GHI NHẬN TỪ TẠP CHÍ XÂY DỰNG MỚI CỦA KIẾN TRÚC SƯ ĐOÀN
MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975 – P1
Trước nhũng năm 1980, chúng tôi đã có dịp tìm
hiểu một số Công trình kiến trúc ở Sài Gòn như Thư viện quốc gia của KTS. Nguyễn Hữu Thiện,
Trường dạy nghề Đà Nẵng của KTS. Lê Anh Kim, Nguyễn Quang Thụ và một số tác
phẩm kiến trúc khác trong các lĩnh vực nhà ở của KTS Phạm Văn Tháng, dinh thự
của KTS. Ngô Viết Thụ, bệnh viện của KTS Trần Đình Quyền… cũng như nhiều tác
phẩm đáng nói đến của các nhà kiến trúc nước ngoài thiết kế cho miền Nam như
Bệnh viện Chợ Rẫy, Trung tâm sư phạm kĩ thuật Thủ Đức ớ Sài Gòn và Bệnh viện Đà
Nang.
Đã có lần dạo bước trên đường phố thành phố Hổ
Chí Minh, chúng tôi thu thập được một vài số tạp chí Xây dựng mới của Kiến trúc
sư đoàn miền Nam trước năm 1975, sau này, với sự giúp đỡ của KTS Ngô Huy Quỳnh
ớ miền Bắc và KTS. Phạm Tứ ớ miền Nam, có thể số lượng các tạp chí Xây dựng mới
đó gần như đầy đủ.
Thật ra, từ nhiều năm qua, khi đọc lại những tờ
tạp chí Xây dựng mới, xuất bán khoảng hơn 10 số, với gia đồng tiền miền Nam lúc
đó chí 15đ, 20đ một sô, với tư cách là một nhà tư liệu học hay một nghệ sĩ kiến
trúc, hoặc một người nghiên cứu lý luận hay lịch sử kiến trúc… chúng tôi hay
các bạn – đều sẽ rất ngạc nhiên, thậm chí sẽ kinh ngạc, là làm sao mà chân dung
nèn kiến trúc miền
nam lại có thê từ
những sô báo đó hiện lên rõ nét như thế.
Một tác phẩm kiến trúc có thể bển vững về mặt
thể chất và tinh thần tới hơn 50, 70 năm hay hơn nữa. Một ấn phẩm kiến trúc
cũng tương tự, thậm chí sức sống của nó có thể làm cho nó tồn tại lâu dài.
Chúng ta thấy gì, hiểu gì, ghi nhận được những
gì từ trong những sô tạp chí Xây dựng mới xuất bản thời kỳ trước và sau nhũng
năm 1960 đó. Chúng tôi thấy hàm lượng thông tin từ các số tạp chí Xây dựng mới
có khả năng trá lời cho chúng ta những vấn đề sau đây:
– Lực lượng kiến trúc sư miền nam lúc đó như thế nào và chân dung một số kiến trúc sư tiêu
biểu ra sao.
– Ó miền Nam lúc đó, xã hội và giới kiến trúc đã
quan tâm đến quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị và chỉnh trang đô thị như thế
nào.
– Kiến trúc nhà công cộng và kiến trúc nhà ở
miền Nam lúc đó, phát triển như thế nào. Hình thức kiến trúc và vật liệu, kết
cấu thời gian đó như thê nào.
– Thực tế cuộc sống của nghệ thuật kiến trúc
hiện đại còn gắn kết với di sản, cảnh quan, du lịch, thời trang và thị hiếu
thẩm mỹ tốt chứ không nên chỉ dừng lại ở bản thân kiến trúc và đô thị.
– Kiến trúc thế giới lúc đó có gì mới.
--------------------------
GHI NHẬN TỪ TẠP CHÍ XÂY DỰNG MỚI CỦA KIẾN TRÚC SƯ ĐOÀN MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975 – P2
Đảm nhận được việc trả lời nhũng câu hỏi trên
tốt hay không tốt, không những là nhiệm vụ của giới kiến trúc miền Nam, mà còn
thê hiện trình độ nghề nghiệp và trình độ văn hoá của kiến trúc sư miền nam lúc
đó. 5 vấn đề trên, thòi kỳ nào cũng quan trọng, hiện nay hay trong tương lai,
chúng sẽ còn ám ảnh và đòi hỏi các nhà kiến trúc việt nam đương đại phải nghiên
cứu và giải quyết.
Ngân hàng Công thương Việt Nam. KTS. Nguyễn Quang Nhạc
Về lực lượng kiến trúc sư miền Nam đương thời,
qua danh sách đầy đủ và nhũng phản ánh về cách hành nghề trong tạp chí, ta thấy
có thể dùng các tính từ là “tương đối hùng mạnh” và “khá dính kết” để miêu tả
đoàn thể nghề nghiệp này.
Lực lượng Kiến trúc sư đoàn miền Nam lúc đó đến
từ 3 nguồn: một là các kiến trúc sư tốt nghiệp Trường cao đắng Mỹ thuật Đông
Dương Hà Nội trước năm 1945, hai là các kiến trúc sư tốt nghiệp ớ Pháp về
khoáng những nãm 1950, ba là các kiến trúc sư miền Nam được đào tạo tại Viện
Đại học Sài Gòn.
Thật ra, các kiến trúc sư tốt nghiệp Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương hành
nghề ở Sài Gòn từ sau 1954 đa phần “được định hình” từ đào tạo kiến trúc từ
trước, sau năm 1937, là giai đoạn “thịnh kỳ” của Trường cao đắng Mỹ thuật Đông
Dương.
Các kiến trúc sư Võ Đức Diên, Nguyễn Thuỵ,
Nguyễn Gia Đức, Nguyễn Bá Chí, Nguyễn Hữu Thiện, Ngô Khắc Trâm, Vĩnh Dự, Phạm
Gia Hiến, Hoàng Hùng… đều vừa là những cây viết tích cực trên tạp chí Xây dựng
mới (là thành viên sáng lập hoặc trong Ban biên tập), lại vừa là các kiến trúc
sư hành nghề năng động ngoài đời.
Số kiến trúc sư ớ nước ngoài về (đa phần ở Pháp) là Ngô Viết Thụ, Nguyễn Quang
Nhạc, Nguyễn Đình Quyền… đã làm tươi mới thêm cục diện kiến trúc miền Nam bằng
các tác phám hiện đại chủ nghĩa đích thực, một số các tác phẩm tốt của các kiến
trúc sư này, kê cả các phương án giàu tính văn hoá và các quan điểm kiến trúc
của họ… đã được giới thiệu khá đầy đủ trên tạp chí Xây dựng mới. Các tác phẩm
đó đã phát huy tác dụng cho đến bây giờ.
Lực lượng kiến trúc sư tốt nghiệp từ Viện Đại
học Sài Gòn thực sự đóng góp cho nền kiến trúc miền Nam không khỏi bị ảnh hưởng
sâu đậm bởi quan điếm kiến trúc của các kiến trúc sư thế hệ trước. Các quan
điểm đó đã được phát biểu trên các tờ tạp chí Xây dựng mới. Họ được đào tạo
theo quan điểm cứa Beaux – Arts Pháp cho đến tận sau này. Nhiều tác phám của
sinh viên của Viện Đại học Sài Gòn đăng trong “Tuyến tập các Đồ án kiến trúc
của Viện Đại học Sài Gòn” cũng là bộ sách đáng đánh giá cao.
Theo tôi, có thể thuật ngữ “Quy hoạch đô thị”
(Urbanisme, Urbanism) và cả “Thiết kế đô thị” (City Design) đã vào miền Nam rất
sớm, bằng chứng là đọc các bài “Sự thành hình cứa các thủ đô” (số 9), các bài
về “Khu Thú Thiêm” – một thành phố tương lai” (đăng trên nhiều số liền) và bài
“Vài nét đại cương về chỉnh trang đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn” (số 9 – giới
thiệu tư tướng Quy hoạch của Ngô Viết Thụ). Khu Thủ Thiêm lúc bấy giờ đã được
làm chi tiết với mô hình phương án quy hoạch được điều phối bới một trục chính
rất mạnh. Quan điểm quy hoạch khu Trung tâm Sài Gòn lúc bây giờ qua cấc dự án
thường được tạo thành bởi các trung tâm hành chính thương mại hình bán phang,
đột xuất vươn lên các cao ốc, liệu có phải là “tiền thân” của “Thuận Kiều
Plaza” và các dự án mang tính quần thể cao ở Sài Gòn thời diêm hiện nay ?
Trụ sở I DECAF. KTS. Nguyễn Quang Nhạc
Từ các đồ án còn trên giấy và có giá trị, đến
các công trình đã xây xong… về nhà ớ, “cư xá”, “biệt thự lầu”, “nhà ớ tiền
chế”, “nhà liên kế rẻ tiền cho công chức”, “nhà cao”… và về nhà công cộng, tiêu
biểu là khách sạn Caravelle ở Sài Gòn (tác phẩm của KTS Nguyễn Văn Hoa) và nhà
máy tiêu biểu là Đồ án VINATEXCO Gia Định (của Nguyễn Văn Hoa và Phạm Văn
Thâng) và đồ án Nhà máy Chỉ sợi Đà Nẵng (tác phẩm của KTS Lê Anh Kim). Việc
tiếp cận với vật liệu mới, kết cấu mới (một số vật liệu cao cấp du nhập vào) là
tiền đề vũng chắc đế có một số tác phám tốt ờ miền Nam. Thậm chí gara ôtô cao
tầng trong đô thị cũng được đón đầu nghiên cứu (giới thiệu tác phẩm nghiên cứu
Parking cao tầng của KTS. Võ Toàn Công).
Trùng tu kiến trúc, tham quan du lịch, thời
trang… là những mảng màu khác của cục diện kiến trúc chung cũng được đề cập đến
dưới các cái tên và bài khác nhau như “Bảo tồn cổ tích”, “Đường đi ven biển” và
“y phục phụ nữ”.
Quan điểm và tư tướng kiến trúc cúa Le Corbusier
và Frank Lloyd Wright, cũng như Join Utzon và Frei Otto được trân trọng giới
thiệu trên tạp chí. Đọc trên các tờ tạp chí này, chúng ta còn thấy lời kêu gọi
“thành lập Hội Xây dựng”, việc phổ biến “Luật Đất đai” và giới thiệu cách làm
nội thất nhà ớ đô thị, nhà ở nông thôn.
Qua tạp chí Xây dựng mới của Kiến trúc sư đoàn
miền Nam trước năm 1975, tôi thấy hiện lên một bức tranh toàn cảnh rất bổ ích
vể kiến trúc miền Nam lúc đó, với những tác phẩm kiến trúc từ mộc mạc đến sang
trọng, với nhũng quan điếm kiến trúc không kém phần nhân văn; kiến trúc – với
tư cách là một nghệ thuật xã hội – dù có bị hạn chế bởi chính trị – vẫn có
những nét tiến bộ riêng của nó.
.
.
.
.
bài trên trong tạp chí Xây Dựng Mới của Tổng Nha kiến Thiết ấn hành, do thầy Lê văn Lắm làm tổng giám đốc. Anh Nguyễn hoàng Phố KT69 đã có nhã ý scan tặng cho anh chị em đọc nhớ những ngày xưa … kiến trúc Saigon, gần nửa thế kỷ trước. Cám ơn anh Nguyễn hoàng Phố.
http://tmddesign.multiply.com/journal/item/914
Tạp chí đã có:
- 1957- số 10-11- số ra mắt.
- 1958- số 4- Đường đi ven biển
- 1958- số 5- Gia cư
- 1966- số 1 bộ mới- Đại hội kiến thiết.
- 1967- số 3- Kiến trúc Việt Nam
- 1967- số 5- Gia cư
Hồi thứ Nhứt
Từ thuở trước, khi trường ta thưa thớt,
Ðến ngày nay, lúc đào tạo đại trà...
Thuở khoảng thập niên 60, có hai thầy Tàu đi ngang trường Kiến trúc. Ngắm nghía hồi lâu, một thầy buộc miệng nói: “Cuộc đất thật hay, tiếc rằng nhân tài thưa thớt quá!” Ông kia bấm đốt tay rồi thở dài: “Khi nào bên kia đường có nhà xây, tiên sinh sẽ thấy sinh viên trong trường đông đảo. Nhưng mà...”
Một người đứng gần tình cờ nghe được, tò mò bèn đường đột hỏi tại sao. Một ông bực mình đáp: “Thiên cơ bất khả lậu, nị đừng nên biết nhiều, chỉ thêm hại mình mà thôi”. Rồi hai ông ngoắc taxi rủ nhau lên xe đi mất.
Câu chuyện chỉ có thế, được truyền rỉ tai nhau. Nhưng vì tam sao thất bổn riết không ai thèm để ý. Chỉ biết rằng trong những năm ấy, sinh viên trong trường rất ít. Khi đã vào trường thì học hành rất kham khổ vì thầy nào thầy nấy cực kỳ nghiêm khắc. Nhiều anh than rằng chắc thầy sợ đệ tử ra trường sẽ giựt mối của thầy nên thầy “tiên hạ thủ vi cường” cho chắc ăn. Có tay độc mồm độc miệng dám khẳng định trường dùng chính sách “ngu dân” của thực dân mà bóp chẹt “đầu ra” để duy trì chủ nghĩa độc quyền Kiến trúc. Ôi thôi thì mồm miệng thiên hạ ai chấp làm gì. Chân lý chỉ chứng minh rằng bấy giờ hễ ai ra trường thì người nào đáng mặt người đó. Vì họ đã phải vượt qua cái ải tốt nghiệp trước một hội đồng hệt kiểu “Thập bát La Hán trận” của Thiếu Lâm tự trước khi xuống núi vậy.
Cái học thì muôn trùng mà sức người thì có hạn. Anh nhà Kiến phải lướt qua hàng chục môn lặt vặt không cần thiết lắm nhưng không học thì không xong. Còn vẽ thì ôi thôi! “Cày” quanh năm suốt tháng. Cứ bù đầu trong họa thất hết hội họa, analogue [1] tới họa cảo rồi đồ án này đồ án nọ. Nai lưng “charrette” [2] làm đêm mà không kịp giờ nộp bài cho thầy là chuyện thường ở họa thất. Gặp anh “trưởng tràng” họa thất cũng có quyền hành dữ dội kiểu “thương cho roi cho vọt”. Thêm anh tay sai “thiên lôi” sẵn sàng trừng trị mấy “ne” nào cứng đầu. Dù là hết lòng nâng đỡ đàn em song mấy ảnh cũng ưa bắt đám lính mới phải tuân lịnh một cách tuyệt đối. Chỉ đơn giản là “bắt gì làm nấy” cho đúng nghĩa làm “ne” hay nói huỵch toẹt móng heo ra là làm “mọi” (nègre).
Ne ơi ta bảo ne này,
Ne vô họa thất ne “cày” cùng ta,
Trưởng tràng có luật đưa ra,
Kêu gì làm nấy, liệu mà biết khôn,
Bắt cởi truồng, phải cởi truồng,
Kêu nằm “quậy cỏ, liệu hồn “rendu” (thu hoạch)...
Anh nào không tuân theo thì đừng hòng làm dân kiến trúc, liệu hồn mau cuốn gói đi học trường khác. Mới lần đầu thì nghe ghê lắm nhưng từ từ quen rồi thì cũng thấy thường tình, nhờ vậy về sau tình cảm anh em càng thắm thiết. Mà tục lệ này chưa từng có ở trường đại học nào khác. Cảnh vừa học bạn, vừa học thầy theo tính dân chủ làm không khí họa thất lúc nào cũng thân mật kiểu gia đình Kiến trúc. Người viết bài này năm 1993 có lượm một bài thơ tả sinh viên kiến trúc trong hội trường như sau, tiếc thay đến nay chưa biết tên tác giả:
Sinh viên kiến trúc thực là hay,
Miệng “nổ”, chạy sô suốt cả ngày,
“Trả nợ” xanh da, quầng cặp mắt,
“Binh bài” quì gối, chống hai tay.
Cà phê, thuốc lá tha hồ hút,
Rượu đế, bia ôm mặc sức say.
Năm năm quần thảo không biết mệt,
Càng già, càng dẻo lại càng dai.
Càng già, càng dẻo lại càng dai,
“Nử Kiến” nhà ta chẳng kém ai,
Rotring một cán cầm đúng điệu,
Template mấy vòng quậy mê tay.
Sáng binh, chiều vẽ “lên tới bến”,
Một nử mấy ne (nègre) quậy “mát trời”.
Càng ham đòi hỏi, ne càng khổ,
Mỏi gối, đau lưng lại phồng tay.
Trước trường là một công viên thoáng mát. Sau giờ “lên” bài căng thẳng ban ngày thì vài anh tranh thủ ban đêm chạy ra công viên để gặp gở hẹn hò một tí ti với mấy chị em cho vơi nỗi “cô đơn nơi tiền đồn”. Yêu nhau lắm cắn nhau đau, tiền bạc trả sau sanh nhiều rắc rối với cảnh “xù tiền” chạy trốn thẳng vô trường làm mấy em bên ngoài đứng vẩu môi đỏ tru tréo, chửi rủa không từ ai, trong đó có một “lời nguyền độc địa” nghe là thất kinh: “...rồi tụi bây khỏi mong ra trường”. Thành ra nhiều anh trong trắng rớt oan mạng hoài vì lời nguyền “lạc đạn” ấy. Họa ứng nhãn tiền cả chục năm là thấy đậu thì ít mà rớt thì đông vô kể. Thời ấy chưa có cảnh trò đi năn nỉ thầy lộ liểu như ngày nay vì ở miền Nam nhứt là ở Sài gòn bấy giờ chưa ai đủ bản lãnh được gọi là cao thủ trong “nghề” này. Mấy thầy đã được ăn lương no đủ thì đừng ai hòng mà đi đêm để mang họa lâu dài về sau. Có anh tên Q. ì ạch thi rớt mãi, tới khi đậu được ra trường bèn hận đời tức khí quăng tập sách ra gốc cây trứng cá sân trường đái xè xè lên cho bỏ ghét! Gặp thời chiến, nhiều anh cố ý ráng trây thời gian trong trường để hy vọng trốn lính ngày nào hay ngày nấy. Kết quả khi hòa bình đến, trong hồ sơ ghi rõ có anh bám rễ trong trường kỷ lục là 21 năm! Còn trung bình thì cũng là 5 năm, 10 năm. Sau đó, nhà trường phải dùng biện pháp “thanh lý” cho ra lò hết để rảnh tay nhận “hàng mới” thì số lượng Kiến từ ấy về sau “được nước” bắt đầu tăng rõ rệt. Bản kiểm điểm của ban giám hiệu trường Ðại học Kiến trúc (ÐHKT) về việc thực hiện nghị quyết 28-29 của thành ủy và UBNDTP có một đọan ghi với một sự tràn trề lòng tự hào dân tộc Kiến. Nguyên văn như sau:
“...Trong 2 năm qua, nhà trường đã tổ chức tốt nghiệp trên 200 sinh viên – bằng số lượng trên 30 năm mà trường ÐHKT Sài Gòn đã tổ chức tốt nghiệp...”
Kinh không, thưa bà con?
Ban đầu người ta dùng phương cách 1 “mở đầu vào, bóp đầu ra”, dùng giáo sư nhằm phong tỏa sinh viên. Sang thời bình, thấy kế sách này nếu duy trì hoài thì kềm hãm công danh mấy anh “khai quốc công thần” quá cỡ nên kế sách đào tạo nhân tài chuyển sang phương cách 2 “bóp đầu vào, mở đầu ra”, lấy sinh viên phong tỏa lại mấy ông giáo viên (khi ấy mấy ổng bị giáng chức giáo sư gần hết cả rồi). Chỉ như thế mới hy vọng đền ơn đáp nghĩa đám công thần và con cháu của họ. Ban đầu, kế sách có kết quả đặc biệt. Phe công thần được ưu đãi như dân thời Nghiêu Thuấn. Hễ có thi là sẵn sàng “chấp” đối thủ mình vài ba điểm và vẫn được xét đậu ngọt xớt. Tha hồ nhẹ bước hoạn lộ. Gặp anh gốc gác trong rừng, hay là dân tộc ít người thì càng hay hơn nữa vì trình độ càng thấp thì phải được bù trừ bằng thật nhiều ưu tiên trong đường khoa bảng. Hỏi vậy thì ai mà dám chê trách thi cử không bênh vực kẻ yếu. Khi ấy anh sĩ tử thuộc gien trí thức, học quá giỏi xưa nay thì phải nhường nhịn cho kẻ dở hơn mình ít nhiều điều kiện cho công bằng. Một bên chấp điểm, bên kia chấp lý lịch. Ðiểm có thể thay đổi còn lý lịch thì có sao để vậy. Rốt cuộc rồi mấy anh “lý lịch đen” phải túi bụi học luyện thi, từ lớp 10,11 mà vẫn rớt hoài rớt hủy. Ðại đa số phải nhắm mắt liều mạng “chơi” kiểu đấu cờ tướng chấp Ðế Thích 2 xe và chịu ép đi nước hậu. Thấy tội nghiệp mấy anh ấy quá, nhiều lúc hội đồng tuyển sinh thương tình buộc lòng phải thông báo kết quả thi của mấy ảnh trước khi nộp hồ sơ để mấy ảnh khỏi thi mất thì giờ vàng ngọc của tuổi trẻ. Còn mấy anh nòi “công thần” luôn có sẵn “ba đời cùng thi, làm gì chẳng đỗ”. Trò “3 trong 1” này đi trước chiêu tiếp thị ngày nay cả chục năm!
Cuộc thi vũ môn luôn kết thúc tốt đẹp. Sinh viên cuối cùng cũng gồm nhiều thành phần giai cấp được hòa đồng sàng lọc một cách công bằng và âm thầm qua các tiêu chuẩn bên lề trình độ học vấn. Mà đã đậu vào trường rồi thì được trường cưng như trứng. Mỗi lúc vẽ bài thì cứ vô giáo vụ lãnh giấy về vẽ. Vẽ xong một mặt, tận dụng luôn mặt sau cho một đồ án nữa thành thử chẳng bao giờ sợ khan hiếm giấy. Hàng tháng lại được phòng đời sống cấp gạo, thịt... về tẩm bổ tăng cường sinh lực. Ðể giúp sinh viên đỡ túng thiếu, phòng tài vụ được lệnh phát cho từng anh học bổng để xài vặt. Tệ lắm cũng mua được vài gói thuốc “có cán” hút cho thơm râu. Thì thôi, nếu không đáng công đèn sách thì cũng đáng công dũng cảm chiến đấu dành chức “vô địch thiên hạ” mà bia miệng còn lưu lại.Vì “bóp đầu vào, mở đầu ra”, đã là sinh viên thì tội chi học nhiều cho khổ. Xưa thì khác, bù lại nay cứ vô tư chơi nhiều, đằng nào thì cũng ra cũng làm giám đốc, tệ lắm thì cũng có bằng KTS lấy le với hàng xóm.. Sinh viên vào tương đối nhiều hơn xưa song vẫn còn thưa thớt. Cảnh trường như một thiên đàng thu nhỏ. Nhớ những năm sinh viên bị điều đi gác trường ban đêm thì sân trường sẵn cây xoài, vài cây mít tha hồ cho sinh viên thưởng thức trộm (vì ăn vụng ngon miệng hơn ăn công khai nhiều). Trời nóng thì có sẵn xe hơi của hiệu trưởng để cho vài anh liều mạng cạy cửa vào mà bật máy quạt ngủ suốt đêm; thây kệ ngày hôm sau xe cạn bình hết chạy làm hiệu trưởng kẹt việc tức điên mà không làm gì được. Vẽ bài tuy không căng thẳng như xưa nhưng cái họa charette thì vẫn còn đó. Cũng may là thầy sau này không dám thẳng tay đánh rớt mấy sinh viên “công thần”. Hễ ông nào đánh rớt thẳng tay thì sinh viên sẽ la làng cho ban giám hiệu quở trách chê thầy dạy dở vì làm điểm thi đua và thành tích báo cáo của trường bị sút giảm. Hơn nữa nhà trường lãnh đào tạo hệ B, chuyên tu, tại chức dùm cho các sinh viên từ địa phương xa xôi nên bằng mọi giá phải làm sao cho họ tốt nghiệp đàng hoàng. Nếu không đào tạo được thì mất mặt trường. Tất nhiên phải ráng dàn xếp yêu cầu mấy thầy nhắm mắt cho điểm kha khá để cho “vui lòng khách đi” mà duy trì uy tín và hạ quyết tâm đập tan ý đồ xấu xa của câu xuyên tạc: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Chưa hết, trường ta còn nhận các du học sinh từ nước láng giềng Cam-pu-chia để mở rộng ảnh hưởng. Cái hay hơn các trường đại học khác trên thế giới là không cần biết rành tiếng bản xứ vẫn ra trường được và có bằng cấp đàng hoàng như ai với chất lượng “hữu nghị”. Do vậy, nhiều nhóm ở bển sang học chỉ cần một người hiểu tiếng Việt sơ sơ là có thể kèm cặp níu kéo đồng đội mình lên lớp đều đặn. Khách hàng được xem là vua nên tiêu chuẩn lên lớp của du học sinh được ưu đãi hơn sinh viên bản xứ. Chỗ ở của mấy anh luôn ngon lành hơn ký túc xá “phe ta”. Tiền bạc thì bên nước mẹ gởi sang xài thoải mái, chơi “sộp” hơn cả sinh viên nội địa. Gặp mấy năm có phong trào buôn lậu xe gắn máy ở biên giới nhộn nhịp, có anh lợi dụng cuối tuần chạy ra cửa khẩu đem xe Honda về Sài Gòn bán kiếm tiền tiêu vặt. Mấy thầy hay sinh viên có nhu cầu sắm xe cộ cứ tìm nhờ mấy ảnh để yên tâm tin tưởng còm-măng (order) được hàng tốt mà không sợ bị lầm hàng “luộc”. Từ đó mới thấy tại sao thầy cô bạn bè trong trường luôn quý mến mấy du học sinh này. Lúc tốt nghiệp càng được dể dãi hơn. Ấy là chuyện về sau. Ðể bảo đàm quyền lợi bằng cấp cho các sinh viên nên ban giám hiệu phải dùng biện pháp kinh tế để phong tỏa tính nghiêm khắc của mấy thầy. Trước mắt là lương mấy thầy bị cắt giảm hơn xưa. Thầy cũng lãnh “tiêu chuẩn” thịt, sữa, gạo, khoai lang... hàng tháng với mức chênh lệch về chất lượng lẫn số lượng chẳng hơn trò bao nhiêu. Thầy cũng có lúc bị bắt đi gác đêm, hay xách cuốc đi trồng khoai, bắp cho có kinh nghiệm sản xuất dân gian, cũng vác gậy đi tập quân sự quay trái quay phải, lăn lộn bò lết cho thấm cái khổ ải chiến tranh mà yêu chuộng hòa bình. Ông nào “ba-gai” thì đừng trách khi bị cắt giảm tiêu chuẩn hay cho nghỉ việc. Thỉnh thoảng nhà trường thương tình cho thầy đi nghỉ mát bồi dưỡng sức khỏe để tiếp tục lên bảng làm nghề ”kinh doanh cháo phổi” thêm phát đạt. Nghĩ lại nhà trường cũng lao tâm lao lực lo cho từng người mà lúc nào cũng bị thiên hạ đàm tiếu.
