Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Hình thành và phát triển DALAT

Sự hình thành và phát triển của thành phố Dalat ...
Hứa Hoành .

Lập trên cao nguyên Lâm viên đồi núi chập chùng, Ðà lạt là một đô thị nghỉ mát xinh đẹp nằm giữa những khu rừng thông, thác nước thơ mộng: Ðà lạt là thành phố của tuổi trẻ, tình yêu và kỷ niệm. Ai đã đến đó một lần, chắc chắn sẽ giữ lại trong lòng những hình ảnh và kỷ niệm thân thương.

Tài liệu viết bài này ngoài quyển sách "Những Ðứa Con của Rừng Núi" (The Sons of Mountains) của Gerald Cannon Hickey, còn nhiều tài liệu khác mà chúng tôi sưu tầm rải rác trong sách báo cũ. Trong chương viết về Ðà lạt, tác giả G. Hickey có nhắc đến tác phẩm, bài báo kê cứu hiếm như:

- Báo Indochine năm 1943-1944
- Monographie de la province Dalat do trường Viễn Ðông bác cổ Hà nội in năm 1931.
- Tạp chí Bulletin des Amis du vieux Hué năm 1938...

Trong các Toàn quyền Ðông Dương chỉ có P. Doumer, Pasquier và Decoux để lại nhiều kỷ niệm trên đất nước ta hơn hết. Mặc dù khi tạo lập đường xá, cầu cống, tiện nghi công cộng, người Pháp không nghĩ đến phúc lợi cho người bản xứ, nhưng dầu sao đi nữa các cơ sở hạ tầng ở các thuộc địa cũng đem lại lợi ích lâu dài.

Chúng tôi còn nhớ ngày 10 tháng 12 năm 1896, Toàn quyền Rousseau lâm trọng bện và từ trần ở bịnh viện Hà nội thì P. Doumer được lịnh qua Ðông Dương kế vị. Vừa đến Việt nam, P. Doumer liền nghĩ đến một chương trình kiến thiết đầy tham vọng. Mục đích nhằm khai thác kinh tế Việt nam. Hai dự án lớn lao nhất của P. Doumer là:

- Tìm các địa điểm lập các đô thị nghỉ mát ở miền núi Trung kỳ.
- Lập lại đường xe lửa xuyên Việt.

Năm 1879, P. Doumer gặp bác sĩ Yersin là người đã hướng dẫn nhiều cuộc thám hiểm sâu vào vùng rừng núi Tây nguyên để thảo luận việc tìm kiếm những địa điểm thuận tiện có thể lập khu nghỉ dưỡng. Nơi đó phải có khí hậu mát mẻ để các kiều dân Pháp và các viên chức Pháp ở Ðông dương đến nghỉ hè thay vì mỗi năm phải về Pháp. Bác sĩ Yersin khuyến cáo nên chọn đỉnh Lâm viên (Langbian). Sau đó P. Doumer ra lệnh cho một đoàn thám hiểm quân sự tìm kiếm một con đường từ miền duyên hải lên Lâm viên. Năm 1898, Pháp lập ra tỉnh Ðồng Nai thượng, cơ sở hành chánh đặt tại Ðà lạt. Ngoài ra, còn có một tỉnh nhỏ mới thành lập ở Tánh linh, nằm trên đường mòn trao đổi hàng hóa giữa cao nguyên và đồng bằng.

Một đoàn thám hiểm khác khởi hành vào năm 1908 để phát quang dọn dẹp con đường mòn từ đồng bằng lên cao nguyên. Công việc này hoàn tất năm 1899. Với sắc lệnh 1-11-1899, người Pháp lập ra tỉnh Ðồng nai thượng với trung tâm hành chính đật tại Ðà lạt. Một tỉnh nhỏ hơn là Tánh linh với cơ sở hành chánh tại Djirinh (Di linh). Một ngôi nhà bằng thiếc đầu tiên được thiết lập coi như ngôi nhà nghỉ mát đầu tiên tại đây. Mấy năm sau, nhận thấy rằng vùng rừng núi này có nhiều vách đá dốc đứng, cheo leo, khó thiết lập đường xe lửa, nên họ chọn cách làm đường lộ cho xe hơi chạy. Từ đó, Pháp bỏ tỉnh Ðồng nai thượng, còn đại lý hành chánh Djirinh sát nhập vào tỉnh Phan thiết và Ðà lạt nhập vào Phan rang. Công việc đang tiến hành thì năm 1902, Toàn quyền P. Doumer đột ngột về Pháp, khiến nhiều chương trình kiến thiết bị đình trệ.

Tuy là một thành phố sinh non, nhưng nhiều người Pháp có đầu óc làm giàu chú ý ngay đến Ðà lạt. Lợi dụng sắc luật nhượng đất đai của chính phủ, vào ngày 1-4-1900, một người Pháp tên Gresieu được cấp cho không 885 mẫu đất thuộc Ðồng nai thượng. Ngày 18-10-1901, một người Pháp khác tên Armavon được cấp 300 mẫu ở gần Ðà lạt...

Ngày nay du khách đi chơi Ðà lạt thường theo quốc lộ 20, từ ngả ba Dầu giây lên Ðịnh quán, Bảo lộc, rồi Di linh tới Ðà lạt, hay dùng quốc lộ 21 từ Phan rang đi lên, chớ ít ai ngờ rằng con đường lộ đầu tiên nối liền giữa Sài gòn và Ðà lạt đi qua ngả Phan thiết. Ðường ấy bắt đầu từ Ma lâm, qua đèo Datrum đến Di linh, rồi từ đó mới đi tiếp lên Ðà lạt. từ năm 1914-1915, Phan thiết là trạm dừng chân của lữ khách đi Ðà lạt. Từ năm 1908, Ðà lạt mới có ngôi nhà gạch đầu tiên là toà Công sứ Pháp. Năm 1912 Toàn quyền Albert Sarraut kế tục chương trình dang dở của P. Doumer, phát triển Ðà lạt thành một trung tâm nghỉ dưỡng. Ban đầu người Pháp khởi công làm con đường từ Phan rang lên Ðà lạt qua Ða nhim và đèo Ngoạn mục ( Bellevue ). Con đường ấy sau này mở rộng thành quốc lộ 21. Từ năm 1914, hãng xe hơi chở khách "Société des Correspondances Automobiles du Langbian" cho chạy những chiếc xe hiệu Lorraine-Dietrich trên lộ trình Sài gòn - Phan thiết - Di linh tới Ðà lạt. Người cố cựu cho biết rằng hồi đó người ta gọi tắt hãng xe đò này bằng chữ "SCAL". Năm sau, tỉnh Langbian thành hình vẫn lấy Ðà lạt làm tỉnh lỵ. Ðà lạt bắt đầu thu hút du khách đến nghỉ mát và săn bắn vào mùa hè. Năm 1916, Langbian Palace Hotel là khách sạn đầu tiên được xây dựng theo kiểu nhà sàn, nhưng có hành lang rộng và mái che. Cũng năm đó, Ðà lạt có trạm Bưu chính, sở Công chánh và trắc địa, toà Công sứ, Cảnh binh. Còn người Việt nam (kinh) đầu tiên đến cư ngụ Ðà lạt là những người phu khuân vác trắc địa hay những người buôn bán. Năm 1920, Pháp tái lập tỉnh Ðồng nai thượng, tỉnh lỵ đật tại Di linh, trong khi Ðà lạt trở thành một khu vực tự trị về hành chánh, do một Tổng ủy viên cai trị. Năm 1922, Ðà lạt bước qua một giai đoạn phát triển mới, kiến trúc sư được chỉ định vẽ đồ án nới rộng Ðà lạt, mở rộng thành phố thành một đô thị tân tiến. Ðặc biệt theo đồ án này không được xây cất gì che khuất đỉnh Lâm viên để giữ vẻ đẹp cho thành phố thơ mộng. Pháp muốn thành phố Ðà lạt sẽ là một góc của nước Pháp ở miền núi Alpes của A¨ châu. Do đó Ðà lạt phải có:

- Hồ nhơn tạo
- Hàng trăm biệt thự rải rác trên các sườn đồi
- Xây dựng ngôi chợ trung ương hình khối chữ nhật với tháp chuông vươn cao. Ðó là vị trí rạp hát Hòa bình hiện nay.

Kể từ năm 1930 trở đi, Ðà lạt phát triển thành một đô thị có vườn hoa xinh đẹp, nhiều công viên cây xanh, ngàn hoa khoe sắc thắm vào mùa xuân. Người Mỹ đầu tiên có mặt tại Ðà lạt là vợ chồng nhà truyền giáo Tin Lành Hebert Jackson. Ông này đến Ðà lạt năm 1930, lập nhà truyền giáo đầu tiên cho đồng bào Thượng, có một mục sư Việt nam làm thông ngôn.

Năm 1925, Ðà lạt có chương trình gắn điện các đường phố chính bằng cách xây đập thủy điện Ankroet. Dự án này không thực hiện được vì thiếu ngân sách. Năm 1929 một nhà trồng tỉa Pháp làm một máy phát điện nhỏ sử dụng thác nước Cam ly để cung cấp điện lực cho Ðà lạt. Tháng 7 năm 1932, con đường quốc lộ 20 từ Sài gòn lên Bảo lộc đi Ðà lạt hoàn thành.


ÐÀ LẠT, MỘT TRUNG TÂM GIÁO DỤC

Các nhà khoa học đều nhận định rằng môi trường, khí hậu trong lành, mát mẻ rất thích hợp cho các hoạt động trí tuệ. Từ đó, Ðà lạt sớm phát triển thành một trung tâm giáo dục quan trọng nhất nước. Năm 1927, nhằm phục vụ cho con em người Pháp và số gia đình người Việt giàu có, Pháp cho lập ra Petit Lycée de Dalat. Ngôi trường Việt nam đầu tiên do cụ Bùi Thúc Bàng mở ra năm 1927, gần rạp Ngọc Lan. Cùng năm đó, dòng nữ tu Soeur St. Paul mở trường Crèche de Nazareth, dành riêng cho trẻ em. Trước năm 1932, trường Petit Lycée de Dalat đổi thành Grand Lycée de Dalat và chương trình học dạy tới bực Tú tài Pháp. Năm 1935, trường này lấy tên Lycée Yersin cho tới nay, để kỷ niệm bác sĩ Yersin, ân nhân của Việt nam và cả nhân loại nữa.

Cuối năm 1932, người Pháp xây dựng cơ sở giáo dục cho nhà dòng sư huynh (trường Christian Brothers) và trường Collège d'Adran cho các chủng sinh. Năm 1935, nhà dòng Notre Dames mở rộng thêm bằng cách thiết lập chương trình giáo dục đệ nhị cấp, còn gọi là "Notre Dames de Langbian" và sau này chúng ta quen gọi trường ấy là Couvent des Oiseaux. Trường nữ này dành riêng cho các thiếu nữ con các gia đình Pháp, Việt giàu có cùng các gia đình quan lại. Trường này thu nhận các nữ sinh từ Miên, Lào theo học nữa.

Ðến ngày 27-6-1939, Ðà lạt có thêm trường Thiếu Sinh quân đầu tiên dành cho các thiếu nhi và thiếu niên các gia đình quân nhân Pháp Việt. Năm 1936 bác sĩ Yersin lập ra viện Pasteur ở Ðà lạt, sau này trở thành nha Ðịa dư, nằm trên ngọn đồi gần trường Yersin và ga xe lửa Ðà lạt. Ngày 1-1-1953, trường Quốc gia Hành chánh thành lập tại Ðà lạt để đào tạo công chức cao cấp cho chính phủ. Nhiều người Việt nam tốt nghiệp khoa này, về sau đều làm tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và giám đốc các công sở. Trường trung học Trần Hưng Ðạo khởi thủy lập gần chợ Hoà bình, có hoàng tử Bảo Long theo học , nên sau lấy tên là trường Bảo Long. Còn trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, lúc mới lập lấy tên công chúa Phương Mai, sau đổi thành trường Quang Trung.

