Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Chùa Một Cột

Chùa Một Cột










Chùa Một Cột  nằm trong quần thể của chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ)  xây  ở  thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía tây hoàng thành Thăng Long đời nhà Lý, nay thuộc phố chùa Một Cột, quận Ba Đình, Hà Nội. Hình dáng của ngôi chùa này ngày nay là đã qua nhiều lần trùng tu vào đời nhà Lê và đời nhà Nguyễn.

Ngôi chùa được dựng lên trong giai đoạn đầu tiên bắt nguồn từ một giấc mơ. Tương truyền rằng: vào năm  Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất (1049), vua Lý Thánh Tông nằm chiêm bao thấy Phật Quan Âm hiện ra, cầm tay nhà vua dẫn lên toà sen.  Khi tỉnh dậy nhà vua đã đem toàn câu chuyện kể cho triều thần nghe.  Có người cho là điềm không lành. Nhà sư Thiền Tuế được nhà vua triệu kiến vào kinh để hiểu thêm ý nghĩa. Nhà sư đã khuyên nên xây chùa ở trên cột đá giữa hồ làm toà sen thờ đức Quan Âm. Khi xây cất xong, nhà vua lại sai lập trai đàn chẩn  tế để cầu cho nhà vua được sống lâu. Vì thế có tên là chùa Diên Hựu.

Năm 1105, vua Lý Nhân Tông ban sắc chỉ cho sửa chữa lại toàn bộ ngôi chùa này, trước sân lại còn cho xây thêm một bửu tháp theo mô hình kiến trúc Champa kiểu Po Nagar. Ba năm sau đó, Ỷ Lan Phu Nhân cũng cho đúc một quả chuông rất to, tương truyền là nặng đến một vạn hai nghìn cân. Chuông này có tên là Giác Thế Chung, ngụ ý là tiếng chuông sẽ thức tỉnh người trên cõi đời. Chuông này được liệt vào một trong “Tứ đại khí” trong thời bấy giờ. Nhưng sau khi hoàn thành thì chuông gióng lên không kêu liền cho đem bỏ ngoài ruộng, có nhiều rùa. Chuông có tên là chuông Quy Điền. Năm 1105 vua Lý Nhân Tông ngôi chùa này tu bổ đã cho xây 2 ngọn tháp chỏm trắng.  Một số giả thuyết cho rằng chùa trước lớn hơn bây giờ, nhưng không có bằng chứng rõ ràng. Chùa xây trên trụ đá hình bát giác, mỗi cạnh có một khối gỗ chống từ cột lên xà ngang. Từ xà ngang hướng lên phía trên có 8 cột chống.

Quy mô chùa Một Cột vào thế kỷ XII to lớn, lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chủa Long Đọi (Nam Hà), dựng vào muà thu năm 1121, mười sáu năm sau khi chùa mới hoàn  thành, đã cung cấp cho ta hình ảnh chân thực về  ngôi chùa Một Cột đời Lý như sau: “Lòng sùng kính đức Phật, dốc lòng mộ đạo nhân quả, hướng về vườn Tây Cấm nổi danh, xây ngôi chùa Diên Hựu. Theo dấu vết chùa cũ, cùng với ý mới của nhà vua (Lý Nhân Tông). Sáng “Đào hồ thơm Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đoá sen nghìn cánh, trên bông sen đứng vững toà điện màu xanh, trong điện đặt pho tượng vàng nhân đức, vòng quanh hồ là hai dãy hành lang; lại đào ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước hai bên tả hữu, xây bảo tháp lưu ly. Hàng tháng, vào sớm ngày mồng một (ngày sóc), hằng năm theo dịp du xuân, nhà vua ngồi xe ngọc, đến chùa mở tiệc chay, làm lễ dâng hương hoa, cầu cho ngôi báu lâu dài, bày chậu thau làm lễ mộc dục (tắm Phật). Trang sức pho tượng tinh tế, biểu lộ tướng mạo của năm loại chúng sinh...”

Qua văn bia mô tả như đoạn trên, cho thấy rõ là Liên Hoa Đào đời nhà Lý to hơn chùa ngày nay gấp bội. Thậm chí ngôi chùa này đời nhà Trần cũng không còn là dáng dấp của đời Lý nữa. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại - năm 1249 - rằng: “Mùa xuân, tháng giêng, đã sửa chữa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ”. Chùa đã qua nhiều đột trùng tu. Đợt sử chữa lớn nhất vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ XVIII (1249) gần như làm lại toàn bộ. Vào đời Lê triều đình cũng nhiều lần cho tu sửa, lại thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá. Năm 1838, tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hoà tổ chức quyên góp thập phương sửa chữa điện đường, hành lang tả hữu, gác chuông, cửa tam quan. Năm 1852, bố chính Thất Thất Giao xin đúc chuông mới. Năm 1864, tổng đốc Tôn Thất Hàm hưng công trùng tu, làm sàn gỗ bát giác để đỡ toà sen, chạm trỗ thêm công phu tráng lệ. Cũng cần nhắc thêm rằng vào năm 1954, trước khi rời khỏi Hà Nội, quân Pháp đã cho đặt mìn phá đổ. Năm 1956, chùa được sửa lại, theo kiểu mẫu cũ để lại đời Nguyễn.

Chùa Một Cột là đề tài cho nhiều giới văn học, nghệ thuật trình bày. Nhà sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần đã viết:

Vạn duyên bất nhiều thanh giã tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.

Có nghĩa:

Mọi duyên không bợn, ngăn lòng tục,
Phiền não quấy rầy, rộng nhãn quang.

Chùa cất theo bố cục hình vuông; các góc đều được trang trí khá tinh vi. Mái được lợp  ngói  uyên ương (âm dương) ở phần chính điện và ngói ngang ở phần sau. Từ bờ hồ đi vào có xây một bậc thang dùng làm lối đi chính vào chùa. Cho đến thế kỷ XV, quân Minh đem quân sang xâm lăng nước ta, chiếm được thành Đông Quan (tức là Hà Nội sau này). Lê Lợi đem quân từ Lam Sơn ra chống lại quân thù,  bao vây thành lũy của chúng rất gấp. Vì thiếu vũ khí đạn dược, cho nên tướng Minh là Vương Thông đã sai quân lính đem phá hủy chuông này để lấy đồng đúc khí giới.

Lê Lợi thắng giặc đem lại thịnh trị cho đất nước, nhưng chuông Quy Điền thì đã không còn lại nữa. Chùa Một Cột được trùng tu nhiều lần, nhưng quan trọng nhất là cuộc đại trùng tu vào những năm 1840 cho đến 1850 và cuối cùng là năm 1920 sau này nữa. Đài Liên Hoa còn sót lại ngày nay cũng là do cuộc trùng tu theo mẫu cũ vào năm 1955. Đài này xây theo hình vuông, mỗi cạnh đo được 3 mét, có mái cong theo kiến trúc Trung Hoa, được dựng trên một cột cao 4 mét, đường kính vào khoảng 1,2 mét gồmcó hai trụ đá ghép lại với nhau, thành một khối khá hoàn chỉnh. Tầng trên của chùa là một khung gỗ khá kiên cố, đỡ ngôi đài.

Mái chùa được lợp bằng ngói, bốn góc được gặp cong vút lên. Trên mái có tạc hình Lưỡng long triều nguyệt bằng những mảnh sành sứ ghép lại với nhau khá tỉ mỉ.

Từ xa nhìn lại thì ngôi chùa này có dáng một toà sen đang vươn thẳng lên; chung quanh có hàng lan can bằng bằng những viên gạch được tráng màu xanh. Con đường đi qua hồ theo một lối đi nhỏ hơn, lót bằng gạch, rồi một cầu thang lên Phật Đài. Chùa Một Cột đã trở thành một biểu tượng của những ngôi cổ tự Việt Nam cũng như điển hình kiến trúc Thăng Long.