Lo mãi cũng kiệt sức, nếu không lầm, thì đến khi ấy trong trường chỉ còn lại dàn hiệu trưởng, hiệu phó là có cái bụng “tương đối» kha khá hơn các thầy khác mà thôi. Còn các tiêu chuẩn cho thầy trò dần dần bị thay thế bằng tiền “bù lỗ” cho nhẹ gánh. Từ đó nhân sự ở phòng Ðời sống cũng được “thanh lý” để giảm ngân sách để đáp ứng thời đại “tiền-lương-giá”. Mãi đến 1987, sẵn tình hình năm ấy có nhiều con ông KTS đi thi mà năm ấy cái lạ kỳ nhứt là đề thi cực dễ mà đa số không ai làm được. Nhiều phòng thi buổi đầu đã vắng mặt vì bỏ cuộc hết gần phân nửa. Tình hình thi rớt đông đảo thấy rõ (năm ấy tỷ lệ 1 chỉ chọi khoảng 60 – còn quá ít so với ngày nay). Từ xưa nay vốn luôn bị ám ảnh tin xuyên tạc “thi rớt sẽ bị bắt lính” nên nhiều ông Kiến cha vì quá thương con phải đồng lòng vận động lên trên Bộ khẩn cấp lập thêm “hệ hợp đồng” (hệ “B”). Hệ này sẵn sàng mở toạc cửa thu nhận tất cả những ai có nhu cầu học kiến trúc mà trước hết là đám con mấy ổng, rủi có rớt thì cũng còn “Sinh môn” mà thoát. Ðiều kiện đơn giản là: bất cứ ai được ông kiến trúc sư (KTS) nào trong Hội KTS chịu đỡ đầu giới thiệu và có tiền đóng thì đương nhiên trở thành sinh viên Kiến trúc ngọt xớt. Mà tiền học thì bấy giờ chi trả dựa trên cơ sở giá gạo. Ác nghiệt ở chỗ, năm ấy vào lúc đóng tiền thì giá gạo biến động vùn vụt. Nhiều “Kiến tơ” lo chạy tiền trối chết. Mừng thay trường chưa dựa trên cơ sở giá gạo Nàng Hương! Ơn Trời còn thương chúng sanh nhà Kiến. Có năm sợ sinh viên đóng tiền trễ, nhà trường yêu cầu ai đóng trể phải kèm thêm “lãi suất tiền trường” làm báo chí phải động lòng can thiệp cứu giúp mấy sinh viên. Dù sao thì kết quả thu nhập của trường vẫn luôn vượt chỉ tiêu làm ngân sách nhà trường dồi dào đáng kể. Mấy thầy cũng có dịp cải thiện hầu bao riêng tư một cách hợp pháp mà trò cũng vui vẻ chi trả rẹt rẹt không than vãn trước sự hợp tác đôi bên cùng có lợi. Dân số trường Kiến trúc nhờ thế tăng ồ ạt. Bãi xe của trường xưa chỉ lèo tèo vài chục chiếc xe đạp. Nay thì từ sân, sảnh, ra tận cổng trường tràn ngập xế nổ của thầy và trò. Lâu lâu có thêm vài chiếc xế hộp xịn hơn cả tiêu chuẩn đi lại của hiệu trưởng đậu chễm chệ trong sảnh nhà trường. Thấy nhiều thầy “lên đời” xe làm mấy anh em nhà nghèo ngứa mắt ganh tỵ rồi bêu xấu không ít.
Sự chuyển biến từ cái thế hệ “AK” thời hậu chiến cần sự nâng đỡ của nhà trường đến thế hệ “a-còng” ngày nay thừa tiền lắm của tài trợ vỗ béo cho ngân sách nhà trường làm bộ mặt trường ta tươi mát hẳn ra với một sự bội thu sinh viên và bội chi KTS chưa từng thấy.
Cuối thập niên 50, cả trường hàng năm chỉ có khoảng chưa đầy 50 sinh viên. Ðến nay Số Kiến ra lò đến nay trung bình khoảng gần 200 sinh viên/khóa. Nếu dựa theo bảng kiểm điểm báo cáo của nhà trường như trên đã ghi thì trong 4 năm cuối thế kỷ 20 thôi, số sinh viên ra lò đã tương tương 100 năm đào tạo của ÐHKT Sài Gòn cũ.
Gớm chưa các cụ?
Sự tiên tri của hai ông thầy Tàu đã ứng nghiệm rõ ràng. Khi nhà nước cho xây nhà thi đấu Phan Ðình Phùng xóa sổ công viên “tươi mát” đối diện thì số lượng sinh viên Kiến tăng rõ rệt. “Lời nguyền độc địa” ngày xưa ở xóm công viên ấy đã được hóa giải triệt để kể từ ngày mấy “chị em” không còn đất hành nghề nữa.
Việc học trong trường ra sao, cứ xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi thứ Nhì
Phòng giáo vụ làm nổi cơn gió bụi
Ðời sinh viên gặp lắm nỗi truân chuyên.
Báo trước với anh em, hồi này hơi dài, xin chịu khó đọc cho hiểu phần nào cảnh đời sinh viên éo le đủ thứ. Dù nói hoài cũng không hết!
Sau một thời gian đầu lo thủ tục nhập học: cắt hộ khẩu, cắt công nghệ phẩm, cắt sổ dầu, sổ gạo, sổ lương thực... để chuyển vào trường (kéo dài đến cuối thập niên 1980) thì bắt đầu nhập học. Mấy thủ tục trên dần dần lọai bỏ khi chế độ đào tạo đại trà của trường phát triển sau này. Chương trình học so với ngày xưa không khác bao nhiêu. Có chăng chỉ thêm mấy môn học chính trị chính em, Nga văn, quân sự cho hợp thời đại. Thầy mới khá đông, thầy cũ đa số “ra đi” với mọi hình thức bằng nhiều lý do tế nhị. Sự chuyển hệ làm nội bộ trường hơi lục đục theo đúng công thức của thời “quá độ”. Mấy thầy của “hai hệ” đá nhau âm ỉ. Phe này chê phe kia dốt, hay là chê phe nọ khó khăn kỳ cục... vân, vân. Ðặc biệt có trường hợp cô này “chôm” giáo án thầy kia để dành dạy mấy môn quan trọng, bất chấp mình có chuyên môn hay không, với hy vọng có một chân vô “biên chế ” cho yên bụng. Thương cho đám sinh viên bị nạn “oanh kích tự do” mà lãnh đạn trọn ổ. Nhiều anh học theo “hệ” này tất nhiên bị “hệ” kia đì sát ván cho bỏ ghét.
Tính truyền thống của trường Kiến trúc qua cảnh SV “ne” bài nhau vẫn được duy trì. Khi mà nữ SV đã có mặt trong trường thì việc này lại một phần biến chất thành cảnh “Lê Lai cứu chúa” tức là quân tử xả thân từ vẽ bài “phụ” sang vẽ bài “dùm”cho mỹ nhân tận tình. Nếu trường có bắt trả bài chắc chàng cũng “dốc hết tình này” để trả bài vô điều kiện phục vụ đòi hỏi khắt khe của nàng. Khổ nổi là khi bài mình lo chưa nên thân mà phải lo “ngậm bồ hòn làm vui” ôm sô dùm bài của người khác. Nên cảnh thi rớt “đồng quan đồng quách” là thường tình. Hễ là sinh viên Kiến trúc là biết cảnh :
“Tiếc thay, anh còn sa-rết hòai, đồ án nợ chưa dứt nên lận đận truân chuyên...” (lời một bài hát đã cải biên)Năm đầu tiên vào học, người ta hay nói thiên hạ thường “lọt lỗ chân trâu mà chết”. Vì môn chuyên môn thì học dễ trong khi môn phụ thi cực kỳ gian nan. Có lẽ mấy thầy bị tự ái khi thấy môn học của mình ít ai thèm ngó tới nên phải làm mình làm mẩy tý cho vui dù chẳng “giết” (đánh rớt) ai cả. Có chăng chỉ hù chơi cho vui lần đầu rồi lần sau thi lại cũng cho “qua” tuốt tuồn tuột. Theo hồi tác giả đi học, tác giả cũng phải nhiều phen khiếp vía. Nhứt là môn đại số tuyến tính (năm 1) và tin học (năm 5) của thầy Q. Trong lớp thầy luôn “sạc” lia lịa nếu thấy anh nào có bộ vó học hành lơ mơ. Nhiều “thằng cha, con mẹ” (theo định nghĩa sinh viên của thầy) phải chết rét vừa điếc con ráy với những bài toán đúng nghĩa ma-trận. Lúc thi có lúc một lớp (40 người) chỉ có 2 người đậu. Nhưng thi lại lần 2 thì ai nấy cũng đậu tệ lắm là 5vv (5 vớt “vớt”). Vậy mà ai cũng thương và nhắc tới thầy hoài, chỉ vì cái “Tâm” thầy tốt.
Trong các phương pháp dạy học thì ngòai lý thuyết và thực hành, để sinh viên có thêm kinh nghiệm ngoài đời , một sáng kiến một phương pháp vô tiền khoáng hậu được giảng dạy một cách âm thầm mà ít người ngoài biết: môn “Hậu Quả Xây Dựng”. Người sinh viên không cần biết thầy mình là ai, không cần thi cử, chỉ cần nhìn rồi từ từ “ngộ” ra chân lý. Chẳng có ai phát minh hay tìm ra môn học này. Tất cả đều được phát hiện một cách ngẫu nhiên. Lịch sử của nó như vầy:
Từ ngày khối phòng học đầu tiên được xây vào năm khoảng 77 với một thời gian đáng kể gần 2 năm.. Sau khi thi công xong thì công trình bị thấm dột đủ thứ giúp cho đám Kiến con có thời gian dài chứng kiến học hỏi mọi thứ tệ hại trong xây dựng để sau này liệu mà tránh. Ðúng theo nguyên tắc kiểu binh thư Tôn Võ: “Nếu không biết cái lợi nên làm thì cũng nên biết cái hại để mà tránh”. Một thầy buộc lòng phải giải thích huỵch toẹt cho đệ tử: “Không phải nhà trường không biết cái sai nhưng nhà trường vẫn cố ý làm sai để chỉ dạy cho mấy anh tường tận đó!” Hay chưa?
Chưa hết, năm 1983, sẵn dịp một sản phẩm do chính trưòng ta thi công bên đại học Kinh tế bên cạnh bị sập chết người vừa sau khi gỡ cốp-pha gây chấn động dư luận, anh em sinh viên được dịp hiếm có học một kinh nghiệm ngàn vàng và cũng được “dợt” qua nỗi kinh hoàng do “bể độ” để tập luyện giữ vững tinh thần cho quen, cho biết với người ta. Người viết không gọi việc này là sự cố hay vụ án vì kết quả chẳng thấy vị chóp bu nào đi tù cả. Vì yếu tố bền vững trong nguyên lý đã là chân lý và chân lý thì bắt buộc phải đúng ở khắp nơi. Còn vị nào bị đổi công tác thì tức là được lên chức đổi đời nhanh chóng. Phải chăng đây là cách để trả công “khéo” cho một ý tưởng mới trong giảng dạy, một cống hiến to lớn vào sự nghiệp xây dựng???
1989, không biết có một ông nào nổi hứng chính thức đưa ra luật “cấm ne” kèm theo thêm quy định chỉ cho sinh viên trả nợ trong 2 ngày bất kể đồ án lớn nhỏ. Việc đã làm cho mấy thầy lão làng chân chính phản ứng không ít. Chỉ tiếc một điều là vì mấy lão không còn quyền hành như xưa nên kết quả chống đối chỉ là một cuộc “diễn tập đấu tranh” sương sương không thu kết quả gì. Sinh viên lãnh đủ một trò “thí nghiệm chiến trường” của phòng giáo vụ mà chẳng thấy ai dám can thiệp vô vụ cứu giúp. Trong họa thất thỉnh thoảng có sự “càn quét” của nhân viên giáo vụ đi bắt mấy anh “ne chui”. Rồi còn thêm cái trò hú nhau làm ám hiệu khi thấy “giặc tới” để rồi mấy “ne chui” hè nhau chạy trốn như trò chơi “dọn dẹp lòng lề đường”. Thương chú S. hồi đó quản lý họa thất thấu hiểu truyền thống xưa nay của dân Kiến mà lắm lúc thông cảm nhẹ tay với mấy “ne”. Chú không bao giờ nặng tay với ai cả mà lại luôn phải nhẫn nhục chịu mang tiếng là “tay sai” của giáo vụ. Dù bề ngoài thì lâu lâu thấy chú “hù dọa” làm oai cho lấy lệ. Từ từ riết rồi sinh viên ai cũng biết và trở nên rất quý chú. Một anh sinh viên khóa k88 có câu định nghĩa chữ “KTS” trên sân khấu trong đêm truyền thống năm 1990 như sau: anh em lúc đầu trong họa thất “Kỵ Thầy S.” và riết rồi từ từ “Không Thấy Sợ” là thế. Tuy vậy có một thầy rất sốt sắng trong vụ “bắt ne” này cũng như nổi danh trong nhiều thành tích, phi vụ khác. Ðến nỗi có thơ rằng:
Tiếng đồn thầy Ng. rất tài năng,
Thi cử mấy phen lấy một bằng,
“Hệ B” chạy chọt bao nhiêu đứa?
“Họa thất” tru di mấy chục thằng.
Bợ mông giáo vụ tay còn dấu,
Ðè cổ sinh viên oán chửa tan.
Tưởng nhớ công thầy ghi mấy chữ:
“Ð.M. thầy Ng.“ viết trên tường!
(Năm 1993 nhiều thầy và trò có thấy trên cửa một họa thất có hàng phấn viết nguyên văn như vậy. Nghe kể lại rằng báo hại chú S. phải lo tìm cách xóa cho được hàng chử oan nghiệt ấy!)
Sau dần thì cả vụ “cấm ne” và trả nợ chỉ trong hai ngày” được âm thầm bãi bõ dần vì bỏ liền lập tức thì mấy ổng thấy quê độ khi tay đã nhúng chàm! Phải chờ có một “ông con” nào đó vào học mới có cái cớ để “cải cách sửa sai”. Chuyện về sau sẽ biết.
Trước cảnh nợ nần khó chi trả cùng với nhu cầu giúp tăng thu nhập của mấy ông thầy, năm 1990, mấy ông ban giám hiệâu, nhứt là phe phòng giáo vụ, tài vụ đã sáng tạo một giải pháp tới ngày nay vẫn còn hiệu quả và siêu lợi nhuận hơn cả dự tính: Ðóng tiền với cái gọi là “Lệ phí trả nợ đồ án”. Nó áp dụng luôn trong việc thi lại các môn học. Giá khởi điểm tối thiểu của nó là 4000 đồng/lần. Ðến nay năm 2003 nó đã tăng hơn 10 lần vì nhu cầu ngày càng cao của sinh viên và nhà trường. Do vậy, các sinh viên có giỏi thì cứ thi rớt nếu có tiền đóng và thầy thì mỗi lần đánh rớt thì có dịp sửa bài trả nợ mà cải thiện đời sống. Vì có sửa bài thì giáo vụ-tài vụ-thầy đều được hưởng ăn chia theo tỷ lệ phần trăm (ban đầu là thầy 75%, trường 25%). Hỏi ai chê không thèm làm? Trò thì hể đã đóng tiền thì thi trả nợ cũng dễ “qua”. Thầy-trường lỡ ngậm tiền phải ráng công chấm bài lo thủ tục, sổ điểm... cho đáng đồng tiền bát gạo. Nó tạo điều kiện khuyến khích nhiều thầy thêm hăng say “múa bút tựa múa đao” chấm bài lẫn ký sửa bài trả nợ với sự “ủng hộâ” tận lực của các phòng ban trong trường. Có thầy chỉ cần ký bài trả nợ để khỏi mất công sửa bài dây dưa, rút ngắn công đoạn cho khoẻ anh em và kinh tế của mình cũng được mau cải thiện một cách hợp pháp. Mấy sinh viên Kiến cũng lợi dụng nước đục mà luồn lách. Mỗi lần trả nợ có thể mượn bài của anh nào đậu để chép “nguyên con” cho chắc ăn. Thêm nữa là đã từ lâu nay có sẵn chủ trương rút ngắn xóa bỏ dần ranh giới giai cấp giữa thầy và trò nên vấn đề tình cảm thầy-trò có dịp thể hiện thêm thắm thiết một cách trơn lu qua quà cáp, yến tiệc đầm đìa bia bọt cùng mấy khoảng “tứ khoái trần gian” khác.
Nói vậy chứ cuộc đời còn lắm ngoại lệ. Một hai ông thầy bà cô thấy ăn tiền kiểu này thì sượng quá nên vô giáo vụ và xin từ chối nhận số tiền ấy. Nhưng trò thì vẫn bị buộc phải đóng y số cho đúng luật, còn thầy có chịu lấy tiền hay không thì trò đừng thắc mắc mà mang họa. Cũng còn nhiều ông thầy vì lương tâm cắn rứt khi sợ cảnh học trò mình “mua bằng” nên lâu lâu cũng ra tay trị thẳng cánh một lần trò biết mặt. Cuối năm 1991, khóa k89 (trên 100 người) đã chịu một kỷ lục “rớt” về chuyên môn mà từ sau 1975 chưa thầy nào phá nổi. Ðồ án “nhà an dưỡng” lần ấy theo luật của trường thì phải được ít nhứt hai thầy chấm mới hợp pháp. Thầy H. và một đồng nghiệp khác chấm xong cất kết quả vào tủ (rớt khỏang 3/4) chưa kịp đưa cho giáo vụ thế mà hôm thứ hai đầu tuần đã có kết quả khác chính thức đăng lên trước với tỷ lệ đậu 3/4. Sự việc làm hai thầy phản ứng lên tận hiệu trưởng vì có kẻ “chơi qua mặt”. Sau khi thưa kiện lung tung cuối cùng thầy L. trưởng bộ môn yêu cầu khóa 89 nộp lại bài cũ và đích thân chấm lại với kết quả ban đầu của hai thầy gần như không đổi bao nhiêu. Nguyên nhân chỉ vì thầy K. “nổi máu nghệ sỹ” vô chấm riêng một mình sau khi hai thầy kia chấm xong và đưa bảng điểm lên phòng giáo vụ trước. Ðám sinh viên cả trường từ ấy phải kiêng nể thầy H. và mấy thầy khác nói chung sau trận đánh rớt phủ đầu ấy. Khắp nơi đều lên tiếng rên siết vì trong vòng gần 15 năm chưa thầy nào to gan dám “giết” sinh viên hàng loạt như vậy mà không sợ bị nhà trường rầy. Nhiều “ngư ông đắc lợi” nhờ cái luật “đóng tiền trả nợ” sau đó... Cứ hỏi mấy anh chị K89 “cựu nạn nhân” thì biết rõ hơn.
Có một thầy khác chơi trò áp đảo học trò bằng “tâm lý chiến” bằng cách nổ cho trò sợ tài năng của mình để liệu mà bắt chước. Thầy bảo rằng trong một đêm thầy có thể binh hàng trăm phương án quy họach, tốn hết 3 cuồn giấy calque. Mỗi cuốn 40 thước (?!) đàng hoàng. Thế là hết ai dám coi thường oai mấy thầy trường ta.
Tình trạng “giết lầm không bỏ sót” bị nhiều anh em ta thán mà không ai để ý. Một lần, không biết mấy thầy bị “Tổ trác” mà mắt thế nào lại đánh rớt nhiều đồ án công nghiệp một cách khó hiểu. Có một bản vẽ trong đó nhiều chi tiết khai triển bị gạch bỏ với lời phê “cấu tạo chưa từng thấy”. Tác giả đồ án đã tuyên bố chi tiết ấy đã được chép nguyên xi đúng bài trong sách cấu tạo của Mittag. Chỉ biết rằng bài trả nợ của anh sau này y chang bài cũ thì lại đậu. Về phần đồ án quy họach thời ấy đã có một luật bất thành văn: “Nhà phải bắt buộc 100% quay về hướng nam, trường học thể hiện trên bản vẽ phải có dạng chiếc quần xà lỏn mà không được dạng khác, trường đại học cấm không được có sân bóng chuyền...” Anh nào không nghe dù giỏi thế nào cũng bị rớt. Vậy mà riết cả lớp buộc lòng phải vẽ theo như cái “luật bất thành văn” làm cho bài ai nấy cũng gần giống nhau, chỉ khác lối diễn họa và tên tác giả. Kết quả có anh này đậu anh kia rớt khác nhau mà tới nay chẳng ai lý giải được. Chưa, còn nữa, nhiều đồ án được đậu cao chỉ nhờ phối cảnh đẹp mà “pạc-ti” mặt bằng “binh” chưa tới. Trong khi mấy anh nào chịu khó nghiên cứu mặt bằng hoàn chỉnh thì kết quả khiêm tốn hơn, có lúc lại bị 5v xém rớt. Ðó là ý đồ sâu xa của thầy cho mục đích lâu dài về sau. Trường hợp không biết thế nào mà có lần một thầy hướng dẫn đọc bản vẽ hòai không ra trong nhiều lần sửa bài làm mấy anh học hành nghiêm chỉnh còn phải rét vì sợ bị rớt oan; có anh phải chạy đi năn nỉ thầy phó bộ môn lên họa thất làm bộ đi coi chấm bài để có gì “cứu khổ” giùm. Lâu lâu cũng nghe chuyện nhiều bài thi giống nhau như đúc song kết quả thì kẻ đậu người rớt khác nhau. Chẳng ai giải thích được, kể cả chính mấy thầy chấm bài.
“Vỏ quít dày móng tay nhọn”. Ðể đối phó với việc thi cử, các phương pháp phổ thông như là “quay phim” hay năn nỉ thầy... thì xưa như trái đất. Có năm trường hợp đối phó thần sầu đầy tính sáng tạo, xin kể lại để anh em tham khảo nghiên cứu, đừng ham bắt chước vội:
Trường hợp thứ nhứt, một thầy dạy môn nọ (xin giấu tên để bảo vệ nhiều người) nổi tiếng đánh rớt sinh viên. Ðể được “qua phà” an toàn, một anh Kiến nọ chắc cũng kiến thức lịch sử khá dồi dào bèn áp dụng nguyên xi trò Mỵ Châu – Trọng Thủy bằng cách cặp bồ với con gái của thầy là ăn chắc! Thơ rằng:
Tôi kể ngày nay chuyện Mỵ Châu,
Trái tim đúng chỗ để trên đầu,
Ðề thi ăn cắp đưa Trọng Thủy,
Biết bao chàng Kiến đội ơn sâu...
...vì nhờ thế mà thi cử “qua phà” êm đẹp cả!
