Những phong cách chủ đạo trong kiến trúc Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc
Sự hiện diện đầu tiên của kiến trúc Pháp ở Hà Nội là từ năm 1803, khi
vua Nguyễn Gia Long cho xây lại thành Hà Nội theo kiểu Vauban dưới sự
chỉ đạo của 4 kỹ sư công binh Pháp. Tuy nhiên phải đến khi thành lập khu
Nhượng địa năm 1875 ở ven sông Hồng (kéo dài từ phố Phạm Ngũ Lão tới
Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Nghị ngày nay) thì những công trình
phong cách kiến trúc Pháp mới thực sự có dấu ấn tại Hà Nội. Trải qua gần
một thế kỷ (cuối thế kỷ 19 tới nửa đầu thế kỷ 20), kiến trúc thời kỳ
Pháp thuộc với sự phong phú về phong cách đã để lại cho Hà Nội một di
sản kiến trúc quý giá.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới những phong cách chủ đạo, để lại những dấu ấn rõ ràng trong kiến trúc thời kỳ này.
1. Phong cách kiến trúc Tiền thực dân
Ảnh 1: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (trước đây là Sở chỉ huy quân đội Pháp)
Phong cách kiến trúc Tiền thực dân ở Hà Nội bắt đầu hình thành từ chính khu Nhượng địa với những ngôi nhà làm việc, nhà ở cho sĩ quan và binh lính Pháp. Với mong muốn có được những không gian phù hợp với chức năng cần thiết nhưng tránh được cái nóng oi ả mùa hè, các sĩ quan công binh Pháp đã nghĩ ra một hình thức kiến trúc nhiệt đới thô sơ với các hành lang rộng bao lấy không gian chính.
Sau khi chiếm được thành Hà Nội và biến nó thành Sở chỉ huy quân đội Pháp, các sĩ quan công binh cũng xây dựng một loạt công trình trong thành nội cũng như trên trục đường nối khu nhượng địa với Hoàng Thành cũ (nay tuyến phố Tràng Tiền - Tràng Thi - Điện Biên Phủ) và khu vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm theo phong cách Tiền thực dân.
Các công trình kiến trúc phong cách Tiền thực dân thường có mặt bằng hình chữ nhật đơn giản có hành lang rộng chạy xung quanh. Nhà thường có hai tầng, sàn tầng hai dùng dầm đỡ thép hình cuốn gạch ở trên. Mái dốc lợp ngói hoặc tôn. Tường chắn mái xây gạch dùng để trang trí mặt tiền có một vài hình thức tranh trí đơn giản như hàng con tiện hoặc đắp xi măng hình hoa lá. Hành lanh quanh nhà được tạo ra hình thức cuốn vòm hình cung hoặc bán cầu có khoá vòm.
Nhìn chung thì đây là phong cách mag tính công năng duy lý, ít chú trọng về mặt thẩm mỹ nên không có nhiều giá trị về mặt kiến trúc. Tuy vậy chúng cũng là đại diện cho kiến trúc Pháp thuộc thời kỳ sơ khởi nên cũng cần được tôn trọng ở một mức độ nhất định.
Một số công trình tiêu biểu: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (ảnh 1), Toà thị chính (chỉ còn toà nhà số 12 Lê Lai), một số nhà điều trị trong khuôn viên Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Nghị.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 1-3 tầng, mặt bằng hình chữ nhật, mái dốc lợp ngói hoặc tôn, có hành lang bao quanh tạo ra hình thức cuốn vòm liên tục.
2. Phong cách kiến trúc Tân Cổ điển
Ảnh 2: Phủ Chủ tịch (trước đây là Phủ Toàn quyền Đông Dương)
Sau khi cơ bản chinh phục được toàn bộ lãnh thổ Đông Dương, người Pháp đã tiến hành một công cuộc xây dựng lớn ở Hà Nội nhằm biến nó thành thủ phủ toàn khu vực Đông Dương. Những công thự lớn tiêu biểu cho chính quyền thực dân như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống Sứ, Toà án… được xây dựng. Để biểu đạt cho sự uy nghi của chính quyền mới thì không gì bằng việc sử dụng các hình thức kiến trúc Cổ điển. Sau này, phong cách Tân-Cổ điển còn ảnh hưởng sang các công trình lớn về kinh tế-văn hoá ở Hà Nội như ga Hàng Cỏ, trụ sở Công ty hoả xa Đông Dương-Vân Nam, Nhà hát Thành phố, Viện Radium Đông Dương… và nhiều biệt thự dành cho người Pháp ở Hà Nội. Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển ở Hà Nội thời kỳ này không còn là Tân-Cổ điển Pháp thuần tuý nữa mà mang nhiều màu sắc của chủ nghĩa Triết chung. Mặc dù vẫn sử dụng bố cục đối xứng nghiêm ngặt, các cấu trúc hình học và tỷ lệ vẫn được tuân thủ, các thức cổ điển vẫn mang tính áp đảo, song ở nhiều công trình các chi tiết của kiến trúc Phục hưng, Baroque cũng được sử dụng.
Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển là phong cách kiến trúc áp đảo đối với các công trình công cộng lớn ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc và cũng là phong cách mang dấu ấn mạnh mẽ nhất của kiến trúc thời kỳ này. Ảnh hưởng của nó thật đáng buồn, là còn đến tận những công trình kiến trúc công cộng mới xây dựng cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ở Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Phủ Toàn quyền Đông Dương (ảnh 2), Dinh Thống sứ Bắc Kỳ, Phủ Thống sứ (12 Ngô Quyền), Ga Hàng Cỏ, Công ty Hoả xa Đông Dương - Vân Nam (82 Trần Hưng Đạo), Nhà hát lớn, Viện Radium Đông Dương (43 Quán Sứ), khách sạn Metropole (15 Ngô Quyền).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục cân đối, sử dụng nhiều thức cổ điển, mái dốc lợp ngói tây hoặc ngói đá, nhiều hình thức trang trí phong phú sử dụng các thức, chi tiết Cổ điển La Mã, Phục hưng, Baroque.
3. Phong cách kiến trúc địa phương Pháp
Ảnh 3: Trụ sở Bộ Tư pháp (trước đây là Trường nữ học Pháp)
Từ những năm 1900, một lượng khá lớn người Pháp đã tới Hà Nội làm việc, sinh sống. Họ mang theo những hoài niệm về quê hương thông qua những công trình kiến trúc nơi họ đã sống (chủ yếu là các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris) và do vậy cũng bắt đầu từ thời gian này, một loạt biệt thự, trường học cho người Pháp được xây dựng theo phong cách kiến trúc địa phương Pháp.