Về hình dung của ngôi chùa này đã có những lập luận khác nhau. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục, trên nguyệt san Văn Hoá Á Châu (số  16) thì “Kiểu dáng của một chùa này đã gợi lên hình ảnh Linga – Yoni  của Ấn Độ Giáo”. Linga là một từ Phạn cổ, thường được dịch là dương vật, mặc dù một số học giả phủ nhận điều đó. Ở Ấn Độ, “Linga” thường có hình trụ, đỉnh hình bán nguyệt, dựng trên một  cái bệ có khe hay một bồn nước, gọi là “Yoni”, từ này có nghĩa là âm hộ. Đôi khi, Linga có một chỗ lõm ở giữa để đặt một tượng Shiva... Nhưng ngay sau đó, trên tuần báo Sáng Dội Miền Nam  (12-4-1956), Lê Văn Siêu đã phản bác lại: “Quan điểm Linga – Yoni được gán cho hình ảnh của chùa Một Cột là thiếu chính xác. Chùa được xây từ đời nhà Lý là giai đoạn cực thịnh của Phật Giáo, không hề có ảnh hưởng hay liên hệ gì với Ấn Giáo. Thậm chí ý nghĩa “phồn thực” (théory de fertility) của người bình dân cũng không ảnh hưởng gì đến giá trị tâm linh của một ngôi chùa...” (trang 14). Các triết gia Ấn Độ thường cho rằng: Hình ảnh trừu tượng này biểu thị tốt hơn sự vô hình của thần thánh muôn hình vạn trạng và chi phối mọi vật, biến hóa mọi nơi.

Chùa Một Cột đã được xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật ngày 28-4-1962.
Di tích Phật pháp chùa  Một Cột
Ở thôn Yên Thành có chùa Nhất Trụ (chùa Một Cột) trước cửa chùa vẫn còn giữ được một trụ kinh Thủ Lăng Nghiêm bằng đá hình bát giác. Những chữ còn đọc được cho ta biết cột kinh này được làm vào khoảng năm Lê Đại Hành thứ XVI (năm 995).
Cột kinh chùa Một Cột này có chiều cao khoảng 4 mét, giồm có 6 bộ phận: tảng đế vuông,  đế tròng, than bát giác, bông hoa đá tám cánh và đỉnh hồ lô. Tất cả các bộ phận gắn liền với nhau hoàn toàn không sử dụng đến chất kết dính, nhưng vẫn được vững vàng, trải qua nghìn năm, gió mưa bão lụt, mà cột kinh linh thiêng này vẫn còn đứng vững.
Tảng đế vuông dày 30cm, kích thước của mỗi chiều đo được 140cm, có lỗ mộng tròn ở giữa.Đế tròn có đường kính là 76cm, dưới đáy đế có ngõng lắp vừa khít vào lỗ mộng ở tảng đế vuông. Trên mặt đế tròn có lỗ mộng sâu 9cm. Hai  đầu cột đều có ngõng cắm vào đế và thớt. Thớt bát giác dày 13cm, số đo qua tâm hai mặt đối diện là 69cm, mặt dưới có lỗ mộng ngậm khít vào ngõng trên của thân bát giác. Bông hoa đá cao 26cm, có đường gờ miệng uốn lượn tạo nên 8 đỉnh nhọn, phía dưới bông hoa thu nhỏ hình tròn, mặt trên bông hoa đá có lỗ mộng tròn để gắn chóp. Chóp hình chiếc hồ lô thóp bụng, miệng tù, cao 80cm, đường kính 30cm.
Bao quanh đế cột có vòng cánh sen, đường kính đo được 107cm, với tổ hợp 22 cánh đơn, chiều dài của mỗi cáng vào khoảng 15-17cm, chiền rộng là 13cm. cánh sen hình thon, trông tựa như cánh sen trên những tảng đá làm bậc đi tong động An Tiêm (tương truyền đây là nơi vua Đinh dùng để nhốt hổ báo, trừng trị những người có tội nặng).
Căn cứ theo những chứng liệu lịch sử nghệ thuật Việt Nam thì: Đây là những cánh sen xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam. Nhìn chung, những mẫu hình  cấu trúc và trang trí về sen đều theo khuôn mẫu ở đây. Tuy nhiên,  vẫn còn là nghi vấn, chưa có chứng liệu xác định nơi nào sinh ra trước, nơi nào sinh ra sau.
Trên tám mặt của thân hình bát giác khắc đầy những chữ Hán không còn được nguyên vẹn, ước chừng đến 2.500 chữ; những chữ còn đọc được hay có thể nhận dạng có chừng 1.200 chữ mà thôi.
Nội dung của bài văn trên thạch kinh này, theo nhiều nhà nghiên cứu Phật Học, vốn là bài kinh “Đà Ra Ni” và kinh “Thủ Lăng Nghiêm”. Kinh Đà Ra Ni vốn viết bằng chữ Phạn, lại càng khó để nhận dạng hơn. Nội dung của cả hai bài kinh ca ngợi sự bền vững của Giáo lý đức Phật, sự to lớn bao trùm vạn vật của Phật pháp.
Về phương diện cấu trúc, thì hai bài kinh và phong cách trang trí trên cột kinh lại không hoà hợp với kiến trúc chùa Nhất Trụ. Điều này có thể giả định thời điểm của hai công trình không trùng khít nhau.
CHÙA MỘT CỘT Ở MIỀN NAM

Khi nói đến thắng cảnh miền Bắc Việt Nam người ta thường hay nhắc đến Chùa Một Cột (Diên Ứng) như là một biểu hiện của ngôi cổ tự.   Khuôn rập lại hình ảnh độc đáo của ngôi chùa lịch sử này, một số nhà tu hành Phật Giáo miền Nam đã nảy ra ý kiến lập lại mô thức của chùa Một Cột với mọi chi tiết trùng khớp. Đó là Nam Thiên Nhất Trụ tự ở Thủ Đức.

Người khởi xướng và điều hành công trình khuôn rập này là Hoà thượng Thích Trí Dũng. Nam thiên Nhất Trụ Tự toạ lạc tại số 511 đường Nguyễn Du trong địa phận của Thủ Đức, nay nằm trong khu vực của TP. Hồ Chí Minh.

Ngôi chùa này được nghiên cứu và chuẩn bị mọi chi tiết từ lâu và mãi đến năm Mậu Tuất (1958) mới có thể khởi công xây cất. Công trình này kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức thiết kế đồ án, nhưng trong thời kỳ đó hai miền Nam Bắc tách rời nhau nên chỉ nghiên cứu qua những tư liệu sách báo ghi chép trong Viện Nghiên Cứu Đông Dương (Société Des Etudes Indochinoises) mà thôi.
Một số chi tiết được cải biến để thích hợp với khu đất này.  Do những biến chuyển của hoàn cảnh diễn ra cho nên mãi cho đến năm 1977, tức là 19 năm sau đó, ngôi chùa  này mới được hoàn tất và khánh thành. 

Du khách đến vãn cảnh chùa này, đi vào cửa tam quan khá cao, rồi tiến thẳng vào một hồ vuông rộng được gọi là hồ Long Nhãn (Mắt rồng), như kiểu chùa Linh Chiểu ở miền Bắc. Trong hồ có thả nhiều loại cá và rùa, trông  thật vui mắt.   Nam Thiên Nhất Trụ tự nằm ngay giữa hồ này.

 Kiến trúc toàn bộ chân chùa bằng bê tông cốt thép giả làm gỗ như chùa nguyên thủy của nó. Cũng như chùa Linh Hựu đời vua Lý Thái Tông, chùa này thờ đức  Quan Thế Âm Bồ tát. Về phía bên phải, có môt hồ nước nhỏ; ở giữa có tượng đức Quan Thế Âm   dựng đứng lên, tay cầm bình cam lộ, tay kia cầm cành  dương liễu đang rưới nước xuống hồ.   

Ngôi Tổ đường được xây dựng rất trang nghiêm; nơi đây thờ ngài Đạt Ma tổ sư thiền phái. Ở ngay giữa tổ đường có một sập gụ và bộ trường kỷ bằng loại gỗ cẩm lại,  chạm trỗ rất công phu, chỉ giành để tiếp hàng Giáo  phẩm cao cấp trong giáo hội Phật Giáo mà thôi.  Hai bên có hai dãy bàn ghế giành để tiếp những vị khách đến vãn cảnh chùa. Một tủ sách chứa nhiều tư liệu nghiên cứu Phật Giáo quý báu được kê về phía trái của  ngôi Tổ đường này.  Ngoài ra, còn có văn phòng của Hoà thượng viện chủ  nằm về phía kế cận.

Đằng sau là thiền đường, khách sảnh và tăng xá, được tách chia từng phần với đầy đủ tiện nghi và sắp xếp rất  kỹ lưỡng.   Trước sân của Giảng đường có tượng của đức Đương Lai  Hạ sinh Di Lặc Tôn Phật. Gác chuông chùa này được  thiết kế bên trái của hồ Long Nhãn.  Ngoài ra còn có ngôi bảo điện của chùa tức là Diên Hựu Tự tọa lạc ở phía sau của chùa, thờ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và những tượng của Thiên Long.   

