Kiến trúc làng trong tâm thức người Việt
Cấu trúc làng truyền thống với những với những yếu tố điểm như con đê, cổng làng, đình làng, cây đa, bến nước, những nhà vườn - ao khép kín hài hòa, cân bằng với môi trường thiên nhiên, là những đặc trưng cần được bảo lưu và hoàn thiện trong tiến trình phát triển mới.
"Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu..."
Quê tôi là vùng đất bãi sông Hồng. Mẹ kể, tôi sinh vào một ngày đông muộn. Bà đỡ đã tắm cho tôi bằng thứ nước sông Hồng đã được đánh phèn để bớt đi cái mầu phù sa đỏ quạch. Thuở ấy, với tôi, khái niệm về quê hương cứ nhạt nhòa, xa vời vợi… bởi suốt tuổi thơ tôi lớn lên trong lòng Hà Nội.
Hình ảnh về làng quê với mái đình, con đê, bến sông… đến với tôi chỉ qua những chuyện kể của bà, những bài ca dao trên ghế nhà trường mà thầy giáo già dạy tôi thường ngâm nga, tựa như: Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Hay những câu thơ của cha tôi: Ngày Xuân trai gái trong thôn / Sang đò trẩy hội trống dồn năm canh / Đò sang lặng gió không trành / Mấy cô nghiêng bóng soi mình sửa ngôi. (Đò chiều – Xuân Thiêm ).
Vậy mà, như mảnh đất phù sa bồi đắp theo tháng năm, hình ảnh về quê hương, về cái nôi tôi sinh cứ dầy lên rõ nét, sâu đậm dần cùng với vốn sống, sự hiểu biết của một người đến độ trưởng thành…
Nghề kiến trúc đã cho tôi cơ hội đi nhiều, đến với nhiều vùng miền của đất nước. Để cho tôi được trở về, với niềm đau đáu, đam mê … mong tìm thấy ở làng quê nhỏ bé của mình nói riêng và của nông thôn nói chung một cái gì đấy, giản dị thôi, mà sao lại có sức hấp dẫn đến vậy.
Dẫu rằng, vùng quê nơi tôi đến hay trở về vẫn còn nghèo lắm, rất nghèo so với những đổi thay đến chóng mặt nơi phồn hoa đô thị trong nền kinh tế thị trường ngiệt ngã.
Cổng một làng quê Việt Nam
Dấu ấn của kiến trúc làng là gì?
Giáo sư kiến trúc Đặng Thai Hoàng, một người có những kiến giải sâu sắc về kiến trúc đô thị thường trăn trở nói với tôi, đô thị của chúng ta, kể cả các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh đều thiếu những "điểm nhấn" hay "Yếu tố điểm" (Landmarks).
Mà theo ông, "Landmarks" là hình ảnh gây ấn tượng cho con người với đô thị, nó tạo ra sự nhận biết về phương hướng, vị trí trong thành phố hoặc trong khu vực. Đó là một loại ký hiệu của cấu trúc đô thị như tháp Eiffel (Paris – Pháp), tháp truyền hình Tower ở Toronto (Canada), tòa tháp đôi Petronas ở Kuala Lumpur (Malaysia)… Tôi đồng ý với nhận xét của ông. Đấy là về đô thị. Còn kiến trúc nông thôn, mà tôi gọi là kiến trúc làng, thì cái cột mốc hay yếu tố điểm kia là cái gì?
Tôi đã dự nhiều cuộc hội thảo khoa học của các nhà quản lý, của giới quy hoạch, kiến trúc, được nghe nhiều lý luận cao siêu, chung chung có tiếng kêu gọi khi bàn về kiến trúc nông thôn của nhiều vị thức giả. Nhưng những nghiên cứu có tính thực tiễn thì vẫn hiếm hoi lắm!