Các công trình phong cách địa phương miền Bắc Pháp có mái với độ dốc lớn, các công trình phong cách vùng Paris có độ dốc vừa phải có hệ con sơn gỗ đỡ phần mái nhô ra khỏi tường. Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng kiến trúc phong cách địa phương Pháp xây dựng ở Hà Nội không giống hoàn toàn ở chính quốc mà đã mang nhiều tính công năng, thực dụng và dỡ bỏ nhiều những hình thức trang trí nguyên gốc. Những công trình phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội nhìn chung mang đậm tính hồi cố, duyên dáng, mang nhiều nét kiến trúc các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris, tuy nhiên đã có những biến đổi nhất định để phù hợp với công năng mới và khí hậu nhiệt đời Việt Nam.
Một số công trình tiêu biểu: Grand Lycée AIber Sarraut (1B Hoàng Văn Thụ), Petit Lycée (8 Hai Bà Trưng), Trường nữ học Pháp (58 Trần Phú, ảnh 3) và một số biệt thự tại khu Ngoại giao đoàn.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 2-3 tầng, mái dốc lợp ngói, có hệ con sơn đỡ mái bằng gỗ mảnh hình tam giác được tiện khắc công phu, hoạ tiết trang trí không nhiều nhưng khá tinh tế.
4. Phong các kiến trúc Art Deco
Ảnh 4: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trước đây là Chi nhánh ngân hàng Đông Dương)
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các hoạt động kinh tế trở nên nhộn nhịp hơn, một làn sóng đầu tư của người Pháp, một phần nhỏ của người Hoa và người Việt diễn ra ở Hà Nội. Một loạt trụ sở ngân hàng, công ty và nhiều biệt thự tư nhân được xây dựng. Vì đây là các hoạt động đầu tư tư nhân nên chủ nhân của chúng cũng không cần nhờ tới các kiến trúc sư “cung đình” như A-H. Vildieu nữa. Các kiến trúc sư có đầu óc cách tân hơn được trọng dụng và từ đó một phong cách thiết kế hiện đại, giản dị và thực dụng, phù hợp với xu hướng kiến trúc đang phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ thời bấy giờ, phong cách Art Deco, được ứng dụng trong thiết kế nhiều công trình ở Hà Nội.
Kiến trúc Art Deco bắt đầu phát triển ở Hà Nội từ những năm 1920 và đặc biệt mạnh mẽ vào những năm 1930. Những công trình xây dựng theo xu hướng này thường sử dụng những hình khối kinh điển trong bố cục không gian, các khối vuông, chữ nhật kết hợp với các khối bán trụ tạo ra một hình thức kiến trúc hiện đại và giản dị. Thêm vào đó là các hoạ tiết trang trí bằng thép uốn hoặc đắp nổi bằng xi măng, thạch cao với đường nét mềm mại làm giảm bớt sự thô nặng của các khối chủ đạo. Đây cũng là hình loại kiến trúc được nghiên cứu và có nhiều sự cải biên nhằm tới sự hài hoà với khí hậu và cảnh quan Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Chi nhánh ngân hành Đông Dương (ảnh 4), nhà in IDEO (24 Tràng Tiền), công ty AVIA (39 Trần Hưng Đạo), Bưu điện (6 Đinh Lễ), các toà nhà số 91 Đinh Tiên Hoàng và 31 Tràng Tiền, cùng rất nhiều biệt thự trải từ quận Ba Đình tới cuối các phố Bà Triệu, Hàng Chuối.
Đặc điểm nhận dạng: Hình khối giản dị mang tính hiện đại, đại đa số là mái bằng, sử dụng với liều lượng vừa phải các hoạ tiết trang trí trên mặt đứng.
5. Phong cách kiến trúc Đông Dương
Ảnh 5: Trụ sở Bộ Ngoại giao (trước đây là Sở Tài chính Đông Dương)
Thập kỷ 1920 ở Hà Nội, sau khi một loạt công trình đại diện cho chính quyền thực dân theo phong cách Tân Cổ điển được xây dựng và đưa vào sử dụng cho thấy chúng hoàn toàn không phù hợp với khí hậu cũng như truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan ở đây. Bản thân giới trí thức Pháp ở thuộc địa cũng nhận ra việc áp đặt những giá trị văn hoá từ chính quốc vào một đô thị bản địa có truyền thống văn hoá lâu đời và rất khó chấp nhận. Do vậy việc tìm tòi một phong cách kiến trúc vừa có khả năng đáp ứng công năng hiện đại, vừa phù hợp với khí hậu, cảnh quan và truyền thống văn hoá địa phương được một loạt kiến trúc sư người Pháp và sau đó là người Việt theo đuổi, từ đó tạo ra một phong cách kiến trúc kết hợp sau này được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương.
Kiến trúc theo phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu Pháp thịnh hành lúc bấy giờ, nhưng đã có sự tìm tòi, biến đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc nhằm tạo ra những công trình có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hoá bản địa. Các kiến trúc sư theo phong cách này thường sử dụng những hình thức và chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam, Khmer trong việc tạo nên các bộ mái, ô văng che cửa, cùng các hoạ tiết trang trí khác. Nhìn chung đây là phong cách thành công nhất trong việc tạo ra những công trình kiến trúc đẹp, hiện đại, phù hợp với khí hậu, cảnh quan và văn hoá truyền thống bản địa thời kỳ Pháp thuộc.
Một số công trình tiêu biểu: Toà nhà chính Đại học Đông Dương (19 Lê Thánh Tông), Sở Tài chính (ảnh 5), Bảo tàng Louis Finot (*) (1 Phạm Ngũ Lão), Viện Pasteur (1 Y-éc-xanh), Nhà thờ Cửa Bắc, Câu lạc bộ thuỷ quân (36 Trần Phú).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục mặt bằng hình khồi đăng đối kiểu Châu Âu kinh điển. Sử dụng nhiều thức cột, mái và các chi tiết kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Khmer, hệ thống cửa lấy ánh sáng và thông gió tự nhiên được chú trọng.
