào là “petit Paris”, nào là xứ hoa Anh Đào, nào là con gái
Đalat má đỏ hồng, mới gặp đã thấy muốn thương. Cứ mỗi lần đi Saigon hay
về Nha Trang, tôi cũng mặt đỏ môi hồng, mà sao chẳng có cô nào thương?
Hay nóng quá, mồ hôi nhễ nhại làm các cô chạy dài chăng? Tôi hãnh diện
những khi người ta nói về Đalat thông reo, có suối Cam Ly, có đèo
Prenn, rừng Ái Ân, hồ Than Thở thơ mộng. Hay dù khi có những nụ cười
rúc rích về cái lạnh làm mấy cô ít tắm. Mấy anh cũng ít tắm, nhưng
người ta chỉ thích nói vế các cô má đỏ môi hồng. Nhiều khi nói chuyện
về Petit Lycée, Grand Lycée mà cứ tưởng như mình là dân trường Tây
chính cống. Cái hãnh diện lây lan đáng ghét. Nhưng mà, cái chất Tây nó
cứ bàng bạc. Nó đã một thời làm tôi hãnh diện. Pasteur, Lycée, Grand,
Petit, Couvent, Oiseaux, Domaine de Marie, những từ ngữ chen lẫn trong
đời sống hàng ngày làm cho tiếng gọi “Con đường tình ái”, “Thung lũng
tình yêu” nghe sao trần tục. Nó cần phải cái gì cao cấp. Dường như cái
âm điệu “Route d’amour”, “Vallée d’amour” làm người nghe, nhất là khách
đến từ thành phố lạ, trố mắt, tự cảm thấy quê mùa bên những chàng trai
Đalat “Phờ răng xe” (français) chính hiệu.
Tôi
hãnh diện với Đalat của tôi vì Đalat có những cái mà nhiều nơi không
có. Mỗi lần đi đến thành phố xa, mười lần y chang một chục. Vài cây
bông cải, chai rượu dâu, vài ký mận là quá đủ để hái những lời trầm trồ
chúc tụng. Hối mới quen, tôi cũng tập tễnh làm anh gentleman, mang từng
bó hoa hồng từ Đalat về cho người yêu xứ Saigon. Bây giờ nàng hỏi. Sao
ngày xưa anh mang từng bó hoa hồng, sao bi giờ không thấy. Em ơi, ngày
xưa em là ngưòi yêu bé bỏng, bây giờ em là bà xã cục cưng. Thôi miễn.
Tiết kiệm thêm tiền làm việc thiện, tích phước cho con.
Tôi
hãnh diện khi người ta nói về những cây thông Đalat, một loài cây, khi
tôi còn bé, mẹ đưa mấy đồng, sai đi mua về nhóm lửa. Thuở ấy mẹ gọi là
cây ngo. Từng bó ngo, thịt đỏ hồng, mùi dầu thơm thơm, bắt lửa rất
nhanh, khói đen kịt. Người Thượng hay mang từng gùi về phố đổi gạo. Từ
cây ngo, tên gọi thành cây thông, rặng thông, rồi đồi thông, thông reo
đầy chất tình đến với tôi hồi nào không biết. Những ngày ở bậc Tiểu
học, tôi cùng lũ bạn dắt nhau trèo, vượt qua mấy trăm bước thềm đến
lăng Nguyễn-Hửu-Hào (bố của Nam Phương Hoàng Hậu của vua Bảo Đại), giữa
những rặng thông già cao vút. Ngồi đó loanh quanh nghe sờ sợ như có ông
Ba Mươi đâu đó bên kia mé rừng. Hay đôi lúc bạo gan chạy ùa đến thung
lũng bên kia đồi để hái vài túi mát mát chua lét.
Những
rặng thông vi vu thật yên tĩnh hửu tình cạnh hồ Than Thở, những rặng
thông uốn quanh đèo Prenn, hay những rặng thông thẳng tắp vươn lên cao
như bao trùm lấy cái “Route d’amour” đã làm chứng nhân cho mối tình mới
lớn của tôi, đã gửi lại trong tôi những ngày rất đáng nhớ với anh em
Hướng Đạo, Hồng Thập Tự. Những kỹ niệm thật đẹp, thật êm, vi vút ngàn
thông, bây giờ cũng chỉ là những kỷ niệm thật đẹp thật nhớ.
Vào
tuổi thanh niên, tôi lại thấy Đalat sao ớn quá. Mưa gì dai dẳng đìu
hiu. Xứ gì, mới đi một vòng đã hết phố. Mấy chục cái cột quanh khu Hoà
Bình đếm hoài không hết. Mỗi tuần đi mấy chục vòng. Vòng ngược vòng
xuôi, mãi bao nhiêu năm vẫn không biết có bao nhiêu cái. Cứ mở mắt dậy,
không đi học, không đi công việc thì lại trực chỉ khu Hoà Bình. Xin ba
mẹ được vài trăm, vài chục lại chui vào, quay đi quẩn lại, cũng Café
Tùng, Mékong, Thuỷ Tạ. Ngồi hàng giờ, cà phê một tách, trà (miễn phí)
mấy bình. Cùng tranh nhau ngồi bàn cạnh của kiếng Mékong để được nhìn
cô bé Liên ở cửa hiệu bên kia đường đang làm duyên làm dáng. Rồi cũng
mấy câu chuyện nhai đi nhai lại, cũ nhách, bàn tán chê khen tưới sượi.