Trên thế giới, không quốc gia nào lại không tồn tại hai môi trường cư trú: Đô thị và Nông thôn. Mà đã có nông thôn là có làng. Nhưng có lẽ, không ở đâu có cấu trúc làng như ở nước ta - Làng Việt. Một kiểu làng đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ, sản phẩm của nền văn minh lúa nước, canh tác lạc hậu với “con trâu đi trước, cái cày theo sau".
Đình làng Nông Lục (Bắc Sơn-Lạng Sơn).
Làng Việt truyền thống có cấu trúc không lớn. Làng nằm kề cánh đồng, ruộng lúa, sở hữu của cư dân trong làng. Làng nọ cách làng kia cũng bởi cánh đồng làng.
Từ hàng nghìn đời nay, mối quan hệ xã hội trong làng chủ yếu là thứ quan hệ “ Gia đình – họ hàng – làng nước". Có nhà nghiên cứu dân tộc học cho rằng, làng là sự mở rộng của huyết thống, nước thì xa hơn, nhưng cũng chung một cội nguồn.
Có phải vì thế chăng mà trong lịch sử Việt Nam, các vị vua thường xưng "Tổ" hoặc "Tông" như: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông… cũng bởi từ cội nguồn và huyết thống. Nói như vậy để thấy vị trí của làng quan trọng đến thế nào trong xã hội Việt Nam truyền thống.
Cấu trúc không gian của làng không phức tạp, nhưng cũng không đơn giản đến mức đơn điệu. Ở đồng bằng Bắc Bộ, hầu như làng nào cũng có lũy tre xanh bao bọc, dù làng nằm trong đê hay ngoài đê (ngoài bãi).
Lũy tre ken dầy bởi lớp lớp cây tre, măng tre… như bức tường thành che chở cho làng khi có cướp, có giặc ngoại xâm, là nơi cung cấp vật liệu cho làng làm nhà, làm công trình công cộng và bao vật dụng sinh hoạt hằng ngày.
Muốn vào làng phải đi qua cổng làng. Cổng làng xưa thường xây bằng gạch, nhiều làng ở vùng trung du và xứ Đoài - Hà Tây (nay đã sáp nhập với Hà Nội) thì xây bằng đá ong, liên kết bằng vôi, vữa trộn với mật mía và muối rất chắc chắn. Qua cổng làng là con đường làng lát gạch nghiêng hình mu rùa.
Đường làng quanh co...
Từ đây, ta sẽ bước vào thế giới làng với hệ thống đường ngang, ngõ tắt như xương cá, mà đường làng là xương sống. Nhưng dù đi đến đâu, thì nhà nào nhà nấy cứ mở cổng ra là gặp ngõ, qua ngõ là đường làng. Năm này qua năm khác, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, tất cả đều đi trên đường làng và đi qua cổng làng.
Ai đấy đã ví, cổng làng như một nhà ga, ở đó có đợi chờ, có chia ly, có nước mắt em nhạt nhòa trong chiều muộn tiễn người yêu lên đường đi xa, có dáng mẹ gầy xiêu xiêu suốt một đời tần tảo nuôi con, chờ chồng đằng đẵng suốt cuộc chiến tranh.
Giáo sư Hoàng ơi! Với tôi và có thể cả với ông, cái cổng làng bình dị ấy sao không thể là một “Cột mốc", một “Yếu tố điểm" quan trọng trong cấu trúc làng!
Trong làng, ngôi Đình có vị trí tâm linh đặc biệt. Đình làng không chỉ là nơi thờ Thành hoàng làng, mà còn là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng. Nhà văn Ngô Tất Tố đã từng cho rằng, nếu như làng là xã hội Việt Nam thu nhỏ thời phong kiến, thì Đình là hình ảnh của làng.
Nơi đây diễn ra những cuộc họp của bô lão trong làng, trong họ tộc, từ chuyện làm lễ lên lão cho nhà này, phạt vạ nhà kia có con gái không chồng mà chửa… cho đến những việc đại sự như đón sắc phong của vua ban, hội đình, tất tật đều được diễn ra ở sân Đình và theo lệ của làng.