6. Phong cách kiến trúc Pháp - Hoa
Ảnh 6: Dinh thự số 26 Phan Bội Châu
Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa có lẽ cũng xuất phát từ ý tưởng muốn xây dựng những công trình đáp ứng được công năng hiện đại nhưng vẫn mang màu sắc kiến trúc Á Đông. Tuy nhiên, khác với các kiến trúc theo phong cách Đông Dương, sử dụng đa phần cách thức kiến trúc, các yếu tố trang trí Việt Nam và Khmer, các tác giả của các công trình Pháp-Hoa lại hầu như sử dụng cách thức và yếu tố trang trí cổ điển Trung Hoa.
Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa ở Hà nội thể hiện chủ yếu trong các dinh thự và biệt thự. Các ngôi nhà theo phong cách này thường chỉ có 2 tầng với cách bố trí tổng mặt bằng theo kiểu nhà chính - nhà phụ, đặc biệt ở các dinh thự thường có vườn trước rất lớn có bố trí non bộ. Mái dốc lợp ngói ống, ngói tráng men, bốn góc uốn cong và được trang trí khá cầu kỳ, con sơn đỡ mái dạng trồng đấu nhiếu lớp. Ở một số công trình có hệ thống cột tròn với các tai cột ngang. Phần trang trí được chú trọng nhiều với các yếu tố trang trí kiểu Trung Hoa cổ. Ở các công trình theo phong cách Pháp - Hoa ít thấy những giải pháp lấy ánh sáng hay thông gió tự nhiên phù hợp với khí hậu Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Dinh Tổng đốc Hoàng Trọng Phu (46 Hoàng Diệu), dinh thự số 26 Phan Bội Châu (ảnh 6), Nhà hàng Thuỷ Tạ, một số biệt thự trên các phố Phan Đình Phùng, Quán Thánh, và quanh hồ Thuyền Quang.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà chính 2 tầng, mái dốc lợp ngói ống hoặc ngói tráng men, trang trí cầu kỳ, sử dụng nhiều thức và chi tiết kiến trúc cổ điển Trung Hoa.
7. Phong cách kiến trúc Neo-Gothic
Ảnh 7: Nhà thờ Làng Tám
Phong cách mà chúng tôi gọi là Neo-Gothic với ý nghĩa mong muốn phục hồi Gothic của những người thiết kế gắn liền với quá trình xây dựng các nhà thờ Công giáo ở Hà Nội. Năm 1883, lấy cớ chùa Báo Thiên đã cũ nát và ở trong tình trạng nguy hiểm, Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ đã ra lệnh phá huỷ ngôi chùa, khu đất của nhà chùa được Công sứ M.Bonal nhượng lại cho Hội truyền giáo. Trên khu đất này, giám mục Puginier với tư cách là người thiết kế và chỉ đạo thi công, đã xây dựng nhà thờ Saint Joseph còn gọi là Nhà thờ lớn, hoàn thành năm 1888. Cùng với sự xâm nhập của đạo Thiên Chúa, rất nhiều nhà thờ lớn nhỏ cũng đựơc xây dựng ở các xứ đạo nội, ngoại thành Hà Nội trong thời gian sau đó.
Đặc điểm của kiến trúc nhà thờ ở Hà Nội đa phần là mô phỏng hình thức kiến trúc Gothic Pháp nhưng được giản lược rất nhiều. Đó là cách tổ chức mặt bằng hình chữ thập, mặt đứng ba nhịp, nhịp giữa là lối vào chính, phía trên có cửa sổ “hoa hồng”, hai bên là các lối vào phụ phía trên là tháp chuông. Tuy nhiên, khác với các nhà thờ Gothic Pháp sử dụng rất nhiều yếu tố trang trí, kiến trúc nhà thờ Hà Nội chỉ tổ chức nhiều cửa sổ hình cuốn nhọn kiểu Gothic mà hầu như không thêm vào các yếu tố trang trí nên trông khá khô khan. Trong số các công trình Neo-Go thic ở Hà Nội nổi lên một ngôi nhà thờ nhỏ ở quận Hoàng Mai, nhà thờ Làng Tám, kiến trúc nhà thờ này mang nhiều thần thái Gothic Pháp với một tỷ lệ khá hài hoà trên mặt đứng, kết hợp với nhiều hoạ tiết trang trí theo phong cách Gothic dù còn chưa tinh tế. Nhìn chung thì phong cách Neo - Gothic ở Hà Nội gắn liền với kiến trúc nhà thờ Công giáo, giá trị về mặt thẩm mỹ chưa cao song lại mang nhiều giá trị về mặt lịch sử và cảnh quan.
Một số công trình tiêu biểu: Nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ Làng Tám (ảnh 7), nhà thờ Hàm Long (Gothic Anh).
Đặc điểm nhận dạng: Mặt đứng ba nhịp với ba cửa vào, phần trung tâm thấp hơn có cửa sổ “hoa hồng”, hai tháp cao ở hai bên. Bố trí nhiều cửa sổ cuốn nhọn kiểu Gothic, kính màu được sử dụng rộng rãi.
Chú thích :
Giảng viên Khoa Kiến trúc và Qui hoạch, ĐH Xây dựng / Nhóm nghiên cứu Kiến trúc Hà Nội cận-đại (GRAH)
Mobile : 0903255640 / E-mail : tqbao2000@gmail.com
http://ashui.com/mag/chuyenmuc/kien-truc/1468-nhung-phong-cach-chu-dao-trong-kien-truc-ha-noi-thoi-ky-phap-thuoc.html
-----------
Một loạt công trình hành chính tiêu biểu cho quyền lực của người Pháp trên xứ sở Đông Dương đã được xây dựng ở Hà Nội như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống sứ & phủ Thống sứ, Toà án; trong đó trụ sở Toà án được coi là một công trình kiến trúc lớn thời bấy giờ. Công trình do kiến trúc sư, chánh sở kiến trúc trung ương Auguste Henri Vildieu thíêt kế năm 1905.
Toạ lạc trên một khu đất rộng được giới hạn bốn bốn tuyến phố, trong đó có hai đại lộ lớn lúc bấy giờ là Boulevard Carreau ( phố Lý Thường Kiệt ) và Boulevard Rollandes ( phố Hai Bà Trưng ), công trình có mặt chính hướng ra một giao lộ lớn được tạo thành bởi Boulevard Carreau, Rue Jean Soler ( phố Thợ Nhuộm ) và Rue Lambert ( phố Dã Tượng ) và là công trình án ngũ tuyến phố Lambert tạo ra một điểm nhấn kiến trúc cho khu vực.