Trường Võ bị Quốc gia Việt nam nguyên thủy là trường Sĩ quan Huế, thành lập năm 1948 bên cạnh sông Hương. Năm 1950, trường này di chuyển về Ðà lạt, lấy cơ sở trường Chỉ huy Tham mưu sau này làm địa điểm. Dưới thời Tổng thống Ngô Ðình Diệm, trường này lấy tên trường Võ bị Liên quân Ðà lạt. Ðến năm 1960, trường này đổi tên thành Trường Võ bị Quốc gia Việt nam trên ngọn đồi 1515. đến năm 1967, trường này có cơ sở hiện đại nhất so với các trường võ bị Ðông Nam A¨. A¨p dụng chương trình huấn luyện quân sự và phần lớn chương trình văn hóa của trường Võ bị West Point (Hoa kỳ), trường Võ bị Quốc gia Việt nam dạy văn hóa bậc đại học 4 năm, đào tạo các sĩ quan hiện dịch đủ trình độ kiến thức chỉ huy và kiến thiết sau này. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp tốt nghiệp do trường Võ bị cấp phát, mỗi sinh viên còn được cấp bằng Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng. Cho tới ngày Cộng sản chiếm miền Nam, trường Võ bị đã đào tạo được 29 khóa sĩ quan hiện dịch (khóa 30 và 31 đang trong thời kỳ huấn luyện) làm nòng cốt cho Quân đội VNCH. Viện Ðại học Ðà lạt thành lập năm 1957. Tiền thân của viện Ðại học này là trường Sư huynh công giáo ở Huế do giám mục Ngô Ðình Thục thành lập với sự giúp đỡ của Hồng y Spellman ở New York. viện Ðại học Ðà lạt xây cất trên khu đất rộng 38 mẫu tây, có khoảng 1500 sinh viên theo học các phân khoa Chính trị Kinh doanh, Sư phạm, Khoa học... nằm tại số 1 đường Phù đổng Thiên vương.

Thật là một sự ngạc nhiên lạ lùng, Ðà lạt trước năm 1975 có độ 80,000 dân mà có đến 4 cơ sở giáo dục đại học: Viện Ðại học, trường Ðại học Chiến tranh Chính trị, trường Võ bị Quốc gia Việt nam. Phía Giáo hội còn có trường Giáo hoàng Pio X Ngoài ra còn có 15 trường trung học đệ nhị cấp và 56 trường tiểu học!

VÀI NHÂN SĨ THƯỢNG Ở ÐÀ LẠT

Ðà lạt nguyên thủy là quê hương của người Thượng. Khi nói đến Ðà lạt mà không nhắc qua vài tên tuổi lớn người Thượng thì thất là thiếu sót. Từ cuối năm 1920, Ðà lạt phát triển bề rộng lẫn chiều sâu, mà vài người Thượng đã đóng vai trò quan trọng. Tại thung lũng Ða nhim, có bộ tộc Churu (Chru) tuy dân số ít (độ 1500 người) nhưng được coi là bộ lạc tiến bộ nhất cao nguyên Lâm viên, vì lịch sử của họ có liên hệ với lịch sử người Chiêm thành.

Là thị dân Ðà lạt, tôi chắc nhiều đồng hương còn nhớ con đường Ya Gut, nằm giữa đường Trần Bình Trọng và Hoàng Diệu, gần Trung tâm Y tế toàn khoa?

Theo Touneh Han Tho thì Banahria Ya Gut được coi như lãnh tụ người Churu nhiều thập niên đầu thế kỷ 20. Sinh năm 1870 tại một buôn làng thuộc vùng Ðơn dương ngày nay, Ya Gut kết hôn với một người chị bà con của thân phụ Han Tho; Ya Gut có một đứa con gái tên Ame Mabo, cho đến năm1975 vẫn còn sống tại làng Diom là quê hương của ông ta. Ông Ya Gut là một người có tâm hồn nghệ sĩ, môt Nguyễn Du của người Churu, từng sáng tác nhiều thên anh hùng ca cho dân tộc Churu. Tài năng ấy Ya Gut thừa hưởng của tổ tiên. Năm 1909, Pháp lập một đồn hành chánh tại Dran (Ðơn dương) và phong cho Ya Gut làm tri huyện cai trị vùng này, giống như trường hợp tù trưởng có thế lực Khunjenob cai trị tại Ban Mê Thuột. Hồi đó Ya Gut đóng vai trò trung gian giao thiệp giữa Pháp và dân chúng. Ngoài chức vụ hành chánh, Ya Gut còn đóng vai thẩm phán hoà giải các vụ xung đột, làm trọng tài giải quyết các cuộc tranh chấp của đồng bào ông ta. Theo Touneh Han Din, một người bà con với Han Tho, thì trong thời gian làm tri huyện ở Dran, nhiệm vụ căn bản của Ya Gut là chiêu mộ dân Thượng làm phu đắp đường giao thông. Dân Thượng cũng bị bắt buộc phải khiêng cáng cho các viên chức Pháp Việt và vợ con của họ. Ðối với các bà vợ công chức Việt nam, những người Thượng này gọi đùa rằng đó là các "bà đầm mũi tẹt".

Một lãnh tụ khác là Touneh Han Dang, sinh năm 1880 tại Diom, trong một gia đình có 7 anh em. Ba mẹ là người thuộc chi tộc Banahria. Cũng như cha, thuở nhỏ Han Dang theo cha làm rẫy. Thời gian nhàn rỗi cậu thường đi săn bắn thú rừng. Ðến tuổi 15, Han Dang tháp tùng theo các thường nhân người Churu buôn chuyến từ Phan rang lên Dran. Chuyến xuống họ mang mật ong, thịt rừng phơi khô, vài loại măng... xuống Phan rang đổi lấy muối, nước mắm, vải vóc. Là một thanh niên cường tráng, có chí tự lập, chỉ mấy năm sau, Han Dang tự mình tổ chức các chuyến hàng riêng biệt. Tại Phan rang có làng An phước là nơi nổi tiếng văn vật của người Chàm, có trường tiểu học. Nhờ vậy Han Dang được theo học các môn Pháp Việt và Chàm ngữ. Thấy việc học thích thú và có lợi, Han Dang rất tích cực trau dồi. Nhưng có một điều làm cho Han Dang lo lắng đó là cha mẹ cậu sợ cậu ở mãi dưới An phước sẽ lưu lạc rồi bỏ rơi ông bà. Vì thế ông bà thu xếp cho hai người anh lớn đang làm giáo viên, dạy kèm tiếng Việt và Chàm cho Han Dang tại nhà ở Diom. Hàng ngày, sau khi tập ca hát cùng các ban hợp ca trong hai giờ, Han Dang học kèm với anh, và sau đó, học võ với một võ sư người Việt.

Năm 1905, Pháp bắt đầu làm con đường từ Phan rang lên Ðà lạt. Han Dang và cha đều bị bắt đi làm sưu. thấy cha già yếu, Han Dang tình nguyện làm việc cho cả hai người, nhưng lại từ chối khiêng cáng cho các "bà đầm mũi tẹt". Con đường từ Krong Pha lên Ðà lạt có nhiều dốc cao, mỗi ngày Han Dang chỉ mang vác vượt 15 cây số thôi. Hàng hóa thường là những két rượu vang dành cho các công chức Pháp ở Ðà lạt. Trong thời gian ấy Han Dang dành dụm được một số tiền, bắt đầu mua ngà voi, mật ong ở Roglai đem xuống Phan rang bán. Năm 1907, Han Dang có ý nghĩ sẽ cải tiến đời sống người Churu. Ðầu tiên, Han Dang yêu cầu một người đàn bà Chàm đến Ða nhim dậy bộ lạc Churu dệt vải. Kế tiếp, Han Dang gởi cô em họ là Ba Cam xuống Phan rang học kỹ thuật làm nồi đất nung. Khi trở về, Ba Cam bắt đầu làm toàn bộ nồi đất mới cho cả làng. Han Dang còn học được kỹ thuật cày ruộng: cày sâu và hiệu quả hơn. Có một điều không thành công lắm là bắt đàn bà Churu mặc quần thay vì mặc váy.

Năm 1910, Han Dang được bổ làm lý trưởng Diom. Năm sau Pháp lập huyện Tân khai, sau này gọi là Di linh và Han Dang trở thành thông ngôn cho Ya Gut. Ðến năm 1919, tri huyện Ya Gut hưu trí và Han Dang được cử thay thế chức tri huyện của Ya Gut. Mãi đến ngày 22-2-1922, triều đình Huế (Khải Ðịnh) mới bổ Han Dang làm "Thổ Huyện Tân khai" và gọi là "tri huyện Mọi". Trong thời gian này, Han Dang đề nghị mở trường ở Ða nhim bị công sứ Cunhac và quản đạo Trần Văn Lý phản đối với lý do "người Mọi không cần giáo dục, vì họ chỉ làm những việc nặng nhọc, không cần đến sự khéo léo". Dù thất bại, Han Dang không nản, tiếp tục tranh đấu để cải tiến mức sống của đồng bào ông. Năm 1922, người Pháp làm đường Sài gòn đi Ðà lạt qua ngả Bảo lộc, cần nhiều phu người Thượng. Với tư cách tri huyện Mọi, Han Dang có bổn phận cung ứng dân phu, nhưng đồng thời cũng nhắc lại yêu sách mở trường học. Lần này có kết quả. Tại các buôn người Lat, người Chil, người Churu, bắt đầu có trường sơ cấp, nhưng mỗi trường chỉ có độ 10 học sinh. Cho đến năm 1927, quản đạo Trần Văn Lý liên tục bất đồng ý kiến với Han Dang, và bỏ qua các đề nghị của Han Dang về những cải cách nâng cao mức sống của đồng bào Thượng. Khi quản đạo Trần Văn Lý đi rồi, tình hình người Thượng được cải thiện hơn: Han Dang tranh đấu để tỉnh cấp tiền bạc cho học sinh, tăng chương trình học lên 4 năm, và lúc ấy có 40 học sinh theo học. Những học trò giỏi được gửi lên Ðà lạt sẽ ở trọ nhà Han Dang đi học. Những học sinh ưu tú, sau khi tốt nghiệp sẽ được gửi đi Qui Nhơn học tiếp "Collège de Quinhon".

Ngày 2-9-1925, toàn quyền Ðông dương ban tặng cho Han Dang huy chương Bắc Ðẩu bội tinh. Theo Touneh Han Tho, trong khi khánh thành đường xe lửa từ Krong Pha lên đèo Ngoạn mục, công sứ Ðồng nai thượng có ban cho Han Dang huy chương "Kim Tiền hạng 3". Sau đó, Han Dang còn liên tiếp nhận được các huy chương Bắc Ðẩu bội tinh (1929), mề đay Kim Khánh hạng 3 (1933).

Theo Touneh Han Tho, Han Dang tiếp tục tranh đấu để cải thiện mức sống của đồng bào Thượng quanh vùng Ðà lạt. Ông tranh đấu cho dân làm đường được lãnh lương cao hơn. Mội khi có những thắc mắc ông khiếu nại với các viên chức cao cấp Pháp tại Ðà lạt, nếu như không được giải quyết, không nản, ông làm đơn gởi lên hoàng đế Bảo Ðại, thủ tướng Pháp Léon Blum và cả tổng thống Pháp. Năm 1937, để phản đối viên công sứ Pháp lạm quyền, Han Dang từ quan, về làng làm lãnh tụ cho bộ lạc của ông đến ngày mãn phần.


ÐÀ LẠT: KHUNG TRỜI KỶ NIỆM

Ðà lạt năm nay vừa tròn 100 tuổi (1893-1993). Thành phố Ðà lạt cũng có cuộc sống riêng của nó. Một thế kỷ qua Ðà lạt chào đời, phát triển, phồn thịnh như một cô gái xuân đài các, bây giờ bước vào giai đoạn suy tàn.