Một góc Mông Phụ Đường Lâm
Đình làng với kiến trúc đặc sắc từ kỹ thuật dựng lắp đến nghệ thuật chạm khắc trên các hệ vì, bẩy, kẻ đã trở thành tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc truyền thống. Nhà trong làng hầu hết là nhà tranh vách đất, sau này đời sống khá hơn là tường gạch, mái ngói. Bố cục nhà trong làng gần như giống nhau, có nhà chính, nhà phụ. Nhà chính thường ba gian hai chái và có hiên rộng.
Hiên được che bởi một lớp dại đan bằng tre có thể tháo lắp dễ dàng, vừa kín đáo trong sinh hoạt, vừa tiện mở rộng không gian khi cần thiết, ngăn gió lạnh về mùa đông, che bớt cái nắng gắt chói chang của mùa hè. Nhà chính là nơi ở, nơi thờ cúng tổ tiên, ông bà, nơi tiếp khách.
Hai chái nhà thường được xây kín không mở cửa sổ, là nơi để đồ, hoặc dành làm chỗ ngủ cho đàn bà con gái. Nhà phụ là bếp, chuồng lợn, gà. Nhà chính, nhà phụ thường bố cục theo hình chữ L, ôm lấy cái sân rộng. Trước sân là một ao nhỏ được tạo nên bởi quá trình vật đất tôn nền làm nhà, chung quanh bờ ao thường trồng cây lưu niên.
Cấu trúc nhà trong làng giản dị, nhưng rất hài hòa với môi trường thiên nhiên trong lành, có ao cá, vườn cây… Chả thế mà nhiều vị quan khi về hưu, cởi bỏ mũ mão cân đai trở về làng vui thú điền viên là vậy.
Những mái nhà đỏ san sát trong làng cổ Việt Nam
Cấu trúc làng truyền thống có nguy cơ bị phá vỡ
Những năm gần đây, người ta hay nói đến cụm từ “Phát triển bền vững". Đây là một khái niệm xuất hiện vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, do ủy ban Môi trường và phát triển thế giới đề xướng.
Sau Đại hội IX của Đảng, vấn đề phát triển bền vững ở nước ta đã trở thành quan điểm thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế thời kỳ 2001 – 2010. Và cũng đã có cả một Nghị quyết về CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Chúng ta đang trong tiến trình đô thị hóa mạnh mẽ để theo kịp xu thế chung của thời đại và hội nhập quốc tế. Đó là quy luật tất yếu của sự phát triển. Theo số liệu điều tra gần đây, hàng năm đất nông thôn bị giảm gần ba vạn ha bởi tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và cả xói mòn, lở đất… Điều đó có nghĩa là đất canh tác ngày càng thu hẹp lại.
Khoảng cách giữa làng và đô thị không còn xa nữa, thậm chí có nơi phố và làng đã tiếp cận nhau, hòa vào nhau để trở thành Phố – Làng. Cấu trúc làng truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị phá vỡ. Đó là một thực tế!
Việc đi tìm một mô hình làng mới, cấu trúc mới phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ, nâng cao đời sống của nông dân là vấn đề bức thiết, phải được quan tâm. Hiện nay, nhiều nhà quản lý, quy hoạch và cả trên báo chí hay dùng khái niệm "Đô thị hóa nông thôn".
Theo tôi, cần xem lại khái niệm này. Đô thị hóa là quá trình biến một nơi nào đó thành đô thị. Nhưng không vì thế mà biến nông thôn truyền thống Việt Nam thành đô thị của thời hiện đại! Cấu trúc làng truyền thống với những với những yếu tố điểm như con đê, cổng làng, đình làng, cây đa, bến nước, những nhà vườn - ao khép kín hài hòa, cân bằng với môi trường thiên nhiên, là những đặc trưng cần được bảo lưu và hoàn thiện trong tiến trình phát triển mới.
Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông thôn là để nông thôn phát triển, để đời sống nông dân được cải thiện, đủ đầy theo xu thế đi lên của xã hội, chứ không làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của nông thôn.
Chúng ta cải thiện hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn như xây dựng hệ thống điện, nước sạch, làm đường, mương bêtông, sử dụng hầm chứa rác tạo khí bioga … là hướng đi đúng đắn mà Nghị quyết của Đảng đã từng chỉ rõ.
Chúng ta bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp được xây dựng từ hàng nghìn năm nay, nhưng kiên quyết xóa bỏ những hủ tục, lệ làng lạc hậụ để xây dựng hương ước mới, phong tục mới, cuộc sống mới trong một xã hội có kỷ cương, dân chủ, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Không gian kiến trúc làng truyền thống cần được tôn trọng.
Sẽ ra sao khi cấu trúc làng truyền thống biến mất, thay vào đó là những dãy nhà kiểu hàng phố cao ngất ngưởng 4 – 5 tầng, kiến trúc lai căng, kệch cỡm, với đủ loại biển hiệu xanh, đỏ lòe loẹt mà ta gọi là “Đô thị hóa"
Người viết bài này cứ mường tượng ra cái làng xưa yêu dấu của mình sẽ được các kiến trúc sư sắp xếp lại cho hợp lý hơn, tiện lợi hơn, để sau lũy tre làng là những ngôi nhà 1 – 2 tầng xây gạch không nung, mái lợp tôn cách nhiệt. Con đường làng được đổ bê tông, có hệ thống tiêu thoát nước…
Ngày ngày, từ cái cổng làng quen thuộc, những nông dân của thời đổi mới ra cánh đồng cao sản làm việc với các nông cụ tiên tiến. Để rồi khi chiều xuống, họ lại trở về sống bình yên trong ngôi nhà ấm cúng với đầy đủ tiện nghi, có nước sạch, xem ti vi hay nghe nhạc trong một khuôn viên có ao cá, vườn cây…
Rồi những đêm hội mùa xuân, trên chiếu chèo ở sân đình, các cô gái làng xinh đẹp sẽ lại hóa thân vào những Thị Mầu, Thị Kính qua làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm. Đó là cuộc sống của nông thôn Việt Nam trong tương lai gần mà chúng ta đang hướng tới và phấn đấu.
Tôi không hiểu sâu về triết học, nhưng tôi thấy thực có lý khi đọc được ở đâu đó một phát hiện lý thú: Nếu lấy Huế làm tâm, quay một vòng ta sẽ được vòng tròn thái cực âm dương. Cái bờ biển cong hình chữ S của Tổ quốc chính là đường tiếp cận giữa âm và dương ấy. Âm là biển Đông. Còn phía đất liền có dãy Trường Sơn bao bọc là dương. Đất – Cha, Biển – Mẹ là thế.
Cội nguồn của dân tộc, của văn hóa truyền thống cũng bắt đầu từ đó, nó bền vững, trường tồn qua cả nghìn năm thuộc Bắc, rồi sau này là gần trăm năm bị kẻ thù phương Tây đô hộ. Và, kiến trúc làng Việt là một phần của mạch nguồn văn hóa dân tộc chảy mãi khôn cùng…
Nguồn: kientrucvietnam.org.vn
---------------
Đến cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 với sự nóng dần lên của trái đất, vô số thiên tai như hạn hán, lụt lội, sa mạc hóa, ô nhiễm nặng nề môi trường sống... dẫn đến cái chết của hàng triệu người, con người mới hoảng sợ cảnh báo đến nguy cơ bất ổn nghiêm trọng của hành tinh chúng ta.