Du khách còn thấy được tượng đài của đức Phật Di Đà cao trên 7 mét và tượng của Địa Tạng Vương Bồ tát cao trên 4 mét nằm về phía bên trái của ngôi chính điện. Phía sau của chính điện có nhà lưu niệm, tàng trữ những bảo vật liên quan đến chùa và cũng là nơi tham cứu của những nhà văn hoá khắp nơi muốn đến tìm hiểu những tư liệu chung quanh ngôi chùa này.  Về phía trong cùng thuộc khuôn viên của Nam Thiên Nhất Trụ Tự là khu Ni Xá.

Ngôi nhà Trù cũng trong khu vực này giành cho những người đến làm công quả giúp cho chùa. Nhìn toàn cảnh thì công trình thiết kế và xây dựng ngôi chùa này rất công phu, tỉ mỉ, trên nhiều cơ cấu; nghiễm  nhiên trở thành một thắng cảnh của thành phố hiện nay,  kể cả sự thu hút những khách từ miền Bắc nữa.

Những ngày lễ chính cũng như những ngày cuối tuần, khách vãn cảnh từ nhiều nơi, kể cả những người ở nước ngoài, đến đây để tìm được những cảnh trí trang nghiêm, mô thức  kiến trúc và điêu khắc rất đẹp đẽ. 

Nam Thiên Đệ Nhất Trụ là một cách thử nghiệm thành công trong cách phục hoạt lại những danh lam cổ tự nổi tiếng Việt Nam từ mấy trăm năm trước. Trong chiều  hướng này, những ngôi chùa cổ trước có thể được xây  dựng trở lại với những kỹ thuật xây cất tinh vi hơn, nhưng không kém phần mỹ thuật và ý nghĩa lịch sử.

Tài liệu tham khảo:

Essais sur l’art annamite – Louis Bezacier – Hanoi – 1994
Les pagodes de Hanoi – Gustave Dumoutier – 1887
Le Bouddhisme en Tonkin des origines au 13 ème siècle - Trần Văn Giáp – 1942 -
Le Panthéon des pagodes bouddhiques du Tonkin – Louis Bezacier – Saigon - 1943

Kiêm Đạt

Nguồn: Phật Tử Việt Nam
http://www.chuagiacthien.org/LichSuPhatGiaoDetail.aspx?Cat=4&NewsPK=5


Chùa Một cột (Hà Nội)                 2009-11-16 08:20:33

Chùa Một Cột hay Chùa Mật, chùa Nhất Trụ, còn có tên khác là Diên Hựu tự hoặc Liên Hoa Đài, là một ngôi chùa nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam.




Chùa được khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm 1049. Chùa chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.

Theo truyền thuyết, Chùa Một cột được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông
Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 Âm lịch, vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân khắp Kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn.

Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và cho dựng trước sân hai tháp lợp sứ trắng. Năm 1108, Nguyên phi Ỷ Lan sai bày tôi đúc một cái chuông rất to, nặng một vạn hai nghìn cân, đặt tên là "Giác thế chung" (Quả chuông thức tỉnh người đời). Đây được xem là một trong tứ đại khí - bốn công trình lớn của Việt Nam thời đó - là: tháp Báo Thiên, chuông Qui Điền, vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh Lâm. "Giác thế chung" đúc xong nặng quá không treo lên được, để dưới mặt đất thì đánh không kêu. Người ta đành bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ, ruộng này có nhiều rùa, do đó có tên la Quy Điền chuông (chuông ruộng rùa). Đến thế kỷ 15, giặc Minh xâm lược, chiếm thành Đông Quan (Hà Nội). Năm 1426 Lê Lợi đem nghĩa quân Lam Sơn ra đánh, vây thành rất gấp. Quân Minh thiếu thốn vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn sai người đem phá chuông Quy Điền lấy đồng. Quân Minh thua trận, nhưng chuông Quy Điền thì không còn nữa.

Chùa Một cột mang phong cách kiến trúc cổ

Chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm 1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được sửa chữa lại năm 1955 do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm.


Theo tài liệu lịch sử, lối kiến trúc một cột có từ trước đời nhà Lý. Ở Hoa Lư, Ninh Bình trong ngôi chùa con gái vua Đinh Tiên Hoàng, có một cây cột đá cao, sáu cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981-1005). Phía trên cột là tòa sen chạm. Năm Long Thụy Thái Bình thứ năm đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía trước điện dựng lầu chuông, một cột sáu cạnh hình bông sen. Như vậy, trước khi xây chùa Một Cột, lối kiến trúc đó đã là một thực tế nghệ thuật cổ truyền.

Chùa Một cột năm 1922
Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước.

Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có lưỡng long triều nguyệt.


Tranh vẽ chùa Một cột của hoạ sỹ Alain Fontenas
Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh.
Nguồn: Tổng hợp

Công trình kiến trúc Chùa Một Cột


Theo tài liệu lịch sử, lối kiến trúc một cột có từ trước đời nhà Lý. Ở Hoa Lư, Ninh Bình trong ngôi chùa Nhất Trụ mà con gái vua Đinh Tiên Hoàng tu hành, có một cây cột đá cao, sáu cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981–1005). Phía trên cột là tòa sen chạm.

Năm Long Thụy Thái Bình thứ năm đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía trước điện dựng lầu chuông, một cột sáu cạnh hình bông sen. Như vậy, trước khi xây chùa Một Cột, lối kiến trúc đó đã là một thực tế nghệ thuật cổ truyền.
                      
                          Mộ số hình ảnh chùa Một Cột trước đây
 
 
 
 
Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có lưỡng long triều nguyệt. Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.
 
C hùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm 1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được sửa chữa lại năm 1955 do kiến-trúc-sư Nguyễn Bá Lăng đảm-nhiệm .
Cạnh chùa Một Cột ngày nay còn có một ngôi chùa có cổng tam quan, với bức hoành phi ba chữ "Diên hựu tự", nguyên là công trình được dựng lần đầu tiên năm 1049, để mở rộng quy mô cho chùa Một Cột trong việc thờ cúng, tụng kinh Phật và sinh hoạt của các tăng ni (trong quần thể chùa Diên Hựu lúc đó). Kiến trúc còn lưu đến hiện nay của công trình này có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ 18 (đợt trùng tu năm 1847), phụ vào với chùa Một Cột.
  Chùa Một Cột ngày nay cùng chùa Diên Hựu hiện đại (tức là quần thể chùa Diên Hựu xưa) được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia đợt đầu tiên năm 1962.
Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, ngoài ra biểu tượng chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản Chùa Một Cột.


Phong trào 'làm mới di tích' và kinh nghiệm phục chế EFEO
Không chỉ bảo tồn các công trình, các hoạt động nghiên cứu làm rõ hơn những giá trị của di sản như dịch văn bia, nghiên cứu các biến đổi qua các giai đoạn trùng tu và từ đó xác định các nguyên tắc bào tồn, đáp ứng những thực tiễn có yêu cầu khắt khe.
Không chỉ là bảo tồn...