NGUYỄN THÔNG HAY YERSIN, AI ÐÃ TÌM RA VỊ TRÍ ÐÀ LẠT?

Ðúng 100 năm trước, vào lúc 3 giờ chiều ngày 21-6-1893, vừa từ một khu rừng rậm chui ra, bác sĩ Yersin và đoàn thám hiểm ngạc nhiên đến sững sờ trước một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú mà họ chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Trong nhật ký, bác sĩ Yersin đã ghi lại: "Một cao nguyên rộng lớn, không cây cối, đó đây thấp thoáng những trái đồi thấp, phủ một lớp cỏ xanh mịn màng".

Vào năm 1905,một du khách người Anh có dịp đật chân đến Ðà lạt, đã ghi lại khung cảnh thành phố buổi sơ khai: "Nhiều đồi núi thấp nằm trên một diện tích rộng lớn, không cây cối, chỉ phủ một lớp cỏ ngắn. Tất cả cùng một cao độ, tựa hồ như những đợt sóng màu xanh nhấp nhô. Ở chính giữa, đỉnh Lâm viên vượt lên như một hòn đảo lởm chởm. Ðăng kia (Dankia) nằm dưới chân dãy núi ấy, ở phía bên kia cao nguyên. Cao nguyên thật yên tĩnh và mát mẻ, không dốc đứng, không một bụi rậm. Trong các thung lũng hẹp là những rừng thông nằm xen giữa những ngọn đồi."

Mới đây, bên nhà, trên tạp chí Du Lịch Lâm Ðồng, tác giả Nguyễn Diệp có viết bài "Ai là người đầu tiên thám hiểm và tìm ra Ðà lạt?" nêu lên ý kiến cho rằng chính Nguyễn Thông (1827-1884) trong khi làm chức Dinh điền sứ đóng ở Bình thuận, đã có lần lên thăm vùng rừng núi cao nguyên Lâm viên ngày nay. Ông tìm ra vị trí Ðà lạt 25 năm trước khi bác sĩ Yersin đật chân tới.

Bài viết có vẻ là một phát kiến mới lạ, làm thỏa mãn tự ái người Việt, nhưng thiều những bằng chứng xác thực. Dù cho sau này chúng ta có thể tìm được thêm những chứng cớ nào đáng tin cậy hơn nữa để kết luận Nguyễn Thông là người đã khám phá cao nguyên Lâm viên, cũng không quan hệ đến sự ra đời của đô thị này. Cho dù Nguyễn Thôngtrong lúc làm Dinh điền sứ lo việc khẩn hoang có đến cao nguyên Lâm viên thực sự, rồi sau đó báo cáo về triều đình nhà Nguyễn, thì việc thực hiện công cuộc di dân lên khai phá, đặt nền tảng cho một đô thị như Ðà lạt hiện nay cũng không thể nào có được. Các khái niệm về thành phố nghỉ mát, trung tâm điều dưỡng, phải đợi người Pháp du nhập. Ngoài người Tây phương, không triều đại nào ở nước ta có thể thực hiện được.

Các thế kỷ trước khi chinh phục các quốc gia nhiệt đới làm thuộc địa, người Âu châu thường gặp phải vấn đề khí hậu oi bức so với đất nước họ. Hàng năm, các công chức thuộc địa phải về chính quốc để nghỉ hè. Việc ấy rất tốn kém thì giờ và tiền bạc. Chính vì lẽ đó mà người Anh lập thành phố Darjeeling ở Ấn độ,người Mỹ lập Baguio ở Philippines, người Hoà lan lập Bogor, rồi Thái mở rộng Chiengmai, và Pháp ở Ðông dương tìm kiếm những vị trí trên núi cao mát mẻ như Sapa, Tam đảo, Bạch mã, Bà ná, và Ðà lạt ở Việt nam ra đời.

Ðà lạt được khai sinh dưới thời Toàn quyền Paul Doumer. Khi đọc báo cáo của bác sĩ Yersin về cao nguyên Lâm viên, Doumer tỏ ra thích thú. Trong một chuyến du hành bằng ngựa từ Bắc vào Nam, Toàn quyền Paul Doumer đã yêu cầu bác sĩ Yersin dẫn mình đi quan sát địa điểm nói trên. Ðến nơi, thấy địa thế lý tưởng, khung cảnh mát mẻ, Doumer tỏ ra hài lòng. Về Hà nội, Paul Doumer liền ký sắc lệnh thành lập đô thị nghỉ mát Ðà lạt.

Một nhà nghiên cứu khác có mặt rất sớm ở Ðà lạt, đã viết trong một hồi ký nhan đề Connaissance de Dalat như sau: "Ở nơi hồ nước, có dòng suối của bộ tộc Lat chảy qua, người ta gọi là Dalat."

Lúc đó thác Cam ly (ở cuối đường Yersin trước năm 1975) là một dòng suối nhỏ, mùa mưa nước chảy khá mạnh. Tên Cam ly ngày nay bắt nguồn từ tên người tù trưởng bộ lạc Koho. Ông ta tên là K'mly, sau khi chết, bộ lạc này dùng tên ông mà đật tên cho con suối đó mà họ xem như là quê hương của người Koho ở cao nguyên Lâm viên. Về sau người Việt đọc trại thành Cam ly. Trong một tấm bưu ảnh hồi thập niên 1950 chụp thác Cam ly, phía dưới có hai câu thơ:

Cam ly nước chảy về đâu?
Cho ta nhắn gửi mối sầu cố hương.

Thác Cam ly trở thành một thắng cảnh để du khách thăm viếng bắt đầu từ năm 1912. Nằm trên ngọn đồi lộng gió gần đó là lăng ông bà Nguyễn Hữu Hào, tức ông bà Quận công Long Mỹ, nhạc phụ hoàng đế Bảo Ðại. Ông Hào là một người theo đạo công giáo, có quốc tịch Pháp, người quê ở Gò công, có nhiều đồn điền ở Ðà lạt, Cầu Ðất. Ông Hào là rể của ông Huyện Sĩ, thân phụ bà Nam Phương hoàng hậu, mất năm 1939. Trong các bài "Hoàng Triều Cương Thổ", "Nam Phương Hoàng Hậu", chúng tôi có nhắc đến chi tiết này, nay xin miễn kể thêm.

Con đường nối liền cao nguyên Lâm viên với đồng bằng Phan rang hoàn tất năm 1899, chỉ dùng cho voi, ngựa chở đồ và người đi bộ. Năm 1912 ngôi chợ đầu tiên Ðà lạt được xây cất bằng gỗ, ngay vị trí rạp hát Hòa bình bây giờ. Năm 1936 chợ Hoà bình mới với hình tháp chuông nhô lên một góc, được xây dựng lại. Ngôi chợ mới Ðà lạt do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ kiểu, xây dựng hồi năm 1958.

Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ bên Âu châu, con đường hàng hải qua lại bị gián đọan, nên các công sứ, tham biện, thống sứ ngưòi Pháp thường lên nghỉ hè trên Ðà lạt. Năm 1923 Toàn quyền Maurice Long giao cho kiến trúc sư Hébrard vẽ đồ án mở rộng thành phố, giữ lại bối cảnh sân cù nhìn lên đỉnh Lâm viên, không cho xây dựng.

Con đường xe lửa Ðà lạt - Tháp chàm phải xây dựng trong nhiều năm, vì đèo Ngoạn mục dốc đứng, cao 980m trên mặt biển. Do đó người Pháp phải thuê kỹ sư Thụy điển là những chuyên viên làm đường sắt có răng cưa trên các triền núi cheo leo bên nước họ, qua xây dựng con đường rầy. Khởi công từ năm 1928, con đường phải chia làm nhiều đoạn, có răng cưa ở giữa cho xe leo dốc khỏi tuột, cuối cùng khánh thành vào năm 1933 cùng một lượt với nhà ga Ðà lạt. Ðó là một kiến trúc độc đáo hoàn toàn kiểu Âu châu màu đỏ, có những cửa kính hình vuông, xa trông như một toà lâu đài. Ngày khánh thành đường xe lửa Ðà lạt - Phan rang, có mặt Toàn quyền Pasquier và Khâm sứ Trung kỳ Thibaudau. Từ đó Pháp chở nhiều vật liệu nặng cho việc xây dựng các biệt điện.

Cũng như nhiều thành phố khác, tới đâu Pháp cũng lo hưởng thụ các tiện nghi. Khu vực xây dựng đầu tiên gọi là "khu phố Tây" nằm trên đồi, thuộc khu vực rạp hát Ngọc Lan, chạy qua khách sạn Thủy Tiên, tới đường Phan Ðình Phùng, với nhiều nhà phố kiểu Tây phương, trên lầu có ban công nhìn xuống đường lộ để chiều chiều họ ra đó nhìn xuống đường phố. Dinh Toàn quyền, còn gọi là Biệt điện số 2, nằm trên một ngọn đồi gần ngã tư đường Nguyễn Tri Phương và Trần Hưng Ðạo, khởi công năm 1933 có 25 phòng, ba năm sau mới hoàn thành. Biệt điện quốc trưởng dành riêng cho vua Bảo Ðại gọi là dinh số 3, nằm cuối con đường Huyền Trân công chúa. Từ lúc xây cất xong cho đến năm 1945, biệt điện được gọi là Hoàng cung Ðà lạt. Ðây cũng là chỗ để hoàng đế tổ chức lễ Vạn thọ (sinh nhật), tiếp tân các toàn quyền, khâm sứ, và sau này là Cao ủy Pháp.

Trong biệt điện chia ra nhiều phòng:

- Văn phòng Hoàng đế, có bức tượng hình người thật của nhà vua bằng thạch cao và một bức tượng khác nhỏ hơn, bằng vàng, của vua Khải Ðịnh. Sau năm 1975 tượng này đã bị VC lấy mất.
- Trong phòng này cũng có ngọc tỉ, ấn tín. Phía trên lò sưởi, ngay giữa phòng là bức chân dung hoàng đế mặc triều phục, hoàng tử Bảo Long và Nam Phương hoàng hậu.
- Tầng lầu thứ hai dành riêng cho hoàng gia họp mặt. Phòng màu vàng dành cho thái tử Bảo Long. Phòng hình bán nguyệt dành cho hoàng hậu và các con, nơi cả gia đình họp mặt.

Ngoài ra, còn Dinh số 1 nằm trên một ngọn đồi từ ngả ba Trại Hầm đi lên. Những biệt điện kể trên xây cất cách nay hơn nửa thế kỷ, nhiều chỗ hư mục nhưng không được tu bổ.VC bán vé cho du khách vào xem nhưng không bỏ tiền để tái thiết, sau khi đã vơ vét hết những tài sản qúy giá ở những nơi đó cũng như trong cấm thành ngoài Huế hồi năm 1945.

Dưới thời Ðệ nhất Cộng hoà (1955-1963), vợ chồng ông Ngô Ðình Nhu có xây một biệt thự nghỉ mát gọi là "biệt điện mùa hè" ở Ðà lạt. So với các dinh số 2, dinh số 3, biệt điện này nhỏ hơn, nhưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật, vật liệu mua từ ngoại quốc, trang bị tối tân hơn. Lần đầu tiên, một hồ tắm kiểu vua chúa Tây phương được du nhập dành cho cấp lãnh đạo thụ hưởng. Biệt điện xây trên một ngọn đồi nhìn xuống một thung lũng thơ mộng, và đồi ấy được đật tên là Châu Lâm ( Jewel Forest ). Mùa hè năm 1964, khi chế độ Ngô Ðình Diệm sụp đổ, gia đình chúng tôi có ra thăm biệt điện này, chứng kiến cảnh sống vương giả của gia đình họ Ngô. Biệt điện được trang hoàng theo sở thích của từng người. Phần bà Nhu là hồ tắm bằng cẩm thạch, nước trong vắt, có máy làm nuớc nóng về mùa đông. Trong nhà, phòng ngủ, bếp nấu ăn đều trang bị những tiện nghi đắt tiên vì bà là một trưởng giả khó tánh. Phòng khách có đến năm lò sưởi. Tường, trần nhà, sàn nhà đều lót bằng những phiến gỗ tếch hình vuông, đánh bóng. Khu vườn hoa là của ông Ngô Ðình Nhu, có trên một trăm loài hoa hiếm qúy được mua từ ngoại quốc đem về. Mỗi lần ra thăm, tổng thống Ngô Ðình Diệm thường bước ra sân im lặng ngắm hoa, như theo đuổi một ý tưởng riêng. Biệt điện chỉ có độ 12 phòng nhưng phải xây dựng mất năm năm mới hoàn thành vì nhiều chỗ phải đập đi làm lại nhiều lần mới vừa lòng bà Nhu. Riêng chiếc cổng vào, phải xây lại đến lần thứ năm.