Người Phương Tây luôn tự hào với nguyên tắc làm chủ, chế ngự thiên nhiên nay thấy rõ hơn ai hết sự cần thiết giảm nhiệt cho sự phát triển kinh tế quá nóng của họ và phải bàn đến, kêu gọi sự chung sống hoà thuận, nương vào thiên nhiên trong thuyết Tam tài của kiến trúc Á Đông. Giảm sử dụng vật liệu nhân tạo như xi măng, thép, chất dẻo, hoá chất..., tận dụng vật liệu nguyên sơ như đá, đất, gỗ, tre…, tận dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió... người ta tái phát hiện và buộc phải phát triển đầy ý thức kiến trúc sinh thái.
Họ đang đề cập đến cái nguyên tắc sống mà người Việt chúng ta đã áp dụng, phát triển cực kỳ thành công từ cả ngàn năm nay trong kiến trúc, xây dựng.
Ông cha ta đã dựng, xây một ngôi nhà ở như thế nào?
Với hệ thống tự cung, tự cấp về kinh tế, người nông dân trước đây vốn sống trong các ngôi làng khép kín. Khi sinh con, người ta đã tính ngay nên trồng bao nhiêu cây xoan để đủ làm một ngôi nhà 3 gian hay 3 gian 2 chái lúc cho con lấy vợ sau 20 hay 25 năm. Vì kèo, đòn tay, rui mè đã có... Tre trồng quanh vườn. Gạch: Lấy đất từ ao hay ruộng rồi tự xây lò gạch để nung. Vôi thì lấy ở núi đá vôi hoặc mua. Gỗ xoan, tre trước khi đem xây được ngâm kỹ dưới bùn ao khoảng một năm để chống mối mọt. Rơm lợp nhà là rơm của nhà. Thợ: Người nông dân vốn tay phải cầm cày, tay trái cầm dùi đục, cưa của người thợ mộc hay cái bay của thợ ngõa. Người trong gia đình, bà con, láng giềng, mỗi người giúp một tay. Quan trọng nhất là có một người thợ cả biết chỉ huy với cái thước tầm kỳ diệu mà giản đơn. Ngay đến đầu thế kỷ 21 này, đa số thợ xây ở Việt Nam vẫn là người nông dân thuần phác cứ đến vụ gặt là kiểu gì họ cũng trở về lo thu hoạch lúa nhà mình.
Một ngôi nhà điển hình? Ta hãy nói về một ngôi nhà kẻ truyền vùng Bắc Ninh. Một ngôi nhà ở 3 gian, 2 chái rộng khoảng 70–80 m2 kể cả diện tích hiên phía trước. Cao từ nền đến nóc mái khoảng 7–7,5 m. Ấn tượng ban đầu là cái mái lợp ngói ta ngả màu rêu phong, ở giữa sống mái hơi thấp một chút rồi cong nhẹ, cao dần ở hai đầu đỉnh mái được gọi là réo làm cho cái mái nhà trở nên “mềm” hơn, “dẻo” hơn. Cả ngói chiếu, cả ngói lợp, lợp theo kiểu viên trên đè viên dưới thường dày tới 4 - 5 cm. Đó là lý do làm cho trong nhà luôn mát hơn nhiều so với bên ngoài trời. Bộ khung gồm cột cái, cột quân, cột hiên theo kiểu “thượng thu, hạ thách”, ở sát chân kê lên đá tảng hơi quýt nhẹ hình quân cờ, rồi xà thượng, xà đại, xà nách, thương lượng, chồng rường, kẻ nghé, kẻ truyền, bẩy, hoành, ngưỡng cửa... đều được để trần.