Trường hợp thứ hai, môn Nga văn vốn là nỗi sợ hãi của nhiều anh chị. Kỳ thi quốc gia lại vào năm thứ 5 trong khi tất cả anh em lại quên sạch vì khóa Nga văn kết thúc giữa năm thứ 3. Dù thầy cô tận tình dạy ôn lại nhưng kết quả chẳng ai nhớ gì ráo. Trong lần thi quốc gia của khóa k87, một chị trong lớp liều mạng tuồn đề ra cho một cao thủ bạn bên ngoài làm xong thì lén thảy vào cứu được gần trọn cả lớp K87 (chỉ có vỏn vẹn 1 - 2 anh rớt). Cô T. lần ấy phải thắc mắc tại sao mấy anh làm bài giống nhau quá? Nếu cám ơn anh cao thủ nọ thì toàn thể SV cũng hết lòng nhớ ơn cô T. đã sáng suốt thức thời cứu vớt dân nhà Kiến, không bao giờ ác tâm trù dập bất cứ anh em nào.
Trường hợp thứ 3 ly kỳ không kém kể về một anh sinh viên vốn nhát đòn sợ rớt môn chính trị chính em. Vì anh vốn kha khá ngoại ngữ nên đã chịu khó vừa nghe và tự học ngoại ngữ bằng cách vừa nghe giảng bài vừa dịch lại toàn bộ bài giảng sang ngoại ngữ. Vào phòng thi, anh bình tĩnh để tập sách ấy trên bàn để lót giấy thi và khi nhân viên giáo vụ gác thi hỏi, anh tỉnh rụi đưa tài liệu cho giám thị (cũng là nhân viên giáo vụ mới kinh chứ!) kiểm tra với lý do đó là bài đi học thêm ngoại ngữ ban đêm. Lật đi đọc lại tới lui một hồi, giám thị đã trả lại để cho anh tiếp tục làm bài yên ổn. Kết quả thì đã rõ.
Ngoạn mục nhứt là trường hợp thứ 4 này. Trong kỳ thi mỹ học, đề thi lần ấy có yêu cầu liệt kê một số công trình kiến trúc lịch sử đặc trưng ở miền Nam có tiêu chuẩn cái đẹp “theo quan điểm mỹ học của ông M.” của thầy giảng. Một bài đã được thầy chấm với số điểm khá cao. Chủ nhân của bài thi đã thú nhận riêng với các Kiến khác là tất cả những công trình anh viết ra đều có đủ số liệu chính xác về năm xây dựng, năm bị phá hủy, đặc điểm công trình... cao hơn cả yêu cầu thầy đưa ra. Chỉ có cái tội là các dữ liệu đều giả hoàn toàn!
Trường hợp chót mô tả một bàn thắng “vô tiền khóang hậu” để cứu một người anh em nắm chắc vé lưu ban vì rớt 1,5 môn được một anh khóa k88 đã thuật lại như sau: theo luật của trường thì anh lớp trưởng hay anh bí thư Ðoàn của lớp được tiêu chuẩn ưu đãi hơn các bạn trong lớp ở chỗ được vớt lên lớp khi bị rớt 1,5 môn (môn chính = 2 môn phụ = 2 x 0,5 môn) trong khi các sinh viên bình thường thì tiêu chuẩn được vớt lên lớp với 1 môn rớt. Nên để “chuyển bại thành thắng” cho đồng môn, cả lớp liền bầu cho anh làm lớp trưởng để anh được lên lớp an tòan và hợp pháp!
Ai bảo sinh viên là dở? Sinh viên khôn lắm chứ...
Vì thời trời xui khiến khi xã hội phát triển bằng sự sàng lọc cao hơn nên kể từ khóa k88, cái gọi là “thi giai đọan” năm thứ 2 dùng để thanh lọc ra những tinh hoa của trường. Ðơn giản là phương cách 3 “bóp đầu vào, thắt đầu giữa, thả nổi đầu ra”. Nói nghe thì hay nhưng nó cam go bằng mấy năm học hành lè phè cộng lại. Cuộc đua “giai đoạn” hàng năm làm nhiều anh chị phải khốn đốn mà cầu Thầy cứu. Cái trò luyện thi, học thêm trong đại học nảy sinh ra làm gợi nhớ ít nhiều lại thời kỳ học phổ thông của chúng mình. Cũng có lợi chứ sao ? Nói chung thì các thầy nào dạy các môn liên quan đến thi giai đoạn thì được lâm vào đại vận hanh thông trong cung tài bạch lẫn quan lộc. Thầy thừa cơ tha hồ “hét ra lửa, mửa ra tro”ù. Chuyện kể lại rằng một ông thầy tên Th. bình thản “dám” đánh rớt người học trò mình dù y đã “thành công” trong việc tặng thầy một chiếc “Ðờ-Rim 2” để trợ giúp thầy trong công tác đi lại. Chính mấy đồng môn của tác giả trước đó vài năm cũng có lần rớt oan mạng khi thầy cố ý ra đề sai khi thi lại. Thầy lý luận: “Có ra đúng mấy anh cũng làm sai (!?)”
Trong khoảng thời gian này, uy danh các phòng ban, nhứt là phòng giáo vụ (sau đổi tên thành phòng đào tạo mà có kẻ dám xuyên tạc là “phòng đào tiền”!) như một vị quan “tiền trảm hậu tấu”. Tất cả tiền bạc đều phải đóng trực tiếp tại đây, năn nỉ hay khiếu nại tại đây, rút hồ sơ ra khỏi trường cũng tại đây... Hễ nghe mấy ông bà ở đây gác thi thì phải biết!
Bên cạnh tính hiếu sát thì Trời đất còn có tính hiếu sinh đám sinh viên. Số là sau 2 năm từ khi bắt đầu năm thực hiện chế độ thi giai đọan, ông Trời bèn khiến cho một ông con của một ông KTS nọ (vốn có máu mặt trong phòng giáo vụ) học khóa k90. Thế là toàn bộ khóa ấy được mọi ưu đãi nếu may mắn gặp lúc ông con này bị lận đận “sa-rết” trong đèn sách. Có thơ vịnh rằng:
Một lũ con nòi, chẳng giống ai
Idée [3] đồ án rất " trời ơi",
Esquisse [4] "rặn" hoài, không ra...ý,
Rendu [5] "quậy" mãi, chẳng lên tay.
Kết cấu, xì-tin (style) [6] trông rợn óc,
Diplôme [7] , charrette [8] thấy bái dàí!
Trả nợ, “lần 2” luôn hiện diện,
Kiến trúc dòng con lại bất tàí!
Nhờ vậy vụ “cấm ne” đã được nới lỏng dần. Ðặc biệt khi thi giai đọan năm thứ 2 của khóa k90, lần ấy rớt khá đông. Ông con thì khỏi nói ai cũng biết. Ông cha làm trong phòng giáo vụ phải điều chỉnh hạ chuẩn điểm đậu. Thế là rất đông anh em rớt được “ăn theo” ơn mưa móc mà “qua” giai đoạn an toàn. Ai bảo dân giáo vụ ác đức? Mà có hết đâu, những năm mà “ông con” còn mài quần trên ghế nhà trường thì hễ “ông “ gặp khó khăn do làm bài không kịp giờ thì anh em đồng khóa được “dựa hơi” mà “thoát chết” đồng loạt. Khi làm tốt nghiệp anh em cũng được giáo vụ hạ tiêu chuẩn khổ giấy vẽ cho đỡ cực khổ. Có ông KTS bố khi nghe tin buồn: “Mặc dầu có sự tận tình chạy chọt song cậu ấm đã không qua được cuộc thi giai đoạn hiểm nghèo”, đã đề nghị mở thêm một khoa mới để “pát-xê” con mình qua đó tiếp tục học. Ðám Kiến “đồng nạn” cũng được cứu độ theo. Sướng chưa! Trách chi hễ có một tiếng đồn tốt là thiên hạ cứ ùn ùn vô ÐHKT. Hễ vào được là chắc chắn ra trường được với một tấm bằng láng coóng lận lưng quần dễ ợt. Chưa kể nó còn bao gồm luôn cả bằng B ngọai ngữ cấp quốc gia nữa mà!
“Vật cùng tắc biến”. Khi thu nhận sinh viên ồ ạt thì dĩ nhiên nhiều sơ sót bê bối hành chánh, tài chánh bắt buộc sẽ phải lòi ra như cảnh tang gia bối rối mong chính quyền và đồng bào lẫn sinh viên niệm tình tha thứ. Cái “biến tắc thông” là Bà Hỏa “giáng lâm” phòng giáo vụ trong một đêm 16 rạng 17-1-1992 làm sinh viên phải hoãn giờ thi để cho cảnh sát vô điều tra. Vì theo quy luật phát triển mà sách nhà trường đã dạy, thì sau khi sinh ra và tồn tại thì nó cũng phải bị buộc kết thúc giống cũng như tòa Imexco cùng thời bấy giờ. Nghĩ tiếc thay khi dân Kiến ở ký túc xá gần đó có dịp chứng kiến suốt đêm giờ phút chót của tòa Imexco mà lại không có dịp chứng kiến cái công trình giáo vụ trù phú của chính trường mình “trở về cát bụi”. Thiên hạ liền chiêm nghiệm lại sự việc qua chuyện Ðại Hồng thủy trong kinh thánh và cứ thắc mắc bàn tán mổ xẻ “gia đình Noe” lần này gồm những ai??? Ông mang theo ông những thứ gì để duy trì cuộc sống??? và nhiều câu hỏi khác. Mãi tới khi phòng giáo vụ được bố trí chỗ mới mà nỗi kinh hoàng vẫn chưa dứt đến nỗi mấy bà “ở trỏng” phải lập một bàn thờ trước cửa phòng cúng khai trương để cầu an và tạ ơn thần tài phù hộ thoát nạn lâu nay. Riêng về phần sinh viên, sau trận ấy phách rọc bài thi bị cháy sạch không còn khả năng hồi phách vô sổ nên anh em phải rủ nhau đi gặp thầy để nhận dạng bài thi của mình.
Nói đến Kiến trúc mà không không nhắc tới lễ truyền thống quả là một thiếu sót to lớn. Thực chất cũng là lễ nhập môn cho các “ne” năm thứ nhứt, trình làng trước đàn anh, cũng là một trách nhiệm của anh năm cuối trước khi rời khỏi trường. Vì “đời chỉ có một lần” nên một bên thì cố gắng tổ chức cho thật độc xẹt, một bên thì phải cố gắng làm sao đi có mặt thật đầy đủ để cho mọi người biết mặt. Lễ nhập môn bái đàn anh được tổ chức với nhiều hình thức. Cũng đi xin phép chính quyền, in thiệp mời, đi quyên góp mấy nhà hảo tâm, lo dàn dựng, tập dợt... Cảnh tiêu cực cũng không ít vì nhiều anh đi quyên góp cũng thừa cơ chấm mút cho bớt “động lòng”. Ban đầu, thời “phương cách 1” còn áp dụng thì không có gì lớn để mà bàn vì dân số không đáng kể nên không có sự lộn xộn trong tổ chức và sức chứa của trường còn kham nổi. Càng về sau từ khi áp dụng “phương cách 2” trở đi thì mỗi lần truyền thống là luôn có vấn đề lớn từ thượng vàng tới hạ cám. Việc triển lãm tranh biếm họa làm đụng chạm tim đen mấy thầy không ít. Từ đó nảy sinh thêm chế độ kiểm duyệt tranh truyền thống. Ðặc biệt là năm có lịnh “cấm ne” làm phá vỡ truyền thống “dạy nghề” của anh em Kiến làm bất mãn khá nhiều người. Bấy giờ bất cứ hình vẽ hay áp-phích nào có chữ “ne” hay ý nghĩa tương đương đều bị một thầy trong ban giám hiệu đến và thẳng tay lột bỏ vì “phạm húy”. Cảnh chen lấn xâu xé có lúc suýt ẩu đả nhau trong đêm truyền thống là chuyện thường. Các bãi giữ xe của các sinh viên tràn ngập dù giá gởi đã lên gấp 10 lần giá nhà nước. Mà cái vui nhứt theo ý tác giả là tiết mục nhảy đầm cuối lễ truyền thống. Mấy năm mới được phép “nhót” trở lại thì phải biết nó sung sướng biết chừng nào. Danh từ “nhảy son-đố-mì”, “múa đôi” hay “quốc tế vũ” thì dẹp quách đi không thương tiếc do hết hợp thời đại. Tiếp sau buổi lễ kết thúc, dù có tổ chức bê bối chăng nữa thì luôn có lệ phải tổ chức một tiệc liên hoan mừng thành công của đêm truyền thống và lợi nhuận của nó để lấy tinh thần cho mấy khóa sau. Anh em nào còn lại ở trong trường được bao ăn nhậu thả ga, lúc ấy thật là một lễ truyền thống “tập 2” ngoài luồng không sợ chế độ kiểm duyệt bên ngòai “gõ”. Các tiết mục đều có thể biểu diễn tự do không cần đăng ký xin phép. Ðêm truyền thống 19 rạng 20-9 năm 1991 còn có cả sô “thoát y vũ nam” kèm nhạc sống coi miễn phí (chuyện có thật 100%.- tác giả thành thật xin lỗi độc giả vì khi ấy tác giả còn quá ngây thơ ham vui không biết hỏi tên tuổi của vũ nam ấy), khán giả đứng xem được tiếp cận diễn viên trong tầm tay, vừa được phục vụ cháo ăn đêm nếu cần. Xong thì từ từ mạnh ai nấy vô tư nằm la liệt ngủ để hôm sau lấy sức thu dọn chiến trường. Lợi nhuận thu được có lúc thừa sức tổ chức bao trọn gói 1,2 chuyến nghỉ mát Ðà lạt hay Vũng Tàu cho mấy anh em, bao luôn bồ bịch nếu có. Trước khi đi, cũng có bố trí vài anh sinh viên chuyên “dọn đường” bằng cách ghé nhà mấy thầy để “nói một tiếng xin phép nghỉ mấy ngày” cho đúng lễ. Còn bài vở, đồ án thì để đó! Chơi trước tính sau. Nghe kể lại vào năm 1999, nhà trường nổi hứng cấm làm truyền thống qua chủ xướng của thầy giáo sư tiến sỹ thạc sỹ Kiến trúc sư T.H. với nhiều sự lý giải không ai hiểu được, có lẽ thầy học nhiều quá rồi điên chữ chăng? Kết quả là mấy anh em đợt đó ra trường hễ thất bại là đổ thừa “Tổ quở” vì lý do trên.Trong sự căng thẳng lên bài ngày đêm từ ngàn xưa đến nay, khi thời gian đều đổ hết vào họa thất tất nhiên anh sinh viên Kiến nào cũng đều quên mình vì nghệ thuật dù muốn hay không muốn. Cũng vì lý do học hành càng kham khổ, nếu là nữ, thì tàn phai nhan sắc là không tránh khỏi. Do vậy trong bình minh của lịch sử nhà trường, số nữ không đáng kể (hồi 1955-56 mới chỉ có một người duy nhứt là chị K.N!) dù số “Lê Lai liều mình cứu chúa” không bao giờ thiếu. Nguyên nhân một phần ngày trước trong các họa thất có anh “trưởng tràng” hay sanh tật “bắt ne làm gì thì ne phải làm nấy không được cãi” nên nhiều cô nghe đồn thôi mà đã mất vía rồi. Càng về sau khi “đầu ra” càng dễ thì số nữ tăng dần và nhan sắc Kiến nữ trong trường thấy cải thiện đáng kể thừa sức canh tranh với dân trường Tổng hợp hay trường Kinh tế bên cạnh. Số Kiến nữ tăng đột ngột vào năm 1987. Ðang đói xưa nay, giờ gặp cơm hay phở gì thì mấy anh Kiến đều phơi phới rậm rực ra mặt. Có cô lợi dụng lắm anh theo đuổi, liền chơi trò “đấu thầu” bằng cách nhờ mỗi anh làm một bài để rồi chọn cái hay nhứt lên nộp cho thầy. Khiến mấy anh “hụt thầu” ngẩn ngơ mà không làm gì được. Kiến nữ làm không khí tổ Kiến thêm nhộn nhịp. Có hai chuyện, kể về “sự cố ngàn xưa” thời ấy đậm đặc tính mê ly cụp lạc mà sinh viên ai cũng biết. Một cú bởi trò gây ra (thập niên 80), một ca do thầy là thủ phạm (thập niên 90). Cả hai thầy trò luyện công phu “âm dương chỉ” thế nào không biết mà “dến” cái “bầu tâm sự” cho hai cô bên ngoài (có 1 cô là sinh viên trường bạn) khiến hai cô đến trường “hỏi thăm”, nói hoa mỹ là đòi “bồi thường chiến tranh”. Nhà trường nghe đâu phải âm thầm vào cuộc giải quyết ổn thỏa. Vì quý thành tích học tập tốt nên trò chỉ bị cảnh cáo cho lưu ban, còn thầy thì phải cuốn gói ra đi không hẹn ngày trở lại. Thôi chuyện nghe qua rồi bỏ, chỉ biết sau đó vài năm, bên ngoài thiên hạ tổ chức ì xèo những cuộc thi hoa hậu làm bên trong trường càng thêm rạo rực trước cảnh “cây nhà lá vườn” đang kỳ mơn mởn chưa từng có xưa nay. Yếu tố “mỹ quan” trong nguyên lý kiến trúc bắt đầu được chú trọng và được “rendu” dưới hình thức tân kỳ mới lạ.
Còn mấy Kiến nam thì thực chất chẳng thay đổi bao nhiêu. Do bù đầu làm bài cho mình và “hết lòng thờ vua (bà), xả thân cứu (nữ) chúa lúc nguy nan” nên riết rồi thời gian tắm rửa cũng chẳng còn. Cũng may ngày nay sinh viên có tiền thuê nhà trọ nên cũng bớt cảnh tốn thì giờ sắp hàng hứng nước hay “dành cơm” ở ký túc xá. Nhằm lúc này nhiều “nữ chúa” vào trường quá cỡ nên quỹ thời gian đã kẹt cứng càng thêm kẹt cứng. Ðành mang tiếng ở dơ vậy! Mà dơ bao nhiêu thì người đời tưởng mình có máu nghệ sỹ thiên tài đầm đìa ý tưởng trên trời dưới đất. Càng về sau có mấy anh thấy thế còn chơi “đốt giai đọan”, cứ ở dơ trước cái đã còn thời gian học hành thiếu đủ tính sau. Thêm cà phê, thuốc lá, nhậu nhẹt lu bù gọi là phương tiện kích thích tìm ý đồ sáng tác kiến trúc thì càng hay hơn nữa. Quên phứt đi cái khoản vệ sinh, điều độ bằng mấy cái “khoái” thứ dữ khác cho đủ bộ. Ðể tóc tai bù xù, ăn mặc bê bối làm tăng cường thêm ấn tượng Ðã không được nghệ sỹ bề trong thì cũng phải ráng được nghệ sỹ bề ngoài cho bằng anh bằng em. Bắt chước sai bài, “binh” không tới thì ráng chịu. Mà lạ hơn nữa là nhân viên của trường cũng không kém máu nghệ sỹ. Năm 1978, vào ngày quốc tế phụ nữ, một bà nhân viên chơi nổi “tròng” bộ áo cưới vào trường cho nó “độc xẹt” mặc cho chúng sanh thấy mà lắc đầu. Nhân viên trường còn “nghệ” như thế thì đám sinh viên lập dị cũng đừng ai trách. Cũng vào khoảng mấy năm ấy, nhân có phong trào “cấm để tóc dài”, nhà trường cũng định lợi dụng nhằm hạn chế máu “nghệ” của mấy Kiến nhưng sau vài năm thì “mèo vẫn hoàn mèo”. Nói tiếp về cái trò “ở dơ sống lâu” dần dần trở thành món võ tự vệ độc hại làm thầy nào cũng phải gờm mùi hương lẫn mặt mày của mấy thằng đệ tử và rồi kiêng dè khi sửa bài của chúng. Mấy đồng môn cũng phải bịt mũi “chạy làng”. Lúc lên bài họa thất hay vào lớp thì liệu hồn! Chúng mà ngồi đầu ngọn gió thì làm cả lũ trong sạch nhiễm độc khí chết nhăn răng. Kiến nữ nhờ vậy thêm được thầy chiếu cố tận tình nhờ bộ vó “dẻo như cơm, thơm như mít” rồi từ đó có tiếng đồn nhau rủ rê nhiều nữ sinh khác đổ xô ồ ạt thi vào kiến trúc.
Việc học quân sự tuy bắt buộc nhưng đó không phải là cửa ải. Tuy chỉ tốn có một tháng song là dịp để sinh viên đi ra ngoài thay đổi không khí. Các thầy cũng tương đối dễ dãi. Hồi trước, nhớ có một thầy, thật ra là một ông sĩ quan già tên L. mà dân Kiến hay gọi là thầy Sáu L. Nghe cách nói chuyện hóm hỉnh của thầy, dân Kiến phát hiện trong lý thuyết quân sự chứa đựng tràn trề ý nội, ý ngọai, nghĩa đen, nghĩa bóng cực kỳ thâm thúy. Chỉ có thế mà anh em hứng thú có mặt tương đối đông đủ hơn các giờ lý thuyết khác. Thêm giờ học thực hành ngoài trời ( có lúc ở công viên đối diện Dinh Ðộc lập, có lúc ngay khu đất trống sát tường rào khám Chí Hòa), quả là thiên đường cho mấy anh em có dịp vui chơi hóng mát ngo ngoe tay chân cho đỡ bồn chồn. Lúc giải lao thì thầy trò tụ lại tha hồ đánh “tiến lên”, hòa đồng quân dân với nhau mà không sợ ai bắt lỗi. Cái vui nhứt là vào cuối khóa đi bắn đạn thật trên sân bắn Thủ Ðức. Nhiều lớp lợi dụng dịp này tổ chức cắm trại qua đêm, ăn uống bí tỉ, đêm nằm kề bên nhau ngắm trăng tâm sự, kể lể chuyện đời... tựa hồ:
... Nằm kề bên nhau chờ giặc tới,
Ðầu súng trăng treo...
(thơ Chính Hữu)
... ngay trên bãi tập bắn từ chiều hôm trước. Ðến sáng hôm sau thì bắt đầu thi kiểm tra bắn đạn thật. Vì tình thầy trò vốn đã được đầu tư thắm thiết trong quá trình học nên chẳng ai rớt. Tiếc rằng những năm sau đó tiết mục này bị bỏ dần vì sinh viên càng đông đảo khó tổ chức vì tốn kém. Ban đầu mỗi lớp cử vài đại diện đi bắn. Sau dần chỉ kiểm tra thao tác dùng súng của từng anh chị rồi thôi. Chắc vài năm nữa chỉ cử mấy anh đại diện đi học rồi chuyện gì mới nữa chưa biết trước được nhằm đơn giản hóa tận cùng khóa huấn luyện quân sự. Khóa học luôn kết thúc tốt đẹp nên chẳng có gì gọi là “ác nghiệp”. Chỉ kể nghe qua chơi cho đủ bộ.