Bản vẽ Chùa Một Cột ( tên chữ là Diên Hựu) của Louis Bezaceer

 Chùa Một cột , xây dựng năm 1049, tu bổ nhiều lần. Ảnh chụp 1952, trước khi bị phá. Chùa hiện tại làm lại năm 1955.
Có bạn phương xa nhận  xét:  “Người Hà Nội nặng tình với thành phố của mình. Khắp thế giới,chỉ có vài nơi như vậy: Paris , Matxcơva , Bắc Kinh , Roma…” Không biết thực hư ra sao, tự bản thân thì thấy điều ấy có thật. Bạn bè ghé chơi, là chúng tôi đưa đi một vòng thăm thú đình chùa trong phố và quanh ngoại ô. Họ có chung  cảm nghĩ là Việt Nam thật cuốn hút và Hà Nội thì quyến rũ thực sự.
Bước chân như quen, thực là đi về những ngày xưa cũ. Cách đây 40 năm, các bạn lớp hoạ thiếu nhi còn nhớ thầy Thẩm Đức Tụ dắt đi vẽ phong cảnh Hà Nội, nhất là những nơi quanh HồTây: chùa Kim Liên, Báo Ân, Tào Sách, Trấn Quốc, Quảng Bá… Sau này mới biết, những thứ mộc mạc đơn sơ ấy chẳng phải bỗng dưng mà có.
Chiếm Hà Nội bằng quân sự, người Pháp đã tiến hành xây dựng thành phố hành chính trên nền đất của kinh đô phong kiến: làng xóm, ao hồ chi chít. Chỉ khu vực Hồ Gươm và phụ cận, họ đã phá huỷ không ít những công trình tôn giáo danh tiếng: Nhà thờ Lớn xây trên nền chùa Lý triều Quốc sư đã đổ nát (1884). Nhà Bưu Điện xây dựng phải phá bỏ chùa Liên Trì (1889). Chùa Táo ( thế kỷ X-XV) bị san phẳng để xây Toà Thị Chính(1886) và đền Huyền Trân (thế kỷ VI) nhường chỗ cho Thư viện (1889) …
Các nhân viên của EFEO năm1937. Hàng đầu bên trái là Louis Bezaceer, cụ Nguyễn Văn Tố ở hàng thứ hai, đứng giữa ông George Coedes và bà Madelene Colani. Ảnh: Xưa và Nay.
Không biết có bị ân hận về sự huỷ diệt văn hoá hay không, nhưng một số người Pháp đã có nỗ lực thành lập Viện viễn đông bác cổ - L’Ecole Francaise d’Extrême-Orient -EFEO (1898) với tôn chỉ “Tìm hiểu sâu về xứ sở qua nghiên cứu lịch sử và văn hoá nhằm dẫn dắt và phát triển mạnh hơn kho tri thức của Pháp“. Bỏ qua những mục tiêu khoác áo thực dân thì công tác bảo tồn di sản kiến trúc tại Hà Nội được người Pháp tiến hành có phương pháp, kiên định và hiệu quả.
Từ những ngày đầu, EFEO có vai trò giám sát các công trình lịch sử trong khi chính quyền địa phương chịu trách nhiệm bảo đảm nguyên trạng của chúng. Trong bối cảnh các di tích Hà Nội không hề được bảo vệ, bị những người xâm chiếm phá hoại tràn lan để xây dựng đô thị thì nhiệm vụ này không dễ dàng. Tư liệu EFEO soạn thảo làm cơ sở để tranh luận và thuyết phục các đại diện giới quân sự, tôn giáo và hành chính của Pháp giảm thiểu sự tàn phá di sản ngay từ những ngày đầu Hà Nội bị chiếm đóng.
Cơ quan EFEO có nhiều chuyên gia: Gustave Dumoutier- nhà khảo cổ học, nhân chủng học, dân tộc học, ngôn ngữ học phương Đông; KTS Henri Parmentier, Henri Vildieu, Luis Bezacier và đặc biệt là  KTS Ernest Hébrard. Ngoài những nhà khoa học uyên bác người Pháp, có rất nhiều người Việt có trình độ uyên thâm như cụ Nguyễn  Văn Tố,Trần Văn Giáp, Nguyễn Thiệu Lâu… Tham gia công tác bảo tồn di sản còn nhiều người  Việt tâm huyết nữa với danh hiệu “cộng tác viên của EFEO” từ năm 1902.
Ngoài những nghiên cứu về Khơme, Chăm, Lào …tại Hà Nội, EFEO nhanh chóng lập ra danh sách các 40 công trình di sản được bảo vệ tại Hà Nội: chùa Trấn Quốc, Văn Miếu, đền Ngọc Sơn, đền Trấn Vũ, chùa Một cột, đền Bạch Mã, Hồng Quang, Hồng Phúc, Chiêu Thiền, Liên Phái…
Không chỉ bảo tồn các công trình, các hoạt động nghiên cứu làm rõ hơn những giá trị của di sản như dịch văn bia, nghiên cứu các biến đổi qua các giai đoạn trùng tu và từ đó xác định các các nguyên tắc bảo tồn, đáp ứng những thực tiễn có yêu cầu khắt khe.
Hai ví dụ về bảo tồn, phục chế di sản kiến trúc

Bản vẽ  Văn Miếu của Louis Bezaceer

Ảnh chụp nhìn từ Khuê Văn Các vào (khoảng 1920)
Văn Miếu tôn tạo từ 1917 dến 1920. Được tổ chức lại từ khung nhà đổ nát, có thể sụp đổ hoàn toàn. Ngay từ lúc đó đã phải di rời những người dân sống trong sân Văn Miếu và dọn cả những ruộng rau.
Đối mặt với nguy cơ ”khôi phục không nguyên vẹn”, những bộ phận hư hỏng được nghiên cứu phục hồi nguyên mẫu để thay thế, nguyên tắc này áp dụng làm lan can và lối đi lát gạch. Tuy vậy, hai cái ao được tạo mới thành hồ nước, lối đi bộ bên thảm cỏ dưới những tán cây mới trồng thêm. Việc bổ sung khéo léo làm cho du khách đến nay ngỡ là có mấy trăm năm nhưng ít ai nhận ra đó là phong cách sân vườn châu Âu.
Tôn tạo Chùa Một Cột năm1920-1922. Khu đất bao quanh chùa đã thay đổi khi quy hoạch mạng lưới giao thông. Nghiên cứu văn bia lại phát hiện chùa đã trùng tu nhiều lần nên việc xác định nguyên mẫu trở nên phức tạp hơn. Tuy vậy ngay cả việc chuyển từ bảo tồn đơn thuần sang phục chế toàn bộ thì công việc cũng đã được hoàn thành cẩn trọng.
Việc khôi phục lại các hoa văn ở các góc cạnh hay xây mới một bờ tường hình vuông quanh hồ nước ( vốn bị xoá hết dấu vết) với tỷ lệ chọn lọc đã làm cho ta không nhận ra đâu là hiện vật cũ, mới. Năm 1954, quân đội Pháp phá chùa trước khi rút khỏi Hà Nội. Bằng tư liệu lưu trữ, chùa đã được dựng lại như ta thấy hiện nay .
Rất nhiều đình chùa Hà Nội đã được phục chế trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ 20. Một phần do kết cấu gỗ, gạch không giữ được lâu, một phần chiến sự 1947 tại Hà Nội làm đình chùa thiệt hại nặng. Nhờ những kinh nghiệm phục chế có phương pháp đã hình thành bởi EFEO, các công trình  này được thực hiện rất thành công.
Phong trào làm mới di tích hiện nay
Quy trình thực hiện bảo tồn di tích hiện nay dễ hay khó? Điều này còn tuỳ. Có ngôi chùa cổ ở quận Hai Bà Trưng mái ngói dột đã lâu, cụ sư trụ trì thật thà mời họp đủ ban bệ, khó nhất là mời hai ông GS bảo tồn. Mấy tháng mới đủ mặt, nhưng suốt buổi, hai ông tranh luận là cái kèo bẩy có chi tiết chạm khắc đời Lê hay đời Nguyễn. Tan họp, các đại biểu nhận phong bì rồi vẫn chưa cho kết luận là mái  có được lợp lại hay không. Cụ trụ trì thì nói như đinh đóng cột: “Năm 1950 , tôi về chùa thì chỉ còn khung mái đã cháy, tôi mượn thợ dưới Thường Tín lên sửa chứ Lê , Nguyễn gì đâu”. Vậy là sửa mái chùa rất khó.
Cứ xem xứ Đoài xứ Đông thì đình chùa mấy năm nay ầm ầm xây lại. Không biết khó dễ thế nào mà có bạn KTS trên Sơn Tây cậy cục xin chuyển khỏi Ban quản lý thành cổ. Anh tâm sự: “Theo họ thì hoá mình làm bừa, không theo thì không làm gì được. Sản phẩm là những gì: tường thành cổ Sơn Tây thì xây mới toanh, đình Mông Phụ thì còn lộ nhiều keo gắn với dầu sơn bóng. Bộ vì  làm mới đặt sàn đình Tây Đằng thì trông nét chạm ngô nghê như mới học nghề …” Vậy là làm mới đình cổ, thành cổ khá dễ.
Mươi năm trước, Bộ Văn hoá đã có dự án lập hồ sơ di sản kiến trúc khá quy mô, tốn khá nhiều tiền. Tuy vậy kết quả của dự án nay để đâu, nội dung ra sao ít người biết. Nên chăng có quy chế công bố rộng rãi trên mạng, như vậy sẽ đạt mục đích: sản phẩm nghiên cứu thực hiện bằng ngân sách sẽ được xã hội thẩm định công bằng. Còn những di tích được trùng tu sửa chữa sẽ có chuẩn mực tin cậy để đánh giá. Mặt khác cả xã hội có cơ hội tham gia bảo vệ di sản một cách tích cực, chủ động.
KTS Trần Huy Ánh (VietNam Net)
(Trong bài sử dụng tư liệu của cụ Nguyễn Văn Uẩn “ Hà Nội nửa đầu TK20” và của France Mangin “ Di tích lịch sử Hà Nội 1900-1930”, tạp chí “Xưa và Nay”6/2009. Ảnh minh hoạ do Hanoidata ST&BS)
http://www.giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=774442



Metro de HaNoi – tuyến đường sắt nội đô đầu tiên

Métro de Paris còn được gọi là Métro Parisien là biểu tượng của thủ đô nước Pháp, dài 213km của 16 tuyến, 298 ga, phần lớn chạy ngầm dưới đất. Mạng lưới dày đặc, mật độ sử dụng cao (4,5 triệu người /ngày). Các bến tàu điện ngầm được trang trí theo phong cách Art nouveau.