Theo ý kiến của nhiều nhà chuyên môn về khảo cổ, kiến trúc, ngoài bằng chứng về hình hài các ngôi nhà trên trống đồng Ngọc Lũ thuộc nền văn hóa Đông Sơn, hay các mô hình nhà ở bằng đất nung được chôn trong các mộ Hán, gần đây nhất là việc phát hiện kết cấu nhà gỗ kiểu Hán có niên đại khoảng 2.000 năm ở Kiều Bồng, Quảng Nam thì những ngôi nhà ở kết cấu bằng gỗ như chúng ta biết hiện nay ở khắp Bắc, Trung, Nam có sự du nhập, giao thoa và Việt hoá mạnh mẽ kiến trúc Hán, sau đó kiến trúc Chăm khoảng 1.000 năm nay. Đáng tiếc, hiện những ngôi nhà ở bằng gỗ cổ nhất còn được lưu giữ chỉ có tuổi trên dưới 300 năm.
Tất cả được ngàm vào nhau bằng mộng. Cả ngôi nhà dựng lên không cần tới một cái đinh. Khi cần, người ta có thể tháo rời ra để di chuyển... Tường nhà được xây bằng gạch đất nung dày khoảng 20 cm, mạch được để trần hay trát. Hướng nhà chính bao giờ cũng quay về phía Nam, Đông Nam để đón gió mát thổi từ hướng Nam nhất là khi nó đem được cái mát của hơi nước từ mặt ao trước sân vào nhà. Lưng nhà ở phía Bắc không có cửa, hai hồi có cửa sổ nhưng thường rất nhỏ để chống cái rét của gió mùa Đông Bắc. Ba gian chính để thờ, tiếp khách. Hai chái để ở, cất đồ gia dụng quý giá và để chứa thóc, gạo. Cái nhà phụ thường nhỏ hơn, mái lợp rơm dùng để làm bếp và nơi chứa công cụ nhà nông. Khi cần, chủ nhân có thể tháo các cánh cửa gỗ, nới rộng không gian từ nhà, qua hiên, đến tận sân thành một không gian mở phục vụ cả năm, bảy chục người ngày lễ lạt, hiếu hỉ.
Khu vườn bao quanh thường có hàng cau trước ngõ, những bụi chuối phía sau. Những ngôi nhà như vậy, những cái vườn như vậy, tạo nên những cái làng có luật, có lệ của nó như là một cơ thể sống thống nhất và đã tồn tại với lịch sử ngàn năm.
Ngôi nhà kết cấu gỗ cổ truyền Bắc Bộ với sự di dân thời Trịnh, Nguyễn phân chia. Sau đó là quá trình dựng nước, giữ nước đã phát triển với rất nhiều biến thể, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội ở từng vùng. Quy mô của ngôi nhà ở có từ 3 gian, 5 gian, 7 gian(*)... tùy theo vị trí quyền lực của chủ nhà. Nhưng tựu trung lại ta thấy 3 yếu tố nổi bật nhất của nhà ở cổ truyền ngoài bố trí chức năng sinh hoạt, ở, nằm ở hệ thống kết cấu của hệ khung chịu lực bằng gỗ, hình thức và vật liệu mái và vật liệu bao che tường.
Bộ khung chịu lực: Về cơ bản kết cấu khung gỗ chịu lực chính của ngôi nhà đều chống nhau, cái khác chủ yếu ở các biến thể vì kèo: như "vì kèo suốt giá chiêng”, “tiền hiên hậu khoáng”, “tiền kẻ hậu bảy”, “kẻ truyền giá chiêng”...
Nhà ở vùng Hải Hậu – Nam Định gần biển luôn phải đề phòng gió to, bão lớn nên với vì kèo 4 cột vẫn chồng rương nhưng thấp hơn. Nhà rường ở Quảng Trị và Huế, chịu ảnh hưởng của kiến trúc cung đình mà đặc trưng là hình dáng uốn cong có chạm trổ tinh xảo của “tréng” và “kẻ”. Dù là loại 3 hay 4 cột vẫn gây cho ta cảm giác nhà cao, thanh thoát, sang. Khác với vật liệu chính là gỗ xoan ở miền Bắc, bộ khung của nhà rường chủ yếu bằng gỗ mít...