Chặng cuối của đời sinh viên là tốt nghiệp cũng cực kỳ quan trọng vì “đời chỉ có một lần”. Sau vài tháng đầu tư sức người và của vào đồ án ra trường, anh nào chị ấy cũng bơ phờ, nhiều người xanh như tàu lá do làm việc ngày đêm quá độ. Thầy cũng phải được bố trí “kè” mấy trò mà hướng dẫn. Vì tính quan trọng của nó mà có trò vì quá thương thầy rồi sẵn sàng xì tiền bồi dưỡng riêng cho thầy chút đỉnh lấy sức. Mấy “ne” cũng đổ quân vào cuộc. Có anh thừa tiền lắm của thuê nhà để vẽ, thuê ne thả ga, bao ăn, bao ngủ từ a tới z. Mấy ne chỉ có việc tô màu, vẽ cây, chấm cỏ, nghe sai bảo lặt vặt... Mấy anh nghèo làm thui thủi một mình cũng tốt nghiệp vang lừng như ai. Cảnh “charette” vẫn còn đó. Tới ngày sơ khảo, nhiều người sốt vó là trò thường tình. Có thầy vì quá thương trò, chạy đôn chạy đáo vô trường huy động thêm “ne” kéo về nhà đệ tử của mình vẽ phụ cho kịp giờ. Sơ khảo xong, bài đem về sửa chữa một lần chót trước khi trình bày tốt nghiệp. Hôm bảo vệ mới thật sự là ngày trọng đại. Mỗi tân khoa tương lai phải một thân chống chọi với một hội đồng thầy tràn trề kinh nghiệm. Mấy anh du học sinh xứ Chùa tháp thì không đến nỗi lo lắng nhiều do đã được trang bị nhiều hậu thuẫn ưu đãi công khai. Ðiển hình là anh nào tiếng Việt còn lọng cọng thì các thầy thấy thương tình liền miễn khoảng trình bày giới thiệu đồ án cho đỡ mất thời gian. Và theo đúng thủ tục tốt nghiệp, mấy thầy vẫn lên thưởng thức đồ án cũng như hỏi vài câu lấy lệ với người ta với tấm lòng tràn đầy gạo muối cầu mong mấy anh mau về nước để truyền bá chất lượng và uy tín của “đằng mình”. Riêng với sinh viên Kiến nội địa nhà ta thì thầy vẫn thương yêu nên những năm gần đây, tỷ lệ rớt ít, ít dần và ít mãi. Có thầy nói nếu chấm gắt quá thì đâu còn đứa nào ra trường, mà mình đánh rớt hòai kiệt sức mình rồi sẽ đánh rớt không nổi nữa, đành phải “cho qua” để “để đức” cho con cháu. Trước trận “biển người” tốt nghiệp đông đảo tất nhiên thầy ủng hộ số đông mà từ bi xí xóa mấy lỗi lặt vặt không đáng kể cho anh em nhà Kiến mừng. Nghe kể lại năm 1994, có một anh sinh viên Kiến “cóp-pi” nguyên xi một sân bay trong sách để làm bài tốt nghiệp. Mặc dù có một thầy phát hiện và phản đối nhưng cả hội đồng thương tình công sức vẽ vời nên thông cảm cho ra trường êm đẹp. Do đó để việc bảo vệ tốt nghiệp thành công thêm rực rỡ, nhiều anh chị mời hết cả bà con họ hàng ông bà chú bác lẫn con cháu đi theo ủng hộ vì biết mình chắc chắn cỡ nào cũng đậu. Có người sau khi bảo vệ xong liền có con cháu đem hoa tặng theo công thức ca sĩ cho thêm tính le lói. Những đêm sau đó, các anh em luân phiên đi ăn nhậu khao quân mừng “chiến thắng” liên tục ở từng nhà các đồng môn với mấy ne ruột. Thầy cũng được mời lu bù và được trò trả công hậu hĩ từ quà cáp tới hiện kim tùy theo nhu cầu hay yêu cầu. Thầy thanh liêm thì chỉ nghe trò nói câu “cám ơn” là thầy mát ruột mà không cần gì khác. Ngày phát bằng còn vui hơn nữa vì còn có thêm tính tập thể cao độ. Rút kinh nghiệm nhiều năm từ các trường khác, trường ta cũng thuê áo mũ cân đai loại “thời trang cử nhân tiến sỹ” đem về trường cho sinh viên thuê lại để có dịp tổ chức đóng tiền đăng ký tên theo thứ tự lên lãnh bằng cho oai. Không khí trường nhộn nhịp hơn xưa vì ngoài sinh viên ra còn có cha mẹ, họ hàng, vợ con, bạn bè, bồ bịch.. đi đến xem chức mừng chia vui rôm rả. Mấy anh phó nhòm cũng có dịp chen chân vô kiếm sống chút đỉnh.Ðời sinh viên là thế đó! Mà khổ nhiều sướng ít.
Một anh Kiến ôm tê-ke [T-square] miệt mài thi lại và trả nợ đồ án mãi mới tốt nghiệp được. Ra trường xong, y tủi thân hận đời bèn làm một bài thơ lưu lại :
Trời đất hỡi! Sinh viên khốn khổ,
Phải đóng thêm phí nọï tiền kia,
Có tiền, có gạo bề bề,
Dài dài trả nợ cũng ê bẹ sườn.
Lễ tốt nghiệp ra trường cũng đóng,
Thuê áo quần cho giống cử nhân...
Hận thầy ác đức ác nhân,
"Ðì" trò, đánh rớt kiếm ăn, làm tiền...
Thương thầy khác liên miên chạy độ,
“Giết” học trò, không nỡ ra tay,
Cứù cho tốt nghiệp mặc bây
Học không ra thợ, ra thầy, ai thuê?
Sẵn cao học, thôi về học lại,
Ngồi hai năm ra dạy sinh viên,
Thầy già xuống lỗ quy tiên,
Còn bầy đệ tử nửa điên, nửa khùng...
... và kèm theo một tuyên bố xanh rờn: “Ta không còn gì để rớt. Không Top Ten thì cũng Bottom Five” [9] .
Xuyên tạc đến nước như vậy mà thiên hạ vẫn cứ mê kiến trúc như điếu đổ, chen chân vô không dứt!
Trò càng đông thì thầy phải có thêm đủ số. Thầy già về hưu hay chết dần mòn mà thầy mới chưa có bao nhiêu để trám chỗ. Nhiều thầy chán nản bỏ trường đi “chạy ngoài” cho khỏe khỏi lo nhức đầu căng thẳng vì đấu trí mà thu nhập chẳng bao nhiêu. Thầy khác tuyển về để bổ sung thì chất lượng không đạt yêu cầu. Nhiều thầy giỏi về vài bữa, cao lắm là một học kỳ là bị “ma cũ” bứng gốc đành phải dứt áo ra đi. Bên ngoài kinh tế thị trường phát triển mạnh nên nhà trường cũng phải khốn đốn chạy theo cho kịp. Trước thế “lưỡng đầu thọ địch”, một bên nhu cầu đào tạo, một bên là kinh tế, thì chỉ còn nước chữa cháy là mở hệ cao học để đào tạo thạc sỹ và tiếp tục có dịp thu tiền “hụi chót”. Nhiều trường trước tiên phải “lên đời” cho mấy ông phó tiến sỹ thành tiến sỹ để có tư cách đào tạo mấy ông thạc sỹ mới. Trường Kiến tất nhiên không ngoài quy luật trên. Anh em nào muốn lên làm thầy hay để ra đời ngồi ký giấy thì đăng ký cao học khoảng 2 năm. Quá khỏe! Với điều kiện chịu khó đi học có mặt đều vì thầy điểm danh rất ngặt như ở trường phổ thông. Tại vì rút kinh nghiệm sinh viên đại học ưa “cúp cua”, và mấy anh theo cao học vừa có bằng cấp ngon lành ưa sanh tật làm “chảnh” không coi quy định ra gì , nên trường buộc lòng phải dùng biện pháp mạnh. Năm 1993 nghe kể có thầy chuyên gia dạy nguyên lý Kiến trúc trong trường vậy mà khi thi cao học vẫn rớt môn nguyên lý Kiến trúc như thường. Tiếc rằng không biết ai đã chấm bài thầy lần ấy trong khi ngày thường thầy chấm bài người khác. Vì tương lai sáng sủa nên số sinh viên cao học tăng dần bất chấp điều kiện ngày càng gắt. Số thầy được đào tạo từ đủ số đến mức thừa thãi. Miễn “cần cù bù năng khiếu, dù thiếu tài năng” là làm thầy dễ ợt. Có thầy “tu đường tắt” bằng cái mửng “ẵm” trọn gói luận án tiến sỹ của đồng nghiệp đàn em để làm của riêng mình rồi sinh kiện cáo lung tung, phục vụ cho chuyện thâm cung bí sử của trường vốn đã tràn trề nay thêm đa dạng.
Từ cái ngày người ta coi ông KTS như ông trời “nắm thế giới trong bàn tay”, đến nay KTS đầy đường, quần chúng hóa đến mức cao độ. Quả là một sự thay đổi thần kỳ chống chủ nghĩa độc quyền Kiến trúc. Có một thầy đưa ra nhận xét cực chuẩn xác:
“Trường kiến trúc ai dạy cũng được và ai học cũng được.”
Cái tàn ác của kinh tế thị trường là bắt thiên hạ phải chạy theo nó và cạnh tranh với nhau không bao giờ ngưng nghỉ. Từ ngày chỉ có một khoa kiến trúc trong trường, kế tiếp phải mở thêm “hệ B”, chuyên tu, tại chức, rồi quy hoạch, xây dựng, mỹ thuật công nghiệp... để cạnh tranh áp đảo mấy trường khác. Ðêm còn có thêm các lớp họa viên, ngọai ngữ, vi tính, luyện thi, cả “mầm non kiến trúc” cho thiếu nhi nhằm thu hút đủ hạng khách già trẻ lớn bé. Có dạo nhà trường sẵn sàng cho một trường đào tạo hướng dẫn viên du lịch, hay xí nghiệp gạch bông thuê mặt bằng, sảnh cho thuê dùng làm bãi đậu xế hộp ban đêm...Khuôn viên trường được khai thác hết ga vừa để chứng minh tính thích dụng và kinh tế cho sinh viên. Nhiều ông KTS đã tâm sự rằng nếu mà có thêm đất trống chắc nhiều bà bán hột vịt lộn, bia hơi, áo quần sida, keo diệt chuột... quanh trường chắc chắn sẽ mừng lắm vì có mặt bằng ổn định khỏi khốn đốn do bị cảnh sát dí chạy hàng ngày.
Cũng phải thế thôi khi cầu nhiều tất phải có cung nhiều để đáp ứng vậy. Kết quả ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
© 2004 talawas
Chú thích của talawas:
[1]tương tự
[2] kéo cày
[3]ý tưởng
[4]phác thảo
[5]thu hoạch
[6]phong cách
[7]văn bằng
[8]kéo cày
[9]10 cái đầu – 5 cái chótHồi thứ Ba:
Phùng xoè phối cảnh, thân chủ mê ly,
Hù dọa 3d, bà con kiêng nể
Vì ham của rẻ, trúng bả Thầu gian
Thấy giá ngon ăn, dính mồi Kiến tặc.
Sau nhiều năm trường Kiến ta hoan hỉ thu tiền nhận sinh viên thả cửa để đáp ứng nhu cầu bằng cấp của thiên hạ thì ngành kiến trúc lại chuyển tới thời kỳ suy bại về lương tâm nghề nghiệp. Các sinh viên ra trường xâu xé tranh ăn giành “độ” dành “khứa” ì xèo trên cơ sở “tiền nghĩa” rồi tha hồ mà “binh lụi, xây ẩu” gây mất niềm tin sâu sắc ở khách hàng. Tội cho những anh Kiến làm ăn chân chính chán nản buộc lòng phải bỏ nghề lui về nhà ăn lương vợ.
Sử nhà Kiến chép rằng:
“Tổ Kiến trúc ngày xưa đã tiên đoán đến chuyện này nên buồn rầu ghê lắm vìø thấy mình không giúp gì được. Thôi thì “gặp thời thế, thế thời phải thế” biết làm sao. Mà giúp bằng cách nào thì Tổ còn bí tít-tìn-tịt huống chi ai khác.
May thay, nhờ lòng thành khẩn chai tịnh cầu quỷ thần, Tổ đêm nằm mộng thấy Vương Thúy Kiều hiện lên nói:
Này anh thuộc lấy nằm lòng,
Vành ngoài bảy chử, vành trong tám nghề.
Em làm được thì ai chả làm được.
Rồi Kiều bất thần nhào vô ôm đại Tổ khiến Tổ giựt mình té lăn cù xuống đất mà thức dậy.
Tổ thấy điềm lạ liền bấm tay tính được quẻ Dịch là “Hỏa Ðịa Tấn” hóa “Lôi Ðịa Dự” dựa theo điềm mộng: Kiều nhảy vô ôm mình (Tấn), mình hoảng hốt (Dự) té lăn cù (Tấn). Việc này sẽ tương quan tương hợp với ý nghĩa: Cứ liều mạng làm ăn đại (Tấn) thì nổi danh (Dự) như sóng cồn (Tấn).
Liền sau đó nhớ lại câu “Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”, Tổ dành hết tâm huyết điều nghiên thêm mắm dặm muối suốt đêm để viết ra một cẩm nang gối đầu truyền cho các Kiến đời sau. Hiệu quả của cẩm nang thần sầu tựa hồ “Tịch Tà Kiếm Phổ” trong giới giang hồ võ hiệp.
Ðây, nguyên văn do Tổ viết:
Thời thế nhiễu nhương, làm ăn thất bát. Nhân nằm mộng thấy Thúy kiều giáng hạ chỉ bảo, ta viết cẩm nang này hầu truyền cho hậu thế làm kế sinh nhai.
Kiều:
Bảy chử tám nghề,
Nếu chàng không chê,
Em xin chỉ giáo...
Nhân đấy, Ta hỏi:
Ta xin thọ giáo,
Vậy nghĩa là sao?
Kiều giảng:
Bảy chữ nghĩa là:
* Nổ (Múa mép “cương” hết ga, rù quến thiên hạ để bắt công trình)
* Lụi (Vẽ “lụi” hồ sơ để giành khách trước rồi tính sau)
* Ghép (Ghép các chi tiết kiến trúc công trình khác thành kiến trúc của mình)
* Hù (In phối cảnh, làm phim 3D cho le lói cho khách “rét” ý đồ mình)
* Chôm (Bí mật “ẵm” bản vẽ chổ khác về phô-tô lại làm tác phẩm của mình)
* Chế (“Luộc” công trình cũ thành công trình mới để xài tiếp)
* Tẩu (Biết “chạy” khi thiết kế hay thi công bị “bể ổ”)
Ta khen:
Quả là hay vậy!
Tám nghề còn lại,
Xin giảng tận tường.
Kiều giảng:
Tám nghề tức là:
* Thiết kế dân dụng
* Thiết kế công nghiệp
* Thiết kế quy họach (3 nghề này trường Kiến trúc đã dạy)
* Thiết kế phối cảnh (Binh phối cảnh cho đẹp để câu khách)
* Quảng cáo dự án (Phô trương dự án áp đảo thiên hạ)
* Lắp ghép kiến trúc (ghép nhiều chi tiết bản vẽ khác vô thành hồ sơ của mình)
* Cải tạo thiết kế (Sửa chửa hồ sơ bị vẽ “lụi”)
Cấp cứu công trình (Khi thi công bị tê liệt do vẽ “lụi”, phải chỉnh sữa khẩn cấp)
Ta khen:
Quả thật là hay.
Kiều giảng:
Ðó là những bí kíp chân truyền. Dân Kiến ráng tu luyện thiết kế lâu năm tất có người lên làm vua như vua nhà phố, vua biệt thự, vua bếp, vua vệ sinh, vua phối cảnh, vua mô hình... Tệ lắm cũng là một Ðại Kiến Trúc Sư. Chứ sự học thì vô cùng tựa Ðông Hải. Em không tài nào một đêm mà giảng hết vậy.”
Cẩm nang làm sáng mắt biết bao nhiêu chàng Kiến và là một diệu kế xóa đói giảm nghèo cho cả râu ria tộc họ nhà Kiến hai cẳng. Chẳng làm lạ khi thấy bụng Kiến Chúa nào cũng ngày càng phệ do được bầy Kiến Thợ tận tình cung cấp bia bọt, em út thừa mứa quanh năm...
Chuyện của Tổ còn nhiều nữa, ấy là chuyện về sau...
Vì cạnh tranh gay gắt với các đồng nghiệp nên họ Kiến phải học thêm mọi thủ thuật để mà tồn tại. Ðể thuyết phục đám khách hàng chưa rành về chuyên môn là dùng phối cảnh. Ngày xưa nhà trường cũng đã tinh ý dạy phối cảnh cho mọi người nhưng nói trắng ra là để câu khách thì quá sống sượng nên không ai dám tuyên bố huỵch tọet. Anh sinh viên ban đầu phải rị mọ tập dựng hình, tô màu., tỉa chi tiết bản vẽ phối cảnh. Trước áp dụng cho đồ án của mình. Sau đó là thỉnh thoảng bắt mối bên ngòai để kiếm thêm chút đỉnh. Nhiều ông cũng dấu mấy tuyệt chiêu không cho bạn bè biết dù chỉ là mẹo vặt. Ngày ấy vẽ một phối cảnh cũng được lắm tiền nên có anh chỉ vẽ thuê chơi chơi mà bạc tiền rủng rỉnh.
Càng về sau, khi càng văn minh thì thiên hạ lại càng làm biếng tư duy do quá ỷ lại vào phương tiện khoa học kỹ thuật, nên dần dần bản vẽ khó được khách hàng hình dung nổi và phối cảnh càng thêm cần thiết để nói chuyện với thân chủ. Thay vì vẽ nghiên cứu kỹ lưỡng cả mấy ngày về một mặt bằng kiến trúc, người ta chỉ vẽ sơ sịa cũng ra một phối cảnh thật đã mắt vừa sướng hai tay, chất lượng thừa sức bỏ bùa mê hoặc khách.
Nhớ ngày trước có thầy tên Th. đã dạy khai tâm SVKT như sau:
“Khi người ta bịnh, thì người ta tìm tới Bác sĩ. Khi người ta có tội, họ cầu khẩn Luật sư. Hai vị này hét bao nhiêu tiền thì khách cũng phải chạy trả cho đủ vì họ không cần khách mà khách cần họ. Ngược lại, khi người ta giàu có sung sướng họ mới tìm đến Kiến trúc sư. Vì thế họ coi Kiến trúc sư không ra ký lô nào hết. Kiến trúc sư cần tiền nên phải dùng hết bản lĩnh của mình mà cố gắng chinh phục thân chủ ”.
Từ khi có máy vi tính thì công việc KTS Kiến trúc sư thay vì dễ dàng hơn, đàng này ngược lại càng thêm mệt mỏi phức tạp do dùng sai mục đích. Người ta dùng vi tính để “binh” công năng cho lẹ trong khi ở bên chúng ta thì dùng để thiết kế mỹ quan đầy râu ria mắm muối mà chinh phục khách. Mà muốn như vậy thì KTS phải mất giờ học nhiều thủ thuật đồ họa không ăn nhập gì với kiến trúc để pha chế trong khi thời gian đầu tư vô ý tưởng cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Các phối cảnh nhờ vậy được sản xuất hàng lọat ở mỗi công trình. Gặp phần mềm Photoshop hỗ trợ nên anh em có thể ghép công trình người khác làm của mình, thậm chí ôm luôn một hay nhiều phối cảnh nào đó scan từ tài liệu bên ngòai, “luộc” lại một ít bằng ánh sáng, “mông má” thêm màu sắc là có tác phẩm mới đỡ mất công “binh” tới lui mất thì giờ. Thêm máy in tối tân làm cho chất lượng tác phẩm đẹp hơn thực tế hỏi khách hàng nào không khoái mà nhắm mắt ký hợp đồng cái rẹt? Gặp khách hàng khó, thì vẽ thêm phối cảnh công trình vào ban đêm lung linh đèn đóm hay hàng lọat phối cảnh khác từ trong ra ngòai nhà lẫn từng chi tiết phóng to để thôi miên khách cho lẹ. Ðụng nhiều độ lớn thì đòi hỏi công phu cao hơn. Lúc đó máy vi tính phải làm việc ngày lẫn đêm để sản sinh ra một bộ phim phối cảnh hoành tráng nếu trời thương đừng chơi cúp điện bất tử. Có lúc nhà Kiến còn phải chi tiền cho chuyên gia làm thêm mô hình lộng kiếng kiêu sa để khách sờ mó tận tay mà yên tâm. Ðó chỉ là giai đọan đầu để giành khách.
Giai đọan tiếp sau thì bắt buộc phải khai triển kỹ thuật sao cho nó khả thi và hợp lý. Anh nào lơ mơ khâu này thì coi như mất cả chì lẫn chài. Thông thường vì ham dành khách mà vẽ phối cảnh bất chấp kỹ thuật. Ðến khi vẽ vô kỹ thuật thì mọi cái tệ hại mới lòi ra. Lý do ban đầu là vì mặt bằng binh “lụi” cho có nên về sau hậu quả khôn lường. Thêm khổ một nổi là dân bên ngòai không thèm nghe lời ông KTS chân chính mà khoái nghe lời mấy cha hàng xóm hay đặc biệt là ông thầy địa lý dựa trên cơ sở mấy tạp chí Kiến trúc lá cải đủ lọai bán tràn lan bên ngoài. Nghe mấy chư vị đó bàn ra bàn vô vài lần thì tinh thần chủ nhà lung lay rồi tự xây theo ý mình.
... Thầy địa lý thỏa tài sáng chế,
Thước Lỗ Ban được thế ra oai
Cửa trong cho tới cửa ngoài,
Hướng nhà, hướng bếp, chiều dài cầu thang...
“Sinh Lão Bịnh...” số thang đếm bậc,
“Càn Khôn Ly...” hướng mặt của giường,
Từng ly tấc chớ coi thường,
Ði cầu đúng hướng, ra đường đúng phương(!)...
Khi căn nhà xây xong thì KTS cũng không dám nhận làm tác phẩm của mình dù khách có thể vừa ý khen không ngớt. Nhìn lại phối cảnh bảo đảm cũng chưa chắc giống thật là bao. Hên thì coi như ông KTS ấy được khách hàng vừa ý mà đỡ mất công nghiên cứu. Chưa kể được khách quảng cáo nên nổi tiếng trong thiên hạ. Tha hồ bắt thêm khách nhà giàu khác. Xui thì 2 bên đều lãnh đủ. KTS đổ thừa nói là vì chủ nhà không tuân thủ hòan toàn bản vẽ, nhờ thế cái tội vẽ lụi của “Kiến tặc” được trắng án. Có lúc khách hàng tự làm theo ý mình rồi nói rằng KTS không làm gì cả để kiếm cớ xù tiền hay có lúc lợi dụng một lỗi nào đó để trừ tiền gỡ vốn ít nhiều. Có lúc khách hàng dụ KTS vẽ cho đã rồi sau đó đưa tiếp qua nhiều KTS khác để chắt lọc nhào trộn ý tưởng, rồi ông KTS nào cũng đều bị xù như nhau với lý do là làm không vừa ý. Nên có người nói rằng chưa bị xù tiền lần nào tức chưa là KTS. Gặp sự cố do vẽ lụi không thực thi được trong thi công thì công việc cải tạo thiết kế hay cấp cứu công trình là thường, có lúc phải cầu cứu tới đồng nghiệp khác. Có lúc cũng do lỗi chủ nhà đổi ý bất tử dù đã ký giao kèo thỏa thuận hai bên. Nhiều công trình hoàn thành với bề ngoài thấy “nét tưng” mà không sử dụng được do nứt, lún, thấm dột vì vật liệu bị nhà thầu hao hớt hay kỹ thuật thầy thợ “tay ngang”, cũng có lúc do KTS binh “lủng” pạc-ti. Có ông thầu dám mạnh mồm nói rằng cứ thêm 10 triệu bạc là ổng sẵn sàng lên một tấm sàn dễ ợt! Bên Kiến trúc thì bạo phổi nói kiểu gì “binh” cũng “tới” láng. Khách hàng là người chịu thiệt thòi nhứt. Cái khổ trong xây dựng là khi khách hàng đã lãnh đủ thì họ mới sáng mắt mà hối tiếc vì không chịu tin lời mấy ông KTS chân chính. “Sự thật mất lòng” nên mấy ông này cũng chẳng được ai ưa rồi từ đó ế độ dài dài. Tới nước này thì khách không còn khả năng tìm KTS khác giỏi hơn nữa vì gần như sạt nghiệp. Ðồn ra cho thiên hạ thì chính mình cũng có lỗi nên chẳng ai dại nói ra cho thiên hạ cười mình thối óc. Thành ra mấy anh Kiến “binh lụi” chụp giựt vẫn có đất sống dài dài. Ðám thầu chơi trò “thi công tới đâu binh tới đó” cứ phây phây sống trên đầu mấy khách hàng ngây thơ. Chẳng ai thèm ý thức rằng số tiền lớn trả cho một ông Kiến đàng hoàng vẫn rẻ hơn quá nhiều so với một sự cố hay thiệt hại kỹ thuật nhỏ trong công trình do đám “Kiến tặc cấu kết Thầu gian” quậy mà ra.
Người ta nói rằng để có một công trình tốt trước tiên cần có một sự hòa hợp về ý tưởng giữa KTS và khách hàng như cặp vợ chồng. Mà nhắc tới vợ chồng thì phải đề cập tới cái tệ nạn ngọai tình và con riêng. Cái “ngoại tình-con riêng” ấy trong xây dựng cũng không khác trong tình yêu là bao nhiêu. Việc này gây thiệt hại cho nền kiến trúc nước nhà không ít và KTS hay khách bên nào cũng sẵn sàng phũ phàng công khai cắm sừng bên kia không thương tiếc. Cảnh bên khách nhờ KTS đến vẽ nhà của mình giống như căn nhà X, Y nào đó trong sách hay bên đường A,B. Dĩ nhiên dân Kiến rất tự ái nhưng trước cảnh kiếm cơm nhiều người buộc lòng phải đau khổ tuân theo không chống đối để rồi có một công trình không vừa ý với lương tâm mình chưa kể cũng là lý do để khách tìm cớ quỵt tiền với cớ là tất cả ý tưởng đều do khách đưa ra hết trọi. Hay trong lúc thi công khách tự ý thay đổi thiết kế theo ý người khuất mặt nào đó làm tiêu ma hết ý đồ của Kiến. Ngược lại có KTS ăn cắp công trình ở nơi khác nói là ý tưởng của mình mà dụ khách khỏi mất công nghiên cứu chi cho mệt. Khách, dù có biết, nhiều khi cũng phải nhịn và làm ngơ vì nó cũng “đẹp giai” quá. Tóm lại thì khi công trình hoàn tất người ta không thể nào truy ra được một phong cách hay trường phái kiến trúc của nó do bị tính “dị hợp tử” quá nghiệt ngã.