Tàu điện Hà Nội bắt đầu khai thác năm 1902 trong khi HN có vài vạn dân và nền kinh tế sơ khai.

Tuyến xe điện Nhổn – Ga Hà Nội dài 12,5 km, phần lớn chạy trên cao, chỉ có 3 km ngầm, dự trù báo cáo tiền khả thi hơn 10.300 tỉ đồng, tương đương 458 triệu Euro.

Trong đó, 200 triệu Euro để cung cấp, lắp đặt các thiết bị và dịch vụ tư vấn. Xây dựng ngầm (underground construction) 80 triệu Euro. Còn đâu là đường trên cao, nhà ga, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái cấu trúc, chi khác. Năng lực vận chuyển năm 2010 đạt 123.800 hành khách/ngày. Sẽ tăng lên thành 274.000 / ngày vào năm 2020 và 360.000 /ngày vào năm 2030. Chia ra mức đầu tư đường trên cao và 12 ga khoảng 450 tỷ VND/km. Tunnel ngầm khoảng 550 tỷ VND/km.

Theo VietNamNet đưa tin, báo cáo khả thi tăng 1,7 lần (782 triệu Euro) do lưu lượng khách tăng hơn, dẫn đến kích cỡ nhà ga và đoàn tàu tăng, và toàn bộ hệ thống cầu cạn, hầm, thông tin, tín hiệu... cũng tăng. Đoàn tàu gồm 5 toa (thay vì 4 toa như trước), kích cỡ lớn hơn.

Nhà ga nổi xây 2 tầng (gồm cả tầng trung chuyển) trên tất cả các ga và đều được lắp thang máy, thang cuốn. Ga ngầm sâu hơn khoảng 10m. Qui hoạch tuyến, vị trí các ga điều chỉnh cục bộ, đoạn ngầm kéo dài hơn Báo cáo trước là 1,1km. Tư vấn cũng tính toán đào ngầm bằng máy TBM thay vì đào moi, đào mở đặt ra trước đây. (Ảnh bên : Sơ đồ 5 tuyến đường sắt nội đo Hà Nội )

Giá thành đường ngầm nội đô có thể tăng gấp 6 lần dự trù ban đầu

Đó là trường hợp đường ngầm, nổi xuyên qua thành phố Boston, thủ phủ bang Massachusetts (Hoa Kỳ). Toàn bộ hai trục đường cao tốc 8 đến 10 làn. Tổng cộng có 260 km đường cao tốc xây mới, một nửa chạy ngầm dưới đất, phần còn lại chủ yếu trên cao. Đoạn thấp nhất nằm sâu 36 mét dưới đất, cao nhất 40 mét, đỉnh một nút cầu vượt cao 70 mét.

Năm 1991 “dự án thế kỷ” được khởi công gọi “Big Dig” (hào lớn) sánh với “The Big Ditch” (rãnh lớn) của kênh đào Panama.

Nan giải với “Big Dig” là xây dựng đường ngầm thành phố. Chúng phải chạy dưới những hoạt động tấp nập ở trên, dưới những tòa nhà hoặc dưới những công trình ngầm khác. Thi công khó như việc người ta mổ tim cho một bệnh nhân, trong khi anh ta vẫn phải hoạt động và làm việc bình thường!

Có rất nhiều khó khăn và công trình phải vượt qua và lập vô số kỷ lục. Một trong đó là đắt đỏ: Theo kế hoạch, Big Dig sẽ hoàn thành 1998 với tổng kinh phí 2,6 tỷ USD, cuối cùng đến tận 2005 mới xong với mức chi phí lên tới 14,6 tỷ USD, gấp 6 lần so với dự kiến.

Kiến trúc sư John Gosling nói: “Nếu ban đầu biết công trình này ngốn một khoản tiền lớn đến như vậy, chắc chắn người ta phải nghĩ lại”. Giờ đây, Boston đang phải gánh chịu một núi nợ khổng lồ cho công trình thế kỷ của mình.

Người Mỹ nổi tiếng với tính toán chính xác nhưng đã bị “choáng“ như vậy là lẽ thường vì lỡ chui vào đất rồi thì tốn mấy cũng phải tìm cách chui ra.

Việt Nam, cho đến nay chưa ai nhận là chuyên gia metro. Phụ thuộc toàn bộ vào tư vấn nước ngoài, nên dự kiến có tăng vài lần thì cũng là bước... "rèn luyện cảm xúc tập thể".

Chi phí vận hành Metro trên khắp thế giới là phải bù lỗ (duy nhất ở Hongkong là có lãi). Metro Moskova bù lỗ 0,5 triệu USD / ngày. Hà Nội sẽ bù lỗ nhiều hơn vì nhập khẩu 100% từ tư vấn, công nghệ thiết bị thi công vận hành đến phụ tùng thay thế và vé thì phải rất rẻ.

Đường ngầm kết hợp chống úng ngập tại Kuala Lumpur – Malaysia

Trung tâm TP Kuala Lumpur (Malaysia) cũng có vùng trũng ngập, họ đã làm tunnel sâu hàng chục mét, đường kính 13.2m dài 9,7km. Trong tunnel có 2 tầng xe ô tô, còn một tầng làm đường thoát nước. Khi ngập lớn thì toàn bộ mặt cắt sử dụng thành ống tiêu úng ngập khổng lồ. Chi phí dự án là 510 triệu USD (khoảng 1000 tỷ VND/1km đường ngầm. Dự án có tên SMART – (Stormwater Management and Road Tunnel)

Dự án SMART tại Kulalumpur ( Malaysia)

Metro de Hà Nội trong dự kiến ban đầu tunnel đường kính bằng ½ đường ngầm SMART. Không biết giờ đây mở rộng sẽ là bao nhiêu nhưng chưa thấy tin tức cho biết là tunnel có gánh vác hai nhiệm vụ vô cùng cấp thiết của Thành phố không:

Một là hỗ trợ hệ thống thoát nước nội đô vốn đã già nua nhưng áp lực mỗi ngày một tăng.

Hai là dọn rác trên trời với búi tóc rối ngày một rắc rối. Tăng gấp đôi đường kính tunnel, giá thành xây lắp tăng gấp đôi, nhưng hiệu suất khai thác giao thông tăng đã đành lại hóa giải hai vấn nạn đô thị.

Còn nữa, đường ngầm mà không thoát nước ngầm thì thành cái hang ngập khổng lồ là cái chắc – không tin thì đi qua đoạn ngầm Kim Liên. Theo bạn nên chọn mặt cắt nào?

Các ga metro là không gian mua bán khổng lồ đầy hứa hẹn, nó cũng có thể là gara ngầm ô tô xe máy. Tại tầng sâu nhất nó là ga thu nước để bơm nước ngập khi mưa to, trên nóc là quảng trường hay sân chơi, vườn hoa. Khi thi công là nơi tập kết thiết bị. Ga không chỉ là ga nó là nơi kiếm ra tiền, rất nhiều tiền và cả không gian công cộng giá trị không thể tính bằng tiền.

Mặt cắt tuyến số 3 Nhổn – Ga Hà nội trong báo cáo lần 1.

Tiền đâu sau những tuyến đầu tiên?

Trong quy hoạch giao thông Hà Nội, riêng đường sắt nội đô sẽ có 5 tuyến, tuyến nào cũng có đoạn trên mặt đất, có đoạn chạy trên cao, vài tuyến có đoạn đi ngầm trong TP. Tổng đầu tư 7,345 tỷ USD, vốn từ nước ngoài 5, 542 tỷ USD (75,6%); trong nước là 1, 803 tỷUSD ( 24,5%).

