Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

Hình ảnh trong thơ văn và trong nghệ thuật tạo hình






Văn Ngọc

http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/ma-luc-cua-hinh-anh


hinhshitao

Thạch Đào (1642 - 1707), Đối thoại giữa hai đoá hoa (1694) 
  Bài thơ ở bên cạnh là của Vương Duy (701-761), thi sĩ kiêm hoạ sĩ thời nhà Đường,
 Bài thơ cũng tả hoa mộc lan đang nở và đang rụng ở trong núi.


Khỏi cần phải nói, ai cũng biết tầm quan trọng của hình ảnh trong đời sống của con người. Chúng ta sống bao bọc bởi hình ảnh, và cần nó như cần ánh sáng để nhìn, không khí để thở. Đó chính là sự sống phản ánh vào trong con mắt ta, và đó là một nguồn thông tin quý báu, cần thiết cho cuộc sống. 
Hình ảnh còn là một công cụ diễn đạt nhạy bén, trực tiếp, nó nói lên được những điều mà ngôn ngữ khái niệm không thể làm được. Điều này, con người đã phát hiện ra ngay từ thời còn ở hang động, khi chưa có chữ viết. 
Do đó, hình ảnh có một vai trò quan trọng trong chức năng diễn đạt, trong văn, thơ, cũng như  trong tất cả các ngành nghệ thuật tạo hình.
Hình ảnh trong văn, thơ, là hình ảnh ảo của sự vật mà ngôn ngữ văn chương gợi lên trong óc tưởng tượng của chúng ta qua những khái niệm và qua những biểu tượng. Có lẽ chính bởi vì nó không cụ thể, cho nên hình ảnh ảo mới có thể hài hoà được với cái ngôn ngữ khái niệm, rất trừu tượng, nhưng lại có khả năng diễn đạt nội tâm của văn thơ . Chỉ cần đọc một vài đoạn thơ cổ, hay thơ mới, là ta cũng thấy được rằng thơ cần hình ảnh, mặc dù đó chỉ là những hình ảnh tượng trưng mà thôi :

Đưa người  ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong...
Thâm Tâm, Tống biệt hành (1940)
Những câu thơ trên là những câu thơ giàu hình ảnh, nhưng chỉ là những hình ảnh trừu tượng, hình ảnh của khái niệm. Tuy nhiên, chúng vẫn cho phép người đọc mường tượng được, dù không phải là cùng những hình ảnh cụ thể mà nhà thi sĩ đã chính mắt nhìn thấy, nhưng cũng là những hình ảnh đủ để nói lên một khung cảnh sông nước, một cái đẹp của hoàng hôn, và một tâm sự lãng mạn. 

Còn hình ảnh trong đời sống và trên các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, như : hội hoạ, điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt - bố trí, kiến trúc, điện ảnh, v.v. là hình ảnh thật, cụ thể, mà mắt ta nhìn thấy được.

Hình ảnh ảo, hay hình ảnh tưởng tượng 


Do đó, ta có thể chia hình ảnh ra làm hai loại : hình ảnh ảo và hình ảnh cụ thể.
Ảo ở đây không có cái nghĩa thường được dùng trong quang học, hay trong tin học, để chỉ những hình ảnh có thật, nhìn thấy trong gương, hoặc trên màn ảnh của máy vi tính, mặc dầu tay ta không nắm bắt được, nhưng mắt ta nhìn thấy được. Trong chừng mức nào, đó là những hình ảnh thật, chứ không phải là hình ảnh ảo. Hình ảnh trong gương, tuy ngược, nhưng là hình ảnh phản chiếu một sự vật có thật, còn hình ảnh trên màn ảnh máy vi tính cũng là hình ảnh của những sự vật cụ thể được chụp lại bằng máy ảnh . Nếu ta đem sao chụp, hoặc in ra giấy, thì nó cũng giống như một bức tranh, hay một tấm ảnh thật.
Hình ảnh ảo mà chúng ta nói ở đây, là hình ảnh mà ta thật sự không nhìn thấy được bằng con mắt, mà chỉ hình dung được bằng óc tưởng tượng, thông qua những khái niệm có trong ngôn ngữ.
Chẳng hạn như khi ta mô tả, hay thuật lại cái đẹp của một dòng sông, một cái cầu, hay một khuôn mặt, người đọc hay người nghe  chỉ có thể hình dung ra được một phần nào cái đẹp ấy mà thôi, thông qua các khái niệm, và các kỷ niệm về những dòng sông, những chiếc cầu, và những khuôn mặt, mà họ đã từng gặp, từng nhìn thấy trong dĩ vãng.
Đương nhiên, không phải ai cũng hình dung ra được cùng một dòng sông ấy, một chiếc cầu ấy, một khuôn mặt ấy, và không phải ai cũng cảm nhận được cùng một cái đẹp mà tác giả đã mô tả.
Do đó, nhiều khi có những hình ảnh trong một tác phẩm văn học đã ghi khắc vào trong trí tưởng tượng của chúng ta, mà rồi khi xem một cuốn phim được dàn dựng dựa trên tác phẩm đó, ta không tìm thấy lại được đúng những hình ảnh mà mình đã hình dung trong đầu.
Điều này cũng gần như một quy luật, vì như ta biết, cái đẹp của hình tượng văn học mà ta cảm thụ được trong óc tưởng tượng của ta, và ngay cả cái đẹp của một bức hoạ mà mắt ta nhìn thấy, cũng không thể nào giống hoàn toàn với cái đẹp mà người khác ghi nhận được trong đầu óc của họ. Đó là do cái bản chất « chủ quan » của sự phán đoán của con người trong lãnh vực thẩm mỹ, mà nhà triết học Kant đã vạch rõ từ thế kỷ XVIII.   
Bởi vậy cho nên, trong văn, thơ, ngoài cái đẹp tự thân của ngôn ngữ (câu chữ, nhạc điệu, nhịp điệu, v.v.), ngoài cái đẹp của nội dung (cốt truyên, chủ đề tư tưởng, tình cảm các nhân vật) mà tác phẩm chuyên chở ra, còn có cái đẹp của những hình ảnh mà tác giả tạo nên trong óc tưởng tượng của người đọc thông qua ngôn ngữ. Ta gọi loại hình ảnh này là hình ảnh « mở », vì nó cho phép người đọc tha hồ tưởng tượng, không như cái đẹp được thể hiện một cách quá cụ thể, cố định, bằng vật liệu, chất liệu, màu sắc, v.v. của một bức hoạ, một bức tượng, một công trình kiến trúc, hoặc một tác phẩm điện ảnh, mặc dầu điện ảnh là một trường hợp đặc biệt, vì nó vừa là văn chương, lại vừa là nghệ thuật tạo hình. Nó là một sáng tạo tập thể của nhiều ngành văn học và nghệ thuât tập hợp lại.
Cái khả năng tạo ra những hình ảnh mở của ngôn ngữ văn chương, chính là một trong những yếu tố có sức quyến rũ không thể nào thay thế được của văn, thơ.
 

Hình ảnh cụ thể  hay  hình ảnh thật

 
Hình ảnh cụ thể là hình ảnh mà mắt ta nhìn thấy được, xúc giác nhận biết được. Đó là hình ảnh của sự vật trong thiên nhiên và trong đời sống, hoặc hình ảnh tạo nên bởi các tác phẩm nghệ thuật : hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật bày biện - bố trí, nghệ thuật múa, điện ảnh, v.v.
Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc, để nói rõ hơn về hai khái niệm trừu tượngcụ thể.
Trong các phong cách hội hoạ hiện đại, đặc biệt là trong hội hoạ trừu tượng, người ta quan niệm rằng tất cả những gì hiện diện cụ thể trên mặt vải đều có một vai trò nhất định và góp phần tạo nên giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Cũng bởi vậy, mà đã có lúc cái tên gọi « hội hoạ trừu tượng » đã bị một số các hoạ sĩ đứng đầu trường phái này đề nghị bỏ đi (đầu thế kỷ XX), và đặt lại cho nó một cái tên khác : «hội hoạ cụ thể », bởi vì, theo họ, tất cả những gì mà mắt ta đã nhìn thấy, thì không thể nào gọi là trừu tượng được. Nhưng rồi cuối cùng cái ý này đã không được mọi người chấp nhận, và ngay sau đó bị dẹp đi. 
Sở dĩ cái tên « hội hoạ trừu tượng » được giữ y nguyên, trước hết là để tránh một sự lẫn lộn. Trừu tượng ở đây không có nghĩa đối lập với cụ thể , mà là đối lập với tượng hình  : hội hoạ tượng hình là nền hội hoạ sử dụng các hình thể có thật trong đời sống. Các hoạ sĩ đi tiên phong thời ấy quan niệm rằng, hội hoạ trừu tượng, phải là một nền hội hoạ trong đó đối tượng vẽ không còn là những vật thể có thật, có khái niệm, tồn tại trong thiên nhiên, và trong cuộc sống của con người. Đó là cả một cuộc thử thách mới, mà rồi qua thời gian người ta cũng nhận thấy rằng không thể nào tôn trọng được cái tính chất quá « tuyệt đối » và đồng thời cũng hơi quá "mơ hồ" của khái niệm "trừu tượng".
Hiện nay, có một số không ít các hoạ sĩ trừu tượng cho rằng : « Trừu tượng hay không, trước hết là phải đẹp ! ».
Đó cũng là một ý kiến đáng chú ý. Nói chung, quan niệm nghệ thuật hiện đại, ở vào thời đại ngày hôm nay, là một quan niệm hoàn toàn mở, chứ không còn bị gò bó bởi những định kiến, lý thuyết, trường phái, hay phong cách nữa.
 