Cũng trong thập niên 1930, Pháp xây dựng nhiều dinh thự khác như toà công sứ, dinh quản đạo (cho tỉnh trưởng người Việt), trường trung học Yersin, trường Couvent des Oiseaux, khách sạn Du Parc, nhà thờ chính tòa gần Ðà lạt Hotel được xây dựng sớm hơn, nhưng mãi đến năm 1942 mới hoàn thành. Cây thánh giá trên nóc tháp chuông, cách mặt đất tới 47 mét, dáng dấp một giáo đường thời trung cổ bên Âu châu. Khách sạn lớn nhất là Ðà lạt Hotel nằm cùng khu vực với nhà thờ, trên đường Yersin, được xây dựng sớm nhất, từ năm 1907, có 65 phòng. Sau năm 1945 khách sạn ấy bị hỏa hoạn làm hư hại một phần.

Tới đầu thập niên, Ðà lạt trở thành một đô thị tân tiến với các dinh thự to lớn, hơn 800 biệt thự, nhà nghỉ của tư nhân, các gia đình qúy tộc, giàu có khắp nơi trong nước. Mỗi biệt thự kiến trúc khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ có sân cỏ, vườn hoa, và chỗ để xe hơi. Thuở đó, người Pháp hãnh diện coi Ðà lạt như "La Petite Paris" (tiểu Paris ). Năm 1949 Quốc trưởng Bảo Ðại từ Hồng kông về chấp chánh. Ðà lạt là nơi quốc trưởng cư ngụ nên trở thành thủ đô hành chánh, các chính khách rộn rịp lên xuống yết kiến ngài. Lúc đó, Ðà lạt cũng còn là một địa điểm săn bắn hấp dẫn. Chỉ cách Ðà lạt chừng hai giờ lái xe, chúng ta sẽ lạc vào những khu rừng có đầy nai, mễn, heo rừng, chim phụng hoàng, gà rừng, gấu và cọp nữa. Năm 1972 có lần chúng tôi gặp bốn người Thượng khiêng một con cọp vừa mới bẫy được, đem ra chợ Ðà lạt bán. Món thịt nai gần như ngày nào cũng có, nhất là khi trời bắt đầu mưa cho đến tháng 11 hàng năm.

Theo thời gian, chế độ Hoàng triều Cương thổ bị bãi bỏ, Ðà lạt thu hút thêm nhiều người Việt từ ba miền lên lập nghiệp. Vì có khí hậu miền ôn đới nên Ðà lạt là nơi thích hợp cho các loại hoa và rau cải, trái cây xứ lạnh. Hồi đầu thập niên, người Pháp muốn mở rộng nghề trồng rau cải và trồng hoa để phục vụ nhu cầu của họ, nên cho phép một số người có kinh nghiệm trồng rau lên Ðà lạt lập nghiệp. Theo lệnh Pháp, tổng đốc Hà đông Hoàng Trọng Phu tuyển mộ mấy mươi gia đình từ các làng chuyên canh rau cải, trồng hoa ở Ngọc Hà, Nghi Tam, Quang Ba, Tây Từ... lên Ðà lạt, được cấp đất trồng hoa. Lớp người này lập ra ấp Hà Ðông để tưởng nhớ quê hương của họ. Ấp Nghệ Tĩnh do Phạm Khắc Hoè khi làm quản đạo Ðà lạt lập ra năm 1942, cũng tập họp những người phát xuất từ hai tỉnh đó.

Dưới thời Ðệ nhất Cộng hòa, chính phủ Ngô Ðình Diệm cho thiết lập nhiều cơ sở văn hoá tại Ðà lạt. Viện Ðại học Ðà lạt thành hình năm 1957, xuất phát từ chủng viện công giáo thuộc giám mục địa phận Huế cai quản. Viện Ðại học Ðà lạt ra đời với sự đỡ đầu của Tổng giám mục Ngô Ðình Thục và sự giúp đỡ của Hồng y Spellman ở New York, phát triển liên tục cho đến năm 1975.

Về tôn giáo, một trong các ngôi chùa cổ nhất là chùa Linh Phong trên đường đi Trại Hầm, chùa Linh Sơn, chùa Thiên Vương, chùa Sư Nữ. Nhà thờ Domain là nơi tu hành của các bà sơ, chuyên làm bánh kẹo, trồng hoa để bán. Vợ của toàn quyền Ðông Dương Jean Decoux tên Suzanne Humbert là bạn của hoàng hậu Nam Phương, là người đóng góp nhiều tiền bạc cho nhà thờ này. Bà bị tai nạn xe hơi trên đường Ðà lạt nhân một chuyến lên chơi với bà Nam Phương. Thi hài được chôn phía sau nhà thờ. Nói đến chùa Linh sơn Ðà lạt, người ta nhớ đến một thầy trụ trù từ năm 1945. Thầy là người cha Nhật mẹ Việt, sinh năm 1926. Khi Nhật vào Ðông dương, thầy bị bắt đi làm thông ngôn một thời gian. Năm 1951 thầy tốt nghiệp trung học yersin. Trong thời gian trụ trì ở chùa Linh sơn, thầy vẫn cầu học, dịch kinh sách, và ghi danh theo học ở viện Ðại học Ðà lạt, phân khoa văn chương và triết học. sau đó thầy chuyên về môn văn chương Anh Mỹ, tốt nghiệp cử nhân với đề tài tiểu luận "William Faulkner" vào năm 1975!

Ngoài ra, ở Ðà lạt còn có Trung tâm Nguyên tử lực do chương trình "Nguyên tử phụng sự Hòa bình" của Mỹ viện trợ.Trung tâm này sử dụng lò phản ứng nguyên tử Triga Mark II do Hoa kỳ chế tạo, áp dụng chất phóng xạ đồng vị trong nông nghiệp. Trung tâm được khánh thành dưới sự chủ tọa của Tổng thống Ngô Ðình Diệm trước sự hiện diên của đại sứ Henry Cabot Lodge. Hai công trình quân sự tốn kém khác nhưng có tính cách văn hóa hơn là trường Võ bị Quốc gia Việt nam, nằm trên một ngọn đồi cao, kiến trúc tối tân, gồm hàng chục dãy nhà lầu ba, làm cư xá cho sinh viên, khu văn hoá, bộ chỉ huy, nhà thí nghiệm nặng... để phục vụ chương trình giáo dục bốn năm cho các sinh viên sĩ quan hiện dịch. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp quân sự, các sinh viên còn được cấp phát văn bằng Cử nhân khoa học ứng dụng. Kế đến là trường Ðại học Chiến tranh Chính trị, trường Chỉ huy Tham mưu, cung cấp kiến thức chuyên nghiệp về quân sự cho các sĩ quan.


ÐÀ LẠT, THÀNH PHỐ HOA NỞ BỐN MÙA

Mới viếng Ðà lạt, du khách sẽ ngạc nhiên không phải vì cái khung cảnh của một thành phố Âu châu nằm lọt trong lòng một vùng rừng núi xích đạo nước ta, mà chính là cái cảm giác khoan khoái, lâng lâng như vừa bước vào một căn phòng gắn máy lạnh. Xung quanh Ðà lạt là rừng thông hai lá và thông ba lá. Tiến vào rừng sâu, người ta còn tìm thấy một vài loại cây xứ lạnh khác như tùng, tắc bá diệp, bạch đàn.

Sống ở Ðà lạt nhiều năm, tôi nghiệm ra rằng mỗi năm ở đây có hai mùa rõ rệt. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Lúc đó, ra đường chỉ cần khoác một chiếc áo len mỏng nhẹ. Nhưng nếu phải đi bộ lên dốc xuống đồi thì chắc chắn cảm thấy nực vì mồ hôi. Mùa lạnh từ tháng 11 trở đi, khí hậu lạnh dần cho đến hết tháng 12 là cực điểm. Mùa Giáng sinh có những đêm ở phi trường Cam ly nhiệt độ xuống đến số 0. Ban ngày, bầu trời trong vắt, nắng hanh vàng, tuy nhiên nếu ra khỏi nhà phải mặc đồ đủ ấm, nếu không sẽ bị cảm lạnh. Trời lạnh đi bộ là một cái thú, cũng là một cách nạp lại năng lượng cho cơ thể. Trước cửa nhà, nhìn qua bên kia đồi, mấy biệt thự mái ngói đỏ au. Theo một con đường đất đỏ ngoằn ngoèo đẫm ướt sương đêm là hình ảnh quen thuộc mỗi buổi sớm mai. Buổi sáng hay chiều đều có cái thú riêng của nó mà những người ở Ðà lạt lâu năm mới tìm thấy riêng cho mình. Mùa mưa, vừa thức giấc, sương mù còn tỏa trên các thung lũng một màu trắng đục. Thấp thoáng xa xa, mấy cái nhà sàn ẩn hiện như trong bức tranh thủy mạc. Trên mặt hồ Xuân hương là một màn mỏng lờ mờ cho đến khi nắng lên, sương tan dần.

Những buổi sáng mù sương là những đề tài cho các nhà săn ảnh mỹ thuật. Ở đây sương mỏng và hiền, không phải sương muối như nhiều nơi khí hậu khắc nghiệt khác. Những người làm nghề trồng tỉa cho biết lớp sương mù buổi sớm rất cần thiết cho cây trà, mà ở Cầu Ðất, trên đường từ Trạm hành đến Ðơn dương, nhiều đồn điền trà dầm dià những giọt sương sớm, lắng đọng trên cành lá. Cầu Ðất cũng có nhà máy pha chế trà của ngưới Pháp.

Có bạn ở Ðà lạt lâu năm nói với tôi rằng: "Một ngày Ðà lạt có đủ bốn mùa: sáng sớm trời lạnh, nhiệt độ còn thấp, nhiều sương phủ mờ trên thung lũng hay mặt hồ. Ðó là mùa xuân, cỏ hoa vươn mạnh, sau một đêm dầm dìa những giọt sương. Buổi trưa, mặt trời lên cao, nóng ấm, cũng là lúc giống mùa hè. Vào buổi xế, mặt trời Ðà lạt lặn sớm vì nhiều đồi núi, gió hiu hiu se lạnh, ta có cảm giác như trời vào thu. Về đêm, nhiệt độ xuống thấp nhất vào lúc nửa đêm, lạnh ngắt, đó là mùa đông." Ban đêm nhà nào cũng kéo lớp cửa kính lên để giữ nhiệt độ trong nhà được ấm. Hàng năm, trường Võ bị Quốc gia Việt nam làm lễ mãn khóa vào tuần thứ ba của tháng 12 trong không khí giá buốt. Khách đến dự lễ truy điệu vào ban đêm, súng sính trong những bộ dạ phục mùa đông đất tiền, chẳng khác gì ở những quốc gia ôn đới.