Hoàn thành tổng thể mạng lưới đường bộ theo quy hoạch của ngành giao thông sẽ hơn 20 tỷ USD – một số lớn với Thành phố còn nhiều nhiệm vụ quan trọng trong hoàn cảnh kinh tế toàn cầu không thuận lợi.

Hà Nội đang đứng trước cơ hội lớn là quy hoạch mở rộng Thủ đô với vô số cơ sở y tế, giáo dục ĐH. Quỹ đất lãng phí tại các vị trí vô cùng giá trị tại Hà nội và Tp HCM đang được thống kê và điều chỉnh, tiềm năng đem lại hàng chục tỷ USD.

Nguồn thu từ các quỹ đất dôi ra này có đem lại lợi ích công cộng cho xã hội hay không? Có được tái đầu tư vào các công trình hạ tầng có tầm vóc, hay là phân tán tủn mủn vô nghĩa. Điều đó sẽ cho thấy Hà Nội sẽ vượt lên thực tại một cách ngoạn mục hay bằng lòng với tương lai ảm đạm giống như phần lớn các đô thị lớn ở Đông Nam Á – 30, 40 năm chật vật với giấc mơ hóa rồng.

Hình vẽ phối cảnh ga Mai Dịch – tuyến đường sắt Nhổn – Ga HN , báo cáo lần 1.

Có hai cách để làm cho xã hội thịnh vượng: Một là làm nhiều hơn, nâng cao năng suất hơn, sử dụng tài nguyên nhiều hơn, tiêu phí năng lượng nhiều hơn để làm ra nhiều của cải hàng hóa hơn sau đó tìm ra nhiều thị trường để bán hàng hóa đã làm ra.

Hai là kiểm soát của cải xã hội một cách chặt chẽ hơn, lựa chọn việc tiêu dùng tài nguyên, năng lượng một cách cẩn trọng, hiệu quả, công bằng hơn. Tiến hành các dự án phát triển đáp ứng nhu cầu cấp thiết trước mắt nhưng không quên giảm thiểu tác hại đến lâu dài.

Trần Huy Ánh - ảnh : HanoiData (*) Tăng vọt tiền đổ vào tuyến metro đầu tiên của Hà Nội
Dự án tuyến xe điện thí điểm Nhổn - ga Hà Nội dù đang quá trình nghiên cứu, chưa triển khai nhiều ngoài thực địa, nhưng vừa được tăng tổng mức đầu tư thêm 71%.

Tổng mức đầu tư dự án tuyến metro đầu tiên của Thủ đô này đã được Thủ tướng thông qua từ tháng 1/2006, khái toán là 458 triệu Euro. Ba năm rưỡi trôi qua, so sánh "chặng đường" từ Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đến Báo cáo nghiên cứu khả thi - Thành phố Hà Nội cho rằng đặc điểm của tuyến metro thí điểm này đã có những thay đổi đáng kể, và đó là nguyên nhân "tiên quyết" dẫn đến quyết định cần tổng mức đầu tư lên tới 783 triệu Euro.

Theo Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Văn Khôi, trong quá trình lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, Tư vấn Systra đã đề xuất một số thay đổi lớn đối với tuyến Nhổn - ga Hà Nội nhằm phù hợp qui hoạch phát triển Thủ đô tương lai và đã được UBND TP chấp thuận.







Ảnh bên : Vẫn đang "loay hoay" thay đổi nhiều vấn đề, dẫn đến tăng vọt tổng mức đầu tư - "giấc mơ" đi metro của người dân Hà Nội còn xa? (Ảnh: skydoor.net)
Cụ thể, Tư vấn dự báo lưu lượng khách tăng hơn Báo cáo trước, dẫn đến kích cỡ nhà ga và đoàn tàu đều tăng, và toàn bộ hệ thống cầu cạn, hầm, thông tin, tín hiệu... cũng tăng "một loạt". Đoàn tàu theo nghiên cứu mới nhất sẽ gồm 5 toa (thay vì 4 toa như dự kiến trước), kích cỡ lớn hơn. Nhà ga nổi xây 2 tầng (gồm cả tầng trung chuyển) trên tất cả các ga và đều được lắp thang máy, thang cuốn. Ga ngầm sâu hơn tính toán cũ khoảng 10m.
Thêm nữa, qui hoạch tuyến, vị trí các nhà ga được điều chỉnh cục bộ, đoạn ngầm được kéo dài hơn Báo cáo trước là 1,1km. Tư vấn cũng tính toán đào đoạn tuyến ngầm bằng máy TBM thay vì phương pháp đào moi, đào mở mà Báo cáo trước đặt ra.

Thành phố đã thống nhất với Tư vấn Systra bổ sung một tòa nhà hành chính trong khu đề-pô. Lý do nữa khiến tổng mức đầu tư "vọt lên", theo Thành phố Hà Nội - vì đơn giá vật liệu biến động, trong khi tỉ giá qui đổi 1 Euro tại thời điểm lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (năm 2005) chỉ 19.000 đồng, nhưng năm 2009 tạm tính 1 Euro = 23.000 đồng.

Với những thay đổi trên, tuyến metro thí điểm Nhổn - ga Hà Nội từ một dự án tàu metro nhẹ nay đã trở thành tuyến metro hạng trung. Báo cáo nghiên cứu khả thi năm 2005 dự kiến tuyến này sẽ hoạt động từ 2010, nhưng Báo cáo nghiên cứu khả thi 2008 - 2009 tính toán tuyến có thể hoạt động sớm nhất từ 2013, trong đó bổ sung 4 toa xe (cho phương án 12 ga) để đáp ứng nhiều dự báo mới về giao thông Hà Nội.

Thành phố Hà Nội cho rằng, với hàng loạt thay đổi quan trọng đó, tổng mức đầu tư dự án tăng thêm 325 triệu Euro là hoàn toàn bình thường và có cơ sở. Do đó, Thành phố đề nghị Thủ tướng cho phép duyệt mức "tăng vọt" này.

"Để cân đối với nguồn vốn đã được phê duyệt, UBND TP đã họp với các nhà tài trợ để tranh thủ nhiều nguồn vốn ODA khác nhau, ngoài Hiệp định vay vốn đã ký với Chính phủ Pháp (RPE) và Cơ quan Phát triển Pháp (AFD)" - Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Khôi cho biết.

Cũng theo ông Khôi, tháng 4/2009 vừa qua, Quốc vụ khanh phụ trách về ngoại thương Cộng hòa Pháp đã có văn bản cam kết chính thức gửi Bộ KH&ĐT Việt Nam tăng mức tài trợ dự án này thêm 153 triệu Euro.

Bộ KH&ĐT cũng đã ký ghi nhớ với Đoàn chương trình Quốc gia ADB về tài trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đối với Việt Nam năm 2009 và giai đoạn 2010 - 2012, trong đó ghi cho dự án metro Hà Nội 293 triệu USD thuộc tài khóa vay vốn 2010.