Trên một bình diện khác, người ta thường cho rằng kiến trúc là một nghệ thuật « trừu tượng », vì những hình khối kiến trúc thường chỉ là những hình khối hình học, làm bằng những vật liệu vô tri, vô giác. Thẩm mỹ kiến trúc chỉ là thẩm mỹ của những hình khối, đường nét, tỷ lệ, nhịp điệu, vật liêu, chất liệu, v.v.
Ngoài ra, kiến trúc (với điều kiện còn giữ được bản chất nghệ thuật trong cái chức năng đa dạng của nó, là : vừa làm nghệ thuật, vừa làm kỹ thuật, lại vừa phải lo về khía cạnh kinh tế của công trình) thường được coi như một nghệ thuật trừu tượng, so với hội hoạ và điêu khắc, đơn giản chỉ vì nó không thể nào có được một ngôn ngữ tượng hình, ngoại trừ những yếu tố trang trí, như : con rồng, con phượng, chậu kiểng, bức tượng, hay bức phù điêu, trong những nền kiến trúc cổ. Trong kiến trúc hiện đại, đôi khi người ta cũng sử dụng những biểu tượng, như biểu tượng của sự nhẹ nhàng, năng động : hình ảnh của cánh chim (Nhà ga hàng không của kts Saarinen ở New York, Nhà hát Opéra ở Sydney của kts Jorn Utzon, v.v.)
Xem như vậy, ngay cả trong kiến trúc, người ta cũng có nhu cầu diễn đạt bằng những yếu tố tượng hình, và quần chúng thưởng ngoạn, nói chung, ngay cả ở thời hiện đại, cũng vẫn còn quyến luyến rất nhiều với những yếu tố tượng hình, bởi vì chúng gợi nhắc đến thiên nhiên, đến một nét văn hoá, lịch sử nào đó, hoặc đơn giản chỉ vì những chi tiết tượng hình thường ngoạn mục và làm họ "no con mắt" hơn là những hình khối hình học quá giản lược.
 

Khả năng hoà hợp giữa hình ảnh ảo hình ảnh thật

 
Một thí dụ và cũng là một tiền lệ đáng chú ý trong lịch sử nghệ thuật, là sự hoà hợp giữa thơ, thư pháphội hoạ trong một vài nền văn hoá ở phương Đông, đặc biệt là nền văn hoá của Trung Quốc và của một số nước có nền Nho học,Lão học và Phật học như : Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam.
Đã có một thời, trong những nền văn hoá này, các văn nhân thường sử dụng cây bút lông của mình vừa để viết, lại vừa để vẽ. Họ vừa có thể đồng thời là nhà thơ, nhà thư pháp và nhà hoạ sĩ. Trên một bức tranh cổ, một bức bình phong, hay một chiếc bình cổ, người ta thường có nhu cầu đề thơ. Thơ và thư pháp góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp trang trọng của bức hoạ, bức bình phong, hay chiếc bình cổ. Ngược lại, một bức hoạ có thể làm nổi bật sự cao quý của một bài thơ, và khiến cho nó cụ thể, sống động hơn.
Trong khi thơ diễn đạt cái đẹp của thiên nhiên và của cuộc sống bằng những nét ẩn dụ,và bằng những hình ảnh trừu tượng , thì hội hoạ diễn đạt trực tiếp bằng những hình ảnh cụ thể. 
Dường như nhân loại đã ý thức được điều này ngay từ sớm. Trong hội hoạ cổ điển ở phương Đông, đặc biệt là hội hoạ cổ điển Trung Quốc, người hoạ sĩ bao giờ cũng thể hiện thiên nhiên và sự vật trong cuộc sống thông qua quan niệm thẩm mỹ và triết lý của mình. Họ diễn dịch, hoặc cách điệu hoá, chứ không sao chép y chang. Không những thế, họ còn có nhu cầu hoàn thiện, bổ sung, phụ hoạ cho tác phẩm hội hoạ bằng những ý tưởng trừu tượng qua thơ, văn. Do đó, cái nhu cầu đề thơ lên tranh, và vẽ tranh lên một bài thơ, đã trở thành một truyền thống.

hinhcokhaichi
Cố Khải Chi , hoạ sĩ thời Lục Triều, Trung Quốc (thế kỷ IV)
Truyền thống này đã xuất hiện ít nhất từ thời Lục Triều ở Trung Quốc, với nhà hoạ sĩ trứ danh Cố Khải Chi (thế kỷ IV), và đã phát triển đến cao độ ở thời nhà Đường với nhà thơ kiêm hoạ sĩ Vương Duy (698-759).
Một nhà thơ lớn thời nhà Tống (thế kỷ X-XIII) đã nói về nghệ thuật của Vương Duy như sau : « Thơ của ông như một bức tranh (không có hình vẽ), và tranh của ông như một bài thơ (không có chữ viết) »[tạm dịch ý -V.N.].

Người nhàn hoa quế nhẹ rơi
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
Vương Duy, Điểu minh giản
Khe chim kêu
(Ngô Tất Tố dịch)

Sự hoà hợp giữa thơ, thư pháp, và hội hoạ trong các nền văn hoá Á đông là một điều khá tự nhiên, vì cả ba hoạt động nghệ thuật này đều cùng sử dụng một công cụ, đó là cây bút lông. Hội hoạ cổ điển Trung Quốc (tranh thuỷ mạc) chủ yếu là nghệ thuật của đường nét. Thư pháp và thơ cũng chủ yếu là những nét bút. Bản thân mỗi chữ vuông (chữ Hán) cũng đã là một ký hiệu, một hình vẽ giàu nhịp điệu rồi. Do đó, có một sự hài hoà nhất định giữa ba hình thức diễn đạt này.
 
 

Sức hấp dẫn của hình ảnh trong thơ, văn

 
Mặc dầu cái đẹp được gợi lên qua những hình ảnh trong thơ, văn, chỉ là một cái đẹp ảo, chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của mỗi người, và phần nào khá mơ hồ, bởi vì chỉ là cái đẹp ẩn dụ, ước lệ, song đứng về mặt tác dụng, nó cũng có đủ những nét tượng hình để gợi lên cho người đọc một ý niệm về cái đẹp của đối tượng được mô tả, dù chỉ là một cái đẹp được phác hoạ bằng những nét chung chung, những khái niệm, những biểu tượng,quy ước, đã được sự đồng thuận của nhiều thế hệ người, và đã trở thành những chuẩn mực của cái đẹp trong một truyền thống văn hoá.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chẳng hạn, nhà thơ cũng chỉ mô tả được hai hàng Kiều bằng những nét ẩn dụ, rất tượng trưng như :

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đăn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
 Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh
(Nguyễn Du, Truyện Kiều, câu 20-26)
 
Nhưng rõ ràng, qua những câu thơ này người đọc có thể tưởng tượng được sắc đẹp của hai chị em nàng Kiều một cách thoải mái !
 
hinhhainangkieu
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Nguyễn Du, Truyện Kiều (câu 145-146)
 Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Lê Lam trong Truyện Kiều,
NXB Đại Học và Giáo Dục Chuyên nghiệp 1991


Thơ hay văn, dù có tượng hình đến đâu cũng không thể nào diễn đạt được một cách đầy đủ cái hình dạng thật của một đối tượng. Do đó, hình ảnh trong thơ văn luôn luôn là những hình ảnh mở, và người đọc có thể tự mình tưởng tượng ra cái hình ảnh ấy. Đây cũng chính là một ưu điểm của ngôn ngữ nói và của ngôn ngữ văn chương. Nó không gò bó trí tưởng tượng của người đọc, và khiến cho người ta có một vai trò tích cực trong việc xây dựng hình ảnh, cũng như trong việc thưởng thức và thẩm định tác phẩm.

hinhkieunguyentu nghiem
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo (câu 168)
Nguyễn Du, Truyện Kiều

Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1965)
trong Kiều, NXB Thông Tin 1989


Có thể nói rằng văn chương là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ khái niệm, thường chỉ có một nghĩa trừu tượng, đủ để cho người ta phân biệt được khái niệm cái bàn với khái niệm cái ghế, nhưng không mô tả được hình dạng thật của cái bàn đó, hay cái ghế đó, trong khi nghệ thuật tạo hình là ngôn ngữ của hình ảnh cụ thể, mà con mắt người nhìn thấy được, kiểm tra được.
Cái đẹp của hình tượng đuợc diễn đạt trong ngôn ngữ văn chương chỉ có thể là một cái đẹp trừu tượng, dù có được mô tả một cách chi tiết, thì cũng chỉ là thông qua phép ẩn dụ, thông qua những mẫu mực đã có sẵn được coi là chuẩn, đôi khi cũ mòn, hoặc sáo rỗng.

Xem như vậy, cái nhu cầu đề thơ lên tranh, hoặc ngược lại, sử dụng nét vẽ để minh hoạ, bổ sung cho hình tượng ảo trong thơ, văn, đều có cái lô gích của nó : những gì mà người ta không diễn đạt được bằng ngôn ngữ khái niệm, thì người ta phải diễn đạt bằng hình ảnh cụ thể, và ngược lại.
Trong thơ, văn, người ta chỉ có thể diễn đạt bằng  những hình ảnh ảo, hoặc ẩn dụ. Mặc dầu vậy, những hình ảnh này có khả năng quyến rũ rất lớn, vì đó là những hình ảnh mở, cho phép người đọc tưởng tượng thoải mái, tuỳ theo cái gu thẩm mỹ, tuỳ theo kinh nghiệm sống và trình độ văn hoá của mình.