Hình dáng và vật liệu mái: Cái đẹp và ấn tượng nhất về nhà ở truyền thống chính là cái mái. Ở miền Bắc, sang nhất là nhà lợp ngói ta. Ngói lợp thường có đầu hơi nhọn. Ở Huế đa số nhà rường được lợp bằng ngói “liệt”, một thứ ngói phẳng vuông bốn cạnh dùng cho giới bình dân. Như đã nêu ngói ta hay ngói liệt thường được lợp rất dày, chống mưa, nắng, nóng cực kỳ hữu hiệu. Ở miền duyên hải có rất nhiều nhà lợp cỏ tranh hay cói: Mái dày tới cả 0,5 m. Vừa mát vừa chống được gió bão. Vùng trung du như Sơn Tây, Phú Thọ và miền núi Hòa Bình đa số mái nhà lợp lá cọ được ngâm kỹ trước khi đem lợp. Có nhà mái dày tới gần 40 – 50 cm. Đơn giản nhất, kinh tế nhất là mái lợp lá dừa nước ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long phù hợp với cuộc sống nước lên, thuyền lên, sống chung với lũ. Người Chăm còn có kiểu nhà hai mái chồng lên nhau rất độc đáo, có thể coi là một trong hình thức mái chống nóng điển hình nhất. Đẹp và hết sức ấn tượng là mái nhà Rông Tây Nguyên.
Về cái mái, kiến trúc sư Vũ Thái Lộc trong nghiên cứu thực tế của mình về nhà ở người Thái ở Tây Bắc Việt Nam đã ghi nhận hàng chục kiểu mái nhà khác nhau với vô số hình khau chút (Hoa nhà, tên gọi hình trang trí hai đầu hồi nhà người Thái đen).
Vật liệu bao che: Trước đây khi còn gỗ nhiều, có nhiều nhà thưng toàn vách gỗ. Nhưng đa phần vách bao che là tường trát, bùn rơm, gạch xây, đá ong, đất trình. Nói đến tường đất trình, người ta cần phải kể đến nhà ở cao 2 tầng như pháo đài của người Nùng ở Lạng Sơn.
Những biến cố lịch sử của ngoại xâm phương Bắc, cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ... đã hủy hoại rất nhiều di sản kiến trúc... Nhưng sự biến đổi nhanh chóng của kiến trúc nông thôn Việt Nam, đặc biệt là nông thôn miền Bắc chỉ trong vòng 20 năm trở lại đây làm cho chúng ta thực sự thấy sửng sốt. Nó dữ dội gần bằng cả ngàn năm lịch sử : Không quy hoạch, không quản lý, xô bồ, mạnh ai nấy làm miễn là có tiền, đâu có đất trống là xây... với đủ các kiểu nhà, kiểu mái, kiểu chóp, ăn cóp thô thiển các chi tiết kiến trúc Đông, Tây, Trung Cận Đông.
Hình ảnh kiến trúc nông thôn còn tồi tệ hơn bởi những âm thanh quá cờ đua công suất xem “dàn” nhà ai to hơn của đủ loại âm nhạc: rả rích tiền chiến, oai hùng nhạc đỏ, dữ dội của hard rock... Thêm vào dàn “hợp âm” đó là tiếng xe máy, tiếng xe công nông, chói tai mỗi khi tăng ga.
Tương lai nào cho nhà ở truyền thống Việt Nam?
Trong những năm qua, đặc biệt nhờ giá đất tăng đột ngột... rất nhiều người dân ở làng quê đã đổi đời. Chúng ta đang sống trong xã hội dân chủ? Dân thành phố có thể xây dựng được nhà 4 – 5 tầng với vô vàn cái chóp thì người nông dân có tiền có lý gì lại không được xây như vậy. Kết quả là ra đời một thứ kiến trúc hổ lốn. Đó là cái giá phải trả cho nền dân chủ. Khi mà đồng tiền không đi đôi với tri thức.