Tràng An Nguyễn / VietNamNet
Bảo tồn phố cổ : cũ mà vẫn mới
Vấn đề bảo tồn, tôn tạo trong các khu phố cổ hiện nay không còn là chuyện mới, nhưng cũng vẫn chưa cũ. Nó không còn mới bởi đã được chúng ta nhắc đến rất nhiều, nhưng nó chưa cũ vì vấn đề vẫn chưa được giải quyết hợp lý và cũng chưa có ai đưa ra được phương sách nào cụ thể, phù hợp. Bảo tồn cái gì, bảo tồn như thể nào luôn là một dấu hỏi lớn đang đặt ra.
Phố cổ hay phố khổ
Bên cạnh cái “mác” được gắn trên mình, những ngôi nhà khu phố cổ dường như phải chịu rất nhiều gánh nặng, gánh nặng từ phía những nhu cầu của gia chủ và gánh nặng từ phía bảo tồn của các nhà quản lý. Khi mà những gánh nặng này chưa được khơi thông, chưa có điểm nhìn chung thì rõ ràng gây bất lợi cho cả hai bên. Có đến đây mới thấy, tình trạng các khu nhà không có nhà vệ sinh riêng chiếm đến trên 50%, họ phải dùng nhà vệ sinh chung với vài hộ gia đình khác. Bên cạnh đó, các công trình phụ khác như nhà tắm, nhà bếp cũng trong tình trạng tương tự. Việc thiếu thốn, trật trội đã dẫn đến những quá tải trong sinh hoạt của người dân nơi đây, càng làm xấu đi cảnh quan và bộ mặt của khu phố. Do phải sống trong một không gian hẹp, thiếu không gian nên đã dẫn đến việc các gia đình sống nơi đây luôn phải tìm mọi cách để mở rộng diện tích. Bề ngang thì có hạn, họ chỉ còn một cách duy nhất đó là mở rộng lên cao, bằng cách làm thêm tầng mái; các khu không gian dùng chung giữa các khu nhà cũng bị thu hẹp đến mức tối đa để phục vụ cho việc mở rộng diện tích. Cũng từ đó mà cảnh quan kiến trúc bị phá vỡ, thay đổi.
Nếu như chỉ nói đến đây thì rõ ràng chưa hết, các căn nhà khu phố cổ, tiêu biểu như khu Hàng Buồm thường là những khu nhà cổ nên tình trạng xuống cấp rất trầm trọng. Mái nhà bị giột, thấm, tường nhà bị ăn mòn. Trong khi đó, đa phần những khu nhà ở đây sống rất đông đúc. Có những gia đình như trường hợp nhà số 50 Hàng Buồm có tới 28 người thuộc 8 gia đình nhỏ sinh sống. Có nhưng khu nhà thì chủ yếu là anh chị em cùng ở, có những khu nhà thì lại toàn những người lạ sống cùng, do vậy vấn đề quản lý cũng như những mâu thuẫn trong quyền lợi, sinh hoạt thường xuyên xảy ra.
Trước những nhu cầu của sinh hoạt hàng ngày, người dân nơi đây cũng rất mong mỏi có được một không gian phụ riêng biệt và sạch sẽ, tuy nhiên do diện tích hẹp và cũng do là khu phố cổ nên để có được những điều tối thiểu đó không đơn giản, thế là họ đành phải làm theo cách riêng của họ: ngăn chỗ này một ít, nới chỗ kia một tẹo.
Bảo tồn cái gì và bảo tồn như thế nào?
Việc bảo tồn cái gì, tại sao phải bảo tồn liên quan đến việc bảo tồn như thế nào nó như là hai mặt của đồng tiền vậy. Đa phần những ngôi nhà trong khu phố cổ hiện nay không còn giữ được dáng vẻ như trước nữa mà thường chỉ còn lại phần trước của ngôi nhà giữ lại theo kiểu cũ còn phần trong thì đa phần đã bị sửa sang, xây mới theo kiểu hiện đại. Mặt tiền các ngôi nhà thường hẹp và sâu, các gia đình thường dành phần mặt tiền đó để kinh doanh, phía trước là cửa hàng và phía sau là phần phụ, gia đình sống ở phần giữa nên ánh sáng không vào nên thường rất trật và bí. Trong quá trình biến đổi, các ngôi nhà được xây dựng từ thấp nâng lên cao dần, hoặc từng ngôi nhà riêng được ghép thêm gian để mở rộng.
Trên cơ sở nghiên cứu một số ngôi nhà ở Hàng Buồm, nhóm nghiên cứu của GS. Fukukawa, ĐH Chiba Nhật Bản đã đưa ra một số định hướng bảo tồn: Thứ nhất là chúng ta đưa ra những thiết kế phù hợp với khu phố cổ mà vẫn tạo được không gian sống, thứ 2 là cần tìm hiểu xem gia đình có mong muốn cải tạo không, và thứ 3 là vấn đề kinh phí.

Các ngôi nhà trên phố Hàng Buồm được giáo sư Fukukawa đề cập đến trong nghiên cứu

Một số hình ảnh minh họa bài trình bày của GS.TS Furukawa tại Hội thảo "Bảo tồn khu phố cổ Hà Nội - Tìm kiếm những giải pháp thực tiễn từ kinh nghiệm quốc tế" (nguồn: Viện Quy hoạch và Kiến trúc đô thị - UAI) Tại Nhật Bản, các khu phố cổ thường được bảo tồn theo 4 quy trình: xác định khu vực bảo tồn, nêu danh sách các nhà có giá trị bảo tồn, từ đó nêu ra phương hướng. Thường thì người ta sẽ xác định các giá trị bảo tồn cơ bản và sau đó quy định không được thay đổi hình thức và cải tạo. Với những nhà không nằm trong danh sách cải tạo, những thay đổi cũng không được làm ảnh hưởng tới bên ngoài. Khi người ta có nhu cầu tu bổ kiến trúc bên trong cũng như bên ngoài phải thông qua cơ quan quản lý, một phần kinh phí phải tự túc.
Đối với những ngôi nhà nằm trong khu vực được bảo tồn sẽ được chính phủ hỗ trợ một phần kinh phí, đối với những nhà không nằm trong danh sách được bảo tồn thì phân ra làm 03 loại: những nhà tuân thủ một cách nghiêm ngặt những quy chế trong quá trình tu bổ, sửa chữa thì sẽ được hỗ trợ kinh phí còn những nhà không giữ được quy chế bảo tồn thì không được hỗ trợ. Trường hợp các nhà khu phố cổ Hà Nội cũng có thể đi theo khuynh hướng vừa rồi, tất nhiên là các nhà quản lý cũng cần cân nhắc về mức độ hỗ trợ cho chính xác và hợp lý. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể đặt phương án xây thêm tầng trên và sẽ bán chúng, lấy tiền sửa chữa phần dưới.
Trong khi bảo tồn khu phố cổ thì mặt ngoài khá quan trọng vì nó tạo nên hình ảnh cả khu phố. Tuy nhiên, nhưng mà khuynh hướng hiện nay là mở rộng tối đa đến mức có thể như là đưa khu vệ sinh ra ngoài, gây khó khăn cho công tác bảo tồn. Giả sử chúng ta có thể dãn một số căn hộ ra ngoài thì cũng không cần nâng cao, hoặc nhiều nhà có thể chung nhau một không gian thì giảm bớt kinh phí.