Văn Ngọc

HOÀNG SA & TRƯỜNG SA



HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI 

QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA  NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

Hãn Nguyên Nguyễn Nhã

http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/dien-trinh-lich-su-cuoc-tranh-chap-chu-quyen-o-bien-111ong

TÓM TẮT

Hoàn cảnh lịch sử bắt đầu từ năm 1909, chính quyền tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa cho rằng Hoàng Sa của Việt Nam là đất vô chủ, nên đã có hành động khảo sát, chiếm hữu theo cung cách của Phương Tây, đã không gặp bất cứ phản ứng nào của Việt Nam vì Việt Nam bị mất hết chủ quyền ngoại giao vào tay người Pháp, trong khi Pháp vốn biết trước ý đồ của chính quyền Quảng Đông, song vẫn không can thiệp ngay vì sợ chủ nghĩa dân tộc “sô-vanh” bùng dậy ở Trung Hoa, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Pháp ở Trung Hoa. Tuỳ theo từng thời kỳ lịch sử từ giai đoạn 1 (1909-1930), giai đọan 2 (1930-1945), giai đoạn 3 (1945-1954), giai đoạn 4 (1954-1975), giai đoạn hiện nay (1975 đến nay), có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, dẫn đến những nguyên nhân tranh chấp khác nhau, tính chất tranh chấp khác nhau, liên tiếp không ngừng cho đến tận ngày nay.
Khi Thực dân Pháp rút quân khỏi Việt Nam vào tháng 4/1956 để lại khoảng trống lực lượng bố phòng trong khi đang diễn ra chiến tranh lạnh, thế giới chia hai phe : phe Tư bản chủ nghĩa và phe Xã hội chủ nghĩa, Việt Nam, lại bị chia cắt có hai chính quyền mà theo Hiệp Định Genève mà Trung Quốc đã ký, phía nam vĩ tuyến 17 trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Chính quyền phía Nam quản lý, đã không thể̉ bảo vệ hiệu quả chủ quyền vốn có của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, khiến các nước Trung Quốc, Đài Loan, Philippines trong bối cảnh chiến tranh lạnh ấy đã vội vã chiếm cứ một số đảo tại Hoàng Sa & Trường Sa. Khi Mỹ ký Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc năm 1972 và ký Hiệp Định Paris năm 1973, rút quân ra khỏi Việt Nam, không can thiệp để Trung Quốc chiếm toàn thể Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Nguyên nhân tranh chấp trong thời kỳ này đã thay đổi về chất, sự đối đầu trong chiến tranh lạnh, và nhất là trong chiến tranh nóng hai chính quyền Nam Bắc có những đồng minh, đồng chí anh em ủng hộ lẫn nhau trong tranh chấp mang tính quốc tế này.
Sau năm 1975, Việt Nam đã thống nhất, thế lực chính trị quốc tế có nhiều biến động ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có việc tranh chấp về Hoàng Sa và Trường Sa vẫn tiếp tục, không những vì vị trí chiến lược vốn có tầm quan trọng lớn lao cũng như tài nguyên nhất là trữ lượng dầu khí tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa...
Sự thực lịch sử ra sao và giải pháp ?
Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời : từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long) qua đội dân binh Hoàng Sa và đội Bắc Hải được đội Hoàng Sa kiêm quản, Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, chủ yếu là tài liệu công trong đó có đặc biệt cả châu bản, hội điển chép những hành động của nhà nước chiếm hữu, thực thi chủ quyền như vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia, xây miếu thờ (Hoàng sa tự), trồng cây, đào giếng… của thuỷ quân triều Nguyễn chứ không còn ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930, mà người Pháp lúc ấy cũng đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Trong khi ấy tư liệu phương Tây như Jean Baptiste Chaigneau, Gutzlaff (năm 1849) nhất là giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816 và An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh - Annam, ghi rõ « Paracels seu Cát Vàng » với toạ độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Trung Quốc cho là ven bờ biển.
Ngay tư liệu của Trung Quốc như Hải Ngoại Kỷ Sự của Thích Đại Sán năm 1696, quyển 3, đã ghi chép Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ cá tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa …
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Nguyên nhân tranh chấp đã không còn nữa. Việt Nam đã độc lập, thống nhất, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc, Mỹ, Nga…Vì thế không một chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác nhau chính kiến lại không coi trọng việc đòi lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. “ Cái gì của César phải trả lại cho César ”. Đối với các nước ASEAN trên cơ sở Công ước 1982 về luật biển sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối càng ngày càng chặt chẽ, đôi bên đều có lợi. Đối với Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quý giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống làm “ phên dậu của Trung Quốc ”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 hoặc thực dân Pháp suốt thập niên 20 đến thập niên 50 thế kỷ XX dựa vào ưu thế quân sự của mình cũng như Trung Quốc dùng võ lực năm 1974,1988 chỉ mang tính nhất thời.

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC CHÍNH QUYỀN TỈNH QUẢNG ĐÔNG (TRUNG HOA) KHẢO SÁT TRÁI PHÉP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀO NĂM 1909 VÀ TIẾP TỤC LÚN SÂU VÀO VIỆC XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM Ở HOÀNG SA CHO ĐẾN NĂM 1930 KHI CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN PHÁP THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM

Việt Nam bị Pháp xâm lược năm 1858, mất hết chủ quyền tự chủ ngoại giao theo Hiệp ước cuối cùng ký với Pháp năm 1884, không bảo vệ được chủ quyền của mình tại Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm.
Chính trong thời Pháp thuộc đă xảy ra sự kiện chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa) do Tổng Đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đă cử một hạm đội nhỏ của nhà Thanh đã đi khảo sát trái phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng.
Tên Tây Sa mà chính quyền Quảng Đông mới đặt ra sau sự kiện tháng 10 năm 1907, chính quyền nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2 tháng 7 năm 1907). Cũng bắt đầu từ khi này, chính quyền Quảng Đông đã đặt tên Pratas là Đông Sa vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, đã được ghi rất rõ trên bản đồ “Duyên Hải Toàn Đồ” trong sách Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1730).
Diễn Đàn cảm ơn tác giả Nguyễn Nhã đã cung cấp bài nghiên cứu của ông. Nội dung bài này đã được trình bày tại Hội thảo Biển Đông do Học viện Ngoại giao tổ chức ngày 17.2.2009 vừa qua tại Hà Nội.
Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này. Chính bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp ngày 4 tháng 5-1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam khi viết : “ Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 1 tháng 5 năm 1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến chính phủ Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều và tới một mức độ nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels ” [Monique Chemillier-Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys, Paris, L’Harmattan,1996, p.206]. Cũng cần lưu ý bức thư trên đã viết khi chính quyền Quảng Châu c̣òn đang chuẩn bị thực hiện chuyến khảo sát. Cuộc khảo sát diễn ra sau đó, có mặt cả người Đức, đã  rời Hồng Kông vào ngày 21-5-1909 và về Quảng Châu vào ngày 9-6-1909.
Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi cho Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây :
Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam.
Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là của Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò). [Monique Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan,1996, p.207].
Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con bị bắt đến Hải Nam [Monique Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996,p. 210].
Như thế chính phủ Pháp ngay tại chính quốc đã rõ ý đồ của chính quyền Trung Hoa dù chỉ là chính quyền địa phương xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại Paracels hay Hoàng Sa của Việt Nam. Sở dĩ Chính quyền Pháp không ngăn chặn hành động khảo sát trên vì nhiều lý do :
Một là khi ấy, Pháp chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ sở hữu quần đảo của nước “An Nam” mà Pháp bảo hộ theo Hiệp ước Patenôtre 1884. Vấn đề ngăn chặn ý đồ của Trung Hoa ngay từ năm 1909 mà Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo cáo, bị chính quyền Pháp ở mẫu quốc bỏ qua.
Điều này cũng dễ hiểu, nếu như các đảo ấy vốn thuộc sở hữu của nước Pháp hoặc thuộc đất Nam Kỳ, nhượng địa hay thuộc địa chứ không phải đất bảo hộ, thì chắc chắn chính phủ Pháp sẽ có hành động ngăn chặn ngay và sẽ không thể xảy ra tranh chấp lâu dài về sau. Nếu không chính phủ Pháp sẽ bị kết tội hay sẽ bị lên án do chính người Pháp hoặc giới chính trị hoặc những công dân yêu nước của Pháp.
Hai là chính quyền thực dân Pháp ngại sự ngăn chặn có thể làm phát sinh trong ḷòng dân chúng Trung Hoa một phong trào “sô vanh” có hại cho quyền lợi Pháp ở Trung Quốc.
Điều này cũng đã được Ông Beauvais nêu ra trong chính văn thư báo cáo ngày 4-5-1909 gửi Ông Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp và đã được chính phủ Pháp cân nhắc làm theo :
Như vậy, thưa Ông Bộ Trưởng, nếu ta còn lợi ích trong việc ngăn không cho Chính phủ Trung Hoa nắm lấy nhóm các đá ngầm này, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng nghiên cứu, tìm ra các lập luận chứng minh rõ ràng quyền của chúng ta và những bằng chứng không thể bác bỏ về quyền đó. Nhưng nếu việc đó không đáng làm, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, có lẽ nên nhắm mắt làm ngơ. Một cuộc can thiệp của chúng ta sẽ có khả năng làm xuất hiện một phong trào sô vanh mới làm cho chúng ta bị thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà việc sở hữu được thừa nhận đối với quần đảo Hoàng Sa đem lại ” (Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.211-212).
Trong văn thư đề ngày 14 Janvier 1921 của Ông Chủ Tịch Hội Đồng Pháp Quốc (tức Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Pháp gửi Bộ Trưởng Bộ Hải Quân Pháp cũng đã khẳng định Bộ ngoại Giao Pháp đã nghe theo ý kiến của Beauvais (Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 205).
Ba là các quan chức thực dân Pháp từ Phủ Toàn quyền đến Bộ Thuộc Địa hay Bộ Ngoại giao Pháp không biết rõ hoặc rất mơ hồ về sở hữu từ lâu thuộc về Việt Nam.
Có rất nhiều bằng chứng như chính Ông Beauvais trong bản báo cáo trên cũng không chắc chắn mà chỉ nói : “ có lẽ sẽ dễ dàng nghiên cứu…”. …
Cho đến ngày 6 tháng 5 năm 1921, có nghĩa sau hơn 1 tháng ngày 30-3-1921, lệnh mang số 831 của Ban Đốc Chính chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa sau phiên họp ngày 11-3-1921 đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Yai Hien (Châu Nhai, đảo Hải Nam), Vụ Các Vấn đề chính trị và Bản Xứ thuộc Phủ Toàn Quyền Đông Dương đã có văn bản ghi chú (Note) ghi rất nhiều điều liên quan đến quần đảo Hoàng Sa lấy từ Hồ sơ hiện có ở Phủ Toàn Quyền Đông Dương, cho biết đã tìm trong kho tư liệu của hải quân Sàig̣òn, lưu trữ của Thống đốc Nam kỳ, của Phủ Toàn quyền không thấy có tư liệu nào có tính chất làm rõ quốc tịch của các đảo Hoàng Sa. Chính lúc Toàn Quyền Đông Dương ra chỉ thị điều tra về vấn đề quốc tịch của Hoàng Sa cũng là lúc nhận được bức thư của Tổng lãnh sự Beauvais ở Quảng Châu báo tin có sự kiện chính quyền quân sự Nam Trung Hoa quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Đông.
Rõ ràng sự kiện Chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa ra tuyên bố sáp nhập Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông ngày 30 tháng 1 năm 1921 cũng đã xảy ra vào thời Pháp thuộc, khi Việt Nam đã hoàn toàn mất chủ quyền.
Khi c̣òn mơ hồ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Ḥoàng Sa, trong khi ấy thực chất quyền lực nhà nước là do chính quyền thực dân Pháp nắm, nên chính quyền thực dân Pháp không tích cực ngăn chặn sự vi phạm chủ quyền của chính quyền Quảng Đông tại quần đảo Hoàng Sa là chuyện đương nhiên. Chắc chắn khi Việt Nam có c̣òn chủ quyền, được độc lập tự chủ hay Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Pháp thì chính quyền nào cũng phải lấy nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước mình. Vì thế chung quy không có sự ngăn chặn kịp thời sự xâm phạm chủ quyền của chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa vào năm 1921 cũng như của chính quyền Quảng Đông năm 1909 chính là do Việt Nam bị Pháp đô hộ, không c̣òn chủ quyền để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Vậy về phía Việt Nam nguyên nhân sâu xa hay khách quan dẫn đến sự tranh chấp không đáng có chính là Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất hết chủ quyền để có thể bảo vệ lãnh thổ của mình khi bị xâm phạm.
Về phía Trung Hoa, nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam để tránh xảy ra sự kiện bất cứ nước nào nhất là các cường quốc hồi bấy giờ phỗng tay trên, chiếm cứ những đảo ở Nam Hải mà Trung Hoa coi là vô chủ.
Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi riêng của Chính quyền thực dân Pháp đã khiến Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa cho là đất vô chủ và đi sấu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Ḥoàng Sa và sự thiếu hiểu biết do hạn chế của người đi đô hộ, không hiểu quan điểm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Song sau đó chính quyền thực dân Pháp lại bắt đầu quan tâm đến hành động trái phép của chính quyền Quảng Đông với quấn đảo Hoàng Sa. Vậy thì nguyên nhân nào khiến chính quyền thực dân Pháp bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa trong thời gian từ năm 1921 đến 1930, Pháp bắt đầu thay đổi quan điểm. Đó chính là tầm quan trọng của vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa đối với an toàn quyền lực của Chính quyền thực dân Pháp về sự hiểu biết lập trường của Việt Nam (theo Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề giải thích).
Trước hết chính vì vị trí chiến lược quan trọng của quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa cũng như Biển Đông đối với lãnh thổ Pháp đang cai trị, nên thực dân Pháp ở Đông Dương phải cân nhắc lợi hại, đã quyết định đối mặt với những ý đồ tranh chấp chủ quyền của các nước khác trong đó có Trung Quốc.
Lúc ban đầu, trong bản báo cáo ngày 04 tháng 5 năm 1909, Tổng lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu đã đề cập tới tầm quan trọng vị trí của quần đảo Hoàng Sa, song lại chưa sát sườn với lợi ích của chính quyền thực dân, dù có hệ trong đến hàng hải hay sự đe dọa đối với ngư dân Việt nam như sau :
Về vấn đề này, nhân viên của chúng tôi nhận xét rằng các đảo Hoàng Sa đối với chúng ta có một tầm quan trọng nhất định : vì nằm giữa tuyến đường đi từ Sàig̣òn đến Hồng Kông, các đảo đó là một mối nguy hiểm lớn đối với hàng hải và việc chiếu sáng ở đó có thể là cần thiết. Ngoài ra, các đảo đó thường có ngư dân An Nam và Trung Quốc qua lại : họ đến đó trong quá trình đánh cá để sơ chế sản phẩm. đã xảy ra những cuộc đổ máu giữa ngư dân hai nước trong dịp đó (Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.197).
Trong văn thư của Khâm Sứ Trung Kỳ Le Fol gửi Toàn Quyền Đông Dương vào ngày 22 tháng 1 năm 1929 đã nhấn mạnh về vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa :
Trong tình hình hiện nay, không ai có quyền phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất lớn của các đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng chúng sẽ là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phòng thủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang [Đông Dương].
Thực vậy, các đảo nói trên là sự kéo dài tự nhiên của Hải Nam. Một đối phương có thể thấy ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vụng và nhiều nơi tầu đậu tuyệt vời, và do tính chất của chúng thực tế là không thể đánh bật. Một đội tầu ngầm dựa vào căn cứ đó sẽ có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất của Trung Kỳ, mà còn cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển. Lúc đó để liên lạc giữa giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất dễ bị đánh vì chạy dọc theo bờ biển, pháo hải quân đặt trên các chiến hạm có thể mặc sức phá hủy.”
Đồng thời, mọi con đường thông thương giữa Đông Dương - Viễn Đông - Thái Bình Dương sẽ bị cắt đứt : hải lộ Sàig̣òn - Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels, do đó nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của căn cứu trên các đảo ” ( onique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.174).
Mặc dù có những báo cáo rất rõ về tầm quan trọng của Hoàng Sa đối với việc bảo vệ lãnh thổ thuộc địa Đông Dương của Pháp, song phải có sức ép của dư luận báo của người Pháp ở Đông Dương mới làm cho chính quyền thực dân Pháp có những hành động cụ thể để bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa của nước được Pháp bảo hộ.
Đầu tiên với loạt bài trong các số 606, 622, 623, 627 (tháng 1, 5, 6 năm 1929), nhà báo Henri Cucherousset đã  lược qua về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa với những dẫn chứng hết sức cụ thể như : 1/ Jean Baptiste Chaigneau viết năm 1820 dưới nhan đề : Notice sur la Cochinchine cho biết năm 1816 vua Gia Long thực sự chiếm đảo Hoàng Sa. 2/ Giám mục Jean Louis Taberd viết trong Journal of the Asiatic Society of Bengal, tậpVI, măm 1837, tr.737 và những trang kế tiếp, tập VII, năm 1838, tr.317 và những trang kế tiếp đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong mục Géographie de la Cochinchine. 3/ Dubois de Jaucigny viết trong L’Univers – Histoire et Description de tous les peuples de leurs religions. Moeurs, coutumes ; Japon, Indochine, Ceylan xuất bản năm 1850 tại Paris, F. Didot xuất bản, có đoạn viết : “ …từ 34 năm về trước quần đảo Hoàng Sa (mà người Annam gọi là Cát Vàng đã được chiếm cứ bởi các người xứ Nam Kỳ ”. Cucherousset còn viết những chi tiết về quần đảo Hoàng Sa trong Nam Việt Địa Dư [Hoàng Việt Địa Dư ?], Minh Mạng năm thứ 14 ; Đại Nam Nhất Thống Chí, in thời Duy Tân, tập 6, tờ 18b, 19a cùng việc tàu De Lanessan thám sát Hoàng Sa năm 1925.
Theo tác giả, quần đảo Hoàng Sa quan trọng do 5 đặc tính sau đây : 1/ Trạm cho thuỷ phi cơ Sàig̣òn - Hồng Kông ; Tourane- Philippines. 2/ Điểm tựa chiến lược cho tầu ngầm khi có chiến trảnh. 3/ Trạm thông báo khí tượng. 4/ Nơi tránh gió băo cho tàu đánh cá. 5/ Giàu phốt phát. Lý do tác giả viết loạt bài vì nhân một đại uý người Anh muốn nhân danh Anh Hoàng đặt chủ quyền Anh lên đảo Sein đồng thời tác giả cực lực phản đối việc hải quân trung tá Rémy ở Sàig̣òn trả lời cho 1 công ty hàng hải Nhật rằng không biết quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ai và việc ông Monguillot đã viết cho ông Gravereaud nói rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa.
Theo tác giả, chánh quyền bảo hộ Pháp phải chấp hữu chủ quyền trên quần đảo Ḥoàng Sa bằng các hành động : 1/ Vẽ bản đồ tổng quát Hoàng Sa tỉ lệ 1/200.000, vẽ bản đồ chi tiết 1/25.000, vẽ bản đồ hải quân và bản đồ địa chất. 2/ Đặt đài hải đăng. 3/ Đặt trạm quan sát và thông báo khí tượng. 4/ Lập đội trú phòng trú đóng tại Hoàng Sa.
Tác giả còn luôn luôn trách cứ chánh quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa.
Sau đó chính bức thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930 đã chấm dứt thái độ do dự của chính quyền Pháp đối với hành động xâm phạm trái phép của chính quyền Trung Hoa đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.
Trong bức thư trên, Toàn quyền Pasquier đã gửi tập tư liệu về quần đảo Hoàng Sa bao gồm :
  1. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển 6 hay biên niên sử của chính phủ An Nam.
  2. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Nam Việt Địa Dư, tập 2 hay Địa dư thời Minh Mạng [Chú thêm của tác giả : tức Hoàng Việt Địa Dư Chí].
  3. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống Chí hay địa dư thời Duy Tân.
Cùng kèm theo bốn thư phụ lục và bốn bản đồ, Toàn Quyền Pasquier viết : “ Chắc hẳn Ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng ta đã đủ để xác định không thể tranh cãi rằng An Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo và làm như vậy trước năm 1909 nhiều.” (Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.233).