Có cái nhiêu khê như là khi chủ nhà ban đầu không hình dung, dự trù hết tòan bộ mọi chuyện. Trước hết là tiền. Hễ đụng một sự cố phát sinh nào thì coi như công trình bị kẹt vốn. Rồi người KTS có lúc phải vẽ lại “cấp cứu” hay chủ nhà tự xoay sở để “chữa cháy” cho vừa hầu bao. Thế là phá sản mọi ý đồ của nhà Kiến. Có lúc chủ nhà không hình dung được không gian của công trình rồi yêu cầu KTS vẽ cho to lên thêm nữa mới thấy “đã”. Mãi tới khi hòan thành thì vỡ lẽ rồi “thầy đổ tớ, tớ đổ thầy” gây nhiều xích mích. Vô số sự cố khác như là luật lệ thay đổi, hàng xóm thưa kiện nhau, tranh chấp, tai nạn lao động... luôn rình rập đe dọa làm phá hết chương trình dự kiến giữa nhà Kiến và chủ nhà.
Chỉ nói về những công trình nhỏ là đủ cho thấy hết mọi vấn đề. Chẳng cần phải mất công đề cập tới công trình lớn làm chi vì báo chí đề cập hoài hoài hàng ngày. Thiên hạ vì quá chú ý chuyện lớn mà quên đi chuyện nhỏ trước mắt mới ra như vậy. Ðó cũng là lý do tác giả phải ngứa tay viết vài dòng mong giúp bà con tỉnh ngộ. Mong bà con tha thứ nếu viết có gì đụng chạm. Mời bà con vui lòng xem tiếp hồi sau để biết thêm được chuyện nào hay chuyện đó mà phòng thân.
Hồi thứ Tư
Trúng vô thời thế, xây dựng tràn lan
Hạ cám thượng vàng, dân đen lãnh đủ.
Ham mới nới cũ, đô thị tan hoang,
Tấc đất tấc vàng, liệt cường xâu xé.
Nói tiếp về Tổ, sau khi viết thành công quyển cẩm nang, vì ngồi suốt đêm nghiên cứu động não miệt mài quá độ, thêm bị cái vụ té lăn chiêng xuống giường hồi đêm kia nên lúc này mới thấy mình mẩy rêm không kể xiết. Tổ linh tính thấy chuyện không yên bèn đánh tay tính thêm một quẻ nữa. Nhằm quẻ: “Lôi Ðịa Dự” hóa “Thuần Khôn”.
Thôi chết! Tức là:
Xây dựng bùng nổ (Dự) tùm lum (Thuần Khôn)
Làm ăn chụp giựt (Dự) làm tan hoang (Thuần Khôn)... vân vân...
Càng giải quẻ Tổ càng lo lắng và ân hận. Tiếc rằng đã lỡ viết rồi mà bỏ thì uổng văn của mình quá. Thôi đành chịu vậy! Tổ đành tiếp tục rặn ý viết thêm một “cẩm nang cứu giải” trong trường hợp khẩn cấp. Về sau trước khi tịch, Tổ bắt buộc đệ tử phải luôn truyền bá song song hai cẩm nang. Anh nào làm sai sẽ bị Tổ vật đừng trách! Song có vài đồ đệ sẵn tánh xấu ưa giấu nghề, bất chấp lời nguyền, vô ý một cách tính toán làm thất lạc bản gốc “cẩm nang cứu giải” nên Tổ giận lắm. Ðể tránh bị Tổ phạt, nên về sau, lễ Truyền thống nào cũng phải nhắc tới Thần Kiến trúc, thậm chí một vài năm có thêm cả lễ tế Thần kiến trúc cho chắc ăn là vậy.
Tổ tiên tri không sai. Nhiều năm gần đây khi xây dựng được mùa, ngoài KTS ra, tất cả kỹ sư, thầu tay ngang tay dọc đều có thể làm thiết kế kiêm xây dựng. KTS cũng nhảy vô làm thầu để cạnh tranh với đối thủ. Rồi ngoài ngành xây dựng ra, ngành nào có tiền cũng mở thêm công ty xây dựng được thoải mái. Muốn chất lượng cỡ nào cũng được đáp ứng tới bến. Hễ dính tới xây dựng là có tiếng, tốt xấu tính sau.
“Người người xây dựng, nhà nhà xây dựng, đâu cũng xây dựng được” búa xua. Riết đâu cần học kiến trúc cũng có thể xây nhà dễ ợt vì kiến trúc đã đại chúng hóa đến tận cùng của xã hội. Cứ ra đường là gặp dân Kiến Trúc. Hễ làm quen là anh nào cũng “xì” ra hàng cọc cái “cạc vi-sít” rải như truyền đơn nào là giám đốc, phó giám đốc, manager...tệ lắm cũng là một design supervisor (nói văn chương là “cai thiết kế”). Kèm theo thêm đủ chức vị “sư” này “sỹ” nọ đầy nhóc tấm “cạc”. Ðã lỡ tốn một lần thuê thợ thì phải yêu cầu thợ nó in nhiều nhiều chữ cho đáng đồng tiền bát gạo và xứng cái danh mình hằng mong ước. Tình hình này thì riết KTS chỉ khác với người ngoài duy nhứt ở cái bằng mà thôi. Tội gì học cho tốn tiền mất thì giờ nếu không muốn bon chen khoa bảng với chúng nhân. Ðất đai lên giá vô tội vạ. Ðất vườn, đất ruộng, đất tôn giáo, đất nghĩa địa... đều thổ cư hóa đến tột cùng mà vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu xây dựng của thiên hạ. Dân Kiến làm ăn ban đầu còn dễ dàng, càng về sau bị nhiều “ngoại đạo” dành ăn nên Kiến thật hay Kiến lụi chẳng ai biết nổi. Lợi dụng Kiến thiệt–Kiến giả dành ăn nhau, nhiều “ngư ông” nảy ra sáng kiến nhập vật liệu xây dựng, sách vở, các mẫu nhà trên thế giới vào để mà “đắc lợi”. Ðầu tiên là dụ cho khách hàng mua mấy cái catalô mẫu nhà từ lạ tới lập dị chưa từng có. Từ đó khách hàng sáng tạo kết hợp thêm nhiều kiểu từ nhiều nguồn tạo một phong cách kiến trúc cho riêng mình. Người ít học thì cứ tự do bắt chước cái có sẵn bên hàng xóm mà xây cho chắc ăn vì chẳng có ai chết mà sợ. Chưa có luật bảo vệ bản quyền kiến trúc của nên bà con cứ thoải mái chụp hình, cóp-py lại cái có sẵn và từ đó theo giống là yên bụng. Tất cả biến cái đất này thành cái thế “quần Kiến tranh thực”, tự do hơn cả thế giới tự do vì ai cũng làm xây dựng được mà không bị ai khác kềm hãm ý tưởng và hành động của mình. Các trường phái thế giới từ ngàn xưa đến nay tha hồ được phát huy và thí nghiệm trong cái thiên đường xây dựng này đến tận cùng ngõ hẻm. Chúng còn được vinh dự sánh vai kề bên nhau làm khu phố thêm đa đạng như một cuộc thi hoa hậu đường phố. Kiểu kiến trúc mới về ồ ạt, chưa biết chất lượng ra sao song nhiều người cũng đã thẳng tay phá sạch những căn nhà cổ vô giá của mình để “lên đời” cho thiên hạ nể. Rồi cái phố nhà ta nó trở nên phong phú với nhiều chủng lọai. Trường phái tân cổ giao duyên này đến nay chưa ai có thể định nghĩa được rõ ràng. Ðại khái nó tạm có cái tên dài, khá dài, dài vô tận: “Chino-greco-romano-franco-americano... vietnamese” [1] . Bác sĩ còn phải lỡ tay giết ít nhứt vài người mới có kinh nghiệm để thành bác sĩ giỏi thì KTS trước khi nổi tiếng thì thiết kế tiêu tùng vài căn nhà là chuyện tất nhiên không chối cãi. Nên sẵn dịp này các Kiến thả cửa chế biến, nhào nặn các chi tiết kiến trúc từ nhiều nguồn tài liệu, nhiều công trình tham khảo để “dợt thử ” ý tưởng của mình. Nhiều anh rút kinh nghiệm ở dơ hồi trong trường rồi sản sanh ý tưởng lấy gạch cầu tiêu mà ốp mặt tiền nhà cho dễ rửa ráy, càng thêm sạch sẽ. Mấy anh sẵn tính lười thì có sáng kiến dùng cây nhựa cắm trong các bồn hoa cây xanh để đỡ mất công tưới tiêu, trừ sâu gì ráo mà luôn thấy thấy xanh rờn. Thí nghiệm vũ khí thì bị chống kịch liệt chứ thí nghiệm ý tưởng thì nhiều người còn khuyến khích nhứt là những người không bỏ cắc nào ra và mình chẳng mất mát gì mà sợ. Tạm tóm tắt thì bộ mặt mấy khu phố loại “kiến trúc nhà dân” được diễn tả như sau:
Quán thiên hạ đèn mờ, đèn tỏ
Phố nhà ta đủ kiểu: cửa vòm,
Lan can “bà chửa” khum khum,
Hoa văn “rồng lộn”, cột lùn, cột vuông
Sơn trắng xóa trên tường ba mặt
Gạch vệ sinh ốp lát mặt tiền.
Phù điêu vằn vện ốp lên,
Tượng Lân, Sư, Chó dựng bên lối vào.
Mái đủ loại muôn màu muôn cách
Tượng đại bàng tung cánh phía trên,
Trong nhà, bồn tắm như tiên,
Kiểu nằm, kiểu đứng lại thêm kiểu ngồi.
Ðủ vật liệu, ôi thôi! nội thất
Kiểu Việt, AÂu, Trung Quốc lung tung,
Ðài Loan loè loẹt đèn chùm,
Hy-La, “Gô-tích” um tùm hoa văn.
Thang xương cá tung hoành uốn lượn,
Cạnh quầy bar ngất ngưỡng giữa nhà,
Kề bên: hồ cá, bồn hoa,
Salon đồ sộ kiêu sa muôn màu.
Phòng giải trí thần sầu, lác mắt,
Karaoke, dàn nhạc, video...
Sắm toàn đồ hiệu cho kiêu,
Sao cho lác mắt bao nhiêu người ngoài...
Song song phần “xịn” của “chợ” xây dựng thì cũng có phần “dỏm” mà giới bình dân gọi là “chợ trời xây dựng”. Ai vào đó đều tự do thiết kế, thi công, tính toán, thoải mái kỳ kèo mọi thứ trong xây dựng từ tiền thiết kế phí, thời gian thực hiện, chất lượng công trình, vật liệu,... ngay cả kết cấu và tải trọng công trình nếu cần cũng sẵn sàng được anh em trả giá miễn cho nhẹ tối đa kinh phí. Ðúng luôn theo nghĩa “chợ trời” trong thực tế với kết quả và hậu quả của nó. Vì tiền là căn bản, mục đích nên tất nhiên cũng có tệ nạn trung gian đủ chủng loại: cò nhà, cò giấy phép, cò mô hình, cò phối cảnh, chuyên gia quảng cáo thiết kế cho các công ty, buôn lậu (làm xây dựng không chính thức), và cả... Kiến tặc, Thầu gian (chôm ý tưởng công trình, làm lụi, vẽ lụi, xây ẩu... rồi... ôm tiền quất ngựa truy phong). Lâu lâu cũng có những vụ thanh toán nhau vì tiền đúng bài phim Tàu, phim Mỹ. Chưa nói tới mấy trò “thanh lý môn hộ” lặt vặt thì nhiều không kể xiết.
Nói riêng về loài Kiến hai cẳng, trong thời buổi nhiễu nhương này số Kiến chúa thành công thì ít mà số thất bại hay đi làm Kiến thợ thì đông vô kể. Kiến thợ cũng bị Kiến chúa bóc lột và xù tiền như ai. Thây kệ trong trường trước đây là “anh em” chứ ra trường thì “chúng ông, chúng mày” ráo! Rồi “bôi mặt đá nhau” không ai cấm. Dân Kiến tốt bụng thì lại chẳng khi nào nói khoe khoang ào ào ra ngoài nhiều nên thiên hạ chẳng ai biết rõ đâu mà tìm, trừ khi có khách quen giới thiệu tới. Khắp nơi tràn lan Kiến thợ, đa số là bị buộc “bán thân” cho “lầu xanh Thiết kế” để cong lưng vẽ hoài theo ý của người khác phứt cho rồi mà chẳng được tiền bao nhiêu. Ðường đường là một Ðại Kiến trúc sư mà lúc nào cũng phải bị “e thẹn cúi đầu” trước thu nhập của mấy ả “hàng một triệu” mới tức chớ.
Cái kiếp “sống nhờ lương” mà lương không đủ sống thì sướng nhờ cái chi chi nữa hở trời!
Thỉnh thoảng có thấy mấy anh sinh viên ra trường năn nỉ xin làm không công cho mấy văn phòng KTS để học thêm nghề. Thời thế bắt mấy bác sĩ “chạy“ xin làm không công cho bịnh viện vài năm mới được ra làm phòng mạch tư chưa đủ sao mà bây giờ lại tới lượt hành hạ loài Kiến hai cẳng?
Trong sự bùng phát xây dựng tất nhiên gặp nhiều thủ tục khách hàng phải giải quyết. Thì tất cả đều sẵn sàng có người chạy lo phục vụ khách hàng tới nơi tới chốn. Kiến nhà ta để tiếp tục cạnh tranh tồn tại thì ô-kê “lãnh sô” chơi đại luôn cho công việc xong tới nơi tới chốn. Riết rồi từ chuyên môn ban đầu là khâu thiết kế, Kiến nhà ta liều mạng thực tập dần để làm căn nhà thân chủ từ a-z một mình. Có Kiến sau khi thiết kế xong thì đứng ra làm “cò” thi công cho thân chủ luôn để vét hụi kế. Nếu công trình gặp sự cố thì lại nghiêng về thân chủ làm bộ tư vấn mà xúi thân chủ lấy lý do chất lượng thi công kém mà trừ tiền thầu cho bỏ ghét vừa để tiết kiệm tiền. Nếu êm xui thì đứng nghiêng qua ông thầu mà đòi phần trăm. Do đó luôn được lòng một trong hai bên và thừa cơ bắt tiếp các công trình khác. Anh nào tệ lắm cũng biết chỉ đường cho khách “chạy” sao cho đúng chỗ , đúng thầy, đúng thuốc. Nhưng khi rành rẽ các khâu thủ tục thì nhiều Kiến lại “lục” tay nghề dần. Có anh đạt đến tuyệt đỉnh võ công chỉ bằng độc chiêu ký giấy. Vì trong dân gian đã có câu rằng: “Một tràng chất xám thua đám nước bọt, đám nước bọt không bằng giọt bút bi” là thế.
Khi kiếm ăn càng dễ dàng thì Kiến cũng như lòai khác càng giảm bản năng sinh tồn tức là không còn bền bỉ nghiên cứu chuyên môn cho mệt xác trong khi “chạy ngòai” hiệu quả hơn. Thấy khách hàng không rành chuyện xây cất thì cũng chẳng ai tội gì vẽ kỹ, cứ “thi công tới đâu binh sửa sai tới đó”. Vì vậy thấy hoài chuyện nhiều nhà xây xong phát sinh đủ sự cố mẹ, sự cố con, trong khi...
Rủ nhau, Kiến tặc, Thầu gian,
Ôm tiền chạy sạch, cùng ăn chia lời,
Chúng ông đã trốn đằng trời,
Chủ nhà ở lại chịu đời đắng cay...
... với mọi hậu quả phát sinh không lường trước được.
Ðất đai lên giá vùn vụt, xây dựng thoải mái, nghề xây dựng thu tiền như nước, hỏi ai hổng ham? Thấy miếng mồi quá ngon trước mắt thì việc giành ăn xâu xé không tránh khỏi.
Tại vậy mà xưa nay, bên Tây có câu: “Qui terre a, guerre a” [2] . Quả là chí lý!
Rồi đời sau có thơ vịnh rằng:
... Cảnh xâu xé loi nhoi lúc nhúc,
Như cá tra giành giựt mọi ngày,
Sặc mùi “Ðại Kiến” bậc thầy
Mồm loa mép dãi, lưỡi dài hơn râu.
Trò “bảy chữ” thuộc làu như cháo,
Chiêu “tám nghề” chơi bạo thẳng tay,
Corbusier phải chạy dài,
Kenzo Tange thấy mặt mày thất kinh...Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:
...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...
Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.
Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.
Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.
Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).
Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:
Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!
“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]
Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:
...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...
Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.
Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.
Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.
Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).
Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:
Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!
“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]
Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:
...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...
Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.
Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.
Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.
Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).
Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:
Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!
“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]
Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?
Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:
...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...
Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.
Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.
Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.
Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).
Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:
Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!
“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]
Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?Một bài khác:
“Chợ trời thiết kế” biết hay chưa ?
Ngất ngưởng “lầu xanh”* trọn bốn mùa.
Làm đêm miễn phí bao nhiêu bận ?
Của ở người đi đã mấy phùa ?
“Cải tạo thiết kế “ khi nát bét.
“Cấp cứu công trình“ lúc te tua.
Khố đỏ, khố xanh, đây, đủ cả,
Cập-rằng, Cai, Ðội “quất” từa lưa.
* vì bấy giờ công ty ấy thuê mặt bằng tại một cao ốc sơn màu xanh.
Có thêm một bài vè đang lưu truyền:
Chuyên môn là ta,
Ba hoa là xếp
Khó khăn trùng điệp,
Giải quyết mặc ta
Xếp ưa đàn bà,
Ta là đàn ông.
Xếp “binh” lòng vòng,
Ta làm bỏ mẹ,
Xếp ưa ọ ẹ,
Ta buộc lắng tai,
Xếp biết mình sai,
Ta đã bị bay ...
“lên đường” vĩnh viễn!
Với cách này thì mới hy vọng thiên hạ ai cũng thấu hiểu và Kiến nào cũng “thấm dần kinh nghiệm vào đầu” rồi liệu mà giữ mình sau này...
Chuyện đời Kiến viết không tài hết dù dùng sạch cả rừng trúc Nam Sơn. Lấy hết nước biển Ðông cũng không gột hết nỗi nghiệp chướng đeo đẳng dân Kiến.
Ôi thương thay!
Mà vẫn có người say mê Kiến trúc và lỳ lợm dấn thân vào.
Je ne regrette rien,
J’avance. [4]
(Paul Éluard)
Thật đáng phục những người ấy!
Trân trọng biết ơn nhiều đồng nghiệp đã tậm tâm bổ sung ý tưởng cho bài.
“Sự thật luôn bị che giấu nhưng vẫn tồn tại mãi mãi”. Chuyện kể chơi rủi có sai cũng không ai chấp vì mục đích chỉ mua vui mà chẳng hại ai, không có ý xuyên tạc bất cứ ai. Tác giả hoàn toàn không chịu trách nhiệm khi có kiện cáo về những việc trên.
Bắt đầu viết 3-3-2004 lúc giờ Thân (Ðịa-Thiên Thái – Ðịa-Trạch Lâm). Viết xong sơ bộ ngày 17-3-04. Hoàn thành ngày 22-4-04. Lúc giờ Hợi (Ðịa Lôi Phục – Thuần Chấn).
© 2004 talawas
[1]“Trungquốc-hilạp-la mã-pháp-mĩ... việtnam”
[2]“Ai có đất thì có chiến tranh”
[3]tạm dịch:
Lập tức, hôm nay, làm ngay!
Cấp bách! Làm xong đêm nay!
To hơn! Tối hơn! Sáng hơn!
Cắt đây! Dán chỗ này! Ðúng rồi, được!
Lập tức! Ngưng liền!
Mánh mung, bất cần!
Mi làm hư chuyện!
Ở đó! Tới đây! Quét mau cho ta cái này!
Gấp lên! Qua cái khác!...
Kệ sát 3-chiều chọn cái khác !
Ðiếm thúi! Cứt! Tất cả mọi người!
Tất cả không có khả năng hiểu nổi!”
[4]“Tôi không hối tiếc/ Tôi tiến tới”
http://www.idr.edu.vn/diendannghiencuu/showthread.php?t=18415&page=2
Trịnh Thanh Thủy
Có hay không một nền kiến trúc Việt Nam đặc thù?
Sau lần viếng thăm Việt Nam gần đây, nhìn thấy một Việt Nam thay đổi ở nhiều mặt, nhất là mặt kiến trúc, tôi nhận ra kiến trúc quê hương tôi đang bước vào một khúc quanh lạ lẫm. Tôi đi từ Bắc chí Nam phát hiện nhiều căn nhà cao tầng sừng sững mọc lên, những cao ốc mỏng mảnh hình ống, đủ màu vui mắt chen chúc nhau gợi tôi nhớ những căn nhà technique color trong khu phố dành cho thế giới trẻ thơ ở Disneyland.
Nhìn vào sự phát triển nhanh chóng của ngành xây dựng hiện nay, tôi vừa mừng vừa lo. Không biết sự tiến hoá này sẽ thay đổi bộ mặt kiến trúc Việt Nam từ thành thị tới nông thôn đến đâu? Không biết có ảnh hưởng trực tiếp đến các di sản quốc gia hay lịch sử vì tính hiện đại của nó không? Bản sắc dân tộc có là một định hướng chỉ nam trong các dự án kế hoạch xây dựng không?
Năm 1989, Ông Sturgis có viết: “Để hiểu thấu nơi chốn chúng ta ở ngày nay, chúng ta cần biết rõ nơi ta ở trong quá khứ”. Tuy nhiên ước muốn bảo tồn lịch sử văn hoá và ước muốn phát triển, đổi mới, làm lại lịch sử đã làm chúng ta do dự. Không tăng trưởng, chúng ta sẽ vướng vào sự chậm tiến, trì trệ. Vì vậy chúng ta cần phải hiểu quá khứ trong khi theo đuổi sự tăng trưởng. Điều tối quan trọng là tôn trọng và bảo tồn những cái chúng ta có trong quá khứ.
Tính “chuộng mới nới cũ” và “chạy cho kịp trào lưu” của người dân Việt hiện nay góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng nền một nền kiến trúc Việt Nam đặc thù hay lai căng. Chúng ta đừng nên rẻ rúng cái cũ hay xem thường kiến trúc của một đô thị hoặc nông thôn vì kiến trúc của nó thể hiện nền văn hoá đặc thù của dân tộc đó. Từ xưa, người Việt mình vì nghèo nên có thói quen khi xây nhà ít khi thuê kiến trúc sư vì sợ tốn tiền. Nhà cửa, cái thụt ra, cái thụt vào, rất mất trật tự. Khi xây thì lấn trước, lấn sau, lấn chỗ nào được thì cứ lấn, được tấc nào hay tấc ấy. Muốn xây nhà thì gọi nhà thầu xây dựng hoặc các ông thợ xây nhà đến và chủ nhà tự ra đồ án, thiết kế lấy kiểu nhà mình thích. Dở hơn thì bắt chước. Cứ qua hàng xóm, lượn một vòng tham quan, khi về là có một kiểu nhà bà phước đồng phục, khác nhau chỉ ở màu sơn. Muốn khác hơn thì thêm bông hoa, màu mè cho bắt mắt miễn sao nhà mới là tốt và có giá thôi.
Ngày nay tuy luật lệ xây dựng chặt chẽ hơn, mọi công trình xây dựng đều phải do Bộ Xây dựng thông qua nhưng vì khe hở luật pháp quá lớn nên những vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng đã xảy ra khá nhiều, nảy sinh những căn nhà, toà nhà cao tầng xây dựng không đúng tiêu chuẩn méo mó, kỳ dị, lún, nứt chỉ sau một thời gian ngắn sau khi xây. Sự sai phạm không theo đúng các quy định pháp luật, lại thêm tham nhũng tạo ảnh hưởng trực tiếp các công trình thi công gây tác hại như làm lệch, lún, nứt đến nhà của cư dân quanh vùng. Đời sống sinh hoạt của khu dân cư cũng bị vạ lây: Không che chắn kỹ làm bụi bẩn, vật liệu rơi vãi xuống nhiều nhà dân; đập bể phốt nhưng không hút, khiến mùi hôi thối bốc ra xung quanh, gây ô nhiễm môi trường suốt mấy tháng trời. Người dân gửi đơn kêu cứu khắp các cơ quan chức năng trong tỉnh, mà sự việc trên vẫn chưa được giải quyết hoặc có giải quyết cũng không thoả đáng.
Trước đây ý niệm văn hoá kiến trúc hầu như không có trong lòng người Việt. Có thể không ai thấy hoặc có lẽ không cần biết đến cái gì gọi là cấu trúc của một đô thị, một quốc gia. Tôi có hỏi ý kiến một vài người về việc này. Có người quan tâm thì bảo mình nghèo quá mà, một quốc gia nặng về nông nghiệp sau nhiều năm chiến tranh mới phát triển như ta thì bàn chi đến việc văn hoá kiến trúc cao xa đó. Gia tài của mẹ để lại sau chiến tranh là một nước Việt buồn. Bom đạn, tan hoang tàn phá khắp nơi, giờ thanh bình chỉ mong có cái nhà gạch để ở là may rồi, nói chi đến văn hoá kiến trúc.