Nhưng cái hấp dẫn khác của Ðà lạt có lẽ là xứ hoa nở bốn mùa. Mùa xuân, nhiều loài hoa nở rộ, khoe hương sắc. Hoa mai nở quanh năm. Có nhiều loại hoa mai như mai đỏ, mai tứ qúy, mai hồng, và nhất chi mai. Vào tháng chạp có hoa đào báo hiệu ngày Tết. Hoa đào thuộc loại hoa qúy tộc, mầu hồng đậm nhạt. Những gia đình trung lưu ở Ðà lạt, ngày tết thường chưng một bình hoa có cành đào trong phòng khách. Còn hoa anh đào, một món quà tặng từ xứ Phù tang, được trồng ven bờ hồ Xuân hương. Hoa đào nở rộ vào hai tuần lễ cuối tháng 12. Hoa đào phơn phớt trắng hồng như má thiếu nữ khuê các. Con đường từ trước khách sạn Palace ra đến cầu ông Ðạo là cả một rừng hoa anh đào rực rỡ, tô điểm cho thành phố Ðà lạt vào xuân.

Ðà lạt đẹp một cách kiêu kỳ lãng mạn. Nhiều thi nhân, văn sĩ về đây không tiếc lời ca ngợi Ðà lạt. Mùa này, khi nắng lên, thị dân và du khách đổ ra đường, rồi đến trưa mọi người đều đổ về công trường chợ Hoà bình. Chợ Hòa bình tràn ngập giai nhân với muôn màu áo, hãnh diện khoác tay những chàng trai kiêu hùng trong bộ quân phục với chiếc alpha màu đỏ hay đen. có những buổi sáng, khi làn sương mù còn bao phủ trên ấp A'nh sáng, tôi thường theo vợ con đi chợ. Trong khi nhà tôi dẫn con đi mua sắm, tôi thường vào cà phê Tùng, nhâm nhi tách cà phê nóng bốc khói cho ấm lòng. Ở đây cũng là chỗ hẹn hò của các văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ từ Sài gòn tới. Họ thường trầm ngâm, thả hồn qua khói thuốc để tìm ý thơ. Còn nhà Thủy tạ nằm trên một doi đất trước khách sạn Palace, là chỗ hẹn hò của các tình nhân, vì cái không khí tĩnh mịch lại nên thơ. Trước năm 1954 nhà Thủy tạ còn gọi là La Grenouillière.

Hồi ở Ðà lạt tôi cũng có anh bạn thân, nhà văn Ðặng Ðình Tòng, có dáng dấp một triết gia với cặp kính cận, thường mặc bộ đồ veste, che cây dù đen dạo phố. Có lần anh về thăm ông bà nhạc ở Long xuyên, bị ông nhạc nói với con gái: "Tao không gả mày cho thằng cha thầy bói đó."

Chúng tôi có cái thú uống cà phê vào những buổi chiều cuối tuần để nhìn thiên hạ dạo phố. Từng cặp, từng cặp tay trong tay, chầm chậm trên các nẻo đường. Sở thích chúng tôi là cà phê pha đậm, uống bằng tách sành (không dùng ly thủy tinh). Còn nước trà phải nấu bằng nước suối múc trên nguồn thác Datanla, hoặc không thì cũng là nước mưa. Không biết cái không khí se lạnh buổi sáng hay cái nắng hanh vàng buổi chiều thoi thóp trên cành cây làm chúng tôi thú vị như thế nào, nhưng thói quen ấy chúng tôi không bỏ trong nhiều năm. Cũng có thể chúng tôi ghiền cái không khí bạn bè của người đồng điệu. Núi rừng cao nguyên chùng xuống. Mặt hồ gợn sóng lăn tăn. Ở phía xa hướng trường Yersin và Nha địa dư, trên mặt hồ có mấy cánh buồm sọc đỏ trắng, uể oải về bến. Trước hàng rào nhà chúng tôi là một hàng cây mimosa. Ðến mùa, hoa lấm tấm vàng, nở rực theo theo suốt con đường Nguyễn Tri Phương, Trần Hưng Ðạo, Pasteur... Hoa lưu ly thảo có người nói chính "forget-me-not", cánh mỏng như giọt sương. Còn hoa pensée hay hoa tư tưởng là hoa học trò, nở vào dịp gần gãi trường. Ai đã từng đi học mà không có lấn mơ mộng, ép hoa pensée vào trang giấy học trò kỷ niệm thời cắp sách. Ngoài ra, còn có nhiều loại hoa lạ như uất kim hương, glaieul (lay ơn) hoa croquelic.

Ở Ðà lạt nhiều năm, nhưng tôi cũng không ngờ các loại hoa mimosa, hồng nhung, glaieul... do chính bác sĩ Yersin du nhập vào nước ta. Ngoài các loại hoa, bác sĩ Yersin còn mang đến nhiều giống cây lạ như cà phê, canh ky na, ca cao. Bác sĩ Yersin cũng là ân nhân của Việt nam và cả nhân loại khi tìm ra được thuốc chích ngừa bệnh dại, bệnh dịch hạch.
Người qúy phái thích hoa hồng. Tuy gọi hoa hồng nhưng thực sự nó có đủ màu sắc. Hoa hồng phấn còn mện danh là Grace Monaco, hồng vàng gọi là Joséphine, hồng nhung gọi là Brigite Bardot. Hoa cúc cũng nhiều thứ, đủ màu sắc khác nhau. Có người trồng hoa ở Liên khàng nói với chúng tôi có đến 19 loại hoa cúc cùng họ compositae như cúc vàng, cúc trắng, cúc Nhật bản, cúc đồng tiền, cúc đại đóa, cúc hoàng anh, hoa thủy, cúc qùy, thược dược, marguerite, souce... Hồi xưa, mỗi năm hoa cúc nở rộ vào tháng 9, đó cũng là mùa chia ly vì lính thú từ giã gia đình lên đường ra biên cương giữ nước.Ðến tháng 9 năm sau lại được về. Vì lẽ đó, thời kỳ đi lính thú thời xưa gọi là "hoàng hoa", và rượu để tiễn người lên đường cũng là rượu hoàng hoa. Trần Ðình Lượng, quan nhà Nguyễn, trên đường đi sứ qua Pháp đã viết bài "Như Tây Nhựt Trình" trong đó có câu:

Ðường mây sớm giục sứ trời
Paris muôn dặm, mấy lời hoàng hoa

Ngoài ra, Ðà lạt còn là quê hương của hàng trăm loại lan rừng. Theo các sách nghiên cứu về hoa lan cho biết, có đến hàng ngàn loại khác nhau. Nhiều lần đi cắm trại ở các sườn núi cao hoặc vùng thac Datanla, chúng tôi gặp một loại hoa màu đỏ tím, đó là hoa đỗ quyên nở rực cả khu rừng. Ở trên đường từ lăng Cô di Bạch mã có thác Ðỗ quyên vì trên đường đi vào thác có hoa đỗ quyên rực rỡ. Ở trên đèo Ngoạn mục về phía Sông Pha có lan cẩm bác, hoa màu vàng nhạt đốm nâu. Hoa kim châm có lá dài, cọng nhỏ, màu vàng, có thể trang hoàng hay chưng cá, xào thịt, pha chế nước sốt để ăn vịt quay rất ngon. Ðà lạt vào xuân là thiên đàng của các loài hoa nở rộ. Nào hồng lan, hoàng lan, đoản kiếm, thanh lan, hạc đĩnh, hoàng phi hạc, kim điệp, long tu, nhất điểm hồng, nhất điểm hoàng, ý hảo, tuyết ngọc, kim hài, thủy tiên... Qua mùa thu, các loại hoa như cẩm báo, tuyết nhung, bò cạp, mỹ dung, dạ lý hương, hoa đuôi cáo. Hồi đó, về đêm chúng tôi thường vô trường để trực, lúc đi ngang qua con đường từ nhà ga vô tới Chi lăng, hoa dạ lý hương nở về đêm thơm ngào ngạt. Mùa hè là thời kỳ của hoa giả hạt, lọng tán.

Ðà lạt cũng có nhiều trái cây nổi tiếng như mận Trại Hầm, su Trại Mát, Trạm Hành, đào lông...

Ðà lạt cũng là quê hương của hồ và suối. Gần thì có hồ Xuân hương, xa hơn có hồ Than thở, hồ Mê linh, hồ Ða thiện, đập Suối Vàng... mỗi hồ có một vẻ đẹp riêng. Nước chảy róc rách có thác Cam ly về mùa khô, hoặc như một bức tường mỏng màu trắng đục từ trên cao phủ xuống như thác Prenn, hoặc ầm ầm từng bọt trắng xóa như thác Gougah. Hùng vĩ nhất có thác Pongour nằm sâu trong rừng, cách Ðà lạt 60km về phía nam. Nơi đây có nhiều phong lan mọc trên các ngọn cây cao. Thác Liên Khương nằm dọc theo phía trái quốc lộ 20, gần phi trường Liên khương, dòng nước chảy tràn lan trên một địa thế gãy sụp. Phía dưới thác Prenn là một cây cầu nhìn qua bức màn nước trắng xóa từ trên cao chảy xuống như một tấm màn voan mỏng. Phía dưới thác cũng là vườn thú thành lập dưới thời tổng thống Ngô Ðình Diệm. Hồ Than thở nằm trên đường từ Chi lăng vào trường Võ bị. Có lẽ vì qua lại lắm lần nên tôi không còn thấy vẻ đẹp và thơ của hồ. Nơi đây cũng chứng kiền một mối tình thơ mộng ngang trái, đầy nước mắt. Hồ Xuân hương hồi trước gọi là Grand Lac. Năm 1919 chính phủ đắp đập ngăn chỗ cầu ông Ðạo. Phía cuối sân cù là vườn Bích câu, có hàng trăm loại hoa đài các hiếm qúy. Những du khách đến Ðà lạt không ai không nghe nhắc tới thung lũng Tình Yêu nằm về phía hồ Ða thiện. Ban đầu chỗ này có tên thung lũng Hoà bình, tương truyền do chính vua Bảo Ðại đặt cho vào năm 1950. Thung lũng Tình Yêu, địa danh thơ mộng là do các sinh viên viện Ðại học Ðà lạt đặt ra, vì họ thường đưa người yêu ra đó làm chỗ hẹn hò. Tên này có từ năm 1972. Còn rừng Ái Ân nằm phía cuối con đường lên viện Pasteur, từ phía Hoàng cung nhìn qua, cũng là một nơi hò hẹn lý tưởng của những cặp nhân tình. Hồi trước, nơi đây vào những ngày cuối tuần thấp thoáng bóng tài tử giai nhân.

Cuốn băng video Ðường Về Quê Hương II của đài truyền hình Vietnam Program phát hành đem đến cho khán giả hải ngoại một thời sống ở Ðà lạt một nỗi buồn riêng khi nhìn thấy thành phố thân thương bây giờ tiều tụy. Các dinh thự, biệt thự loang lổ một màu xám xịt ảm đạm, đường phố dơ dáy, bẩn thỉu... Bây giờ Ðà lạt như một cô gái xế chiều, cố tô son trét phấn, nhưng không dấu được vẻ mệt mỏi, già nua, như nuối tiếc thời vàng son xuân sắc của mình. Bây giờ cảnh sắc Ðà lạt nhìn đâu cũng thấy ủ rũ u hoài. cũng vẫn cảnh trí thiên nhiên đó nhưng Ðà lạt bây giờ bị chính bàn tay con người phá hoại không chút xót thương. Bao nhiêu công viên bị đào bới để trồng khoai, rau muống. Cuộc chiến tranh Việt Pháp kéo dài hơn mười năm nhưng Ðà lạt vẫn không bị tàn phá. Cuộc chiến Quốc Cộng chỉ gây hư hao nhẹ, nhưng chỉ năm sau vết tích chiến tranh bị xóa mờ. Rồi Ðà lạt lại xây dựng thêm, tươi mát hơn ngày trước. Trải qua 18 năm hoà bình, Ðà lạt xuống dốc thê thảm. Nhiều kiến trúc già nua sụp đổ, thật là một sự nghịch lý khó hiểu. Cộng sản đến đâu, đất nước tan hoang đến đó. Chứng kiến cảnh Ðà lạt tiều tụy, còm cõi ngày nay, những kỷ niệm êm đềm ngày xưa sống lại mãnh liệt trong lòng người viết bài. Nhìn hình ảnh trên cuốn phim, chúng tôi xúc động nghẹn ngào,không ngờ Ðà lạt tàn tạ như vậy. Còn đâu mặt nước hồ Xuân hương trong xanh, phẳng lặng, in bóng thuở thanh bình! Còn đâu những rặng thông già cao vút, tấu khúc nhạc rừng triền miên! Bây giờ hàng thông còn đó, u buồn cúi đầu lặng im như nuối tiếc những ngày tươi đẹp đã qua. Nhớ ngày trước Ðà lạt như một thiếu nữ xuân thì đài các, từng làm cho biết bao thi nhân, văn sĩ, nhạc sĩ say đắm,để rồi khi chia tay lại bịn rịn. Bây giờ còn đâu những con đường hun hút ánh trăng với những cặp tình nhân âu yếm dìu nhau đi trong gió lạnh!