Mặt bằng không gian toà nhà được cấu trúc kiểu đối xứng qua trục trung tâm gồm năm tầng: hai tầng chính, tầng áp mái, tầng mái & tầng hầm. Tầng hầm nửa nổi nửa chìm, cao 1,6m, được cấu tạo bởi các cuốn vòm xây gạch, xung quanh bố trí các cửa thông gió; tầng này đơn thuần mang chức năng cách ẩm cho sàn tầng 1. Tầng mội có khu vực trung tâm là một sảnh lớn với lối vào chính từ phía trước & hai lối vào nhỏ từ phía sau nhà, từ đây có các hành lang rộng tới 2,9m toả ra hai cánh nhà, nơi bố trí các phòng làm việc hàng ngày của các chuyên viên, nhân viên toà án và một phòng xử án nhỏ.
Khối phòng làm việc được bố trí theo kiểu hành lang bao quanh nên việc lấy ánh sáng & thông gió tự nhiên phải thông qua hệ thống cửa sổ hành lang qua các cửa ra vào mở rộng. Các phòng phụ, cầu thang phụ được bố trí ở hai đầu hồi nhà và nhô hẳn ra so với khối phòng chính. Tầng hai bao gồm một sảnh trung tâm, hai phía là các phòng xử án lớn, phía sau phòng xử án là các phòng nghị án, phòng làm việc của chánh án & các thẩm phán. Khối phòng này cũng được bố trí theo kiểu hành lang bao quanh. Sảnh và các phòng xử án có cấu trúc thông tầng nên có độ cao khá lớn. Tầng ba chỉ bố trí một số kho nhỏ và các hành lang liên kết do khu vực trung tâm là không gian thông tầng của sảnh và các phòng xử án ở tầng hai. Tầng mái có diện tích khá lớn được bố trí các kho lưu trữ tài liệu cùng hệ thống hành lang bao quanh.
Giao thông theo phương đứng của toà nhà được đảm trách bởi một hệ thống cầu thang hoàn chỉnh gồm hai cầu thang ngoài rộng tới 4,3m dẫn từ sân trước lên chính sảnh tầng hai. Phía trong nhà có cầu thang chính rộng rãi cấu tạo theo hình chữ T nối giữa sảnh tầng 1 và sảnh tầng 2, đầu hồi là các thang phụ đảm trách giao thông từ tầng 1 lên tầng mái.
Hình khối kiến trúc của công trình được thiết kế theo dạnh đối xứng kiểu mặt gương qua trục trung tâm với việc sử dụng tỷ xích lớn tạo ra một khối toà nhà hình chữ H rất đường bệ và trang trọng. Khối trung tâm được thiết kế với bộ mái nhô cao, được đỡ bởi hàng cột theo thức Doric La Mã, kết hợp với hai cầu thang ngoài hình chữ L được trang trí cận trọng tạo ra điểm nhấn làm tăng tính oai vệ của toà nhà. Đây không chỉ là nét độc đáo của công trình so với các toà nhà Tân cổ điển ở Hà Nội mà cũng là nét độc đáo khi so sánh với các toà án theo phong cách Tân cổ điển ở chính nước Pháp. Hai cánh nhà được thiết kế với nhịp điệu nhỏ hơn, giữa các cửa là hàng cột giả theo thức Ionic với dáng vẻ nhẹ nhàng càng làm tôn nối khối trung tâm. Cuối hai cánh nhà là hai khối hình chắc đậm nhô mạnh ra phía trước tạo ra sự kết thúc khoẻ khoắn theo phương ngang và góp phần làm tăng vẻ hoành tráng cho toà nhà.
Theo phương đứng thì tầng hầm và tầng một được tổ chức như một khối chắc đặc với lượng mở cửa không lớn, kết hợp với các yếu tố trang trí theo phương ngang tạo thành một bệ đỡ vững chắc cho toà nhà. Tầng hai và tầng ba được phối kết bởi các hàng cột Doric và Ionic với các cửa sổ chạy dọc theo phương đứng tạo không khí tương phản mạnh với khối tầng một. Kết thúc công trình theo phương đứng là một mái Marsard kinh điển với độ cao nổi trội ở khối trung tâm kết hợp với hệ thống cửa mái được trang trí khá cầu kỳ theo hình thức Fronton La Mã.
Với phương cách bố cục hình khối kiến trúc theo tinh thần Tân cổ điển một cách chuẩn mực cùng các hình thức trang trí được cân nhắc kỹ lưỡng, trụ sở Toà án rất xứng đáng với sự khen nhận của các chuyên gia kiến trúc Nhật Bản là “tác phẩm đẹp nhất trong kiến trúc nhà công cộng thời kỳ đầu” (finest work of early public architecture)[1]. Nằm trong nhóm bộ ba công trình hành chính – công quyền tiêu biểu thời kỳ Pháp thuộc, trụ sở Toà án không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc mà còn có những giá trị đặc biệt về mặt lịch sử và văn hoá, do vậy vấn đề bảo tồn công trinh này cần được đặt ra một cách nghiêm túc. Ngoài việc bảo tồn tính nguyên gốc của toà nhà, vấn đề quy hoạch tổng thể khu vực lân cận công trình cũng phải được cân nhắc cẩn trọng. Rất tiếc là tầm nhìn hiện nay đã không còn nên chúng ta không thể cảm nhận trụ sở Toà án như bản nguyên vốn có của nó, nên chăng tạo ra một quảng trường rộng phía trước để việc cảm thụ toà nhà được đầy đủ hơn (?)
--------------------------------------------------------------------------------
* [1]. Fujimori Terunobu và cộng sự: Bảo tồn di sản kiến trúc Hà Nội, Nhà Xuất bản Xây dựng, 1997.
KTS. Trần Quốc Bảo
Giảng viên Khoa Kiến trúc và Qui hoạch, ĐH Xây dựng / Nhóm nghiên cứu Kiến trúc Hà Nội cận-đại (GRAH)
Mobile : 0903255640 / E-mail: tqbao2000@gmail.com
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới những phong cách chủ đạo, để lại những dấu ấn rõ ràng trong kiến trúc thời kỳ này.
1. Phong cách kiến trúc Tiền thực dân
Ảnh 1: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (trước đây là Sở chỉ huy quân đội Pháp)
Phong cách kiến trúc Tiền thực dân ở Hà Nội bắt đầu hình thành từ chính khu Nhượng địa với những ngôi nhà làm việc, nhà ở cho sĩ quan và binh lính Pháp. Với mong muốn có được những không gian phù hợp với chức năng cần thiết nhưng tránh được cái nóng oi ả mùa hè, các sĩ quan công binh Pháp đã nghĩ ra một hình thức kiến trúc nhiệt đới thô sơ với các hành lang rộng bao lấy không gian chính.