Engels cho rằng: “Nhà ở có thể giết chết con người”. Con người tạo nên kiến trúc đô thị, làng xóm và ngược lại kiến trúc lại ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống xã hội con người. Một khu dân cư được tổ chức tốt về quy hoạch, kiến trúc làm cho con người cảm thấy bình an, tự tin, thân thiện với nhau hơn. Ngược lại, ở bất kỳ nơi nào môi trường kiến trúc đô thị xô bồ, đua chen, vô tổ chức thì cư dân ở đó thường gặp phải rất nhiều vấn đề xã hội và cả hình sự.
Ở Hà Nội bạn có thể dễ dàng đặt mua một hay nhiều ngôi nhà sàn chủ yếu từ Hoà Bình đem đi dựng lên một cách kệch cỡm chủ yếu phục vụ cho mục đích thương mại. Bạn cũng có thể đặt mua ngay một vài ngôi nhà gỗ cổ truyền không thuộc dạng oách với giá hai mươi lăm hay ba mươi triệu đồng nếu bạn muốn.
Ở Huế, vài năm qua không ít nhà vườn bị đem bán vì chủ nhân cần tiền để tồn tại.
Thực tế ở miền Bắc ngày nay muốn đi xem một ngôi nhà ở cổ truyền có giá trị thực không dễ. Sự “đổi đời” làm cho giới trẻ coi ngôi nhà cổ và người ở trong đó đều là thứ “đồ cổ”.
Ở Hòa Bình, con em nhiều gia đình người Mường sau khi bán đất, bán nhà sàn đi vì ngượng ở trong nhà sàn liền xây nhà mái bằng, xây nhà kết cấu bê tông cốt thép với chóp và chóp mặc cho bố mẹ gần như không sống nổi trong cái kiến trúc xa lạc đó. Nhưng văn hóa, kiến trúc đích thực không dễ bị hủy diệt bởi sự ngu dốt của con người trong một sớm một chiều.
Ở Huế, tuy chậm nhưng UBND tỉnh vừa có quy định bảo tồn nhà vườn. Nhiều nhà rường vẫn được trân trọng gìn giữ như ở làng Phước Tích, Phong Điền cách Huế khoảng 30 km. Nhà cổ đá ong ở Đường Lâm được nhà nước xếp loại bảo tồn. Đã có cụ già dứt khoát từ chối không bán ngôi nhà gỗ cổ khoảng 300 tuổi với giá cả năm mươi ngàn đô la Mỹ, dù người mua hứa sẽ xây cho cụ một ngôi nhà mới y chang như ngôi nhà cũ làm con cháu cụ tham tiền đã tiếc ngẩn ngơ...
Vẫn còn đó một số người dứt khoát không đua đòi xây nhà khung bê tông cốt thép mà chọn thợ xây cho mình ngôi nhà ở theo kết cấu gỗ truyền thống có giá hàng trăm triệu đồng bằng gỗ xoan hay gỗ mít mang chở từ miền Nam ra.
Có rất nhiều khu Resort được thiết kế dựa trên nguyên tắc kết cấu gỗ của nhà ở cổ truyền. Đã có công ty chuyên tư vấn thiết kế nhà cổ. Có kiến trúc sư tự thiết kế, tự bỏ tiền xây dựng nhà sinh thái kết hợp được kết cấu khung gỗ nhà ở truyền thống Bắc Bộ, tận dụng vật liệu tại chỗ như đá, gạch đất nung, ngói ta với vật liệu hiện đại như kính cách âm, cách nhiệt, sử dụng Pin mặt trời Solar để đun nước nóng.
Trong bối cảnh nhà nước không có biện pháp cụ thể tích cực để gìn giữ vốn quý kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam thì cái động thái trên đem lại cho mọi người một hi vọng nhỏ nhoi. Di sản kiến trúc của ông cha vẫn còn có người tâm huyết gìn giữ và phát triển, dù họ chỉ là thiểu số.
Tia Sáng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.