Last edited by BungRieu; 03-26-2003 at 03:17 PM.
ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ -
 

 
 
 
 
Đây phút thiêng-liêng đã khởi đầu.
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ!
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ.
 
 
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để nghe dưới đáy nước hò reo,
Để nghe tơ liễu rung trong gió,
Và để xem trời giải nghĩa yêu.
 
 
Hàng thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm.
Hư thực làm sao phân biệt được!
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm.
 
 
Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng...
 
 
Hàn Mặc Tử
1939
 
Trung tâm lưu trữ quốc gia Đà Lạt
Thứ năm 4, Tháng Mười Hai 2008
BTV: huuthanh
Mức độ viếng thăm : 100%
Khởi nguyên, đó là khu “biệt điện” của gia đình Ngô Đình Nhu. Ba tòa biệt thự tráng lệ nằm trên một triền đồi được coi là ở thế đắc địa tại thành phố Đà Lạt này được xây dựng từ hơn nửa thế kỷ nay.
Sau chính biến 1963, chính quyền Sài Gòn đã trưng dụng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên. Mới đây, với nguồn kinh phí đầu tư trên 50 tỷ đồng, Bộ Nội vụ đã quyết định thành lập Trung tâm lưu trữ quốc gia 4. Cùng với nhiều tài liệu vô cùng quan trọng khác, đây là nơi lưu trữ kho tàng mộc bản, châu bản vô giá của triều Nguyễn…

Từ "đệ nhất biệt điện" trên cao nguyên...

Những bậc cao niên ở thành phố Đà Lạt kể rằng, ngày xưa, đây là nơi mà không một thường dân nào được phép bén mảng. Cũng chẳng biết ở trong đó thường có mặt ai và bày trí những gì. Chỉ biết rằng, phía sau hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt ấy là sự hiện diện của những kẻ có quyền uy bậc nhất của Ngụy quyền Sài Gòn.
Vào thời hưng thịnh nhất của gia đình họ Ngô, năm 1958, vợ chồng Ngô Đình Nhu đã cho khởi công xây dựng khu “biệt điện”. Công trình này được coi là “sân sau” của gia đình quyền lực ấy nên được huy động tối đa trí lực, nhân lực và vật lực cho việc xây dựng. Khu “biệt điện” gồm có ba biệt thự là Hồng Ngọc, Bạch Ngọc và Lam Ngọc.

JPG - 23.1 kb
Một góc Trung tâm lưu trữ QG Đà Lạt
Bạch Ngọc là nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và tướng tá Sài Gòn. Lam Ngọc được sử dụng làm nhà nghỉ cuối tuần của gia đình bà “cố vấn”. Còn Hồng Ngọc là tòa biệt thự mà Trần Lệ Xuân xây tặng riêng cho bố đẻ của mình là Trần Văn Chương lúc này đang là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ. Chẳng ai biết Trần Lệ Xuân đã bỏ ra bao nhiêu tiền của, nhưng vẻ kiêu sang, lộng lẫy của công trình này thì vẫn hiện diện cho tới ngày nay. Chỉ là một “biệt điện” cho những ngày ăn chơi phè phỡn, nhưng nó cũng thể hiện đến đỉnh cao của quyền uy, sự giàu sang, phú quý của chủ nhân. Khuôn viên của tòa “biệt điện” nằm trên diện tích 13.000 mét vuông với đầy đủ phòng làm việc, hội họp, phòng khiêu vũ, phòng chiêu đãi…Ngoài sân có hồ bơi nước nóng, có vọng đài và một hoa viên cực đẹp do các kỹ sư đến từ đất nước Phù Tang thiết kế, vì vậy, nó còn được gọi tên là vườn hoa Nhật Bản. Phía sau vườn hoa này có một hồ sen, khi bơm đầy nước thì từ mặt hồ sẽ hiện rõ hình địa đồ Việt Nam - thể hiện giấc mơ “lấp sông Bến Hải” của ông bà “cố vấn chính trị”. Đặc biệt, để đề phòng bị tấn công bất ngờ, trong biệt thự Lam Ngọc còn có một căn hầm được thi công bằng loại thép đặc biệt, có thể chống đỡ sức công phá của hỏa lực hạng nặng. Trong căn hầm này có một đường hầm thoát hiểm, cho đến nay, người ta vẫn chỉ phỏng đoán là nó dẫn ra phía sân bay Cam Ly, cách nơi này chừng hai cây số…
Trong thời gian gia đình họ Ngô trên đỉnh cao quyền lực, “biệt điện” Trần Lệ Xuân là một trong những nơi được bảo vệ nghiêm ngặt nhất. Suốt ngày đêm, có hàng chục cảnh sát và vệ binh cộng hòa túc trực tuần phòng. Một con chim lạ bay vào khu vườn cũng sẽ bị bắn hạ. Thế nhưng, nhân nào thì quả nấy. Cuộc chính biến 1963 đã kết thúc sự “trị vì” của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Cùng số phận với chủ nhân, tòa “biệt điện” được trưng dụng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên vào thời Nguyễn Văn Thiệu nắm quyền. Đến 1975, trong cuộc tháo chạy của ngụy quyền Sài Gòn, không ít cổ vật vô giá tại bảo tàng này đã bị tuồn ra nước ngoài, nhiều món cổ vật khác bị lấy cắp, đập phá. Sau ngày nước nhà thống nhất, chính quyền cách mạng đã tiếp quản và gìn giữ nơi này như một phần tài sản quốc gia. Đầu năm 2007, Bộ Nội vụ đã quyết định đầu tư 53 tỷ đồng để nâng cấp khu “biệt điện” này và thành lập tại đây Trung tâm lưu trữ Quốc gia 4…

Đến kho lưu trữ mộc bản triều Nguyễn....

Sau một năm thi công trùng tu, cuối tháng 12-2007, khu “biệt điện” ngày xưa đã trở thành cơ sở của Trung tâm lưu trữ Quốc gia 4 thuộc Trung tâm lưu trữ Quốc gia. Quan điểm của cơ quan chủ quản trong quá trình trùng tu, nâng cấp là giữ nguyên kiến trúc của tòa “biệt điện”, chỉ thay thế một số tiểu tiết để phù hợp với công năng sử dụng.
Trong ba tòa biệt thự, hệ thống tài liệu đã được trưng bày theo hai chuyên đề lớn: lưu trữ Việt Nam từ 1962 đến nay (lịch sử của ngành lưu trữ Việt Nam) và miền Trung - Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có mảng đặc sắc là mộc bản triều Nguyễn. Cũng tại đây, có một chuyên đề riêng: Ngô Đình Nhu - nhà lưu trữ Việt Nam .
Khi Bảo Đại lên làm quốc trưởng của chính phủ bù nhìn thuộc Pháp, ông ta đã chọn Đà Lạt làm Hoàng triều cương thổ. Toàn bộ mộc bản triều Nguyễn được ông ta cho chuyển về miền đất cao nguyên.
Ban đầu, kho tàng ấy được cất giữ ở Nha Ngân khố rồi sau đó chuyển đến nhà dòng Chúa Cứu thế. Từ năm 1983 đến nay, những tài liệu quý này tiếp tục được lưu giữ tại “biệt điện”.

JPG - 25.3 kb
Kho mộc bản triều Nguyễn
Mộc bản triều Nguyễn chính là những tấm gỗ quý được khắc chữ Hán và chữ Nôm (chữ khắc ngược) dùng để nhân bản tài liệu nhằm phổ biến rộng rãi ra công chúng các chuẩn mực xã hội, các điều luật bắt buộc thần dân y tuân. Đó cũng là những bản khắc lưu truyền công danh, sự nghiệp của các bậc vua chúa, các sự kiện lịch sử, các biến cố thời cuộc, các cuộc tiễu trừ giặc dã…
Tất cả các bản thảo nói trên đều được Hoàng Đế ngự lãm, phê duyệt trước khi giao cho những người thợ tài hoa nhất trong cung đình khắc lên gỗ quý. Theo các chuyên gia, do tính chất quan trọng của mộc bản, dưới thời Minh Mạng, nhà vua từng có chỉ dụ: “Sai quan Bắc thành kiểm xét các ván in nguyên trữ tại Văn Miếu (Hà Nội) về các sách Ngũ Kinh, Tứ Thư Đại Toàn, Vũ Kinh Trực Giải cùng Tiền Hậu Chính Sử và Tứ Trường Văn Thể gửi về Kinh để ở Quốc Tử Giám (Kinh đô Huế)”.
Ngay sau khi đăng quang vào năm 1841, vua Thiệu Trị cũng đã ban sắc cho thuyền binh chở toàn bộ mộc bản từ Quốc Tử Giám - Hà Nội về Kinh đô Huế để bảo quản, tu bổ. Tại các nơi bảo quản, nhân viên coi giữ tài liệu của triều đình thường xuyên kiểm tra các bản khắc, nếu bản nào bị hư hỏng hay nét chữ bị mất nét thì báo cho quan Đốc công Vũ khố đốc sức cho thợ phục chế ngay…
Theo giảng viên Hán - Nôm Nguyễn Thanh Châu, loại gỗ phổ biến nhất dùng làm ván khắc là gỗ thị. Loại gỗ này có ưu điểm là dai, mềm và mịn, khó bị nứt nẻ nên chữ khắc trên đó sẽ không bị lệch. Còn sách Đại Nam nhất thống chí thì ghi, mộc bản còn được chế tác từ “cây nha đồng, tục danh là sống mật, sớ gỗ trắng, sáng ngời như ngà voi”.
Một số nhà nghiên cứu Hán - Nôm và các chuyên gia lưu trữ tỏ ra hết sức tiếc nuối, vì chưa hiểu tầm quan trọng và sự quý giá của hệ thống tài liệu này nên việc bảo quản và phục chế còn bị xem nhẹ. Hậu quả của nó là hàng loạt các mộc bản bị thất lạc, hư hỏng nặng, thậm chí một số người không hiểu biết đã chẻ làm củi đun!
Châu bản, mộc bản, sách ngự lãm là kho tư liệu quý, nguồn sử liệu phong phú và rất đáng tin cậy về đời sống chính trị, xã hội thời Nguyễn. Thế nhưng, tỷ lệ châu bản còn lưu giữ được đến nay chỉ khoàng 20%. Các sách sử in vào thời đó cũng bị hư hỏng và mất mát nhiều, số còn giữ được vừa thiếu vừa không đồng bộ; quá trình tìm kiếm và sao chép lại cũng không thể tránh được tình trạng “tam sao thất bản”. Số lượng mộc bản hiện còn được lưu trữ tại đây khoảng 30 ngàn tiêu bản.
Với sự cộng tác của các nhà nghiên cứu Hán - Nôm như Đinh Tấn Dung, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính cùng PGS Phạm Gia Phu và giảng viên Nguyễn Thanh Châu của Đại học Đà Lạt, trong những năm qua, Trung tâm lưu trữ Quốc gia đã triển khai chương trình “cấp cứu tài liệu châu bản - mộc bản”. Nhiệm vụ của chương trình là nghiên cứu, phân loại, sắp xếp lại toàn bộ hệ thống mộc bản, châu bản bị xáo trộn nhiều năm.
Đến nay, toàn bộ tài liệu mộc bản đã được in ra giấy dó rồi hệ thống hóa, tổng hợp được 152 đầu sách thuộc ba nhóm chính: chính sử triều Nguyễn, tác phẩm văn chương và sách kinh điển của các nhà Nho dùng để dạy và học. Trung tâm lưu trữ cũng đã ghi hết các tài liệu vào CD-Rom, ghi lại bản rập các tài liệu mộc bản triều Nguyễn. Chương trình quản lý tài liệu được xây dựng và nạp vào máy tính để thuận lợi cho việc tra cứu một cách có hệ thống và in sao dễ dàng.
Trung tâm lưu trữ quốc gia 4 cũng đã xuất bản cuốn sách “Mộc bản triều Nguyễn - đề mục tổng quan” để công bố, giới thiệu toàn bộ tài liệu quý hiếm này. Lãnh đạo trung tâm cho biết, các bản gốc mộc bản được bảo quản trong một kho chuyên dụng được trang bị hiện đại nhất nước nhằm tăng tuổi thọ của các tài liệu đó đến muôn đời sau. Kho chuyên dụng này có công suất chứa khoảng 5.000 mét các giá tài liệu với hệ thống điều hòa trung tâm, phòng chống đột nhập, phòng cháy chữa cháy tự động…
Kho tàng mộc bản triều Nguyễn hiện được bảo quản nghiêm ngặt và khoa học tại thành phố Đà Lạt là một dạng lưu trữ đặc biệt của Việt Nam và rất hiếm có trên thế giới. Đây thực sự là những tài sản vô giá. Thời gian gần đây, dự luận đã bắt đầu quan tâm đến kho tàng này và nhiều đoàn khách trong và ngoài nước đã đăng ký được tham quan, tìm hiểu.
UÔNG THÁI BIỂU (NDĐT)