Giả sử chúng ta có một ngôi nhà phố cổ với mặt tiền 4m, diện tích 36m khá lộn xộn, giả sử chúng ta giữ không gian sân giữa là 9m thì chúng ta sẽ nâng lên đến tầng thứ 3. Vấn đề là chúng ta có thể giữ được yếu tố ở đây là duy trì mặt trước và sân giữa để sinh hoạt thì vẫn có được không gian sống hợp lý. Nếu trong trường hợp các nhà trong khu phố cổ nhất định không chịu chuyển đi thì chúng ta có thể lựa chọn những khu đất để xây chung cư với mức giá vừa phải chứ không nhất thiết phải chuyển ra ngoại ô.
Trong trường hợp chúng ta đưa ra được một phương án tổng thể cho cả khu phố thì chắc chắn sẽ có được một không gian đẹp, thoáng. Để làm được điều này thì bản thân những người dân sống trong đó phải đồng thuận. Bởi lẽ có hiện trạng lộn xộn hiện nay là do các chủ nhà tự động sửa theo ý mình mà không theo một quy luật chung. Nếu chúng ta xây dựng được một hội đồng thì chắc chắn sẽ có được sự đối thoại giữa các hộ dân với nhau. Mọi vấn đề liên quan sẽ được thông qua, hội đồng cũng là người đứng ta chịu trách nhiệm vay kinh phí sửa chữa, sau khi bán những khu có thể được thì sẽ dùng tiền đó để trả cho chi phí sửa chữa. Họ đóng vai trò là những nhà điều phối. Hình thức bảo tồn khu phổ cổ có sự tham gia của người dân được diễn ra khá phổ biến trong các nước khác trên thế giới. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải điều tra xem người ta có muốn đi hay không. Ở phố cổ có đặc thù là người dân sinh sống trong điều kiện rất trật chội, khó khăn nhưng việc làm và mưu sinh lại dễ hơn những nơi khác. Đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng.
Cái yếu và thiếu của Việt Nam hiện nay là chưa có được quy hoạch chi tiết về một khu phố, đặc biệt là những nơi nhạy cảm như khu phố cổ. Việc bảo tồn cái gì, bằng cách nào, mô hình của phố cổ trong tương lai ra sao? Những điều này vẫn còn chưa có hồi kết. Hãy làm sao để phố cổ là một cơ thể sống chứ đừng biến nó thành một khu phố chết.
Phong trào "làm mới di tích" và kinh nghiệm phục chế EFEO :
Không chỉ bảo tồn các công trình, các hoạt động nghiên cứu làm rõ hơn những giá trị của di sản như dịch văn bia, nghiên cứu các biến đổi qua các giai đoạn trùng tu và từ đó xác định các nguyên tắc bào tồn, đáp ứng những thực tiễn có yêu cầu khắt khe.
http://kientrucxd.blogspot.com/2009/10/tan-man-chuyen-kien-truc-xay-dung17.html
Chùa Một Cột hay chùa Mật ( gọi theo Hán Việt là Nhất Trụ Tháp ) còn có tên khác là Diên Hựu hoặc Liên Hoa Đài ( Đài hoa sen ) , là môt ngôi chùa nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội .Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam .
Chùa được khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm 1049 .Chùa chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa Hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen . Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý thái Tông (1028-1054)và theo gợi ý của nhà sư Thiền Tuệ .vào năm 1049 vua đã mơ thấy được Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên tòa . Khi tỉnh dậy,nhà vua kể chuyện đó lại cho bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa , dựng cột đá như trong chiêm bao , làm tòa sen của Phật Bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ , vì thế chùa mang tên Diên Hựu .
Đến năm 1105 , vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và cho dựng trước sân hai tháp lợp sứ trắng . Năm 1108 Nguyên Phi Ỷ lan sai bày tôi đúc một cái chuông rát to ,nặng đến môt vạn hai nghìn cân , đặt tên là Giác Thế Chung ( quả chuông thức tỉnh người đời ).Đây được xem là một trong tứ đại khí- bốn công trình lớn của Việt nam thời đól là : Tháp Báo Thiên ,chuông Qui Điền , vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh Lâm . Giác Thế Chung đúc xong nặng quá không treo lên được , để dưới mặt đất thì đánh không kêu .Người ta đành bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ , ruộng này có nhiều rùa , do đó có tên là La Quy Điền chuông (chuông ruộng rùa ).
Đến thế kỷ 15 , giặc Minh xâm lược , chiếm thành Đông Quan ( Hà Nội ).Năm 1426 Lê Lợi đem nghĩa quân lam Sơn ra đánh ,vây thành rất gấp .quân Minh thiếu thốn vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn sai người đem phá chuông Quy Điền lấy đồng .Quân Minh thua trận , nhưng chuông Quy Điền thì không còn nữa .
Đến thời nhà Trần , chùa đã không phải là ngôi chùa nhà Lý nữa vì sách cũ đã ghi : Năm 1249 :”…mùa xuân , tháng giêng , sửa lại chùa Diên Hưu ,xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ…” chùa đã qua nhiều đợt tu sửa .Đợt tu sửa chữa lớn vào năm Thiên Ứng Chính Bình 18 ( 1249 ) gần như phải làm lại toàn bộ. Thời Lê ,triều đình nhiều lần cho tu sửa , thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá . Năm 1838, tổng đốc Hà Ninh Đặng Văn Hòa tổ chức quyên góp thập phương sửa chữa điện đường , hành lang tả hữu ,gác chuông và cửa tam quan . Năm 1852, bố chính Tôn Thất Giáo xin đúc chuông mới . Năm 1864 , tổng đốc Tôn Thất Hàm hưng công trùng tu , làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ tòa sen , chạm trổ thêm công phu tráng lệ . năm 1954 ,trước khi rút khỏi Hà Nội , quân Pháp đã đặt mìn phá đổ chùa . Sau ngày tiếp quản thủ đô , Bộ văn hóa đã cho tu sửa chùa một cột theo đúng kiểu mẫu cũ để lại từ thời Nguyễn .
Cạnh chùa Một Cột ngày nay còn có một ngôi chùa có cổng tam quan , với ba chữ “:Diên Hựu Tự “ , là một ngôi chùa mới được xây dựng phụ vào với chùa Một Cột , xây khoảng đầu thế kỷ 18 .


Chùa Một Cột xưa
 
Hà Nội xưa (Chùa Một Cột 
xưa)

















 http://www.36phophuong.vn/Ha-Noi-xua-Chua-Mot-Cot-xua-_c2_476_477_1915.html
Chùa Một Cột và dấu ấn kiến trúc Việt
PDF.
In
Email
Phật giáo và đời sống - Chùa Tháp Phật Giáo
Viết bởi Luc Bảo   

Theo sử sách, chùa được xây lần thứ nhất năm 1049: "Mùa đông tháng 10 dựng chùa Diên Hựu. Trước đây, vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà sen, dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy vua nói với bề tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, làm toà sen của phật Quan Âm như đã thấy ở trong mộng. Cho các nhà sư đi xung quanh tụng kinh cầu nhà vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu (phúc lành dài lâu). Năm 1070 mùa xuân tháng giêng năm Thần Võ thứ 2, vua viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước khắc vào phiến đá".
Công ty truyền thông Archi -  Chùa Một Cột và dấu ấn kiến trúc Việt

Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên.

Chùa Một Cột (Liên Hoa Đài) được tạo hình bởi một trụ đá gồm 2 khối, gắn rất khéo, thoạt nhìn như một khối đá liền. Tầng trên là một khung gỗ kiên cố đỡ ngôi đài với mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có hình lưỡng long triều nguyệt. Sự độc đáo của kiến trúc chùa Một Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá.
Công ty truyền thông Archi -  Chùa Một Cột và dấu ấn kiến trúc Việt

Bố cục kiến trúc, trang trí có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng hoa sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ bằng hệ thống móng giằng; đặc biệt là sử dụng các cột chống chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững chắc, vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ như đường lượn của cánh sen, thiết lập sự hài hoà giữa mái và sàn bởi một đối xứng ảo. Cùng với ao hình vuông phía dưới có thể là biểu tượng cho đất (trời tròn, đất vuông), ngôi chùa như vươn lên cái ý niệm cao cả: Lòng nhân ái soi tỏ thế gian. Khối kiến trúc gỗ đá được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh lịch. Cảm giác thanh cao của kiến trúc như chia sẻ, hoà đồng với trời nước và màu xanh của cây lá khiến con người rũ sạch ưu phiền, đạt tới sự trong sáng của tâm hồn.
Công ty truyền thông Archi -  Chùa Một Cột và dấu ấn kiến trúc Việt

Chùa Một Cột hiện nay nằm trong khu vực Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chùa hiện nay nhỏ hơn so với nguyên mẫu để ghi nhớ lại nơi đây đã từng có một công trình kiến trúc độc đáo. Chùa Một Cột có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ.  Lối đi lên chùa là một cầu thang nhỏ làm bằng gạch. Trên cửa Phật đài có biển đề "Liên Hoa Đài" (Đài hoa sen) ghi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây chùa.
Công ty truyền thông Archi -  Chùa Một Cột và dấu ấn kiến trúc Việt

Chùa Một Cột là công trình sáng tạo kết hợp không gian kiến trúc có nhịp điệu cao thấp gồm điêu khắc đá, hội hoạ, chạm vẽ hành lang, mặt nước là biểu tượng văn hoá, nghệ thuật cao, tính dân tộc đậm nét. Lối kiến trúc "một cột" là nghệ thuật kiến trúc cổ truyền có từ trước đời Lý. Tại Hoa Lư (Ninh Bình) cũng có một ngôi chùa thờ con gái vua Đinh Tiên Hoàng. Chùa có một cây cột đá cao, sáu cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981–1005). Phía trên cột là tòa sen chạm. Năm Long Thụy Thái Bình thứ năm đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía trước điện dựng lầu chuông, một cột sáu cạnh hình bông sen...
Công ty truyền thông Archi -  Chùa Một Cột và dấu ấn kiến trúc Việt
Một ngôi chùa tưởng như rất nhỏ bé mong manh, có lẽ cả thế giới chỉ Việt Nam mới có ngôi chùa kiến trúc siêu nhỏ như vậy nhưng giá trị văn hóa, lịch sử vô cùng to lớn, lại trường tồn cùng dân tộc. Một ngôi chùa giữa hồ nước chỉ đủ chỗ cho mấy bát hương, một pho tượng, không tường hào, không tháp chuông, không cổng tam quan nhưng vẫn uy nghiêm trong tâm linh dân tộc, là hình ảnh biểu trưng của thủ đô, vững vàng trong dòng thời gian bất tận.
Luc Bảo (archi.vn )
(giacngoonline)
http://daitangkinhvietnam.org/phat-giao-va-doi-song/50-chua-thap-phat-giao/5291-chua-mot-cot-va-dau-an-kien-truc-viet.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.