Sau khi chiếm được thành Hà Nội và biến nó thành Sở chỉ huy quân đội Pháp, các sĩ quan công binh cũng xây dựng một loạt công trình trong thành nội cũng như trên trục đường nối khu nhượng địa với Hoàng Thành cũ (nay tuyến phố Tràng Tiền - Tràng Thi - Điện Biên Phủ) và khu vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm theo phong cách Tiền thực dân.
Các công trình kiến trúc phong cách Tiền thực dân thường có mặt bằng hình chữ nhật đơn giản có hành lang rộng chạy xung quanh. Nhà thường có hai tầng, sàn tầng hai dùng dầm đỡ thép hình cuốn gạch ở trên. Mái dốc lợp ngói hoặc tôn. Tường chắn mái xây gạch dùng để trang trí mặt tiền có một vài hình thức tranh trí đơn giản như hàng con tiện hoặc đắp xi măng hình hoa lá. Hành lanh quanh nhà được tạo ra hình thức cuốn vòm hình cung hoặc bán cầu có khoá vòm.
Nhìn chung thì đây là phong cách mag tính công năng duy lý, ít chú trọng về mặt thẩm mỹ nên không có nhiều giá trị về mặt kiến trúc. Tuy vậy chúng cũng là đại diện cho kiến trúc Pháp thuộc thời kỳ sơ khởi nên cũng cần được tôn trọng ở một mức độ nhất định.
Một số công trình tiêu biểu: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (ảnh 1), Toà thị chính (chỉ còn toà nhà số 12 Lê Lai), một số nhà điều trị trong khuôn viên Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Nghị.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 1-3 tầng, mặt bằng hình chữ nhật, mái dốc lợp ngói hoặc tôn, có hành lang bao quanh tạo ra hình thức cuốn vòm liên tục.
2. Phong cách kiến trúc Tân Cổ điển
Ảnh 2: Phủ Chủ tịch (trước đây là Phủ Toàn quyền Đông Dương)
Sau khi cơ bản chinh phục được toàn bộ lãnh thổ Đông Dương, người Pháp đã tiến hành một công cuộc xây dựng lớn ở Hà Nội nhằm biến nó thành thủ phủ toàn khu vực Đông Dương. Những công thự lớn tiêu biểu cho chính quyền thực dân như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống Sứ, Toà án… được xây dựng. Để biểu đạt cho sự uy nghi của chính quyền mới thì không gì bằng việc sử dụng các hình thức kiến trúc Cổ điển. Sau này, phong cách Tân-Cổ điển còn ảnh hưởng sang các công trình lớn về kinh tế-văn hoá ở Hà Nội như ga Hàng Cỏ, trụ sở Công ty hoả xa Đông Dương-Vân Nam, Nhà hát Thành phố, Viện Radium Đông Dương… và nhiều biệt thự dành cho người Pháp ở Hà Nội. Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển ở Hà Nội thời kỳ này không còn là Tân-Cổ điển Pháp thuần tuý nữa mà mang nhiều màu sắc của chủ nghĩa Triết chung. Mặc dù vẫn sử dụng bố cục đối xứng nghiêm ngặt, các cấu trúc hình học và tỷ lệ vẫn được tuân thủ, các thức cổ điển vẫn mang tính áp đảo, song ở nhiều công trình các chi tiết của kiến trúc Phục hưng, Baroque cũng được sử dụng.
Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển là phong cách kiến trúc áp đảo đối với các công trình công cộng lớn ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc và cũng là phong cách mang dấu ấn mạnh mẽ nhất của kiến trúc thời kỳ này. Ảnh hưởng của nó thật đáng buồn, là còn đến tận những công trình kiến trúc công cộng mới xây dựng cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ở Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Phủ Toàn quyền Đông Dương (ảnh 2), Dinh Thống sứ Bắc Kỳ, Phủ Thống sứ (12 Ngô Quyền), Ga Hàng Cỏ, Công ty Hoả xa Đông Dương - Vân Nam (82 Trần Hưng Đạo), Nhà hát lớn, Viện Radium Đông Dương (43 Quán Sứ), khách sạn Metropole (15 Ngô Quyền).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục cân đối, sử dụng nhiều thức cổ điển, mái dốc lợp ngói tây hoặc ngói đá, nhiều hình thức trang trí phong phú sử dụng các thức, chi tiết Cổ điển La Mã, Phục hưng, Baroque.
3. Phong cách kiến trúc địa phương Pháp
Ảnh 3: Trụ sở Bộ Tư pháp (trước đây là Trường nữ học Pháp)
Từ những năm 1900, một lượng khá lớn người Pháp đã tới Hà Nội làm việc, sinh sống. Họ mang theo những hoài niệm về quê hương thông qua những công trình kiến trúc nơi họ đã sống (chủ yếu là các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris) và do vậy cũng bắt đầu từ thời gian này, một loạt biệt thự, trường học cho người Pháp được xây dựng theo phong cách kiến trúc địa phương Pháp.
Các công trình phong cách địa phương miền Bắc Pháp có mái với độ dốc lớn, các công trình phong cách vùng Paris có độ dốc vừa phải có hệ con sơn gỗ đỡ phần mái nhô ra khỏi tường. Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng kiến trúc phong cách địa phương Pháp xây dựng ở Hà Nội không giống hoàn toàn ở chính quốc mà đã mang nhiều tính công năng, thực dụng và dỡ bỏ nhiều những hình thức trang trí nguyên gốc. Những công trình phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội nhìn chung mang đậm tính hồi cố, duyên dáng, mang nhiều nét kiến trúc các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris, tuy nhiên đã có những biến đổi nhất định để phù hợp với công năng mới và khí hậu nhiệt đời Việt Nam.
Một số công trình tiêu biểu: Grand Lycée AIber Sarraut (1B Hoàng Văn Thụ), Petit Lycée (8 Hai Bà Trưng), Trường nữ học Pháp (58 Trần Phú, ảnh 3) và một số biệt thự tại khu Ngoại giao đoàn.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 2-3 tầng, mái dốc lợp ngói, có hệ con sơn đỡ mái bằng gỗ mảnh hình tam giác được tiện khắc công phu, hoạ tiết trang trí không nhiều nhưng khá tinh tế.