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA VÀ PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA HOÀNG SA & TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945, THỜI GIAN PHÁP CÒN ĐÔ HỘ VIỆT NAM

Từ 1931 đến 1933, Cucherousset lại tiếp tục viết 7 bài viết cũng trên báo L’Éveil Économique de L’Indochine trong các số 685 (10-5-1931), 688 (31-5-1931), 743 (26-6-1932), 744 (03-7-1932), 746 (17-7-1932), 777 (26-02-1933) và 790 (28-5-1933). Trong loạt bài báo kể trên, không thấy nhắc đến lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam nữa mà chỉ tập trung vào thái độ của Toàn quyền Pasquier về việc xử lý việc bảo vệ chủ quyền ấy. Tác giả chỉ trích một lá thư của Toàn quyền Pasquier khi Ông này viết : “ Chủ quyền của xứ Annam trên quần đảo Hoàng Sa là điều không thể chối cãi được nhưng lúc này chưa phải cơ hội để xác nhận chủ quyền ấy ”. Tác giả gay gắt chất vấn Ông Toàn Quyền : “ Tại sao nay không phải là cơ hội ? Trở lực nào đã ngăn cản xứ “Annam” nhìn nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa mà họ đã chấp hữu từ trăm năm trước ? Có phải chăng đợi đến lúc người Nhật khai thác đến tấn phốt phát cuối cùng ? Có phải người Nhật đã trả thù lao một phần cho ai chăng ? 
Vì những bài báo lập luận vững chắc và chỉ trích nặng lời toàn quyền Pasquier, Ṭòa Soạn báo E.E.I. bị ông Dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm buộc nhà báo phải nộp hồ sơ liên quan đến vụ Hoàng Sa. Trong số báo 743, Cucherousset cực lực phản đối và nhất quyết không giao nộp, nếu muốn nghiên cứu thì chỉ cho đọc tại chỗ. Trong số báo 746, Cucherousset viết nếu không có loạt bài của E.E.I. thì có lẽ chính quyền Pháp làm ngơ vụ Trung Hoa chiếm hữu Hoàng Sa.
Trong số báo 777, Cucherousset đã trình bày tại sao ông phản đối Toàn quyền Pasquier nhún nhường trước hành động của Tổng Đốc Quảng Đông : 1/ Chính quyền tỉnh Quảng Đông không hề bao giờ được nước Pháp thừa nhận là một chính quyền tự trị. 2/ Chính phủ Trung Hoa ở Bắc Kinh lúc trước, ở Nam Kinh bây giờ, không hề bao giờ lên tiếng tranh giành quần đảo này và không thừa nhận chủ quyền Quảng Đông. 3/ Ngược lại từ hơn 100 năm nay rồi, nước Nam đã chấp hữu chủ quyền trên Hoàng Sa và sự việc này có ghi rõ trong văn khố của triều đình Huế. Hơn nữa chính quyền Quảng Châu không thể dựa vào lý do ngư phủ Trung Hoa thường xuyên ghé đảo để bắt rùa, phơi lưới để bảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa bởi ngư phủ Pháp cũng thường làm như vậy tại bờ biển Terre Neuve nhưng Terre Neuve vẫn thuộc nước Anh. Trong khi ấy trong 1 phiên họp của Hội Đồng Tư Vấn Đông Dương, để trả lời vị đại diện của xứ Annnam là ông Piguax, Toàn Quyền Pasquier cho biết vụ Hoàng Sa đã có tiếng vang tại Pháp và vị Tổng trưởng Bộ Thuộc Địa đã quyết định đưa nội vụ ra Ṭòa án quốc tế La Haye.
Ngoài tờ báo E.E.I., còn nhiều báo của người Pháp ở Đông Dương và cả ở Pháp cũng đăng những bài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa như Revue Indochinoise Illustrée, số 38, 1929 (Sàig̣òn), tr.605-616, P.A. La Picque đã dẫn nhiều tài liệu về chủ quyền của Viêt Nam ; việc chính quyền Quảng Đông trả lời không chịu trách nhiệm về việc dân Hải Nam cướp trên các tầu bị đắm Le Bellona năm 1895 và Imezi Maru 1896 vì Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc ; dịch lại bài báo đăng trên Quảng Châu Báo ngày 10-7-1909 kể chuyện chuyến đi khảo sát Hoàng Sa của hải quân tỉnh Quảng Đông. Mémoire No 3 du Service Océanographique de L’Indochine (Saigon), 1930, 24 tr. do J. de Lacour & Jabouillé kể chuyến đi khảo sát Hoàng Sa 21-7-1926 theo lời mời của M.A.Krempf. Avenir du Tonkin, số 10495 (17-04-1931), tr2 khẳng định năm 1816, vua Gia Long long trọng cho dựng cờ trên đảo vì thế cho nên dù năm 1909, Trung Hoa có muốn giành chủ quyền, chánh phủ Pháp phải lên tiếng xác nhận quyền bảo vệ các đảo ấy. Trong hoàn cảnh hiện nay, không ai có thể phủ nhận sự quan trọng có tính cách chiến lược của Hoàng Sa.
Nature (Paris), số 2916,01-11-1933, tr.385-387 do Sauvaire-Jourdan viết trên tờ Công báo ngày 19-7-1933 đăng một thông tư về việc hải quân Pháp chiếm cứ một vài đảo ở Phía nam Biển Đông, điểm qua lịch sử chiếm hữu, vua Gia Long cho hải đội đổ bộ và dựng cờ trên đảo năm 1816 rồi đến sự kiện năm 1909 được bài báo ở Quảng Châu ngày 20-6-1909 mà tác giả cho là khôi hài cùng những đề nghị không nên bỏ rơi quyền sở hữu các đảo ấy. La Géographie, bộ LX (tháng 11-12-1933), tr.232-243, A. Olivier Saix đưa ra những luận cứ theo đó chánh quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam phải bảo vệ và duy trì chủ quyền cho Việt Nam vì : 1/ Hoàng Sa có vị trí rất cần thiết lập hải đăng. 2/ Là vị trí thiết lập đài quan sát khí tượng và trạm vô tuyến kịp thời bào thời tiết băo cho tàu bè. 3/ Hoàng Sa nhiều nguồn lợi kinh tế : phốt phát, cá, rùa.. 4/ lợi ích quân sự từ Hoàng Sa phong toả Vịnh Bắc Việt, cảng Đà Nẵng, hải lộ quốc tế. 5/ Lịch sử xác lập chủ quyền : Vua Gia Long đã cho hải đội Hoàng Sa đổ bộ lên đảo dựng cờ, lập cứ điểm, Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề ngày 3-3-1925 nói rằng : “ Các đảo đó bao giờ cũng là sở hữu của nước Annam, không có gì tranh căi trong vấn đề này ”.
Rõ ràng với sức ép dư luận trên, chính quyền thực dân Pháp đã phải hành động, trước hết khoảng 1930 đến 1933, Pháp đã thiết lập chủ quyền tượng trưng tại Trường Sa cũng như Hoàng Sa..
Với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ, đất bảo hộ của Pháp, nên không cần phải hành động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền, tiếp theo những hành động khảo sát Hoảng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải Dương Học Nha Trang là những hoạt động thể theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy. Ngày 15.6.1932, chính quyền Pháp ra nghị định số 156-SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chánh gọi là quận Hoàng Sa tại quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1937, kỹ sư trưởng công chánh Gauthier nghiên cứu khả năng xây dựng một hải đăng trên đảo Pattle (Hoàng Sa) ; năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựng môt hải đăng, môt trạm khí tượng (OMM đăng ký số 48860) đặt ở đảo Pattle (Hoàng Sa) và số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Pattle. Tháng 3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi như các triều trước. Tháng 6 năm 1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle với dòng chữ : “ République Francaise - Royaume d’Annam - Archipels des Paracels 1816- Ile de Pattle 1938 ”.
Còn với quần đảo Trường Sa phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ lại là đất thuộc địa của Pháp, nên Pháp có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn nước thứ ba cũng như đối phó với pháp lý quốc tế, Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại Giao Pháp đã viết trong Bản Ghi Chú cho Vụ Châu Á Đại dương rằng “ việc chiếm hữu quần đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng Đế Annam ”. Ngày 13 tháng 4 năm 1933, một hạm đội nhỏ do trung tá hải quân De Lattre chỉ huy từ Sàigòn đến đảo Trường Sa (Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyền Alerte, các tàu thuỷ văn Astrobale và De Lanessan. Sư chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ truyền của Phương Tây. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận 1 bản, được đóng kín trong 1 chai rồi được gắn trong 1 trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo cờ Tam tài và thổi kèn trên từng hòn đảo…
Ngày 26 tháng 7 năm 1933, Bộ Ngoại Giao Pháp đã có một thông tin đăng trên Công báo Pháp, ghi rõ 6 nhóm hải đảo và tiểu đảo từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc, trong đó gồm nhóm Spratley (8°39’ bắc - 111°55 đông) và các tiểu đảo nhỏ xung quanh được chiếm hữu sớm nhất từ ngày 13-4-1930 và đảo Thị Tứ được chiếm cuối cùng vào ngày 12-4-1933. Ngày 21 -12-1933, thống đốc Nam Kỳ M.J. Krautheimer ký nghị định số 4762 sát nhập các nhóm hải đảo thuộc quần đảo Pratleys (Trường Sa) vào tỉnh Bà Rịa.
Năm 1938 Pháp cũng thiết lập một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến tại đảo Itu - Aba (Ba Bình)...
Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “Annam” trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suôn sẻ, dù muộn màng, không gặp bất cứ ngăn cản nào, bởi chỉ duy có chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có ý đồ, có dự án khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa khi cho là đất vô chủ, song các dự án của chính quyền địa phương mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung ương Trung Quốc chưa mặn mà. Tuy vậy Nhật Bản lại giấu mặt về ý đồ chiếm giữ Hoàng Sa và Trường Sa, đã lên tiếng phản đối sự chiếm giữ của Pháp trong thông báo cho chính phủ Pháp vào ngày 24 -7-1933. Ngày 31 tháng 3 năm 1939, Bô Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Nhật đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm (Ile Boisée) của Hoàng Sa và đảo Itu-Aba (Ba Bình) của Trường Sa vào năm 1938, song mãi đến ngày 9-3-1945, Nhật mới bắt làm tù binh những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa cũng như đất liền của Việt Nam.
Luật pháp quốc tế thời đó sau Định ước Berlin năm 1885 được hiểu là :
- Việc thụ đắc lãnh thổ là hành động của quốc gia, chính quyền địa phương (tỉnh Quảng Đông) không đủ danh nghĩa đại diện cho quốc gia.
- Cũng theo Định ước này, hành động của phía Trung Quốc (năm 1909) không đủ mang lại danh nghĩa chủ quyền cho Trung Quốc vì chưa thoả mãn các tiêu chí về thụ đắc lãnh thổ thời đó. Do vậy, sự im lặng của chính quyền Phpá ở Đông Dương không có nghĩa là sự thừa nhận chủ quyền của phía Trung Quốc và không tạo ra estopel.
Nhật Bản đã bại trận và đã đầu hàng vô điều kiện Đồng Minh 16 tháng 8 năm 1945 và đã rút khỏi Hoàng Sa &Trường Sa.