Người ta bảo, nước mình tự do thế mà còn phàn nàn chi nữa, muốn xây thế nào thì xây, kích thước tiêu chuẩn không bị bó buộc, không ai bắt chữa đi, sửa lại. Chả bù, ở Mỹ muốn xây cái gì cũng phải có kỹ sư thành phố xuống kiểm soát, bắt chỉnh đi chỉnh lại cho đúng tiểu chuẩn, xây cái nhà mãi không xong. Khu nào dành cho nhà tư, không cho xây xí nghiệp, nhìn mãi một khuôn mẫu đến là đơn điệu. Khu thương mại thì chỉ có cửa hàng buôn bán không cho ở, trong khi bên ta dưới nhà thường là buôn bán, trên thì xây lầu để ở. Xây thêm cái phòng cũng phải xin phép, sửa lại cái nhà xe làm phòng cho thuê cũng không cho. Ở Việt Nam thế mà sướng, cái gì khó khăn mấy rồi cũng xong. Thủ tục “đầu tiên” qua rồi thì căn nhà có méo mó hay sai luật đến mấy cũng được thông qua.
Kẻ góp ý, tự do là một chuyện, qui luật là chuyện khác. Ta thử nhìn một trang giấy với những dòng chữ đẹp đẽ, ngay ngắn, theo hàng thẳng lối. Nơi nào chữ hoa thì viết hoa, nơi nào xuống dòng thì phải xuống dòng, có đẹp đẽ hơn một trang giấy lổn ngổn chữ, thụt ra thụt vào, chữ to lấn chữ nhỏ, chồng chéo lên nhau. Luật lệ ràng buộc nhiều điều nhưng thiếu chúng mọi sự sẽ loạn. Một đô thị kiến trúc mới, có những luật bảo toàn an sinh rất có lợi cho người dân. Chẳng hạn ở Mỹ mỗi con đường đều có nơi đặt vòi nước cứu hỏa, để phòng khi hoả hoạn có nước mà chữa cháy. Việt Nam có những nơi nhà cửa san sát, ngõ ngách chật hẹp khi bà hỏa tới viếng, người dân không chỗ chen chân để chạy, nói gì đến chỗ cho xe vòi rồng vào cứu hoả.
Nói chuyện mình rồi lại nghĩ tới người. Thái có những đền đài cung điện với kiến trúc chùa tháp và những mái cong là đặc thù của nền văn minh khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha trong những kiến trúc nghệ thuật Roman, sắc nét nhất là các ngôi nhà thờ cổ, toà thánh, trần cao ngất (Sistine Chapel). Các công trình kiến trúc nhà cao tầng, tầng nối tầng, nhà nối nhà, kiên cố ở Ý đã vang danh đế quốc La Mã một thời. Nhữ ng tác phẩm xây dựng lẫy lừng của Brunelleschi, Ghiberti làm lóng lánh các kiến trúc Phục Hưng, Gothic và Baroque. Trung Quốc sắc nét Đông Á trong kiến trúc “Tử cấm thành” nhìn vào ai cũng nhận ra nó là của Trung Hoa. Khi tới Dali, tức nước Đại Lý xưa, du khách chợt sững sờ với một khu phố kiến trúc thật đặc biệt của những căn nhà mái cong sơn trắng trang nhã điểm hoa văn hay tranh vẽ sơn thủy khắp nơi, trong cũng như ngoài nhà. Người dân Đại Lý dành riêng khu phố cổ cho du khách, còn chính họ, họ dời ra nơi khác xây dựng một khu phố mới tân tiến hơn. Hàng năm rất nhiều du khách, phần lớn từ Âu châu ghé thăm Dali, Trung Quốc để tìm hiểu thêm về một nền văn hoá lạ do sự kết hợp của những bộ tộc thiểu số. Họ còn tận hưởng được khí hậu cao nguyên mát mẻ trong lành và thưởng thức những kiến trúc trang nhã hài hoà sạch và đẹp cho giờ phút thư dãn của một chuyến nghỉ hè lý thú.
Nét đặc thù của kiến trúc là một yếu tố quan trọng để lôi cuốn và mê hoặc du khách khắp nơi.
Nhìn lại văn hoá kiến trúc của ta, tôi bỗng tự hỏi: Chúng ta có một kiến trúc Việt Nam đặc thù hay không?
Kiến trúc một quốc gia bao gồm kiến trúc đô thị và kiến trúc nông thôn.
Nhắc đến kiến trúc nông thôn chúng ta chợt thấy gần gũi hơn với cội nguồn, cái cũ và truyền thống vì những gì mới mẻ tân tiến thường xảy ra nơi đô thị là chốn phồn hoa.
Từ xa xưa, kiến trúc nông thôn đi đôi với kiến trúc dân gian là cơ cấu không gian của những đơn vị làng, xã. Đơn vị nhỏ của làng gồm cổng làng, nhà ở, lũy tre bao bọc, nghĩa địa, đình, chùa, chợ búa... Đơn vị nhỏ nhất là nhà, hạt nhân cơ bản của một xã hội. Kiến trúc cổ truyền Việt Nam đa phần sử dụng kết cấu khung gỗ như nhà gỗ truyền thống Việt Nam, gồm các vật liệu bổ trợ như gạch, đá, ngói, đất, rơm, tre...
Trong thể loại kiến trúc này, thực sự không có sự khác biệt hoặc phân chia nhiều về kết cấu. Dựa trên vật liệu và đặc điểm cũng như tính chất của hệ kết cấu, trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam không thực sự tồn tại các công trình có kích thước lớn như ở các quốc gia khác. Những ngôi nhà truyền thống của một vài làng cổ ở miền Bắc còn sót lại đến nay, cho thấy chúng ta có một kiểu mẫu kiến trúc nông thôn căn bản, giản dị, với những mái tranh hoặc một tầng mái dốc. Các ngôi chùa cổ cũng có mái cong, dốc, tầng thấp khiến người muốn vào phải cúi gập người để vào. Theo lời giải thích của một nhà tu, mục đích của lối kiến trúc này giúp con người bớt ngạo mạn, bỏ đi cái tôi, bản ngã to lớn của mình. Có giàu sang, đức độ, tiếng tăm, lẫy lừng đến đâu vào chùa cũng phải cúi xuống mà vào.
Các kiểu nhà miền Bắc thời ấy thường là: Nhà chữ nhị là hai nhà sóng đôi; Nhà chữ công: trước sau hai nhà song có mái hiên nối; Nhà chữ môn: nhà chính và hai nhà phụ hai bên vuông góc với nhà chính. Miền Trung và miền Nam cũng có cấu trúc nhà ba gian, và hai chái phụ ở hai đầu nhà sẽ là hướng Đông Tây chống hơi nóng mặt trời sáng và chiều.
Gian chính làm nhà thờ hay tiếp khách còn hai gian kia để ở và lo việc bếp núc.
Vật liệu xây dựng thì cũng ít có tính cách lâu dài, chỉ trừ các công trình công cộng: gạch, đá, gỗ quý (thiết mộc)... mà đa số dùng các vật liệu địa phương sẵn có như lá, tranh, tre, gỗ đẽo, đá kê nền cột, đất sét nung hoặc không nung, bùn trộn rơm.
Hướng nhà cũng được chọn, thường hướng Nam, để đón gió cho phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm. Vật lý kiến trúc: thông gió tự nhiên, tường và mái nhà thường trùm kín nhà do mưa rất nhiều, hơn nữa cửa đi và cửa sổ mở rất ít do an ninh ngừa trộm cắp nên chiếu sáng tự nhiên rất tối và kém sáng sủa. Nơi nào gần sông chúng ta có nhà sàn là những căn nhà cao lêu khêu có chân, cọc đóng dưới nước. Dân tộc thiểu số miền núi cũng ở nhà sàn cao để tránh thú dữ. Sau này khi đi qua các vùng có nhiều đồng bào Thượng ở Đà Lạt, tôi không còn nhìn thấy những căn nhà sàn ấy nữa, hoặc có còn thì rất ít, rải rác vài nơi hẻo lánh. Chính phủ với các công trình quy hoạch xây dựng đã thay thế chúng bằng những khu nhà chung cư, hình ống với tháp tròn hay nhọn cho họ ở. Tiếc quá, theo tôi những ngôi nhà sàn ấy là nét đặc thù của đồng bào dân tộc. Cây cầu tre Tôi còn thấy các cây cầu khỉ, cầu tre, cầu ván là nét đặc thù của dân tộc miền Nam Việt Nam. Những cây cầu dễ làm, khó đi, lắt lẻo, đầy tình tự dân tộc réo rắt trong điệu hò, ca dao Việt Nam. “Ví dầu cầu ván đóng đinh - Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi”. Bây giờ những cây cầu khó đi kia dần dần được thay thế bằng những cây cầu đúc rất tiện cho việc đi lại nhưng tiếng hò ru con “cầu tre lắt lẻo” vẫn còn ầu ơ vang vọng nhắc nhớ người người chiếc cầu tre mẹ đi ngày nào dẫn con qua vạn nẻo đường đời trắc trở. Kiến trúc đô thị: Trong lịch sử của bề dày hàng nghìn năm, kiến trúc Hà Nội xưa tức Thăng Long thành đã sớm có sự giao thoa với kiến trúc Chăm Pa (một nền văn hoá có ảnh hưởng sâu rộng của văn hoá Ấn Độ) như trong bài viết của Đoàn Minh Châu về Hà Nội: “Sự hoà quyện giữa văn hoá Việt - Chăm trên đất kinh thành tạo ra một nét đặc sắc riêng, trở thành một thành tố cấu thành nghệ thuật điêu khắc – kiến trúc Thăng Long. Điều đó còn thấy rõ ở khá nhiều công trình văn hoá. Sử sách còn ghi dấu một kiến trúc rất Chăm Pa, tháp Báo Thiên nằm bên hồ Lục Thuỷ ( phần còn lại chính là Hồ Gươm hiện nay), ở vào vị trí khu vực chùa Bà Đá - Nhà thờ lớn hiện nay và hồi đó được ca ngợi như “cột chống trời, cao chót vót hơn 4 chục trượng, 12 tầng, do vua Lý sai tù binh chiếm thành (Chăm Pa) xây” (Sách An Nam chí lược của Lê Trắc viết năm 1333). Kiểu kiến trúc như tháp Báo Thiên có thể coi là đặc trưng kiến trúc thời kỳ đầu dựng thành Thăng Long, sau đó đã xuất hiện rất nhiều bên cạnh những ngôi chùa cổ kính mang đậm sắc thái Việt ở nhiều làng quê Bắc bộ như một phần không thể thiếu của nét văn hoá Kinh Kỳ. Nhiều sắc thái của văn hoá Chăm Pa khác còn được lưu giữ ở nhiều di tích như chùa Châu Lâm tức chùa Bà Banh - Bà Đanh, quãng trường Bưởi (Chu Văn An), rồi chùa ‘Bà Già’ ở Phú Xá, Chùa Tứ Liên (cũng đều quanh Hồ Tây), đặc biệt là đã đi vào tấm bia chạm ‘Bà Banh’ trần trụi, rất Chăm còn đọng lại ở nhiều giai thoại văn học.” (Đoàn Minh Châu, “Bản lĩnh văn hoá của Hà Nội nghìn năm”) Ngoài nét lai Chăm Pa, chúng ta thấy nhiều kiểu thức, sắc thái kiến trúc cơ bản của Việt Nam bị ảnh hưởng mỹ thuật kiến trúc Trung Quốc qua những công trình điêu khắc và kiến trúc còn sót lại. Điển hình là Văn Miếu, Đền thờ Vua Hùng, Vua Đinh Tiên Hoàng ở miền Bắc. Người Hoa dùng màu vàng và đỏ tối đa trong các kiến trúc cung điện hay chùa đình, Tử cấm thành là một thí dụ. Kinh đô Huế với Đại Nội và các lăng vua qua các triều đại nhà Nguyễn, tiết lộ ảnh hưởng kiểu thức đền đài cung điện Trung Quốc thời Mãn Thanh với nhiều sắc đỏ, vàng đậm đặc. Các lăng tẩm Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức (ngoại trừ lăng Khải Định có thêm nét đặc biệt khảm trai và đồ sứ lai Pháp) rập khuôn cấu trúc Tử Cấm Thành và những biểu trưng quyền lực tối thượng của Hoàng gia là rồng, cùng tứ quý lân, ly, quy, phượng. Hàn quốc cũng có kiến thiết cung điện giống Trung Quốc, nhưng họ dùng màu sắc khác biệt để tạo nét đặc thù riêng. Kỹ thuật trang trí cung điện Hàn Quốc này gọi là Dancheong tức là Đan Thanh (đỏ xanh) hay Âm Dương theo nguyên tắc ngũ hành. Năm màu chủ lực được dùng là: Trắng, đen, vàng, đỏ và xanh. Màu xanh lá cây nhẹ và cam được dùng nhiều hơn, tạo một phong thái nhẹ nhàng, thanh nhã biện biệt. Nhìn vào mát mắt chứ không chói lọi như hai màu vàng và đỏ. Biểu tượng tối cao của Hoàng gia Hàn Quốc là mặt trăng và phượng hoàng nên các nét chạm trổ và huy hiệu điêu khắc trên trần nhà các nơi mang hình hai vậy quý này. Mái nhà cổ nước Đại Lý Mái chùa cổ Kim Liên - Hà Nội Nếu để ý kỹ ta có thể phân rõ sự khác biệt giữa kiến trúc lăng tẩm, chùa chiền thời Lý trở về trước và các lăng tẩm chùa chiền ở Huế từ thời Gia Long trở về sau. Những kiến trúc xưa như Chùa Một cột, chùa Kim Liên, Hà Nội có góc mái cong khác với các mái cong lăng tẩm chùa chiền Huế. Nó cong vút và thon thả giông giống kiến trúc các góc mái những ngôi nhà cổ ở Dali (nước Đại Lý xưa), Trung Quốc. Điều này nếu có thể sẽ dẫn ra đầu mối cho một giả thuyết mới đây nói về nguồn gốc tộc Việt ngày xưa bắt đầu xuất phát từ các bộ tộc ở nước Đại Lý, Vân Nam tuốt bên Tàu. Các góc mái lăng tẩm triều Nguyễn giống Tử cấm thành nhiều hơn. Vua Gia Long có lẽ ưa chuộng triều Mãn Thanh nên ông bắt chước từ kiến trúc đền đài cho đến luật lệ. Ông đã bỏ cái hay của bộ luật Hồng Đức nhà Lê rất giá trị, tiến bộ và đầy tính nhân bản để ban hành bộ luật Hoàng Việt Luật Lệ dựa theo luật lệ xưa cũ của nhà Mãn Thanh. Khu phố cổ Hà Nội còn là một quần thể kiến trúc tượng trưng cho kiến trúc đô thị xưa. Nét độc đáo mang nặng bản sắc dân tộc Việt là cấu trúc 36 phố phường phân rõ theo sản phẩm thủ công dân cư truyền thống. Những phố Hàng Bạc, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Mã... là những ngôi nhà cổ được xây gạch, lợp ngói. Sau này bên cạnh những mái ngói có những gờ đấu, bờ nóc giật tam cấp lại xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiền làm theo kiểu cách Âu châu ghi dấu một thời kỳ kiến trúc thuộc địa. Sự tiến hóa kiến trúc đô thị của Việt Nam có nhiều nét lai Pháp từ Bắc vào Nam là những: Nhà hát lớn Hà Nội, Toà nhà của trường đại học Đông Dương (nay là trường Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Viễn đông Bác cổ (nay là Viện Bảo tàng Lịch sử), Bộ Ngoại giao, Phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Thư viện Quốc gia, Nhà thờ Đức Bà, Dinh Bảo Đại, trường học Trần Phú, Lycée Yersin, Marie Curie... Thể loại kiến trúc này được du nhập từ các nước phương Tây, cùng với sự xuất hiện của người Pháp tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Loại hình kiến trúc này phát triển song song với quá trình khai thác thuộc địa của người Pháp. Ngày nay, song song với việc mở cửa hội nhập với quốc tế bằng nền kinh tế thị trường, nhiều luồng kiến trúc khác nhau cũng hồ hởi du nhập vào nước. Kiến trúc sư Việt Nam đang lần tìm một con đường riêng và cố hình thành một khuynh hướng kiến trúc mới. Do đó đã nảy sinh một trào lưu mới vừa muốn theo phong cách hiện đại với đặc điểm cấu trúc mỹ thuật nước ngoài vừa muốn phù hợp với diện tích đất đai ít ỏi nhỏ hẹp của thành thị. Hậu quả sự lai tạp và sao chép kiểu thức ngoại quốc này khiến nền kiến trúc văn hoá xây dụng nước nhà trở nên hỗn loạn. Những ngôi nhà siêu mỏng, siêu siêu mỏng mà người ta gọi là những ngôi nhà “kỳ dị” ở thành phố Hà Nội đã mọc lên làm rối mắt dân Hà Thành. “Đó là những ngôi nhà mà bề dày chỉ dưới 1m. Nhà siêu mỏng rất đa dạng về kiểu dáng. Từ hình tam giác, hình vuông, hình ống, hình lục giác... thậm chí là những hình thù kỳ quái mà trong từ điển hình học không có từ để diễn tả. Bộ mặt đô thị cũng vì thế mà trở nên méo mó, dị dạng.” (Trích Việt NamNet, “Vì sao Hà Nội vẫn tồn tại nhà siêu mỏng”) Gần đây nhất, khi đi từ Bắc chí Nam, tôi bắt gặp nhiều nhà cao tầng hình ống liên kế, nền bê tông, mái nhọn hoặc hình tháp tròn, màu sắc có khi tương phản, chói lọi, mặt tiền trên cao lại điểm thêm những bông trang trí giống Mã Lai hoặc Thái Lan gì đó làm tôi có cảm tưởng sự lai tạp trong kiến trúc làm bay mất tất cả nét đặc thù nếu có của nền kiến trúc Việt Nam. Đây là ý kiến của Nguyễn Bỉnh Quân trong một bài viết “Nhà ống – ‘thất bại hoành tráng’ của đô thị mới”: “Đùng một cái với 20 năm kinh tế thị trường, nhà ống bùng phát như một đại dịch. Có nhẽ tới 60-70% dân đô thị ở nhà ống. Chẳng ai hiểu tại sao. Nền cứ bán 4/16-20m và thế là câu hỏi tại sao kia trở nên ngớ ngẩn. Nước ta là một kình ngư khổng lồ đang ra biển lớn, doạ sẽ hoá rồng. Đường sá mọc ra hàng ngày. Nếu đường là bộ xương của đất nước với hàng vạn nhánh thì hàng triệu triệu ngôi nhà ống hai bên là triệu triệu gai đôi hành khổ cơ thể kinh tế và dân sinh. Ai bắt ta phải thế? Một nhà sử học hỏi: Sao giữa đồi, ngoài cánh đồng cũng nhà ống hả ông? Bêtông hoá đường nông thôn cũng sinh ra nhà ống luôn! Khu công nghiệp mở tới đâu nhà ống vây xung quanh lập tức. Thị trấn, thị xã đều nhất loạt ống hoá cả. Anh nào nghĩ ra cái nền 4/16-20m đáng gọi là sư tổ của nền kiến trúc "manh mún" của Việt Nam. Thế hệ đầu ra phố cứ mặc nhiên coi nhà ống là cách ở bắt buộc. Các phòng thẳng một hàng; xe máy có thể phóng qua; gió lùa một lối; ánh sáng hai đầu, ở giữa tối om. Chả thấy có gì là bất tiện cả! Nguyên Chủ tịch Hội Kiến trúc sư ngồi xe với tôi ở Vũng Tàu reo lên: Đây có một blốc nhà liên kế kìa! Các blốc nhà liên kế được kiến trúc sư thiết kế đàng hoàng, trệt là các cửa hàng, khu công cộng, dịch vụ, các lầu là các văn phòng, căn hộ tiện nghi. Cứ vài blốc đến một ngã tư ngăn nắp. Hẻm, ngách chỉ hãn hữu. Đó là dạng nhà thông thường của các đô thị. Hiệu quả thu thuế, kinh doanh và sinh sống văn minh cao gấp hàng chục, hàng trăm lần nhà ống. Thế mà ở ta nó lại là sự lạ thì có phải ta đang làm chuyện ngược đời không!” http://www.idr.edu.vn/diendannghiencuu/showthread.php?t=18416"Nền kiến trúc đang bị thị trường hóa" Tác giả: KTS Trần Thanh Vân KTS Ngô Viết Nam Sơn vừa phát biểu một bài rất hay khi với tư cách là một vị khách mời. Nhưng Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn sẽ không đóng góp được gì, nếu những người có quyền lực trong ngành kiến trúc và Quy hoạch vẫn sùng Ngoại, bài Nội về hình thức, mà thực chất là "Sùng lợi ích trước mắt của chính họ" thì dù có tài và dù đã hết sức cố gắng cống hiến sức mình, thì với tư cách không còn là khách, ý kiến của ông sẽ không được chính quyền quan tâm nữa. LTS: Xung quanh câu chuyện làm sao để bảo tồn văn hóa phố cổ Hà Nội và khu phố Sài Gòn cũ đang thu hút sự quan tâm của công luận. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam đăng tải bài viết của KTS Trần Thanh Vân chia sẻ với những ý kiến của KTS Ngô Viết Nam Sơn về Kiến trúc Việt Nam để độc giả cùng suy ngẫm. Tôi không muốn nhắc lại toàn bộ ý kiến của KTS Ngô Viết Nam Sơn, tôi chỉ muốn nhắc lại đôi điều giới kiến trúc đã nhiều lần kiến nghị nhưng không được chấp nhận, nay có thêm ý kiến của một "chuyên gia nước ngoài gốc Việt" thì hy vọng ý kiến đó sẽ nặng cân hơn. Đó là vấn đề bảo tồn văn hóa phố cổ của thành phố Hà Nội và khu phố Sài Gòn cũ. Trong phát biểu của mình, KTS Ngô Viết Nam Sơn nhắc tới khu phố cũ Xintiandi ở thành phố Thượng Hải. Đó là nơi tôi cũng rất biết, trong những lần trở lại thăm Thượng Hải sau này tôi cũng đến Xintiandi, chùa Dự Viên, Chùa Phật Ngọc và tôi rất đồng tình với anh. Điều quan trọng là anh đã được mời đến nghiên cứu tôn tạo khu đó và người Thượng Hải đã nghe theo anh. Cũng nhờ vậy mà Thượng Hải hôm nay, trong một thành phố hiện đại, năng động vào bậc nhất thế giới với hệ thống giao thông hiện đại có 5, 6 tầng này, lại đang tồn tại một khu phố cổ có chỉ sô GDP rất cao. Như vậy là thực hiện được mục tiêu "Bảo tồn giá trị văn hóa mà vẫn sinh lời?". Khu phố cổ Hà Nội xưa và khu phố Pháp Hà Nội cũ đã được nghiên cứu và đề xuất nhiều năm bởi rất nhiều chuyên gia danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng có lẽ do nhận thức chưa tới, nên hôm nay đã đến thời điểm tổ chức Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long mà những giá trị quý báu của 1000 năm Thăng Long vẫn đắp chiếu nằm im, chờ ngày được tôn vinh. Kiến trúc Việt bị thương mại hóa Nhà thờ Đức Bà (TP. Hồ Chí Minh). Ảnh minh họa: Kevin Tat. Một điểm nữa tôi rất đồng tình với KTS Ngô Viết Nam Sơn, là nền Kiến Trúc của ta đang bị thương mại hóa, cộng thêm với chính sách nửa vời, tàn dư của bệnh bảo thủ thời bao cấp, nên các nhà đầu tư vẫn bằng mọi giá lao vào chiếm các khu đất vàng ở nội đô để hưởng hệ thống hạ tầng kỹ thuật có sẵn mà không phải trả tiền, để góp thêm một tay phá nát hệ thống hạ tầng vốn đã ọp ẹp, quá tải và đang rất cần được giải cứu. Đây không chỉ thể hiện trình độ quản lý non kém, mà có lẽ còn do lợi ích nhóm đã vượt lên trên lợi ích của quốc gia, của xã hội, cho nên mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ra lệnh cấm đập biệt thự cũ để xây công trình cao tầng trong khu phố cổ, Hà Nội vẫn kiến nghị cho tiếp tục xây hơn 200 dự án cao tầng đã có quá trình từ trước năm 2010. trong số đó chắc chắn có Trung tâm Thương mại cao 17 tầng trên nền Chợ Âm phủ, sau khi bị phản đối đã được đền ô đất rộng hơn, đẹp hơn ở ngay bên cạnh để xây công trình to hơn, cao hơn. Vụ Khách sạn Novotel on the Park đã bị phản đối nhưng Nhà đầu tư lại được đền bù hơn 7600m2 đất Nhà máy rượu ở phố Nguyễn Công Trứ và những nhà đầu tư đã quyết định bỏ ý định xây Khách sạn 5 tầng như cũ mà đổi thành Trung tâm thương mại và chung cư cao tầng để có nhiều lãi hơn?. Ngoài ra, chắc hẳn trong hơn 200 dự án này cũng có Trung tâm thương mại trên phố Lý Thái Tổ của Ngành điện mà Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Thế Thảo đã cương quyết bảo vệ với lập luận rằng Hà Nội chủ trương biến Quận Hoàn Kiếm thành Trung tâm thương mại lớn? Nhân đây tôi cũng muốn nhắc tới một chỉ số rất cơ bản mà một Kiến trúc sư không được bỏ qua là Khoảng cách giữa hai công trình cao tầng ít nhất không được nhỏ hơn một lần rưỡi chiều cao của công trình đó (gọi là 1,5 H). Nhìn tổng quát có thể thấy, tất cả các công trình xen cấy ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh hiện nay đều không đạt chỉ số nêu trên. Do vậy mà ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội luôn luôn có hiện tượng đào móng xây công trình mới thì sập công trình có sẵn ở ngay bên cạnh. KTS Ngô Viết Nam Sơn vừa phát biểu một bài rất hay với tư cách là một vị khách mời. Nhưng Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn sẽ không đóng góp được gì, nếu những người có quyền lực trong ngành kiến trúc và Quy hoạch vẫn sùng Ngoại, bài Nội về hình thức, mà thực chất là "Sùng lợi ích trước mắt của chính họ" thì dù có tài và dù đã hết sức cố gắng cống hiến sức mình, thì với tư cách không còn là khách, ý kiến của ông sẽ không được chính quyền quan tâm nữa. Ngay ở Thủ đô Hà Nội, sau sáu bảy lần làm đi làm lại quy hoạch chung, lần nào cũng có chuyên gia danh tiếng đến từ nước ngoài, xưa nhất có chuyên gia Liên Xô, gần đây nhất có chuyên gia Nhật Bản do Jica gửi đến, nhưng tất cả đều đã bị xếp xó, lần tuyển chọn Liên danh Tư vấn Quốc tế quan trọng nhất này xuất hiện ba đơn vị tư vấn hoàn toàn mới là PPJ: gồm POSCO E&C là công ty con của Tập đoàn Thép Hàn quốc POSCO giầu có, Công ty Mỹ Perkins Eastman Architect và Công ty Hàn quốc Jina Architect, họ được giới thiệu là có tài năng và kinh nghiệm hàng đầu thế giới. Vậy mà hơn một năm rồi, thành phố Thủ đô, ngôi nhà của Tổ quốc ta, quay mặt ra hướng nào? Cổng ngõ ở đâu? Gian thờ đặt ở đâu? Trung tâm hành chính chỗ nào... liên danh tư vấn này vẫn chưa xác định được. Mới hồi tháng 5/2010 vừa đây, trong Triển lãm QH chung Hà Nội ở Vân Hồ, người ta rầm rộ giới thiệu Trục Thăng Long tức Trục Tâm Linh là đường Hoàng Quốc Việt kéo dài tới Hồ Đồng Mô, thì hôm nay Trục Thăng Long lại đã chạy sang đường Láng Hòa Lạc rồi. Sự tùy tiện sử dụng ngôn từ "Thăng Long" và "Tâm Linh" đó khiến cho dư luận rất đau lòng. Một góc phổ cổ Hà Nội. Hãy chung sức vì một Việt Nam bền vững trường tồn Hà Nội không thiếu Kiến trúc sư và chuyên gia Quy hoạch giỏi, họ cũng được đào tạo bài bản, họ đã hiểu rất sâu, nắm rất chắc về giá trị Văn hóa Và Lịch sử Thăng Long, cộng tác với họ cũng có một Kiến trúc sư Việt kiều danh tiếng là KTS Hồ Thiệu Trị, người được coi là một chuyên gia hàng đầu về Kiến trúc Pháp ở Thủ đô và đã về nước đóng góp cho nền Kiến trúc nước nhà và Hà Nội trong gần 20 năm nay. Nhưng tiếc rằng, trong Triển lãm tại Vân Hồ vừa qua, có ý kiến ra sức quảng bá cho một Đại lộ Champs Elysées của Paris tại Trục Tâm linh có tên Thăng Long mà không quan tâm đến ý kiến của KTS Hồ Thiệu Trị và vị am hiểu khác. Thủ đô đang ở giai đoạn hoàn thiện nghiên cứu Quy hoạch chung, dù chất lượng làm việc của Liên danh tư vấn PPJ xuất sắc hoặc kém cỏi ra sao, thì bước nghiên cứu này phải được kết thúc sớm để chuyển sang bước tiếp theo. Theo thiển nghĩ của tôi, có hai vấn đề lớn mà trong tất cả các lần báo cáo vừa qua, Liên danh tư vấn PPJ và những người cộng sự chưa vươn tới được. Một, với một chỉ giới hành chính rộng trên ba ngàn ba trăm hecta, Kinh đô Thăng Long 1000 năm sẽ phát triển trong 1000 năm tới ổn định, trường tồn ra sao? TRUNG TÂM ĐẦU NÃO QUỐC GIA SẼ Ở ĐÂU và giá trị của Sông Hồng, của Hồ Tây, của Tản Viên Sơn trong Thủ đô phát triển này? Hai, theo các tư liệu địa chất thủy văn thì vùng đất Kinh đô Thăng Long và thành phố Hà Nội cũ đang có những biến động bất lợi do con người vì thiếu hiểu biết và thiếu tôn trọng giá trị Văn hóa - Lịch sử đã gây ra. Nay tiến hành Quy hoạch mở rộng, ta đề ra phương châm bảo tồn đô thị lõi thì ta phải làm gì? Sau 1000 năm Hoàng thành Thăng Long đã chìm sâu xuống 5m, không để cho nó tiếp tục chìm thì các giải pháp về Quy hoạch xây dựng và quản lý dân cư chính sách kinh tế phải đồng loạt thực hiện. So với cốt nền của Thành phố Thượng Hải mà KTS Ngô Viết Nam Sơn đã nghiên cứu, thì nơi đây ổn định hơn nhiều. Tôi nghĩ, đã đến lúc không nên chia rẽ tản mạn nữa, mà những bộ não thông minh và nặng tình yêu đất nước nên cụm lại để đưa ra những phương án, những ý kiến hay thuyết phục các cấp có trách nhiệm. |
Kiến trúc Việt đi về phía vô vọng?