Đến Biệt điện Trần Lệ Xuân

SGGP - 23/12/2007
Biệt điện Trần Lệ Xuân xa hoa lộng lẫy trước đây, nay là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước – Bộ Nội vụ) ở số 2 Yết Kiêu, Đà Lạt, Lâm Đồng được trùng tu, phục chế nguyên vẹn, mở ra một hướng đi mới đầy triển vọng của sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá và du lịch.

Kho Mộc bản quý hiếm




Biệt thự Hồng Ngọc, một trong ba biệt thự tại khu Biệt điện Trần Lệ Xuân

Dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà, năm 1960, Mộc bản được chuyển từ Huế về Đà Lạt do chi nhánh Văn khố Đà Lạt quản lý. Mộc bản là những bản in chữ Hán khắc vào gỗ, kích thước trung bình 0,43m x 0,27m, dày từ 2 – 4 cm, mỗi tấm nặng chừng 300 – 400g.

Chúng tôi thực sự ngỡ ngàng khi bước vào kho chuyên dụng lưu giữ tài liệu Mộc bản triều Nguyễn tại biệt điện Trần Lệ Xuân. Nơi đây đang lưu giữ trên 30.000 tấm Mộc bản được khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm (khắc ngược) dùng để nhân bản tài liệu nhằm phổ biến rộng rãi các chuẩn mực xã hội, điều luật bắt buộc thần dân phải tuân theo; lưu truyền công danh sự nghiệp của vua, chúa, các sự kiện, các biến cố lịch sử… hầu hết các bản thảo đều được Hoàng đế “Ngự lãm”, phê duyệt trước khi cho những người thợ tài hoa khắc lên gỗ.

Năm Tự Đức thứ hai (1849), triều Nguyễn đã cho dựng Tàng bản đường để bảo quản Mộc bản. Mộc bản, Châu bản và sách Ngự lãm là kho tư liệu quý, là nguồn sử liệu phong phú, chân xác về xã hội phong kiến triều Nguyễn. Hiện tại, Mộc bản đã được in dập ra giấy dó – bản gốc và bản dập Mộc bản đã được chỉnh lý hoàn chỉnh và ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý và phục vụ khai thác khối tài liệu quý hiếm này. Mộc bản triều Nguyễn, ngoài giá trị về mặt nội dung, mỗi tấm Mộc bản còn được đánh giá như một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.

Ngày nay, sau khi Mộc bản triều Nguyễn và các tài liệu lưu trữ được di chuyển từ Huế về Đà Lạt, Sài Gòn thì được sắp xếp theo trình tự gồm 9 vấn đề chính: Lịch sử, Địa lý, Chính trị - Xã hội, Quân sự, Pháp chế, Văn hoá – Giáo dục, Tôn giáo – Tư tưởng – Triết học, Ngôn ngữ văn tự, Văn thơ, Tồn nghi và được lưu giữ trong kho chuyên dụng bảo mật. Các cơ quan chức năng và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV đang lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Mộc bản triều Nguyễn là di sản văn hoá thế giới.

Hướng mở cho du lịch Đà Lạt



Mộc bản triều Nguyễn – sách “Tam hy đường pháp thiếp”

Dưới chế độ Cộng hoà miền Nam Việt Nam, biệt điện Trần Lệ Xuân là biểu tượng của vẻ đẹp xa hoa, lộng lẫy cùng danh tiếng và quyền uy của chủ nhân. Đến nay, tại số 2 Yết Kiêu – Đà Lạt, khu biệt điện này đã được giữ gìn và phục chế lại gần như nguyên vẹn, toạ lạc trên đồi thông thơ mộng với diện tích khoảng 13.000m2 với ba ngôi biệt thự, một hồ bơi, một vườn hoa được thiết kế theo kiểu Nhật Bản, cùng nhiều hạng mục lý thú khác. Có thể nói đây là khu nghỉ dưỡng xa xỉ vào bậc nhất trong giai đoạn đầu chế độ Cộng hoà miền Nam Việt Nam (1954 – 1963). Giới nghiên cứu đánh giá khu biệt điện này là một quần thể kiến trúc mang phong thái quý tộc với nhiều tên gọi hoa mỹ thể hiện quyền uy của chủ nhân nó.

Biệt thự Bạch Ngọc và hồ bơi nước nóng, nơi giải trí của gia đình Lệ Xuân và các tướng tá quân đội chế độ Cộng hoà miền Nam Việt Nam trước đây. Ngày nay, đến đây du khách có thể thoả chí vẫy vùng trong làn nước trong mát của hồ bơi, ngồi thưởng trà, uống rượu, ngắm trăng, đón gió tại vọng lâu… Biệt thự Lam Ngọc là nơi nghỉ cuối tuần của gia đình Lệ Xuân, được trang bị hiện đại bậc nhất thời đó, có phòng làm việc, hội họp, phòng khiêu vũ, phòng trang điểm xa hoa của Lệ Xuân.

Đặc biệt, tại ngôi biệt thự này du khách được tham quan đường hầm thoát hiểm nội bộ và hầm trú ẩn, với những nắp hầm bằng thép đặc biệt, đạn bắn không thủng. Biệt thự Hồng Ngọc với kiến trúc tân kỳ, sau này thường được gọi là biệt thự Trần Văn Chương vì Trần Lệ Xuân xây tặng bố đẻ là Trần Văn Chương, khi ấy đang làm đại sứ của chế độ Việt Nam Cộng hoà tại Mỹ. Tại mỗi ngôi biệt thự đều được thiết kế lò sưởi kiểu Pháp rất đẹp và ấn tượng. Đặc biệt, trong vườn hoa Nhật Bản (do kỹ sư người Nhật Bản thiết kế theo phong cách Nhật Bản), nằm phía sau biệt thự Lam Ngọc, có một hồ nước đặc biệt, khi bơm nước đầy, lòng hồ sẽ hiện rõ hình bản đồ Việt Nam .

Khu biệt điện này nổi tiếng đến độ sau cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963, du khách đổ xô về Đà Lạt để xem. Sau đó, khu biệt điện này được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu dùng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên. Ngày nay, toàn bộ khu biệt điện được giữ gìn và phục chế lại nguyên dạng để phục vụ khách tham quan và trở thành nơi bảo quản khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn - di sản quý hiếm của dân tộc.

Biệt điện Trần Lệ Xuân sau khi trùng tu, tôn tạo để giữ lại vẻ đẹp mỹ lệ xưa, bên cạnh chức năng bảo quản tài liệu lưu trữ quốc gia, sẽ đón các nhà nghiên cứu, các du khách trong nước và quốc tế, những người quan tâm đến lịch sử và văn hoá Việt Nam. Giám đốc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV Phạm Thị Huệ cho biết: “Dù chưa có chủ trương quảng bá nhưng hàng ngày, đã có rất nhiều đoàn khách quốc tế và trong nước đã đến tham quan và tìm hiểu biệt điện độc đáo này, có đoàn lên tới trên 400 khách”.

Với việc trùng tu nguyên dạng và mở cửa biệt điện Trần Lệ Xuân, ngành du lịch của xứ thông reo lại có thêm một điểm hút khách.

ĐỖ QUANG TUẤN HOÀNG

Biệt điện Trần Lệ Xuân & những điều chưa biết về Ngô Đình Nhu

Thể thao văn hoá - 26/10/2008
(TT&VH Cuối tuần) - Đã có hàng trăm bài viết, cuốn sách và công trình nghiên cứu về chế độ gia đình trị ở miền Nam Việt Nam dưới thời Ngô Đình Diệm. Hầu hết những tài liệu đã công bố, đăng tải về lịch sử giai đoạn này đều có đề cập đến cặp vợ chồng “đệ nhất” Ngô Đình Nhu - Trần Lệ Xuân.

Tuy nhiên, những thông tin về sự khởi nghiệp của Ngô Đình Nhu và “đệ nhất biệt điện” - nơi hưởng lạc xa hoa lộng lẫy của gia đình họ Ngô ở Đà Lạt thì không hẳn đã nhiều người biết đến. TT&VH Cuối tuần xin cung cấp thêm cho bạn đọc những thông tin lý thú này.

Đệ nhất biệt điện Lam Ngọc




Tư liệu mộc bản triều Nguyễn được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV hiện nay.

Thời kỳ gia đình họ Ngô còn thống trị miền Nam, giới tướng lĩnh Nguỵ quyền và dân thượng lưu Sài Gòn đã có rất nhiều người biết đến khu biệt điện xa hoa lộng lẫy bậc nhất của gia đình Ngô Đình Nhu - Trần Lệ Xuân ở số 2 Yết Kiêu ( phường 5 - TP Đà Lạt hiện nay ). Sự lộng lẫy và vẻ mỹ lệ của khu biệt điện này không mất đi sau gần nửa thế kỷ anh em Diệm, Nhu bị thảm sát.

Khu biệt điện từng được xem là “đệ nhất trời Nam” được khởi công từ năm 1958 gồm ba toà biệt lập với các tên gọi Bạch Ngọc, Lam Ngọc và Hồng Ngọc. Bạch Ngọc là nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và các tướng tá thời kỳ “Đệ nhất Cộng hoà”; Lam Ngọc dùng làm nơi nghỉ cuối tuần của riêng gia đình Lệ Xuân còn Hồng Ngọc là biệt thự “bà Nhu” xây tặng cho Trần Văn Chương, bố đẻ của mình lúc đó còn là Đại sứ của Việt Nam Cộng hoà tại Mỹ. Lúc khởi công xây dựng cụm biệt điện này, gia đình họ Ngô đang thời kỳ “làm mưa làm gió” ở miền Nam, nên Trần Lệ Xuân đã huy động tối đa nhân, vật lực và tinh hoa kiến trúc nhân loại để thể hiện đến đỉnh cao uy quyền và sự giàu sang phú quý của chủ nhân.