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA, PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA & TRƯỜNG SA TỪ THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN THÁNG 4 NĂM 1956, KHI PHÁP XÂM CHIẾM TRỞ LẠI

Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách Mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập ở Quảng Trường Ba Đình, chấm dứt chế độ đô hộ của Pháp.
Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại đô hộ Việt Nam, Quân Tưởng Giới Thạch tiếp quản nơi quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16, cả hai nước Pháp và Trung Hoa đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa & Trường Sa của Việt Nam, vẫn tiếp tục coi trọng vị trí chiến lược Hoàng Sa & Trường Sa.
Việt Nam bận lo kháng chiến chống Pháp trong khi quân Pháp làm chủ Biển Đông.
Quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946, Pháp trở lại Việt Nam làm chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5 năm 1946, nhưng đơn vị này chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27 tháng 5 năm 1946, đô đốc D’Argenlieu, cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì ngày 26 tháng 10 năm 1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thuỷ đánh bộ) xuất phát từ cảng Ngô Tùng ngày 9 tháng 10. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc này Trung Quốc còn gọi là Đoàn Sa chưa phải mang tên Nam Sa (tác giả nhấn mạnh).
Trong phiên họp ngày 11 tháng 10 năm 1946, Uỷ Ban Liên Bộ về Đông Dương thuộc Chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Theo ý kiến của đại tướng Juin cho rằng “ lợi ích cao nhất ” của nước Pháp là phòng ngừa mọi ý đồ của một cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo đó là những đảo kiểm soát việc ra vào căn cứ tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh - Quảng Châu - Thượng Hải (Thư số 199/DN/S. col ngày 7 tháng 10 năm 1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Pháp tại Paris). Mãi đến năm 1935, Trung Quốc mới chú ý đến Trường Sa, gọi là Đoàn Sa sau thời điểm năm 1933.
Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa Dân Quớ́c và ngày 17 tháng 10 năm 1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính "Quốc gia Việt Nam" đến đóng một đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa). Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 tại Paris. Tại đây, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1 tháng 12 năm 1947, Bộ Nội Vụ chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa.
Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập từ năm 1945, không còn ràng buộc vào hiệp định Patenôtre (1884) với Pháp song Pháp vẫn cho rằng theo hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Pháp bổ sung quân sự bằng cách đóng quân và thực hiện quản lý trên hai quần đảo. Điều này chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đã được củng cố vững chắc từ thời Pháp thuộc.
Do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà kháng chiến chống Pháp và hải quân Pháp làm chủ Biển Đông, nên với hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp gây dựng được chính quyền thân Pháp còn gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với Chính quyền Cách Mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trên thực tế, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay mặt nhà nước Việt Nam.
Tháng 4 năm 1949, Đổng lý văn phòng của quốc trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sàigòn đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa được thành lập ở lục địa Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã rút lui ra Đài Loan. Tháng 4 năm 1950, đồn lính Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã rút lui. Còn đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn còn duy trì. Đến năm 1954, Pháp đã chính thức trao lại quyền quản lý cho Chính phủ Việt Nam.
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã chủ toạ việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.
Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951, ký kết hoà ước với Nhật. Ngày 5 tháng 9 năm 1951, họp khoáng đại, ngoại trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Như vậy, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ một Hội nghị quốc tế.
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam : « Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet Nam ».
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.
Kết thúc hội nghị là ký kết hoà ước với Nhật ngày 8 tháng 9 năm 1951. Trong hoà ước này có điều 2, đoạn 7 ghi rõ :
Nguyên văn là « Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly ». Song đến đây, tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu biến chuyển, chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và khối xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam trong đó có chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa lại tăng lên sự tranh chấp, càng ngày càng phức tạp khiến sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn với nhiều danh nghĩa khác nhau với nhiều thế lực quốc tế can thiệp.
Ngày 24 tháng 8 năm 1951, lần đầu tiên Tân Hoa Xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines, thân Mỹ và kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp Ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15 tháng 8 năm 1951, Bộ Trưởng Ngoại Giao nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu Ân Lai ra bản tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là « tính lâu đời » của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo, trong khi Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc không tham dự hội nghị này.
Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, sự giành giật thế lực ở một nơi trong đó có Biển Đông, phái đoàn Liên Xô đề xuất giao cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không được Hội Nghị chuẩn nhận, song cũng là cái cớ để Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sao, sau năm 1950, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phòng Việt Nam của Chính quyền Bảo Đại.
Hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.
Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.
Tháng 4 năm 1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam, Philippines nêu vấn đề chủ quyền.

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC, PHÁP, VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ CÁC NƯỚC KHÁC TRONG KHU VỰC TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA & TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1956 ĐẾN 1975.

Việc Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và ký hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954, khiến tháng 4-1956 quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam và để khoảng trống bố phòng ở Biển Đông khiến các nước trong khu vực trong đó có Cộng Ḥòa Nhân Dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Philippines cho là cơ hội tốt chiếm đóng trái phép Hoàng Sa cũng như Trường Sa của Việt Nam.
Khi ấy, quân đội Quốc Gia Việt Nam sau gọi là Việt Nam Cộng Hoà đã chiếm đóng các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa bao gồm đảo Hoàng Sa (Pattle). Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Ngoại Trưởng Chính Quyền Việt Nam Cộng Hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày hôm sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối với hai quần đảo trên từ năm 1933.
Ngày 22 tháng 8 năm 1956, lục hải quân Việt Nam Cộng Hoà đổ bộ lên các đảo chính của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Sau khi trấn giữ ở các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa, ngày 22 tháng 8 năm 1956, lực lượng hải quân của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương quốc kỳ.
Tháng 10 năm 1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Ngày 22 tháng 10 năm 1956, sắc lệnh số 143 – NV của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà thay đổi địa giới các tỉnh và tỉnh lỵ tại « Nam Việt » (Nam Bộ). Trong danh sách các đơn vị hành chánh « Nam Việt » (Nam Bộ) đính kèm theo sắc lệnh có những thay đổi tên mới, trong đó có tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nay được gọi là tỉnh Phước Tuy và đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy được gọi là Hoàng Sa cùng tên với quần đảo phía Bắc là Paracels.
Trong khi ấy, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng đã nhanh chóng chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée), đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa, song hành với việc Đài Loan chiếm giữ đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa. Một tình hình hết sức phức tạp, đen tối cho chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa & Trường Sa. Song từ sau Hiệp định Genève mà Trung Quốc đã ký, chính quyền phía Nam mới có trách nhiệm quản lý chủ quyền Ḥoàng Sa & Trường Sa vì hai quần đảo này nằm phía dưới vĩ tuyến 17. Vụ việc công hàm của Thủ tướng Phạm văn Đồng năm 1958 chỉ ủng hộ Tuyên bố 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc cũng như những biểu hiện khác thuộc chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà vào thời gian này cũng không có giá trị pháp lý quốc tế về sự từ bỏ chủ quyền mà Chính quyền Trung Quốc tố cáo là lật lọc là không đúng sự thực và thực chất về chủ quyền ở Hoàng Sa. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, đối đầu của hai khối chính trị mà Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đang là đồng minh chí cốt của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và cùng thù địch với Mỹ lại là đồng minh của Đài Loan và Việt Nam Cộng Hòa, nên tất cả những hành động đối đầu cũng chỉ là đối sách chính trị thù địch nhất thời.
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, sắc lệnh số 174 – NV của Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải trực thuộc quận Hoà Vang.
Trong sắc lệnh trên, ghi rằng :  « Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam » (điều 1). Đặt đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang. Xã Định Hải dưới quyền một phái viên hành chính (điều 2). Tháng 2 năm 1959, nhiều dân chài Trung Quốc định đến đóng trên phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa, nhưng không thành công, bị hải quân Việt Nam Cộng Hoà bắt và hoàn trả lại Trung Quốc.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hoà, ông Trần Văn Lắm có mặt ở Manila đã lên tiếng nhắc lời yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa làm cơ sở cho những yêu sách đó trên quần đảo Trường Sa.
Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956, thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa.
Trong bối cảnh sau Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 giữa Mỹ và Trung Quốc, tạo sự nứt rạn không thể hàn gắn giữa Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, trong khi Chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn gần kết thúc, cuộc diện chính trị thế giới biến đổi đã ảnh hưởng đến Việt Nam kể cả về sự bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa & Trường Sa. Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tuyên bố việc sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng Hoà là sự lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tuyên bố bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Ngày 15 tháng 1 năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bắt đầu triển khai một lực lượng hải quân mạnh mẽ trong đó có nhiều tàu được nguỵ trang thành tàu đánh cá và có phi cơ yểm trợ. Mặt khác, Bộ Tư Lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hoà đã điều động tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Hoàng Sa để tuần phòng và canh chừng.
Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hoà được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của Việt Nam Cộng Hoà có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hoà (Duncan) và một đảo khác.
Tiếp ngày 16 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã ra tuyên cáo bác bỏ luận cứ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và đưa ra những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hoà trên hai quần đảo này. Hai bên bắt đầu phối trí toàn bộ lực lượng, các chiến hạm hai bên cách nhau chừng 200m. Sau đó hai bên bỗng tách rời nhau để chuẩn bị, cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10 giờ 25 phút ngày 19 tháng 1 năm 1974. Một chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bị bốc cháy. Các chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh. Sau hơn 1 giờ giao tranh, 2 chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng Việt Nam Cộng Hoà ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích. Một người Mỹ tên Gerald Kosh, một nhân viên dân sự thuộc văn phòng tuỳ viên quốc phòng toà đại sứ Mỹ ở Sàigòn, được biệt phái làm liên lạc viên cạnh bộ chỉ huy hải quân Quân Khu I Việt Nam Cộng Hoà cũng bị bắt (theo Nhật báo Chính Luận, số 2982, ngày 31 tháng 1 năm 1974). Kosh được trao trả lúc 12 giờ trưa ngày 31 tháng 1 năm 1974. Ngày 17 tháng 2 năm 1974, chính quyền Bắc Kinh trả tự do cho 43 quân nhân và nhân viên của Việt Nam Cộng Hoà tại Tân Giới (Hồng Kông).
Lầu Năm Góc được chính quyền Sài Gòn yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ Trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gòn biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
Qua thông điệp ngoại giao được gởi đến tất cả các nước ký Hiệp Định Paris (1973), chính quyền Việt Nam Cộng Hoà nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, yêu cầu Hội Đồng Bảo An họp một phiên họp đặc biệt.
Ngày 1 tháng 2 năm 1974, chính quyền Sàigòn quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ ở Manila, chính quyền Sàigòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Ngày 1 tháng 2 năm 1974, đoàn đại biểu của Việt Nam Cộng Hoà ra tuyên bố tại hội nghị của Liên Hợp Quốc về luật Biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa. Ngày 30 tháng 3 năm 1974, đại biểu chính quyền VNCH khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội Đồng Kinh Tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14 tháng 2 năm 1975, Bộ Ngoại giao chính quyền VNCH công bố Sách Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
Tóm lại, Pháp xâm chiếm trở lại Việt Nam, dẫn đến cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Pháp vẫn làm chủ Biển Đông và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Hiệp định Genève năm 1954 qui định từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc chính quyền phía Nam quản lý. Khi Pháp rút quân tháng 4/1956, xảy ra chiến tranh lạnh giữa Liên Xô đứng đấu phe xã hội chủ nghĩa và Mỹ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa, Việt Nam bị chia cắt khiến hai chính quyền bị cuốn hút vào sự đối đầu, không có điều kiện bảo vệ toàn vẹn được chủ quyền để cho Trung Quốc chiếm từng phần rồi toàn thể Hoàng Sa và Việt Nam Cộng Hoà chỉ trấn giữ quần đảo Trường Sa song lại để cho Đài Loan chiêm đảo Ba Bình, lớn nhất của quần đảo Trường Sa cùng Philippines chiếm một số đảo, đá trong đó có Song Tử Đông ở Trường Sa.
Chính vì vậy, chúng ta có thể nói rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nước trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam cũng như Trung Quốc chiếm giữ trái phép hoàn toàn Hoàng Sa và Trường Sa trong thời kỳ này chính là những biến động chính trị ở Việt Nam cũng như trên thế giới, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, không còn bảo vệ đồng minh Việt Nam Cộng Hoà, để cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực.