Hình tượng hóa một cách thô thiển
- Vài năm qua, đã có nhiều công trình kiến trúc quan trọng, mang tính biểu tượng được xây dựng ở Hà Nội, như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Bảo tàng Hà Nội, Nhà Quốc hội, và gần đây nhất là Nhà hát Thăng Long. Với những công trình ấy, yêu cầu đặt ra luôn là phải mang đặc trưng kiến trúc của Việt Nam, nhưng thiết kế được chọn đều của các KTS nước ngoài...
KTS Nguyễn Văn Tất: Nhà báo nhắc đến Nhà hát Thăng Long thì tôi phải nói thật. KTS Renzo Piano là một trong những KTS tôi cực kỳ yêu quý, nhưng tôi không thể chịu được bản thiết kế Nhà hát Thăng Long của ông (ít ra ngay từ những ấn tượng thị giác ban đầu) vì nó đụng chạm đến những vấn đề rất lớn về xúc cảm kiến trúc của mình.
Ở cái nhìn đầu tiên, những đường nét của công trình khá phổ biến với các công trình hiện đại, những đường cong nghếch lên, rất tự nhiên, táo bạo. Nhưng tất cả cái đó đi ngược lại với cảm giác về chất lượng không gian của người Việt. Ở mình thì hoặc chùng xuống, hoặc ngang, chứ không nghếch mũi lên trời để đón nắng chói, mưa tạt. Bản thân việc bị "chệch" cách cảm xúc kiến trúc bằng những thói quen tiện nghi của người Việt đã là điểm yếu.
Ở những nước xứ lạnh, dù nắng mùa hè chói chang nhưng người ta vẫn rất phóng khoáng, vẫn mở bung về phía mặt trời rất ngạo nghễ vì với họ đó là tiện nghi, là hạnh phúc. Nhưng ở mình thì lại cần tránh, cần che đậy nhiều nhất nếu có thể. Bạn đem niềm hạnh phúc ở chỗ khác tới để gợi niềm hạnh phúc ở đây là sai. Bản thân đường nét táo bạo đó đã sai với thói quen về cảm thụ sự an toàn về không gian, về khí hậu. Rồi một hình ảnh ngôi nhà trên hồ với những thanh chỏi như thế, nếu quy mô của một nhà sàn thì hợp, còn to như nhà hát thì có vẻ đánh đố về tỉ lệ cảm thụ.
Phối cảnh một trong hai phương án thiết kế nhà hát Thăng Long. |
- Như cách Nhà Quốc hội (đang được xây dựng) được gắn thêm cái cổng cách điệu từ cổng đình, hay Trung tâm Hội nghị Quốc gia được thuyết minh là "sóng Biển Đông"? Hay dịp Đại lễ vừa rồi, đi đâu ta cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh cách điệu của Khuê Văn Các?
Những người thiết kế các công trình nhà báo nhắc là những KTS lớn, lẫy lừng, nhưng tôi cảm nhận có một sự tư vấn, trong tư vấn đó lại có một sự thỏa hiệp để lấy được công trình. Họ gắng đi tìm một chi tiết nào đó để cố gợi lại cái gì đó cho có vẻ VN, nhưng lại mang tính chất hình thức.
Anh hình tượng hóa một cách thô thiển những thứ rất giá trị, nên đã làm mất đi giá trị thực sự. Trong kiến trúc ai cũng biết vấn đề tỷ lệ, khi nho nhỏ thì nó là mình, còn phóng lớn lại... không ra. Cho nên từ một nhà sàn, một ngôi đình sẽ rất khác với một công trình khổng lồ hàng chục ngàn mét vuông sàn. Nếu ta cố tình đẩy về phía nào đó thì kệch cỡm ngay.
Không thể lợi dụng, gượng ép
- Từ mong ước chính đáng là tạo ra những công trình kiến trúc hiện đại thật sự Việt Nam, nhưng thực tế lại khó khăn hơn nhiều?
Tôi có thể nói thế này, nếu mình mãi trông đợi những đầu bếp xứ khác mang đến những món ăn chế tác mới tinh tế truyền thống Việt, thì liệu ta có thể chờ đợi gì ở đó? Nhắc đến kiến trúc Việt Nam truyền thống là nhắc đến những kiến trúc gắn liền với tâm thức Việt mà ai cũng cảm được như mái đình, chiếc cổng làng, con đường làng, ao nước, cầu khỉ, bóng đa...
Những công trình cách điệu từ đó, còn tồn tại như Chùa Một Cột, đình Đình Bảng, đình Chu Quyến, chùa Keo... và lớn hơn nữa là những lăng tẩm, những thành phố như Huế hay Hà Nội thì ai cũng có thể cảm nhận, có thể tự hào là rất Việt Nam.
Khi ta làm một công trình mới và tuyên bố đã cách điệu từ những yếu tố đó thì người xem sẽ dễ ve vuốt vào mỹ cảm Việt, "trông Việt Nam đấy"!
Nhưng đó là bắt chước, lặp lại, hay giỏi hơn một bậc là vay mượn. Cuộc sống đương đại luôn đi về phía trước, tới phiên nó cũng phải tạo ra truyền thống cho cái tiếp theo. Nó có quyền tự do, có quyền sáng tạo, có quyền đưa ra những chuẩn mực mới.
- Nhưng bằng cách nào, thưa ông?
Việc đi tìm, khẳng định, thậm chí muốn trở thành mẫu mực là nhu cầu không chỉ của tự thân các nhà kiến trúc, mà là nhu cầu của cả cộng đồng. Nó cần một môi trường để được sinh ra, nuôi nấng và được khẳng định như những giá trị Việt mới. Cái đó có nhiều đường để đi, nhưng cách để nó ra đời thì chỉ có một: Anh phải hết sức có tâm trong công việc của anh, để rồi anh sẽ đạt tới một thành quả nào đó, không lợi dụng bất cứ phương tiện nào một cách cố tình, gượng ép để tỏ ra là mình là người tạo ra bản sắc mới.
Anh tạo ra, anh thấm nó, rồi đến một lúc nào đó, cũng giống như sự sáng tạo trong bất kỳ lĩnh vực nào khác, anh thành công. Khi người ta làm mà lại nghĩ đến sự nổi tiếng, sợ một quyền lực nào đó, bị vụ lợi vì một lợi ích nào đó quá lớn, thì con đường đến gần với thành công càng xa vời.
- Ông có tự tin mình đang đi đúng hướng?
Tôi không dám khẳng định điều đó, nhưng tôi luôn tự vấn mình, tự nhủ mình phải theo con đường đó. Mong mỏi định hình kiến trúc Việt đương đại là điều trăn trở của rất nhiều người có tâm, nhưng tôi cho rằng gượng ép cũng không được, vì đó là sự kết tinh. Nó sẽ xuất hiện khi có duyên, có cơ may. Nhưng tôi nhắc lại, mọi việc phải tuân thủ con đường hết sức tự nhiên, hợp quy luật, hợp với sự mong muốn, quyền lợi của cả một cộng đồng trong một thời đại sống với những điều kiện tự nhiên, xã hội, công nghệ... chứ không ép được.
Nhà khoa học còn cần có một Tổ quốc
- Đúng là ta không thể ép, không thể sốt ruột, không thể ra thời hạn kiểu "đến 1000 năm Thăng Long" phải đạt, nhưng làm sao để như ông đã từng nói, là đừng mắc những sai lầm khó sửa chữa. Cái cách Việt Nam đang dựa vào các KTS danh tiếng của nước ngoài, để tạo ra những công trình mang tính cách điệu kiến trúc Việt Nam có là cách làm đúng?
Đúng và không đúng! Đa phần đúng ở khía cạnh "dùng được", đa phần sai ở khía cạnh đi tìm sự "khai hóa" bản sắc Việt trong kiến trúc.
Khi mình chưa có đủ lực, đủ tài năng để làm điều gì đó thì mình nên đứng về xu thế đúng, để may ra có cơ may, còn đứng về xu thế không đúng thì coi như vô vọng. Rất tiếc, điều kiện chung của xã hội ta hiện thời đẩy kiến trúc và quy hoạch về phía thiếu cơ may.
Về kiến trúc thì người ta đang kỳ vọng vào sự khai hóa của lực lượng kiến trúc từ những nước đã phát triển, để mở mắt cho mình về chính điều thuộc về... truyền thống của mình. Điều đó tôi khẳng định, 100 lần cũng khẳng định giống nhau, là vô vọng.
Nếu anh cần làm cái gì đó để nhận diện nhanh chóng về tính hình thức của kiến trúc Việt Nam đối với người nước khác thì có thể được, nên lâu nay họ lầm lẫn. Bạn cũng thấy đấy, một nhiếp ảnh gia nước ngoài tài năng sẽ chọn được góc để chụp ngay được vẻ Việt Nam. Còn ta chụp cả tỷ tấm hình nhưng chọn vài tấm để giới thiệu VN ra nước ngoài thì có khi lại chọn sai. Bởi quá quen thuộc mọi thứ lại khó nhận ra đâu là sự khác biệt với người ngoài.
- Nghĩa là đang có sự nhầm lẫn giữa tính hình thức và bản sắc thật sự của kiến trúc Việt Nam hiện đại?
Chính sự nhầm lẫn đó đẩy đến việc được sự chấp thuận của nhà nước, của các bộ ngành trung ương, các chủ dự án đã mời các KTS nước ngoài vào ồ ạt, mong muốn tạo ra những vấn đề thuộc về bản sắc của mình, trong khi cơ chế hợp tác hợp lý với các nguồn tri thức quý giá trong nước đã và đang lỏng lẻo một cách đau xót. Đó là lý do tại sao khi đi sâu vào những vấn đề sâu sắc hơn, thì ngay cả những KTS rất đình đám, đáng kính như thế cũng lúng túng.
Trung tâm Hội nghị Quốc gia |
Phải nói rõ là thiết kế bệnh viện rất phức tạp, bởi trong nó chứa hàng 500, 700 hạng mục nhỏ, nên một người chưa từng vẽ bệnh viện sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Còn ông này đã có sẵn một số chi tiết mẫu nên sẽ lắp ghép vào rất dễ dàng. Nhưng không thể hy vọng tạo dựng được phong cách kiến trúc Việt Nam đương đại từ cách làm "lười" như thế.
Tôi đành có lựa chọn của riêng mình, rằng những cuộc thi chỉ mời KTS nước ngoài như một định chế loại trừ về năng lực kiến trúc sư trong nước (trong đó chắc chắn là có cả tôi!) thì tôi từ chối lời mời tham gia chấm. Chủ tịch Hội KTSVN, KTS Nguyễn Tấn Vạn cũng đã có nhiều lần quyết định như vậy.
Đi về phía thiếu cơ may
- Nãy giờ chúng ta nói nhiều về KTS nước ngoài, và ông đã khẳng định không thể trông chờ vào họ để tạo ra giá trị mới cho kiến trúc Việt Nam. Còn KTS Việt Nam đang ở đâu trong hành trình này? Có một thực tế nhức nhối là suất đầu tư cho những công trình kiến trúc ở Việt Nam quá thấp?
Tôi xin được nhắc lại phạm vi trao đổi của chúng ta từ đầu. KTS nước ngoài, với nhiều kinh nghiệm và trải nghiệm quản lý, thiết kế, kỹ thuật ... là người đồng hành cần thiết lắm chứ. Cái đáng nói là hệ quả xấu. Xu hướng lệch, nguy hiểm nhất của ta là "sính ngoại", nhờ người rất ít biết về cái của mình đi khai hóa cho mình.
Còn lực lượng chủ thể, cảm rất tốt cái hồn của kiến trúc Việt Nam thì lại không có cơ hội, không được khuyến khích, không đủ kỹ năng để tổng hợp và chuyển nó thành giá trị mới. Cơ hội ngày càng teo tóp đi cho lực lượng lẽ ra phải là lò nung, là nồi hầm mang lại cơ hội nhất.
Nói về suất đầu tư, tôi buộc phải đưa ra sự so sánh thế này. Khi chúng ta xây dựng Trung tâm Hội nghị Quốc gia, suất đầu tư khoảng 3000 USD/m2 sàn, trong khi tất cả các công trình lớn của ta thời đó chỉ loanh quanh khoảng 4, 5 triệu đồng/m2 sàn. Một sự chênh lệch khủng khiếp. Với suất đầu tư teo tóp thế kia, bạn nghĩ KTS Việt Nam phải xoay sở thế nào để tạo ra những giá trị mới? Chưa kể, suất đầu tư từ Cà Mau đến Lạng Sơn là giống nhau. Nhà nước như thế nên tư nhân cũng nhìn vào nhà nước để ép KTS chúng tôi.
Có thể nói, một trong những cái dở của quản lý nhà nước ở ta là anh nghĩ anh tiết kiệm, anh chắt bóp, nhưng thực ra, anh tầm thường hóa những giá trị hạ tầng xã hội bằng cách đưa ra những giá đầu tư mang tính chất phá hoại. Anh chỉ đốt tiền để tạo thành những đống vật liệu không có giá trị. Nếu so với công cuộc trong mấy năm của Trung Quốc để chuẩn bị cho Olympic Bắc Kinh 2008 đã để lại những công trình để đời, còn ta trong mấy chục năm vừa qua tiêu tốn gấp nhiều lần để chỉ tạo vô số công trình xấu xí.
- Với những công trình thật sự hiện đại, không mang chút nào bản sắc Việt Nam, thì khả năng dung nạp vào một thành phố để không làm mất hồn cốt Việt là như thế nào?
Đại lễ vừa rồi, đi đâu ta cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh cách điệu của Khuê Văn Các |
Cơ hội và năng lực tài chính để tư vấn trong nước tìm cộng sự nước ngoài càng hiếm hoi hơn. Và như thế, cục diện này không còn là câu chuyện nghề nghiệp, câu chuyện quyền lợi hay đạo đức, văn hoá hay thực dụng mà đã trở thành câu chuyện thời cuộc, câu chuyện ứng xử đủ tầm của các chính sách quốc gia.
Ông hiện là Phó chủ tịch Hội KTS Việt Nam khóa VIII, Phó chủ tịch Hội KTS TP.HCM, Ủy viên Hội đồng hành nghề kiến trúc Ủy ban Hành nghề Hiệp hội Kiến trúc Châu Á, Phó Tổng Biên tập - Tạp chí Kiến trúc Nhà Đẹp và giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên, KTS.Chủ nhiệm đồ án - Công ty TNHH Tư Vấn & Thiết kế TAD.
KTS Nguyễn Văn Tất bắt đầu tham gia hoạt động kiến trúc từ khi còn là sinh viên trường Đại học Kiến trúc TP.HCM. Sau gần 30 năm hoạt động trong lĩnh vực thiết kế kiến trúc, ông đã thiết kế trên 270 công trình, trong đó: Chủ trì thiết kế trên 200 công trình (trên 170 công trình thiết kế kiến trúc và trên 30 công trình thiết kế quy hoạch). Trong đó 1 công trình đạt giải nhất cuộc thi quốc tế “Archi’s 79 - Habitation Rural” do tổ chức ACCT của Liên Hiệp Quốc và Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) tổ chức tại Paris - Pháp, đề tài “Nhà ở vùng đất bồi ngập mặn Năm Căn - Cà Mau” - 1979, 1 công trình đạt giải nhất cuộc thi Đồ án kiến trúc Quốc gia (Khách sạn Quốc tế Unimex Hà Nội) - 1985, 1 công trình đạt giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi Đồ án kiến trúc Quốc gia (Nhà ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ) - 1998, 1 công trình đạt giải thưởng Văn học Nghệ thuật TP.HCM (Khu du lịch Bến Thành Non Nước) - 2004… Ngoài ra, 14 công trình của ông đạt Giải thưởng Kiến trúc quốc gia dành cho các công trình xuất sắc đã xây dựng do Hội Kiến trúc sư Việt Nam tổ chức 2 năm một lần.
Source: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-11-02-kien-truc-viet-di-ve-phia-vo-vong-
http://vn.360plus.yahoo.com/aly_thanh/article?mid=110
.
. . Bình đồ tổng thể trường Đại Học Kiến Trúc Saigon thời điểm 1971, phối cảnh toàn diện. Site plan and 3d model of the School of Architecture, University of Saigon at 1971. By Tien Duong, AIA.. . . Đang sẵn học vẽ Sketchup, nhân tiện tôi dùng bình đồ trường Kiến Trúc ngày xưa, khoảng năm 1971, dựng luôn mô hình lên với những chi tiết từng khối nhà, dựa theo hình chụp và trí nhớ. Lưu trữ tại đây để làm tài liệu cho đời sau. . . . . Hình trên là họa đồ Saigon vào năm 1959 với những khối nhà tương đối, không đúng với sự thật nhiều. Trường Cao Đẳng Kiến Trúc nằm góc Pasteur và Phan đình Phùng, số trê bản đồ là 122. Đối diện với vườn hoa Vạn Xuân, một khoảng xanh của thành phố, nay không còn nữa vì dân VN thế hệ VC lớn lên không cần cây xanh ... chỉ cần bê tông nóng chẩy mồ hôi thôi ... không cần không khí trong lành để thở .. !!! . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . http://tmddesign.multiply.com/journal?&=&page_start=0 |
Đà Lạt những lần đến và đi ... Đại Học Kiến Trúc Saigon đến Đà Lạt... những ngày xa xưa. By duongtiden. | Jan 8, '11 2:29 PM for everyone |
.
. .
.
Đà Lạt những lần đến và đi ... Đại Học Kiến Trúc Saigon đến Đà Lạt... những ngày xa xưa. By duongtiden.
.
.
Lần đầu tiên tôi đến Đà Lạt bằng chiếc máy bay quân sự DC3, Dakota, hay C47. Tiếng bánh xe chạm vào phi đạo Cam Ly, rồi lại tưng lên bay tiếp... trong lòng tầu rung bần bật nhồi lên xuống, mũi nở bong bóng... Tôi mới 14 tuổi. Viên phi công Mỹ đi ra... We go back to SG, I cannot land it !..... năm đó, hình như 1967. Tôi học sinh ngữ Anh là chính, nên nghe cũng đủ hiểu. Mấy chục đứa con nít, phần đông là con gái ngơ ngác nhìn ông phi công Mỹ, ông này giơ tay làm dấu hiệu đáp máy bay, rồi xua tay lắc đầu.
.
.
.
.