4. Phong các kiến trúc Art Deco
Ảnh 4: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trước đây là Chi nhánh ngân hàng Đông Dương)
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các hoạt động kinh tế trở nên nhộn nhịp hơn, một làn sóng đầu tư của người Pháp, một phần nhỏ của người Hoa và người Việt diễn ra ở Hà Nội. Một loạt trụ sở ngân hàng, công ty và nhiều biệt thự tư nhân được xây dựng. Vì đây là các hoạt động đầu tư tư nhân nên chủ nhân của chúng cũng không cần nhờ tới các kiến trúc sư “cung đình” như A-H. Vildieu nữa. Các kiến trúc sư có đầu óc cách tân hơn được trọng dụng và từ đó một phong cách thiết kế hiện đại, giản dị và thực dụng, phù hợp với xu hướng kiến trúc đang phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ thời bấy giờ, phong cách Art Deco, được ứng dụng trong thiết kế nhiều công trình ở Hà Nội.
Kiến trúc Art Deco bắt đầu phát triển ở Hà Nội từ những năm 1920 và đặc biệt mạnh mẽ vào những năm 1930. Những công trình xây dựng theo xu hướng này thường sử dụng những hình khối kinh điển trong bố cục không gian, các khối vuông, chữ nhật kết hợp với các khối bán trụ tạo ra một hình thức kiến trúc hiện đại và giản dị. Thêm vào đó là các hoạ tiết trang trí bằng thép uốn hoặc đắp nổi bằng xi măng, thạch cao với đường nét mềm mại làm giảm bớt sự thô nặng của các khối chủ đạo. Đây cũng là hình loại kiến trúc được nghiên cứu và có nhiều sự cải biên nhằm tới sự hài hoà với khí hậu và cảnh quan Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Chi nhánh ngân hành Đông Dương (ảnh 4), nhà in IDEO (24 Tràng Tiền), công ty AVIA (39 Trần Hưng Đạo), Bưu điện (6 Đinh Lễ), các toà nhà số 91 Đinh Tiên Hoàng và 31 Tràng Tiền, cùng rất nhiều biệt thự trải từ quận Ba Đình tới cuối các phố Bà Triệu, Hàng Chuối.
Đặc điểm nhận dạng: Hình khối giản dị mang tính hiện đại, đại đa số là mái bằng, sử dụng với liều lượng vừa phải các hoạ tiết trang trí trên mặt đứng.
5. Phong cách kiến trúc Đông Dương
Ảnh 5: Trụ sở Bộ Ngoại giao (trước đây là Sở Tài chính Đông Dương)
Thập kỷ 1920 ở Hà Nội, sau khi một loạt công trình đại diện cho chính quyền thực dân theo phong cách Tân Cổ điển được xây dựng và đưa vào sử dụng cho thấy chúng hoàn toàn không phù hợp với khí hậu cũng như truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan ở đây. Bản thân giới trí thức Pháp ở thuộc địa cũng nhận ra việc áp đặt những giá trị văn hoá từ chính quốc vào một đô thị bản địa có truyền thống văn hoá lâu đời và rất khó chấp nhận. Do vậy việc tìm tòi một phong cách kiến trúc vừa có khả năng đáp ứng công năng hiện đại, vừa phù hợp với khí hậu, cảnh quan và truyền thống văn hoá địa phương được một loạt kiến trúc sư người Pháp và sau đó là người Việt theo đuổi, từ đó tạo ra một phong cách kiến trúc kết hợp sau này được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương.
Kiến trúc theo phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu Pháp thịnh hành lúc bấy giờ, nhưng đã có sự tìm tòi, biến đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc nhằm tạo ra những công trình có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hoá bản địa. Các kiến trúc sư theo phong cách này thường sử dụng những hình thức và chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam, Khmer trong việc tạo nên các bộ mái, ô văng che cửa, cùng các hoạ tiết trang trí khác. Nhìn chung đây là phong cách thành công nhất trong việc tạo ra những công trình kiến trúc đẹp, hiện đại, phù hợp với khí hậu, cảnh quan và văn hoá truyền thống bản địa thời kỳ Pháp thuộc.
Một số công trình tiêu biểu: Toà nhà chính Đại học Đông Dương (19 Lê Thánh Tông), Sở Tài chính (ảnh 5), Bảo tàng Louis Finot (*) (1 Phạm Ngũ Lão), Viện Pasteur (1 Y-éc-xanh), Nhà thờ Cửa Bắc, Câu lạc bộ thuỷ quân (36 Trần Phú).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục mặt bằng hình khồi đăng đối kiểu Châu Âu kinh điển. Sử dụng nhiều thức cột, mái và các chi tiết kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Khmer, hệ thống cửa lấy ánh sáng và thông gió tự nhiên được chú trọng.
6. Phong cách kiến trúc Pháp - Hoa
Ảnh 6: Dinh thự số 26 Phan Bội Châu
Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa có lẽ cũng xuất phát từ ý tưởng muốn xây dựng những công trình đáp ứng được công năng hiện đại nhưng vẫn mang màu sắc kiến trúc Á Đông. Tuy nhiên, khác với các kiến trúc theo phong cách Đông Dương, sử dụng đa phần cách thức kiến trúc, các yếu tố trang trí Việt Nam và Khmer, các tác giả của các công trình Pháp-Hoa lại hầu như sử dụng cách thức và yếu tố trang trí cổ điển Trung Hoa.
Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa ở Hà nội thể hiện chủ yếu trong các dinh thự và biệt thự. Các ngôi nhà theo phong cách này thường chỉ có 2 tầng với cách bố trí tổng mặt bằng theo kiểu nhà chính - nhà phụ, đặc biệt ở các dinh thự thường có vườn trước rất lớn có bố trí non bộ. Mái dốc lợp ngói ống, ngói tráng men, bốn góc uốn cong và được trang trí khá cầu kỳ, con sơn đỡ mái dạng trồng đấu nhiếu lớp. Ở một số công trình có hệ thống cột tròn với các tai cột ngang. Phần trang trí được chú trọng nhiều với các yếu tố trang trí kiểu Trung Hoa cổ. Ở các công trình theo phong cách Pháp - Hoa ít thấy những giải pháp lấy ánh sáng hay thông gió tự nhiên phù hợp với khí hậu Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Dinh Tổng đốc Hoàng Trọng Phu (46 Hoàng Diệu), dinh thự số 26 Phan Bội Châu (ảnh 6), Nhà hàng Thuỷ Tạ, một số biệt thự trên các phố Phan Đình Phùng, Quán Thánh, và quanh hồ Thuyền Quang.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà chính 2 tầng, mái dốc lợp ngói ống hoặc ngói tráng men, trang trí cầu kỳ, sử dụng nhiều thức và chi tiết kiến trúc cổ điển Trung Hoa.