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC, VIỆT NAM THỐNG NHẤT CÙNG CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY

- Từ 1975 đến 1990, Việt Nam hợp tác toàn diện với Liên Xô, Trung Quốc đã ký với Mỹ Thông cáo chung ở Thượng Hải năm 1972, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô không giảm ; Việt Nam và Trung Quốc xảy ra chiến tranh năm 1979 khiến tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa trở nên gay gắt.
Chính Quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vẫn chịu những dư âm tác động đối đầu của các thế lực quốc tế trước đây chưa chấm dứt được sự tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng Miền Nam đã đến. Bộ chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong mùa khô 1975 bao gồm các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc…
Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các tàu của đoàn vận tải quân sự 125, đoàn 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng lực lượng đặc công tỉnh Khánh Hoà. Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương nhanh chóng đánh đảo Song Tử Tây trước để làm bàn đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa và các đảo còn lại của quần đảo.
Ngày 9 tháng 9 năm 1975, đại biểu chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam tại hội nghị khí tượng thế giới tiếp tục đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 10 tháng 9 năm 1975, Bắc Kinh gửi công hàm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).
Ngày 24 tháng 9 năm 1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Tổng Bí Thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.
Ngày 12 tháng 5 năm 1977, chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.
Tháng 9 năm 1977, khi thăm Philippines và tháng 10 năm 1977 khi đi thăm Malaysia, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với tổng thống Ferdinand Marcos và thủ tướng Hussein On rằng hai bên sẽ giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng thương lượng hoà bình.
Tháng 3 năm1978, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện thông qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa.
Ngày 30 tháng 12 năm 1978, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong tuyên bố ngày 29 tháng 2 năm 1978 của người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại lập trường của Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương lượng hoà bình.
Ngày 30 tháng 7 năm 1979, Trung Quốc đã công bố tại Bắc Kinh tài liệu để chứng minh rằng Việt Nam đã “thừa nhận” chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam bác bỏ việc Philippines tuyên bố sát nhập hầu hết lãnh thổ Trường Sa vào lãnh thổ Philippines.
Ngày 30 tháng 1 năm 1980, Bộ ngoại giao Trung Quốc công bố văn kiện về Tây Sa và Nam Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố vạch trần thủ đoạn xuyên tạc của Trung Quốc trong văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980.
Ngày 29 tháng 4 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm lục địa Việt Nam tại vùng Trường Sa.
Ngày 8 tháng 5 năm 1980, nhân chuyến viếng thăm và hội đàm với Malaysia, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.
Tháng 6 năm 1980, tại Hội nghị Khí Tượng Khu Vực Châu Á II họp tại Genève, đại biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của Việt Nam) là bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam được giữ nguyên trạng trong danh sách các trạm như cũ.
Ngày 13 tháng 6 năm 1980, Việt Nam yêu cầu OMM đăng ký trạm khí tượng Trường Sa vào mạng lưới OMM.
Tháng 12 năm 1981, Tổng cục Bưu Điện Việt Nam điện cho Chủ Tịch Ủy Ban đăng ký tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Tháng 12 năm 1981, Bộ Ngoại Giao Việt Nam công bố sách trắng : “ Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam ”.
Tháng 6 năm 1982, Tân Hoa Xã loan tin là một hải cảng lớn được xây dựng tại Hoàng Sa.
Tháng 10, tại Hội Nghị Toàn Quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp nhận việc thay đổi phát sóng đã được phân chia năm 1978 tại Genève.
Ngày 12 tháng 11 năm 1982, chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Ngày 4 tháng 2 năm 1982, chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngày 9 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh Phú Khánh.
Tháng 1 năm 1983, Hội Nghị Hành Chính Thế Giới về thông tin vô tuyến đồng ý sẽ xem xét đề nghị của Việt Nam về việc phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa tại hội nghị sắp tới.
Cũng tháng 01 năm 1983, Hội Nghị Hàng Không Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương họp ở Singapore. Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào FIR Hà Nội và FIR TP Hồ Chí Minh, nhưng Hội Nghị quyết định duy trì nguyên trạng.
Từ ngày 4 đến 16 tháng 4 năm 1984, đoàn đại biểu Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng Bộ Thủy Sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.
Ngày 25 tháng 4 năm 1984, Uỷ Ban Địa Danh Trung Quốc công bố tên mới cho các đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 6 tháng 5 năm 1984, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối việc đặt tên của Trung Quốc.
Tại Hội Nghị Tổ Chức Thông Tin Vũ Trụ Quốc Tế (INTU SAT) lần thứ 13 họp tại Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản đối việc Trung Quốc sử dụng những bản đồ ghi Hoàng Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trung Quốc.
Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối Malaysia chiếm đóng đảo Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa. Việt Nam phản đối việc ngày 1 tháng 6 năm 1984 Quốc hội Trung Quốc tuyên bố việc thiết lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.
Vào đầu năm 1985, Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Sang năm 1986, ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc cùng Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.
Tháng 5 năm 1987, đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh hải quân Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Từ 16 tháng 5 đến 6 tháng 6 năm 1987, hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển Trường Sa.
Tháng 10 năm 1987, hải quân Trung Quốc diễn tập quân sự tại Tây Thái Bình Dương và Nam Biển Đông.
Ngày 10 tháng 11 năm 1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đá Louisa (Nandong Jiao) (113° – 6°8').
Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa, đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước. Quân lính Trung Quốc cắm cờ trên hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng : “ Trung Quốc buộc phải phản kích để tự vệ ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công (bằng hai tàu vận tải!), còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ tự vệ. Trung Quốc sử dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531 trang bị tên lửa và pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam.
Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở đầy binh lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ số 605 thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận tải của Việt Nam vời các tầu chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với kết quả phía Việt Nam có một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía Trung Quốc cho là « đánh gọn và đẹp mắt » (sic). Sau các va chạm trên, hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.
Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được trong năm 1988 : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Năm 1988, Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thông báo cho Liên Hợp Quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh và đặc biệt là các công hàm ngày 16, 17, 23 tháng 3 năm 1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp. Trung Quốc tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Ngày 14 tháng 4 năm 1988, Bộ ngoại giao Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phản đối việc Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam (nghị quyết ngày 13 tháng 4 năm 1988 thành lập tỉnh Hải Nam).
Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại Giao Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố Sách trắng Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế.
Ngày 14 tháng 8 năm 1989, chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Cụm Kinh Tế Khoa Học Dịch Vụ trên vùng bãi ngầm Tứ Chính, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc Nguyên thuộc thềm lục địa Việt Nam có toạ độ 7 - 8°3' B, 109 - 112°20' Đ.
Ngày 2 tháng 10 năm1989, người phát ngôn Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ luận điệu trong bản tuyên bố của Trung Quốc ngày 28 tháng 4 năm 1989. Người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc đã lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số đảo và cù lao tại bãi Vạn An và Bãi Vạn Nhã thuộc “quần đảo Nam Sa” .
Ngày 9 tháng 3 năm 1990, Trung Quốc kết thúc đợt khảo sát khoa học ở quần đảo Trường Sa bắt đầu từ ba năm trước.
Ngày 18 tháng 3 năm 1990, nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến đánh cá ở Trường Sa. Ngày 16 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi bản ghi nhớ cho đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc cho nhiều tàu quân sự, tàu khảo sát, tàu đánh cá đến hoạt động trong vùng biển Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
Ngày 28 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất trên quần đảo Trường Sa.
- Từ năm 1990 đến nay, khối Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam đổi mới, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc và Mỹ, sự tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam không còn gay gắt như trước, song số dự trữ dầu lửa lớn ở Biển Đông khiến Trung Quốc vẫn chưa chịu trả Hoàng Sa cho Việt Nam và các nước khu vực và Trung Quốc vẫn tiếp tục tranh chấp với Việt Nam ở Trường Sa.
Tháng 8 năm 1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác chung khu vực quần đảo Trường Sa.
Ngày 1 tháng 12 năm 1990 trong cuộc đi thăm Philippines, Thủ tướng Lý Bằng nói : “ Chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp đối với vấn đề Trường Sa với các bên hữu quan vào lúc thích hợp, nếu không phải là vào lúc này, tôi nghĩ chúng ta có thể gác lại vấn đề này và không để nó gây trở ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng hữu quan ”.
Ngày 1 tháng 2 năm 1991, Trung Quốc xây dựng nhiều hải đăng trên các bãi đá ngầm mới chiếm được trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 25 tháng 5 năm 1991, Trung Quốc công bố kết quả 8 năm khảo sát khoa học ở Trường Sa kể từ năm 1984.
Ngày 4 tháng 7 năm 1991 tại KuaLa Lumpur tổ chức một hội thảo không chính thức về giải quyết các tranh chấp trên vùng Biển Đông, Trung Quốc có cử đoàn cán bộ tham gia, người phát ngôn Bắc Kinh tuyên bố việc tham gia như thế không phải là Trung Quốc đã thay đổi lập trường và nói : “ Trung Quốc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hoà bình, Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước liên quan thảo luận con đường và phương pháp cùng khai thác ” .
Từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1991, do sáng kiến của Indonésia, một hội nghị quốc tế đã được tổ chức giữa các quốc gia trong khu vực về vấn đề quần đảo Trường Sa. Bản thông cáo cuối cùng khuyến khích đối thoại và đàm phán.
Ngày 10 tháng 11 năm 1991, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc ký tại Bắc Kinh thông báo chung về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Ngày 25 tháng 2 năm 1992, quốc hội Trung Quốc công bố luật lãnh hải và vùng tiếp giáp Trung Quốc, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý và lãnh thổ Trung Quốc giữa bốn quần đảo Đông, Tây, Nam, Trung Sa và đảo Điếu Ngư. Việt Nam đã lên tiếng công khai phản đối sự kiện này. Năm 1994, Việt Nam phản đối Trung Quốc đã xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc ký với công ty Crestones (Mỹ) cho phép thăm dò khai thác dầu mà Trung Quốc gọi là hợp đồng Vạn An Bắc 21. Ngày 18 tháng 4 năm 1994, ông R.C. Thompson, chủ tịch công ty Năng Lượng Crestones (Mỹ) ra thông báo với báo chí, nói rằng họ đang tiến hành khảo sát địa chấn và chuẩn bị thăm đảo để đánh giá tiềm năng dầu khí của khu vực, gọi là hợp đồng "Vạn An Bắc 21". Thông báo nói rằng : " Việc nghiên cứu khoa học và kế hoạch khai thác thương mại trong tương lai là những bước phát triển mới nhất của lịch sử nghiên cứu khoa học và thăm dò ở Biển Nam Trung Hoa và Khu vực vạn An Bắc của Trung Quốc, bắt đầu từ những báo cáo năm 200 trươc Công Nguyên vào thời Hán Vũ Đế ".
Trước năm 1957, đã có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lý và khoan thăm dò ở thềm lục địa Nam Việt Nam, trong đó có hai giếng đã phát hiện dầu thương mại. Vào cuối những năm 1970, có nhiều công ty như AGIP (Ý), DIMINEX (CHLB Đức), BOW VALLEY (Canada) đã thăm dò 5 lô dầu ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Sau đó đến 1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1975, Tổng Cục Dầu Khí Việt Nam được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí. Thềm lục địa Việt Nam rộng chừng 1,3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung bình mỗi lô khoảng 8000 km2. Trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50m, 35 lô từ 50 -100m, 10 lô từ 100 - 250m, 38 lô từ 200-2000m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000m. Trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triển vọng chứa dầu khí. Cho đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa Việt Nam, chủ yếu ở phía Nam, đã khảo sát trên 100.000 km tuyến địa vật lý, khoan hàng chục giếng tìm kiếm thăm dò và đã phát hiện được ba mỏ dầu khí (Bach Hổ, Rồng và Đại Hùng). Từ năm 1986, mỏ Bạch Hổ bắt đầu được khai thác. Sản lượng năm 1986 : 0,04 triệu tấn, 1988 : 0,68 triệu tấn, 1989 : 1,5 triệu tấn, 1990 : 2,7 triệu tấn, 1991 : 3,96 triệu tấn… (PTS Nguyễn Hiệp, Phó Tổng Giám Đốc Công Ty Dầu Khí Việt Nam, " Thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam ", Khoa học và Tổ Quốc, (số 93), 1992, tr5).
Việc thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trên khiến người ta thấy tiềm năng vùng Biển Đông có nhiều triển vọng về dầu khí. Các tài liệu của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa cho con số trữ lượng từ 23 đến 30 tỷ tấn dầu tại vùng Nam Biển Đông. Chính số lượng dự trữ dầu lớn như vậy đã khiến cho sự tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chưa dễ gì chấm dứt.