Ngô Đình Diệm cùng hai cháu Ngô Đình Trác, Ngô Đình Quỳnh – con trai Ngô Đình Nhu trong khuôn viên biệt điện

( ảnh tư liệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV )

Nội thất của tất cả các biệt thự trong tổng khuôn viên 13.000m2 có đầy đủ phòng làm việc, hội họp, phòng khiêu vũ. Ngoài sân có hồ bơi nước nóng, vọng đài và một vườn hoa do những kỹ sư được thuê từ Nhật Bản sang thiết kế (nên còn gọi là vườn hoa Nhật Bản). Điểm thú vị, độc đáo của vườn hoa Nhật Bản phía sau biệt thự Lam Ngọc là có một hồ sen khi bơm đầy nước trên hồ này sẽ hiện rõ hình địa đồ Việt Nam. Giữa địa đồ thu nhỏ còn có cả giải phân cách thể hiện vĩ tuyến 17 chia cắt Bắc – Nam . Giấc mộng bá quyền cuồng loạn và mưu đồ chia cắt vĩnh viễn đất nước Việt Nam đã theo người đàn bà quyền lực bậc nhất miền Nam một thời đến tận chốn hưởng lạc cuối tuần này ! Đặc biệt, trong biệt thự Lam Ngọc có hầm trú ẩn được thiết kế bằng thép có thể chống đỡ được sức công phá của đạn B40 và đường hầm thoát hiểm mà cho đến tận ngày nay người ta vẫn chỉ có thể phỏng đoán các đường hầm trong nhà đều dẫn ra sân bay Cam Ly (?).

Cũng chẳng ai còn nhớ Trần Lệ Xuân đã phải bỏ ra bao nhiêu triệu Mỹ kim để xây dựng nên cụm biệt điện đặc biệt này nhưng vẻ đẹp lộng lẫy, tinh tế đến từng cái rãnh thoát nước của khuôn viên thì vẫn trường tồn với thời gian sau gần nửa thế kỷ “triều Ngô” kết thúc. Có lẽ cũng chính vì sự nuối tiếc một thời vàng son ở chốn bồng lai tiên cảnh, nên những ngày cuối đời định cư tại Pháp trong sự cô quạnh của tuổi bát tuần bà Nhu vẫn mang theo bên mình tấm ảnh chụp khu biệt điện này chăng?



Biệt thự Lam Ngọc 1 hiện là một trong những điểm

tham quan ưa thích của du khách đến Đà Lạt.

Và điều ít biết về Ngô Đình Nhu



Gia đình Ngô Đình Nhu - Trần Lệ Xuân những ngày ở biệt điện

số 2 Yết Kiêu - Đà Lạt

(ảnh tư liệu tại Trung tâm

Lưu trữ Quốc gia IV ).

Khu biệt điện của Trần Lệ Xuân nổi tiếng đến mức sau ngày nền “Đệ nhất Cộng hoà” sụp đổ và anh em Diệm - Nhu chết thảm như một sự trả giá cho những tội ác khét tiếng họ Ngô đã gây ra cho đồng bào miền Nam, hàng nghìn người từ khắp nơi, có cả nhiều người Mỹ đã tìm về Đà Lạt để chiêm ngưỡng. Nhiều người cao tuổi tại “thành phố hoa” kể rằng, cùng với sự lộng lẫy, xa hoa khu biệt điện Trần Lệ Xuân còn được bảo vệ đặc biệt nghiêm ngặt. Suốt những năm dưới thời Ngô Đình Diệm, khu biệt điện này luôn có tới hàng chục cảnh sát Nguỵ túc trực bảo vệ 24/24 giờ. Một con chim lạ bay vào khu vườn cũng có thể bị bắn chết vì nghi ngờ chim đưa…bom thư! Với hàng núi nợ máu mà chế độ “gia đình trị” Ngô Đình Diệm gây ra cho những người yêu nước ở miền Nam lúc bấy giờ, thì sự đề phòng của Trần Lệ Xuân cũng là lẽ thường.

Nhưng rồi như lẽ đời nhân quả! Sau hàng loạt tội ác đẫm máu mà anh em Ngô Đình Diệm gây ra cho đồng bào miền Nam và sau những mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm của gia đình họ Ngô với giới tướng tá Mỹ, Nguỵ được giải quyết bằng máu, toàn bộ toà biệt điện đã được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sung làm Bảo tàng Sắc tộc Tây Nguyên. Từ sau 1975 khi nước nhà thống nhất và những năm tiếp theo, khu biệt điện “Đệ nhất trời Nam ” này đã không ngừng bị xâm hại, xuống cấp. Nhiều tiểu công trình kiến trúc quý giá trong khuôn viên biệt điện bị đập phá, trộm cắp. Những phòng ốc mỹ miều có khi bị người dân tận dụng để… nuôi gia súc ; hồ nước, đài sen dùng làm nơi nuôi cá ! Trước khi được trùng tu để làm Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, đi ngang khu biệt điện này người ta vẫn nhận ra sự mỹ miều trên từng lối cỏ nhưng có cảm giác nặng nề, âm khí vì sự huỷ hoại của thời gian và con người.



Một góc biệt điện Trần Lệ Xuân lúc mới xây dựng.

( Ảnh tư liệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV ).

Đầu năm 2007, Bộ Nội vụ đã quyết định đầu tư hơn 53 tỷ đồng trùng tu khu biệt điện Trần Lệ Xuân làm cơ sở cho Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV. Hiện trung tâm này đã chính thức đi vào hoạt động. Đây chính là nơi bảo quản, lưu giữ hơn 30.000 mộc bản cực kỳ quý giá của triều Nguyễn mà chính Ngô Đình Nhu những ngày mới tốt nghiệp trường Ecole Nationale des Chartes - trường đào tạo lưu trữ viên cổ tự học danh tiếng của Pháp - đã từng sưu tầm. Theo tiến sỹ Đào Thị Diến ( Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I ) trong công trình nghiên cứu “Ngô Đình Nhu - Nhà lưu trữ Việt Nam thời kỳ 1938 - 1946”, tính đến năm 2007, Ngô Đình Nhu là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất tốt nghiệp trường đào tạo cổ tự viên Ecole Nationale des Chartes. Hiện nay, trong các chuyên đề lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, có một tiểu chuyên đề về “Ngô Đình Nhu - Nhà lưu trữ”. Xét ở khía cạnh văn hoá, đây là điều khá thú vị về Ngô Đình Nhu mà chắc chắn còn ít người được biết đến từ trước tới nay.

Lưu trữ về tuyến đường sắt răng cưa duy nhất ở Việt Nam

Thể thao văn hoá - 23/09/2008
(TT&VH) - Trên TT&VH Cuối tuần 2 số vừa qua có loạt phóng sự về việc đi tìm lại tuyến đường sắt độc nhất vô nhị Việt Nam - tuyến đường sắt răng cưa dài 14km từ Krongpha đi Đà Lạt... Chúng tôi xin cung cấp thêm những thông tin và hình ảnh quý giá về tuyến đường sắt răng cưa này hiện có tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.




Cảnh thi công tuyến đường sắt răng cưa

1. Đà Lạt, một thành phố du lịch nổi tiếng, nằm ở độ cao 1500 m trên cao nguyên Langbian. Người Pháp đã khám phá ra điểm du lịch này từ rất sớm. Tuy nhiên, do địa thế tự nhiên nên giao thông gặp nhiều khó khăn. Phương tiện đi lại của hành khách lên Đà Lạt lúc đó chủ yếu bằng ô tô. Điều này hạn chế lớn đến số lượng du khách đến với Đà Lạt. Ý thức được những khó khăn trên, ngày từ năm 1898, Chính phủ Pháp đã đưa việc xây dựng đường sắt lên cao nguyên Langbian để có điều kiện khai thác hiệu quả một vùng rộng lớn.



Cầu sắt chênh vênh trên núi. Ảnh Trung Tâm Lưu trữ Quốc gia I

Đường sắt Langbian, từ Krongpha (Sông Pha) lên Đà Lạt nằm trong tuyến nhánh Tháp Chàm - Đà Lạt dài hơn 80 km. Vì lý do tài chính nên đến 1921, tuyến Langbian mới được nghiên cứu xây dựng. Ngày 26/2/1921, Toàn quyền Đông Dương ký hợp đồng với Công ty thầu khoán châu Á để nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt Sông Pha - Đà Lạt (tuyến Langbian) dài gần 40 km.

Tuyến đường này chủ yếu chạy qua những khu vực có độ cao 1500 m so với mực nước biển và có nhiều đoạn đèo, dốc nên phương án xây dựng tuyến đường này là dùng các đoạn đường răng cưa cho đường đèo dốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả tuyến cần xây dựng 2 đoạn đường răng cưa dài gần 14 km: hơn 8 km trong đoạn Krongpha - Bellevue (Sông Pha - Đèo Ngoạn Mục) và 5 km trong đoạn Da Nhim - Bosquet ( Dran - Trạm Bò).

Sau khi có kết quả nghiên cứu, khảo sát, “ngày 13-1-1923, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thông qua việc xây dựng đường sắt Langbian (Sông Pha - Đà Lạt).

2. Công trình đường sắt Langbian hoàn thành và đi vào khai thác năm 1931. Đây là tuyến đường quan trọng mở đường lên cao nguyên Langbian, một khu vực có địa thế tuyệt đẹp để khai thác du lịch. Sau khi hoàn thành và thông tuyến, số lượng khách lên Đà Lạt tăng lên đáng kể. Năm 1931 lượng khách đi đến ga Đà Lạt là 7643 lượt. Đến năm 1938, con số này lên đến 58410 lượt. Ngoài việc chuyên chở hành khách, tuyến đường sắt này đã mang lại lợi nhuận lớn nhờ việc vận chuyển hàng hoá, rau, hoa, quả từ cao nguyên Langbian xuống miền xuôi.



Một đoạn tuyến đường sắt răng cưa ở km4+950

"Trên cơ sở tuyến đường cũ với các thông số kỹ thuật trước đây, tuyến đường sắt mới cũng sẽ dài 84km, đặc biệt là trong đó vẫn có hai đoạn răng cưa 14km có độ dốc 120 phần nghìn vượt đèo Sông Pha; đi qua 5 hầm; khổ đường 1m… Theo kỳ vọng của ngành đường sắt Việt Nam thì việc khôi phục tuyến đường sắt răng cưa duy nhất của Việt Nam sẽ được hoàn thành vào cuối năm 2015 với tổng vốn khoảng 5 ngàn tỷ đồng" (theo Báo Lâm Đồng)

Đường sắt răng cưa Sông Pha-Đà Lạt được thiết kế theo kiểu Thuỵ Sĩ. Đường sắt có 3 đường ray. Một nằm giữa được thiết kế có răng cưa để tàu có thể leo dốc an toàn. Đây là kiểu đường sắt chỉ có ở Đà Lạt và Thuỵ Sĩ. Đầu máy hơi nước nhập từ Thuỵ sĩ do hãng Fuca sản xuất. Loại đầu máy này hoạt động trên cả đường răng cưa và đường sắt thường duy nhất còn lại trên thế giới. Cả tuyến Langbian được trang bị 6 đầu máy hơi nước. Nhưng chiếc đầu máy đặc biệt này đã được chính hãng Fuca mua lại.

3. Đây là một tuyến đường độc đáo về thiết kế trong lịch sử đường sắt Việt Nam . Tuyến đường này đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế từ du lịch và thương mại. Hiện nay, cả tuyến đường sắt Đà Lạt không còn dấu tích các đoạn răng cưa. Việc ngồi trên tàu lửa leo đèo, chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao nguyên Langbian và tận hưởng khi hậu trong lành nơi đây đặc biệt hấp dẫn du khách. Tuy nhiên, không biết đến khi nào một tuyến đường sắt lên cao nguyên Langbian được tái sinh để phục vụ khách du lịch?

Đỗ Hoàng Anh

(Trung tâm Lưu trữ Quốc gia)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.