7. Phong cách kiến trúc Neo-Gothic
Ảnh 7: Nhà thờ Làng Tám
Phong cách mà chúng tôi gọi là Neo-Gothic với ý nghĩa mong muốn phục hồi Gothic của những người thiết kế gắn liền với quá trình xây dựng các nhà thờ Công giáo ở Hà Nội. Năm 1883, lấy cớ chùa Báo Thiên đã cũ nát và ở trong tình trạng nguy hiểm, Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ đã ra lệnh phá huỷ ngôi chùa, khu đất của nhà chùa được Công sứ M.Bonal nhượng lại cho Hội truyền giáo. Trên khu đất này, giám mục Puginier với tư cách là người thiết kế và chỉ đạo thi công, đã xây dựng nhà thờ Saint Joseph còn gọi là Nhà thờ lớn, hoàn thành năm 1888. Cùng với sự xâm nhập của đạo Thiên Chúa, rất nhiều nhà thờ lớn nhỏ cũng đựơc xây dựng ở các xứ đạo nội, ngoại thành Hà Nội trong thời gian sau đó.
Đặc điểm của kiến trúc nhà thờ ở Hà Nội đa phần là mô phỏng hình thức kiến trúc Gothic Pháp nhưng được giản lược rất nhiều. Đó là cách tổ chức mặt bằng hình chữ thập, mặt đứng ba nhịp, nhịp giữa là lối vào chính, phía trên có cửa sổ “hoa hồng”, hai bên là các lối vào phụ phía trên là tháp chuông. Tuy nhiên, khác với các nhà thờ Gothic Pháp sử dụng rất nhiều yếu tố trang trí, kiến trúc nhà thờ Hà Nội chỉ tổ chức nhiều cửa sổ hình cuốn nhọn kiểu Gothic mà hầu như không thêm vào các yếu tố trang trí nên trông khá khô khan. Trong số các công trình Neo-Go thic ở Hà Nội nổi lên một ngôi nhà thờ nhỏ ở quận Hoàng Mai, nhà thờ Làng Tám, kiến trúc nhà thờ này mang nhiều thần thái Gothic Pháp với một tỷ lệ khá hài hoà trên mặt đứng, kết hợp với nhiều hoạ tiết trang trí theo phong cách Gothic dù còn chưa tinh tế. Nhìn chung thì phong cách Neo - Gothic ở Hà Nội gắn liền với kiến trúc nhà thờ Công giáo, giá trị về mặt thẩm mỹ chưa cao song lại mang nhiều giá trị về mặt lịch sử và cảnh quan.
Một số công trình tiêu biểu: Nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ Làng Tám (ảnh 7), nhà thờ Hàm Long (Gothic Anh).
Đặc điểm nhận dạng: Mặt đứng ba nhịp với ba cửa vào, phần trung tâm thấp hơn có cửa sổ “hoa hồng”, hai tháp cao ở hai bên. Bố trí nhiều cửa sổ cuốn nhọn kiểu Gothic, kính màu được sử dụng rộng rãi.
Chú thích :
- (*) Bảo tàng Lonis Finot do KTS Ernest Hébrard thiết kế, mặc dù có đưa vào một số thức và yếu tố kiến trúc Trung Hoa cổ nhưng đa phần vẫn là các thức, chi tiết Việt và Khmer cổ, phong cách chủ đạo vẫn là Phong cách Đông Dương.
- Ảnh trong bài của Trần Quốc Bảo và Nguyễn Đức Trường
Giảng viên Khoa Kiến trúc và Qui hoạch, ĐH Xây dựng / Nhóm nghiên cứu Kiến trúc Hà Nội cận-đại (GRAH)
Mobile : 0903255640 / E-mail : tqbao2000@gmail.com
Cùng tác giả: >> >> >> >> |
-----------
Trụ sở toà án - Một di sản kiến trúc quí giá của Hà Nội
Cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sau khi củng cố về cơ bản chính quyền đô hộ trên
toàn vùng Đông Dương, người Pháp tập trung các hoạt động xây dựng nhằm
biến Hà Nội từ trung tâm hành chính Bắc Kỳ thành thủ phủ xứ Đông Dương
thuộc Pháp. Có thể nói đây là giai đoạn mở rộng và xây dựng quy mô bậc
nhất ở Hà Nội thời Pháp thuộc.
Một khu phố mới được hình thành theo quy hoạch kiểu Châu Âu từ phía Tây thành cổ tới phía Nam hồ Hoàn Kiếm với những đường phố rộng rãi kiểu ô cờ có đầy đủ các chức năng của một đô thị Châu Âu. Các công trình kiến trúc công cộng quy mô lớn cũng bắt đầu được xây dựng tại các địa điểm có thể coi là đắc địa trong thành phố: những vị trí án ngữ các trục đường lớn, tầm nhìn đẹp và có thể tạo ra những điểm nhấn không gian đô thị.
Một khu phố mới được hình thành theo quy hoạch kiểu Châu Âu từ phía Tây thành cổ tới phía Nam hồ Hoàn Kiếm với những đường phố rộng rãi kiểu ô cờ có đầy đủ các chức năng của một đô thị Châu Âu. Các công trình kiến trúc công cộng quy mô lớn cũng bắt đầu được xây dựng tại các địa điểm có thể coi là đắc địa trong thành phố: những vị trí án ngữ các trục đường lớn, tầm nhìn đẹp và có thể tạo ra những điểm nhấn không gian đô thị.
Một loạt công trình hành chính tiêu biểu cho quyền lực của người Pháp trên xứ sở Đông Dương đã được xây dựng ở Hà Nội như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống sứ & phủ Thống sứ, Toà án; trong đó trụ sở Toà án được coi là một công trình kiến trúc lớn thời bấy giờ. Công trình do kiến trúc sư, chánh sở kiến trúc trung ương Auguste Henri Vildieu thíêt kế năm 1905.