SỰ THỰC VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA, TRƯỜNG SA & GIẢI PHÁP BỀN VỮNG CHO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA & BIỂN ĐÔNG.

Như trên đã trình bày, Trung Hoa khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 cho rằng Tây Sa là vô chủ. Hồi năm 1898, Chính quyền Quảng Châu, Trung Hoa đã trả lời các khiếu nại của công sứ Anh ở Bắc Kinh về công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm các tàu Bellona của Đức (bị đắm năm 1895) và tàu Humeji-Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) đã bị những người Trung Hoa ở Hải Nam cướp phá rằng : “ Quần đảo Tây Sa là những ḥòn đảo bị bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách nhiệm về cảnh sát của chúng ” ( Monique Chemillier- Gendreau, sđd, p.158).
Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử sự chiếm hữu của Việt Nam, Trung Hoa hồi đó và Trung Quốc bây giờ lại luôn luôn nói rằng Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa) đã thuộc về Trung Quốc từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thì nói từ đời Minh, khi thì nói từ đời Tống. Sự thực thế nào ?
Sự thực là quần đảo Hoàng Sa không hề là vô chủ như luận điểm của chính quyền Trung Hoa hồi năm 1909 : Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời : từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930, mà đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ bản đồ, trong Hồng Đức Bản Đồ năm 1686 và Phủ Biên Tạp Lục năm 1776 của Lê Quý Đôn.
Trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toản Tập An Nam Lộ, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bãi Cát Vàng. Còn tư liệu trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
- Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam Thực Lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam Thực Lục Chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848) ; đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864) ; đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quý gía, châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mạng sai suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật, người gốc đảo Lý Sơn chỉ huy thuỷ quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng năm. Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu vua hàng năm cử người ra Hoàng Sa ngòai việc đo đạc thuỷ trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Châu bản, Tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ : “ Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc . Đại Nam Thực Lục Chinh Biên, đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : “ Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mỗt bài khắc những chữ :
Minh Mạng Thập Thất Niên Bính Thân thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hòang Sa tương đồ chí thử hữu chí đẳng tư(tờ 25b).
(Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
̀ sự kiện trên đã thành lệ hàng năm, nên Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự L (1851), quyển 207, tờ 25b-26a và quyển 221 đã chép lại việc dựng miếu, dựng bia đá, cắm cột mốc năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…

Về những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy :
- Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Kỷ Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.

Về những tư liệu Phương Tây cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa :
  • Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.
  • Le Mémoire sur la Cochinchine” của Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.
  • Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes” của giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
  • An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh- Annam, ghi rõ « Paracels seu Cát Vàng » với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Trung Quốc cho là ven bờ biển.(« Seu » tiếng la tinh có nghĩa « hay là », Cát Vàng : chữ nôm, Hoàng Sa : chữ Hán)..
  • The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels.
  • The Journal of the Geographycal Society of London” (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...
….
Về sau Trung Hoa đưa ra những bằng chứng ngụy tạo nói ngược lại luận điệu ban đầu, từng cho là đất vô chủ hồi 1909, cho rằng Tây Sa đã thuộc Trung Quốc từ lâu. Ngay tên Tây Sa và Nam Sa cũng mới đặt từ sau năm 1907 và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung Sa, khi chỉ Nam Sa ở vị trí hiện nay (Spratleys). Có chăng thời Minh hay thời Hán thì cả nước Nam đã bị Trung Hoa đô hộ, Thời Tống Đại Việt cũng bị xâm lược, song đã giành được độc lập rồi !
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Khi bị Trung Hoa xâm phạm, vào thời điểm ban đầu, với tư cách là người đến xâm chiếm thuộc địa, người Pháp chưa hiểu hết lịch sử chủ quyền lãnh thổ Việt Nam nên có lúc đã không lên tiếng bảo vệ kịp thời. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Chính quyền thực dân Pháp đã có đủ thông tin và thay đổi quan điểm, bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự thực là bất cứ chính quyền nào kể cả chính quyền thuộc địa chịu trách nhiệm về quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Và nguyên nhân chủ yếu khiến cho Trung Quốc tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhất là từ thời chiến tranh lạnh và sau nà̀y và tham vọng bành trướng mở rộng yêu sách lãnh thổ bằng vũ lực.
Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng như thế thì khi Việt Nam không còn bị Pháp đô hộ và tình hình thế giới và Việt Nam đã biến chuyển, khác trước thì giải pháp phải là “ cái gì của César phải trả lại cho César ”.
Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác chính kiến đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử cho biết dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, khi có thời cơ, sẽ đấu tranh thành công. Đối với các nước Asean trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối càng ngày càng chặt chẽ, đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 cũng như Trung Quốc dùng võ lực năm 1974 chỉ mang tính nhất thời, không có giá trị pháp lý. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mã thời Cổ đại hay đế quốc Mông Cổ thời Trung đại hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu, phải bỏ những lãnh thổ chiếm giữ bằng võ lực.
Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tại Hoàng Sa và Trường Sa, chưa có ai tranh chấp và phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và những Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc sau đó và Công ước quốc tế về luật biển năm 1982.
Mọi người kể cả người Trung Quốc phải thấy rõ sự thật lịch sử trên !
Việt Nam phải luôn luôn nhắc đi nhắc lại cho cả thế giới được biết rằng vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 là trái phép hoàn toàn, trái với Hiến Chương và các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc. Không thể để cho Trung Quốc coi vụ chiếm đóng Hoàng Sa như đã xong. Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thì dứt khoát không ký kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hại cho Việt Nam.
Việc cần làm ngay là làm rõ, quảng bá lịch sử nhà nước Việt Nam đã từ lâu chiếm hữu thật sự Hoàng Sa & Trường Sa và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết hùng cường.
Sự đấu tranh đòi lại Hoàng Sa cho Việt Nam cũng như sự bảo toàn quần đảo Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhứt định sẽ thành công cũng như Việt Nam đã từng bị Phong kiến Phương Bắc đô hộ hơn một ngàn năm, khi có thời cơ, sẽ giành được độc lập tự chủ./