Con đường này, mấy con đường này, tôi đã đi lại lắm lần, lần này cũng
giống hay gần giống những lần khác. Nhưng tôi vẫn đi, lũ bạn vẫn đi.
Những con đường quen thuộc. Quen thuộc đến sõi đá quen tên, như TCS đã
viết. Đalat của tôi là thế đấy. Nên thơ và thật nhỏ bé, tù túng. Thế mà
những câu vẫn dòn như bắp rang. Thế mà chúng tôi vẫn cứ đi và đếm những
cây cột quanh khu Hoà Bình. Nghĩ lại, tôi thấy mình và lũ thanh niên
ngày ấy thật quái chiêu.
Lại nhớ những ngày túi không tiền, bát phố suông mãi cũng buồn, đành vác mấy cần trúc đi câu.
Ba
hồ, Xuân Hương, Tổng Lệ, Đội Có, hồ nào tôi cũng kinh qua.Mấy anh em
trai đều học nghệ câu với ba tôi. Cá giếc, cá chép, cá Mỹ (một loại cá
‘bat’ mà người Mỹ mang thả ở hồ Xuân Hương đâu khoảng những năm 60, mà
bà con gọi cá Mỹ cho tiện), tôi đều tham gia. Ngoại trừ môn câu cá lóc
với cần câu quay (kiều VN) mà ba tôi rất thiện nghệ, mê thích và kiên
nhẫn.
Cái
còn nhớ và còn thật thương những ngày câu cá là cảnh mặt hồ gương của
hồ Xuân Hương những chiều lặng gió. Cái mặt hồ nó đẹp lạ lùng. Nó phẳng
đúng như gương, nó êm, mịn như làn da mặt đứa con gái, đôi khi cũng đò
hồng vào những buổi hoàng hôn, khi mặt trời còn ráng đỏ trên chặng núi
Voi về phía xa xa. Nó phản chiếu cảnh vật một cách tài tình. Nhìn phía
nào cũng thấy cái thực và cái phản chiếu. Cái đang thực thật là tỉnh.
Cái phản chiếu cũng thật là tĩnh. Ngoại trừ những lúc rung rinh, lăn
tăn gợn sóng do làn gió vu vơ mang tới hay những vòng cong bung tròn do
chú cá đớp động đâu dây. Mặt hồ gương. Khen ai khéo tạo cụm từ. Cái nóc
cao của trường Grand Lycée, cái đỉnh chuông Nhà Thờ Con Gà (nhà Thờ
Chánh Toà), nhà Thuỷ Tạ, cái nào cũng có hai. Cái dáng người đi trên
đường. Cái ảnh người đi dưới nước như hai người củng một nhịp, ăn khớp
đến tuyệt diệu. Mặt hồ gương lung linh mây trời. Mây trên trời, mây
dưới nước. Đẹp và thật êm. Tôi đã một lần gặp lại cảnh mặt hồ gương ấy
trong một buổi chiều đi câu, sâu trong vùng rừng núi Laurentide ở
Québec. Cũng rất đẹp và rất êm. Nhưng không làm sao bằng được cảnh mặt
hồ gương của Dalat của tôi. Nó thiếu hẳn tiếng chuông chiều nghe như
tiếng ngân của lòng mình, thanh tịnh, bình an. Nó thiếu cái vùng sáng
của mặt trời sắp tắt trên đỉnh núi Voi. Nhất là nó thiếu hẳn cái trong
lòng của tôi mà chỉ có Đalat mới dành được một góc thật lớn.
Mấy
chục năm qua. Bạn thân còn đủ 5 đứa. Có đứa, đã từng ấy năm chưa gặp
lại. Chỉ biết, bọn nó, đứa nay ở nơi nọ nơi kia. Đã qua lâu rồi, những
lúc đi, đếm, những con đường đầy kỷ niệm của tuổi trẻ và tình yêu. Đi
không biết đi để đến đâu. Đếm mà không hình dung cho đến nhiều năm sau
vẫn chưa đếm xong. Cái ớn của những ngày mưa dai dẳng, ướt át lê thê,
bây giờ không còn. Cái nhớ những buổi chiều buông với mặt hồ gương thật
bình yên. Vẫn còn, vẫn đậm. Và rất nhớ. Đalat chỉ có hai mùa: mùa mưa
và mùa nắng.
Viết lại ngày 06 tháng 3 năm 2006
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.