Toạ lạc trên một khu đất rộng được giới hạn bốn bốn tuyến phố, trong đó có hai đại lộ lớn lúc bấy giờ là Boulevard Carreau ( phố Lý Thường Kiệt ) và Boulevard Rollandes ( phố Hai Bà Trưng ), công trình có mặt chính hướng ra một giao lộ lớn được tạo thành bởi Boulevard Carreau, Rue Jean Soler ( phố Thợ Nhuộm ) và Rue Lambert ( phố Dã Tượng ) và là công trình án ngũ tuyến phố Lambert tạo ra một điểm nhấn kiến trúc cho khu vực.
Mặt bằng không gian toà nhà được cấu trúc kiểu đối xứng qua trục trung tâm gồm năm tầng: hai tầng chính, tầng áp mái, tầng mái & tầng hầm. Tầng hầm nửa nổi nửa chìm, cao 1,6m, được cấu tạo bởi các cuốn vòm xây gạch, xung quanh bố trí các cửa thông gió; tầng này đơn thuần mang chức năng cách ẩm cho sàn tầng 1. Tầng mội có khu vực trung tâm là một sảnh lớn với lối vào chính từ phía trước & hai lối vào nhỏ từ phía sau nhà, từ đây có các hành lang rộng tới 2,9m toả ra hai cánh nhà, nơi bố trí các phòng làm việc hàng ngày của các chuyên viên, nhân viên toà án và một phòng xử án nhỏ.
Khối phòng làm việc được bố trí theo kiểu hành lang bao quanh nên việc lấy ánh sáng & thông gió tự nhiên phải thông qua hệ thống cửa sổ hành lang qua các cửa ra vào mở rộng. Các phòng phụ, cầu thang phụ được bố trí ở hai đầu hồi nhà và nhô hẳn ra so với khối phòng chính. Tầng hai bao gồm một sảnh trung tâm, hai phía là các phòng xử án lớn, phía sau phòng xử án là các phòng nghị án, phòng làm việc của chánh án & các thẩm phán. Khối phòng này cũng được bố trí theo kiểu hành lang bao quanh. Sảnh và các phòng xử án có cấu trúc thông tầng nên có độ cao khá lớn. Tầng ba chỉ bố trí một số kho nhỏ và các hành lang liên kết do khu vực trung tâm là không gian thông tầng của sảnh và các phòng xử án ở tầng hai. Tầng mái có diện tích khá lớn được bố trí các kho lưu trữ tài liệu cùng hệ thống hành lang bao quanh.
Giao thông theo phương đứng của toà nhà được đảm trách bởi một hệ thống cầu thang hoàn chỉnh gồm hai cầu thang ngoài rộng tới 4,3m dẫn từ sân trước lên chính sảnh tầng hai. Phía trong nhà có cầu thang chính rộng rãi cấu tạo theo hình chữ T nối giữa sảnh tầng 1 và sảnh tầng 2, đầu hồi là các thang phụ đảm trách giao thông từ tầng 1 lên tầng mái.
Hình khối kiến trúc của công trình được thiết kế theo dạnh đối xứng kiểu mặt gương qua trục trung tâm với việc sử dụng tỷ xích lớn tạo ra một khối toà nhà hình chữ H rất đường bệ và trang trọng. Khối trung tâm được thiết kế với bộ mái nhô cao, được đỡ bởi hàng cột theo thức Doric La Mã, kết hợp với hai cầu thang ngoài hình chữ L được trang trí cận trọng tạo ra điểm nhấn làm tăng tính oai vệ của toà nhà. Đây không chỉ là nét độc đáo của công trình so với các toà nhà Tân cổ điển ở Hà Nội mà cũng là nét độc đáo khi so sánh với các toà án theo phong cách Tân cổ điển ở chính nước Pháp. Hai cánh nhà được thiết kế với nhịp điệu nhỏ hơn, giữa các cửa là hàng cột giả theo thức Ionic với dáng vẻ nhẹ nhàng càng làm tôn nối khối trung tâm. Cuối hai cánh nhà là hai khối hình chắc đậm nhô mạnh ra phía trước tạo ra sự kết thúc khoẻ khoắn theo phương ngang và góp phần làm tăng vẻ hoành tráng cho toà nhà.
Theo phương đứng thì tầng hầm và tầng một được tổ chức như một khối chắc đặc với lượng mở cửa không lớn, kết hợp với các yếu tố trang trí theo phương ngang tạo thành một bệ đỡ vững chắc cho toà nhà. Tầng hai và tầng ba được phối kết bởi các hàng cột Doric và Ionic với các cửa sổ chạy dọc theo phương đứng tạo không khí tương phản mạnh với khối tầng một. Kết thúc công trình theo phương đứng là một mái Marsard kinh điển với độ cao nổi trội ở khối trung tâm kết hợp với hệ thống cửa mái được trang trí khá cầu kỳ theo hình thức Fronton La Mã.
Với phương cách bố cục hình khối kiến trúc theo tinh thần Tân cổ điển một cách chuẩn mực cùng các hình thức trang trí được cân nhắc kỹ lưỡng, trụ sở Toà án rất xứng đáng với sự khen nhận của các chuyên gia kiến trúc Nhật Bản là “tác phẩm đẹp nhất trong kiến trúc nhà công cộng thời kỳ đầu” (finest work of early public architecture)[1]. Nằm trong nhóm bộ ba công trình hành chính – công quyền tiêu biểu thời kỳ Pháp thuộc, trụ sở Toà án không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc mà còn có những giá trị đặc biệt về mặt lịch sử và văn hoá, do vậy vấn đề bảo tồn công trinh này cần được đặt ra một cách nghiêm túc. Ngoài việc bảo tồn tính nguyên gốc của toà nhà, vấn đề quy hoạch tổng thể khu vực lân cận công trình cũng phải được cân nhắc cẩn trọng. Rất tiếc là tầm nhìn hiện nay đã không còn nên chúng ta không thể cảm nhận trụ sở Toà án như bản nguyên vốn có của nó, nên chăng tạo ra một quảng trường rộng phía trước để việc cảm thụ toà nhà được đầy đủ hơn (?)
--------------------------------------------------------------------------------
* [1]. Fujimori Terunobu và cộng sự: Bảo tồn di sản kiến trúc Hà Nội, Nhà Xuất bản Xây dựng, 1997.
KTS. Trần Quốc Bảo
Giảng viên Khoa Kiến trúc và Qui hoạch, ĐH Xây dựng / Nhóm nghiên cứu Kiến trúc Hà Nội cận-đại (GRAH)
Mobile : 0903255640 / E-mail: tqbao2000@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.