Lúc mới lên máy bay từ căn cứ quân sự trại Phi Long, thiệt là thỏa chí tò mò của tôi, tha hồ nhìn máy bay đủ loại, chạy trên sân phi đạo, được lại gần một hàng DC3, rờ máy bay thiệt là đã. Chúng tôi gồm mấy chục cô con nít nữ Hướng Đạo thiếu đoàn Âu Cơ, và chừng bẩy tám tên con giai, một đội nam Hướng Đạo, đội Ó của Thiếu Đoàn Lê văn Duyệt, đuợc đi cắm trại ké theo đoàn nữ HĐ này tại Đà Lạt nhờ quen biết, tên đội trưởng của tôi là em của chị Trưởng Thiếu Đoàn Nữ. Đi cắm trại bằng máy bay riêng thật là le lói. Xốc ba lô lên vai, tên con nít tôi háo hức bước lên cái thang nhôm chui vào lòng máy bay, toàn là nhôm, ghế ngồi là miếng nhôm hõm xuống, lạnh ngắt, phải lót áo lạnh xuống cho khỏi lạnh cái bàn tọa.
.
Phi hành đoàn bay bởi hai phi công Mỹ, hai người phụ trong máy bay là VN. Một người Mỹ nhắc bổng một cậu lên, bỏ xuống, rồi lại nhắc một cô nhỏ lên, bỏ xuống, coi chừng nặng cỡ bao nhiêu, rồi ông ta đi đếm một vòng bao nhiêu người, tính toán sơ sơ trọng tải của máy bay.
.
Tui thì thấy rất là vui thú, ngồi trong lòng máy bay với tên bạn, hai đứa ham sưu tầm máy bay kiểu nhỏ, mê máy bay lắm nên mở to mắt ra, quan sát đủ thứ, thôi thì khi lên cao, nhìn ra các lỗ hổng nhỏ trên thân tầu, trùi trụi chỉ có khung sắt nhôm, bọc nhôm mỏng, mấy đưá ăn kẹo cao su rồi tìm lỗ hổng đút dán vào, đút mạnh ra bên ngoài thì gió bên ngoài hút mạnh bật văng mất cục cao su luôn.
.
Gần tới Đà Lạt thì mây mù mưa rơi, ảm đạm, bay quá cao, chẳng thấy gì, lắc lư, ai nấy đều mệt nhoài, bánh xe máy bay hình như lại chạm đất rung chuyển rồi lại lắc lư, cứ thế mấy đứa nhỏ cũng tựa nhau ngủ vùi. Tới lúc mở mắt ra, phi cơ chạy vào cuối phi đạo trời sáng chang chang, khô ráo, có vẻ nóng, nhìn ra ngoài thì thấy ngay mấy cái cột sắt truyền tin cao ngệu, mấy đài ra đa, đúng là căn cứ Tân Sơn Nhất rồi. Máy bay đến Đà lại đáp xuống phi trường quân sự Cam Ly, ít ra hai lần, không được, phải quay về lại Saigon. Như vậy là ngày cắm trại đầu tiên là trên DC3, bay tới khi gần hết xăng thì đáp xuống lại ... tại chỗ cũ.
.
.
Thế là mấy đứa con trai được chở vào trường tiểu học trong trại Phi Long, cắm trại qua đêm, ngủ trong phòng học, sau khi ký giấy tờ rằng Không Quân sẽ không chịu trách nhiệm nếu có tai nạn gì xẩy ra trong căn cứ quân sự, cho dù chúng tôi chưa đứa nào trên 18 tuổi hết. Lúc này nhớ tới năm 1966, tôi cũng cắm trại HĐ tại sân vận động gần đó, có chiếc Skyraider biểu diễn nhào lộn, táp đầu cột đèn cách chỗ tôi đứng gần Nguyễn cao Kỳ, bà Mai, Lưu kim Cương không xa, sau đó lao vào khu gia cư gần trường học bốc cháy, khói và hơi nóng còn đủ gần tỏa vào mặt tôi, còn nhìn thấy xe chở những người bị cháy đi. Ông phi công hình như tên là Phan Khôi … Nên phải ký giấy không thưa kiện Không Quân vì máy bay có thể rơi, bị pháo kích có thể bị bắn hỏa tiễn từ bên ngoài vào đây.
.
Ngày hôm sau, nắng lên đẹp đẽ, ra phi đạo lên máy bay cũng C47 nhưng của không đoàn VN, hai ông phi công, không cao lắm vui vẻ đùa giỡn mấy đứa con nít chúng tôi khi được hỏi tại sao không kiểm soát đếm người tính trọng tải trước khi bay như phi công Mỹ làm ngày hôm qua. Ông ta chỉ cười, Mỹ làm rồi ngày hôm qua, mấy chú ngày hôm nay trông ốm hơn hôm qua vì say máy bay nên khỏi tính lại. Máy bay cứ thế tà tà bay dọc theo quốc lộ đường lên Đà Lạt, bay thấp chứ không bay cao an toàn như hai phi công Mỹ ngày hôm qua, tha hồ ngắm cảnh qua cửa sổ nhỏ, rồi đáp xuống phi trường Liên Khương, chứ không phải Cam Ly Đà Lạt, vì thời tiết ở đây luôn trong sáng hơn ĐL mây mù sương. Đây cũng là phi trường của Air Vietnam bay lên ĐL. Từ LK phải lấy xe đi vào thĩ xã ĐL cách đó vài chục cây số.
.
Lũ con trai mấy đứa tui đi trước, hình như qúa giang xe jeep mượn đươc của mấy ông không quân VN cũng vào ĐL chơi trước khi bay về lại SG. Bỏ chúng tôi trước chợ Hoà Bình ĐL. Sau khi liên lạc với anh Trưởng quen của Đạo Lâm Viên đã hẹn trước, chúng tôi được trao chìa khóa trụ sở Đạo Quán, Đạo Lâm Viên ngay bên bờ hồ Xuân Hương để ngủ ở đó trong suốt thời gian cắm trại ở ĐL. Nhà này bây giờ vẫn còn, đối diện với nhà Thủy Tạ bên bờ hồ bên kia. Trước Đạo Quán lúc đó là sân "cù" golf. Chỉ có mấy người thuê ngựa cho du khách cưỡi chơi trên đồi này. Tụi nhóc chúng tối ngủ trong nhà trống, ban ngày dấu đồ xuống dưới lỗ trống dưới sàn nhà rồi đi chơi lung tung trong ĐL.
.
Thế là tưởng le đi cắm trại ĐL bằng máy bay nhanh lắm, té ra chuyến đi lên, mất hai ngày mới tới, còn thua xe đò, tuy nhiên đuợc cắm trại trên máy bay và trong trại Phi Long cũng rất là thích thú thỏa mãn nhiều tò mò. Còn nguyên Thiếu Đoàn nữ Âu Cơ mà chúng tôi đuợc đi theo ké, thì hình như họ cắm trại ngủ trong trường Bùi thị Xuân. Mấy đứa con trai nhỏ chúng tôi tách riêng, tự lo lấy, không ai kiểm soát.
.
Chiếu về múc nước hồ nấu cơm, nấu nước uống, dơ thiệt, miễn nấu sôi là được. Còn thì đa số đi lên chợ ăn tiệm, lúc đó tiền bạc mang theo khá dồi dào nên thích đi ăn tiệm dọc theo mấy kios đường lên dốc từ cấu lên đến đĩnh trung tâm thành phố. Có quen mấy bạn Thiếu, Hướng Đạo cùng tuổi tại ĐL (còn nhớ tên một bạn hình như tên Tuấn, nhà là tiệm may Đoàn Mừng trên đường Phan đình Phùng) nên có đi chơi chung, làm hướng dẫn viên cho chúng tôi, chỉ đường đi xe lam trong thành phố. Tuy nhiên mỗi ngày trở về Đạo Quán lại thấy mất vài món đồ nhỏ, trong ba lô, chúng tôi biết bị lục đồ ăn cắp nên mỗi khi rời nhà đều mang đồ có giá trị đi theo. Nhà Đạo Quán này còn có được xử dụng bới mấy người nài ngựa cho thuê ngựa, họ cũng để đồ tại đây, chỉ có không ngủ lại buổi tối. Thế là chúng tôi có chương trình đối đầu với mấy tên nài ngựa ăn cắp đồ này.
.
.
Khi đến Trại Hầm, gặp mấy người Cảnh Sát Dã Chiến đi ngoài đường, một ông đến hỏi thăm, đeo lon sĩ quan, cho biết là có đi Hướng Đạo ngày xưa, đưa ru lô cho chúng tôi hỏi có thích bắn súng không? chúng tôi trả lời không, anh này móc súng ra nhắm bắn mấy bóng đèn đường. Tôi hỏi, anh đi Hướng Đạo rồi tại sao bắn phá bóng đèn đường là của chung được. Anh này trả lời, cột đèn dây điện đứt hết trơn rồi, bóng dèn cũng hư, nên bắn chơi. Thật là hết ý kiến. Anh ta thân mật làm quen, còn rủ mấy đứa uống nước, và dò hỏi chúng tôi chắc là con ông cháu cha vì được đi cắm trại bằng máy bay lận. Trả lời là đi ké với mấy cô nữ HĐ vì máy bay còn trống nhiều chỗ, có thể mấy cô nữ HĐ là con ông cháu cha thiệt.
.
.
Tự dưng nẩy ý nhờ anh sĩ quan CSDC này dậy cho mấy tên nài ngựa một bài học, nên nói nhờ anh đến dậy cho mấy người nài ngựa ăn cắp đồ của chúng tôi bài học. Vậy là qua ngày hôm sau, trưa chúng tôi sẽ rời ĐL ra Liên Khương, sẽ đi thăm thác U GHA và chờ máy bay lên ngày hôm sau đón về SG. Trưa đó anh sĩ quan tự xưng là cựu HĐ này dẫn hai ba đệ tử ra gặp chúng tôi trước sân Cù nơi mấy nài ngựa to lớn đang cho thuê ngựa. mấy anh CSDC, lùa hết mấy tay du đãng nài ngựa lại hỏi tại sao ăn cắp đồ của mấy đứa nhỏ chúng tôi, anh này móc súng ru lô ra làm mấy nài ngựa sợ quá chừng, bạt tai đánh mấy nài ngựa, lột áo lạnh bluson , lột nón làm chiến lợi phẩm, anh ta bắt mấy người này xin lỗi chúng tôi, rồi đuổi đi, còn nói, lần sau đừng để tao thấy mặt, bắn chết hết à nha. Rồi cùng mấy đưá nhỏ đòi đeo ba lô dùm, đi bộ ra bến xe ĐL sau chợ, từ gĩa chúng tôi lên xe ra phi trường Liên Khương, còn mua ít qùa bánh cho mang theo nữa. Thiệt là ưu ái. Không hiểu vì sao anh ta thích bọn nhỏ chúng tôi đến như vậy. Chỉ không thích khi anh này móc ru lô ra bắn bóng đèn đường ở trại hầm biểu diễn, không đúng tư cách HĐ một chút nào, theo cảm nghĩ của chúng tôi lúc đó, nhưng sau này thấy những cái bẩn thỉu của Trưởng HĐ khác, thì thấy anh ta bắn bóng đèn đường hư rồi là chuyện hổng có gì !!! .
.
.
.
Phi đạo Tân sơn Nhất, 1966.
.
.
Tà tà ra Liên Khương, mấy người lính đóng ở phi trường còn nhớ mặt lúc đáp máy bay xuống mấy ngày trước. Xin vô cắm trại trong phi trường, rồi mấy đứa kéo nhau tìm đường đi ra thác Gougha, không nhớ tên cách viết ra sau nữa ..
.
Đi hỏi ông Trung đội trưởng Nghĩa quân là ra thác cắm trại gần đó có gì mất an ninh hay nguy hiễm không? . Ông ta dẫn cả lũ ra chỗ thác chơi, chỉ nơi cắm trại được, chỉ qua mái nhà gần đó, nói đừng có lạng quạng vào đó nhe. Tụi tui hỏi sau vậy, ông ta cười: mấy cái nhà đó là động chơi bời, mấy chú còn nhỏ quá chưa được vào. sau này đọc hồi ký mấy ông bạn của Trịnh công Sơn, dậy học ở Bảo Lộc, Blao, hay lên chỗ đó chơi bời cùng với TCS, cũng khoảng năm đó 1967.
.
Ông sĩ quan này còn hẹn, nếu muốn, tối nay theo mấy ông đó đi săn, ông ta sẽ đến vào buổi tối. Đến tối, mang đèn đeo trên trán và súng carbine, dẫn mẫy đứa đi săn, chỉ cách đeo đèn, rọi coi mắt thú, mắt bò, trâu là mầu xanh, đừng bắn bậy, mắt thú rừng là mầu đỏ, coi phản chiếu lại, nhắm vào gìữa hai đốm đỏ của mắt mà bắn. Đi lung tung cả tiếng, chẳng thấy cặp mắt đỏ nào, nên tụi tui bỏ về đi ngủ, mặc cho mấy ông lính đi săn tiếp.
.
Sáng ngày ra, lội bộ vào phi trường, chơi đá banh trên phi đạo, cho tới khi bị lính ra biểu thôi vì máy bay sắp đáp xuống. Thiếu đoàn nữ Âu Cơ cũng đi xe đò từ Đà lạt xuống buổi sáng. Chiếc C47 hay Dakota, bay lên đón, nhưng mấy ông phi công VN muốn vô Đà lạt chơi vài tiếng, nên tụi tui lại tà tà cắm trại trong phi trường tiếp cho qua trưa thì bay về Saigon. Xuống phi trường căn cứ trại Phi Long .. nơi đến và đi của bao nhiêu người trong cuộc chiến tranh VN, có tên Hướng Đạo con quẩy ba lô đi ra cổng trại Phi Long, ngay Lăng Cha Cả, đón xe lam đi về nhà .. nay chỗ cổng trại không còn nữa, chỉ còn trong kỷ niệm một thời dĩ vãng nào đó.
.
.
.
.
.
Những năm sau có lên Đà Lạt vài lần, có lần làm negre construction 5, cồng Xanh cho anh Đinh tấn Đệ KT65, đãi negre, vợ chồng anh cũng dẫn tôi lên ĐL chơi.
.
Qua năm 71, hình như gần cuối năm, sau khi vừa nộp bài cấp hai đầu tiên xong, là ngày sáng hôm sau qua Viện Đại Học SG, chờ xe đi lên họp mặt Sinh Viên Liên Viện Đại Học ở Đà Lạt. Lúc đó hãy còn buồn ngủ, vì tối qua ngủ chưa đủ, gật gù chờ xe. Mấy trường phân khoa khác dành chỗ chen lấn lên xe trước, vẫn không đủ xe. SV KT cứ tà tà chờ đợi không thèm chen lấn, ban tổ chức không thể bỏ chúng tôi lại vì không lo đủ xe, như vậy là tổ chức qúa dở vì đã ghi tên tham dự từ trước, tụi tui mà ở lại SG vì thiếu xe là btc sẽ bị chửi. Họ phải kêu thêm xe mới, cuối cùng thì chúng tôi lên chuyến xe chót, lại rộng rãi vì dư chỗ ngồi, tha hồ ngủ gà ngủ gật.
.
.
Đến Đà Lạt thì cuối buổi chiếu rồi, tới bữa ăn tối, ban tổ chức tại trường Yersin lại lúng túng nấu ăn không kịp, không đủ đồ ăn, các phân khoa khác lại tranh dành chen lấn đòi ăn trước, btc phải chia bớt đồ ăn ra. Còn trường KT cứ tà tà ngồi vòng ngoài không thèm chen lấn vô ăn, nếu họ không còn đồ ăn, thì chúng tôi sẽ đi ăn chỗ khác, hay đi mua đồ ăn về, trong đoàn, có anh Lê minh Châu KT71, con thầy Lắm, lái xe La Dalat riêng từ SG lên, nên chúng tôi coi như có xe riêng. Sẽ làm mất mặt btc. Cuối cùng ban tổ chức không thể bỏ đói chúng tôi, họ đi mua thêm đồ ăn về nấu tiếp, lại dư đồ ăn, mỗi người được nửa con gà, thay vì tranh dành nhau, chỉ được vài miếng thịt gà như các phân khoa khác. Chỉ có điều phải ăn trễ thôi. Tuy nhiên vì còn ít người nên lại được lo cho ăn chu đáo hơn vì rộng chỗ, và được cảm tình mấy người lo chuyện nấu ăn vì chúng tôi không hề than phiền hay chen lấn.
.
.
.
.
Trong hai hình, kể tên ra, không theo thứ tự và sẽ không nhớ hết tên mọi người: Lý bửu Lâm, Trần nguyên Đôn, Nguyễn thanh Cần, Dương minh Mẫn, Dương mạnh Tiến, Vương thị hoàng Oanh, Nguyễn thị Năng, Nguyễn thị Hải, Diệp ngọc Tiếp, Nguyễn ngọc Thắng, Nguyễn văn Thảo, Trần anh Tuấn, Phan Liêu, Trần ngọc Lâm, Nguyễn thanh Sơn, Mai thế Sơn, Nguyễn chí Thành, Mai, Trần văn Tiếu, Lê minh Châu ...
.
.
Cuộc họp mặt cũng vui và thích thú, được đi thăm trường Võ Bị Quốc Gia Đa Lat, thăm phòng thí nghiệm khoa học mới xây với sân patio trải đá to trắng. Có đòan SV đâu từ Huế vô, lúc đó có hai vợ chồng ông Tướng ở vùng 2 bị rớt trực thăng tử nạn, có một anh SV vùng này, say sưa, hay gỉa bộ say gì đó lên cơn đập bể cái đàn guitar của Phan Liêu KT. Sau thì PL cho biết đã gặp họ sau và đòi được tiền bổi thường cho cái đàn ngắn số này.
.
Ngòai ra, không hiểu sau bây giờ tôi vẫn còn nhớ chuyện anh Lý bửu Lâm KT64, anh ta ngủ gần tôi. Tôi đóng hộp carton nhỏ, trong đó có mận và dâu mua về làm qùa cho gia đình, anh Lâm thấy cái hộp gọn gàng, tối ngủ, anh lấy thùng giấy đó của tôi ra gối đầu ngủ, làm dập mận và dâu bên trong thùng.
.
.
Lần đó là như vậy, Kiến Trúc đi thu nhặt những vật ngòai đường phần đông là vật thải vứt bỏ, thu nhặt cây cối chung quanh, trải poncho ra, cột chặt, đổ nước pha mầu vào làm patio triển lãm với hồ nước trong xanh đó, lạ lùng và không giống phần triển lãm của các phân khoa, Viện Đại Học khác..
.
.
Giờ thì hình còn đó, nhưng cũng tới ba anh chị đã đi xa lắm, qua bên kia đời rồi.
.
.
.
.
Trường Yersin và toản cảnh Đà lạt nhìn từ trên cao vào năm 1968. Lúc họp Liên Viện Sinh Viên ở tại đây 1971, thì Nguyễn hồng Phúc KT72, Nguyễn ngọc Trai KT72 đang học nội trú trung học Yersin tại đây, Trần công Hòa (Hòa đen) KT73, cũng lớn lên học ở ĐL, và bây giờ cũng đang làm việc và cư ngụ tại đây.
.
.
.
.
.
Năm 2007, tôi trở lại ĐL, đi bộ một vòng hồ Xuân Hương, đi qua Đạo Quán HD Lâm Viên vẫn còn đó, ngước nhìn tháp cao của trường Yersin rọi bóng xuống hồ. Đà Lạt bây giờ không đẹp như ngày xưa, có cái gì hỗn độn ngập kín trong đó.
.
.
Võ thành Lân KT70, có một trang trại dưới Bảo Lộc 20 cây số, Tôi làm người rừng ở đây ít tuần, thong thả vác rựa đi chặt cây bên giòng suối Lu Đu, tính yêu nhau giữa đám rong rêu bên giòng nước cuốn lêu bêu như lời nhạc của Lê Uyên-Phương, nhưng thấy nước có vẻ bị ô nhiễm, nhiếu chất dơ trong đó, nên thôi... chỉ yêu nhau gần đó thôi.
.
Những ngày dài nghỉ ngơi thanh thản, đưa tôi vào rừng, chui vào hang, thấy rắn ... đầu óc thanh thản, đi lần lại những kỷ niệm xưa, ghi lại bằng cảm nghĩ và nét vẽ, có những gì của Đà Lạt và núi rừng trong đó ... .
.
.
.
.
Đà lạt, qua hơn 50 năm rồi, những lần đến ... rồi đi ... ghi lại xúc động bằng những nét vẽ kiến trúc.
.
.
.
.
.
.
Một mai ta về làm tên tiều phu già bên rặng núi ... nhưng già rồi chắc vung tay rìu lên không nổi nữa ... cành củi khô nhe răng ra chê cuời thôi, thành ra, ta sẽ mở một quán rừng, bán thịt ... thịt khỉ ... ôi từ ngày khỉ rừng về thành phố ...
.
.
.
.
Xem triển lãm tranh KTS. Cổ Văn Hậu – không thể bỏ qua !!!
Sự tương thân tương ái, tinh thần đoàn kết trong toàn xã hội là những điều kiện cần thiết để đất nước chúng ta ngày càng phát triển. Nay tại Tp. HCM, KTS. Thầy Cổ Văn Hậu đã lập nên Quỹ từ thiện (giúp trẻ em nghèo cơ nhỡ và trẻ em bị nhũn não), và Quỹ tương trợ Kiến trúc … thông qua cuộc triển lãm tranh do Hội KTS.TP bảo trợ, từ số tiền bán 77 bức tranh do chính thầy thực hiện nhân Sinh nhật lần thứ 77 của mình.
(Xem tranh tại đây!)
Xin gởi đến mọi người “Thư Ngỏ” của BTC triển lãm tranh của thầy Cổ Văn Hậu do anh Minh Bò đại diện, và chương trình “Profile về thầy Hậu bằng hình ảnh” của CLB Nhiếp ảnh Hội KTS Tp. HCM …
T H Ư N G Ỏ
Thân gửi các anh chị em Kiến gần và Kiến xa, Kiến bạn bè và bạn bè Kiến,
Chúng ta, những người đã có những năm tháng học tập nhiều kỷ niệm tại trường Đại Học Kiến Trúc Saigon (nay là ĐH Kiến Trúc TPHCM), hầu hết đều không xa lạ KTS Cổ Văn Hậu, người giáo sư có thời gian giảng dạy lâu nhất tại trường kiến trúc – 42 năm – người thầy của nhiều thế hệ KTS. Ngoài chuyên môn kiến trúc, anh Hậu còn đam mê ở nhiều lĩnh vực khác như nhiếp ảnh, máy bay điều khiển từ xa, đàn piano và guitar, tennis và đặc biệt là hội họa với nhiều tác phẩm đẹp, rất Kiến…
Năm nay anh Hậu đã hơn cái tuổi thất thập cổ lai hy, có mong ước là được một lần trong đời triển lãm các tác phẩm hội họa của mình. Tranh bán được sẽ dành cho quỹ từ thiện.
Anh Hậu có ý định sẽ chia quỹ làm 4 phần: Một phần giúp các bệnh nhân nghèo trong bệnh viện, một phần giúp các trẻ em nghèo bị nhũn não, một phần trao cho hiền thê giúp những người cơ nhỡ, và phần còn lại dành cho Quỹ Tương Trợ Kiến Trúc.
Ước nguyện quá hay nhưng điều kiện thực hiện của anh Hậu có hạn nên chúng tôi, nhóm Kiến Trúc Sư nhiều thế hệ, gồm có KT đồng môn, KT đàn em, và KT học trò, đã đồng lòng kêu gọi tất cả anh chị em Kiến cùng chung tay đóng góp giúp anh Hậu thực hiện ý nguyện này. Sau khi được sự chấp thuận của anh Hậu, chúng tôi quyết định thành lập Ban Tổ Chức Triển Lãm Tranh của KTS Cổ Văn Hậu. Dự kiến cuộc triển lãm sẽ được tổ chức tại Sài Gòn vào tháng 6/2010.
Thành phần BAN TỔ CHỨC:
Lưu ý: các anh chị em và các bạn có ý định giúp thầy Hậu có thể chuyển đóng góp của mình đến một trong các địa chỉ dưới đây trước ngày 30/5/2010 theo nhiều cách: chuyển khoản qua ngân hàng hoặc gởi đến địa chỉ người nhận. Nếu trong phạm vi nội thành TPHCM có thể điện thoại hoặc email, sẽ có người đến tận nơi nhận.
KTS. LÊ CẨM THÙY K79
CMND: 020774671
Địa chỉ: 233/25 cx Lữ Gia, Lý Thường Kiệt, Q11, TPHCM
DTDD: (84) 903 721 731
Email: camthuy6@gmail.com
Tài khoản ngân hàng BIDV: 1400000058595
(Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển – chi nhánh Phú Lâm)
KTS. TRẦN KHÁNH TRUNG K80
CMND: 020466468
Địa chỉ: 36 Lý Tự Trọng Q1 TPHCM
DTDD: (84) 903 706 406
Email: trung@tttcomapny.com
theo địa chỉ bên dưới (bạn Thư sẽ nhận và chuyển lại cho BTC)
KTS. THU CAO
Add: 12230 Branston Drive, Austin, TX 78753
Phone: 512 – 833 5062,
Email: thucao40@yahoo.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.