Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN GIAN CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC TỈNH LÂM ĐỒNG




KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN GIAN CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC TỈNH LÂM ĐỒNG


MỤC LỤC

PHẦN 1 :
NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ SINH HOẠT – PHONG TỤC TẬP QUÁN – TÍN NGƯỠNG CỦA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA TỈNH LÂM ĐỒNG.

PHẦN 2 :
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ NHÀ Ở CỦA 03 DÂN TỘC MẠA – K’HO – CHURU Ở LÂM ĐỒNG .
PHẦN 3 :
KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN TỘC MẠA  - THỊ TRẤN ĐẠTẺH – TỈNH LÂM ĐỒNG ( NGHIÊN CỨU , ĐỀ XUẤT CÁC MÔ HÌNH , GỢI Ý GIẢI PHAP Ở CHO NGƯỜI NÔNG DÂN DÂN TỘC MẠ )
PHẦN 1 NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ
Sinh hoạt – Phong Tục – Tập Quán – Tín Ngưỡng
Của các Dân tộc bản địa Lâm Đồng.

TÓM LƯỢC


Lâm Đồng là một Tỉnh có nhiều dân tộc khác nhau. Hiện nay, ngoài dân tộc Kinh còn có 32 dân tộc thiểu số. Ngoài các dân tộc bản địa như Mạ, K'Ho, Chu Ru, M'Nông, Raglai, Gié-triêng, X'Tiêng, Bru-Vân Kiều, Ba na, Ê Đê, Gia me, Chăm … Còn có các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc di chuyển vào như Hoa, Tày, Nùng, Thái,  Dao, H'Mông, Sán chay, Sán dìu, Thổ, Dáy….Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi đề cập đến những nét cơ bản về Sinh hoạt – Phong tục – Tập quán – Tín ngưỡng của 03 dân tộc bản địa là Mạa, K’ho, Churu.

NGƯỜI MẠ
Người Mạ là một dân tộc thiểu số, ngữ hệ Môn Khơ me, cư trú tập trung chủ yếu ở vùng Trung và hạ lưu sông Đồng nai bao gồm các huyện Bảo Lâm, Đa Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên và một phần Thị xã Bảo Lộc.


Các nhóm địa phương: Mạ ngăn, Mạ Xộp, Mạ Tô, Mạ Krung…
Người Mạ hiện nay có khoảng 30.000 người.
Hình thái kinh tế nương rẫy đóng vai trò chủ đạo trong đời sống người Mạ. Dụng cụ chủ yếu để làm rẫy là con dao, chiếc rìu, gậy chọc lỗ.
Rẫy (Mir) của người Mạ có thể chia làm 3 loại:
  • Rẫy ở thung lũng
  • Rẫy ở sườn núi
  •  Rẫy ở đỉnh đồi.
Rẫy của người Mạ là một rẫy đa canh, ngoài lúa người ta còn trồng nhiều loại cây khác nhau như: bắp, bầu, bí, mướp, thuốc lá, bông vải…
Nghề chăn nuôi ở người Mạ chưa độc lập với trồng trọt và chưa có quy mô lớn. Người Mạ thường nuôi trâu, bò, heo, dê, gà, vịt, ngỗng… Họ nuôi theo lối nửa thả rông, nửa chăm sóc.
Người Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải. Dụng cụ dệt thô sơ, tốc độ rất chậm chạp nhưng sản phẩm dệt rất đẹp và được nhiều dân tộc ưa thích. Hoa văn trang trí phong phú và tinh vi với nhiều màu sắc sặc sỡ, phản ánh môi trường sinh sống và mơ ước trong cuộc sống của người Mạ.
Ngoài ra, người Mạ còn có nghề rèn, nghề gốm và còn biết làm thuyền độc mộc..v.v.
  •  CƠ CẤU TỔ CHỨC XÃ HỘI:
           Người Mạ cư trú thành từng làng (bon) với một khu vực đất đai riêng biệt. Giữa các làng có đường ranh giới rõ rệt đó là con sông, khe suối, hòn đá, thung lũng..v.v.do các chủ làng bàn bạc, quy định với nhau từ đời này qua đời khác. Làng ngày xưa là một công xã thị tộc, mọi người trong làng đều có quan hệ huyết thống với nhau.
           Trong xã hội người Mạ không có người làm thầy cúng chuyên nghiệp. Người phù thủy ở vùng Mạ xem như người thầy thuốc chữa bệnh.
           Trong xã hội người Mạ tuy vẫn tồn tại quyền công hữu đất đai nguyên thủy, nhưng cũng đã xuất hiện người giàu kẻ nghèo.
  • TỔ CHỨC GIA ĐÌNH:
           Cho đến nay người Mạ tồn tại hai hình thức gia đình: gia đình lớn phụ quyền và gia đình nhỏ phụ quyền.
  •  HÔN NHÂN:
           Người Mạ vốn cư trú trên một lãnh thổ tương đối độc lập nên từ trước đến nay thường có quan hệ hôn nhân trong nội bộ bộ tộc của mình. Tuy vậy, họ không cấm quan hệ hôn nhân với các dân tộc khác. Hôn nhân con cô con cậu chỉ thể hiện khi con gái của cậu lấy con trai cô.Trường hợp ngược lại không cho phép.
          Nếu vợ chết thì có thể lấy em gái vợ nếu người con gái đó đồng ý. Không được lấy chị gái. Ngược lại khi chồng chết, người vợ có thể lấy em trai chồng chứ không được lấy anh chồng. Con trai vào độ tuổi 15 là tuổi được kết hôn. Hôn nhân ở người Mạ khác với người K' Ho ở chỗ người thanh niên quyết định và đi cưới vợ. Còn ở người K 'Ho vẫn còn tục lệ " đi bắt chồng".
          Chế độ cư trú sau hôn nhân của người Mạ thiên về cư trú bên chồng. Tuy vậy sau lễ  cưới người chồng phải sang nhà vợ ở một vài năm nếu nhà nghèo thì có thể ở lâu hơn.
  • PHONG TỤC TẬP QUÁN:
          Những tàn dư tôn giáo nguyên thủy còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Mạ. Họ quan niệm mọi hành động trong đời sống hằng ngày của họ đều do các lực lượng siêu nhiên mà họ gọi là Yang chi phối. Người Mạ thờ cúng rất nhiều Yang như Yang Hiu ( thần nhà) , Yang Koi ( thần lúa), Yang Bri ( thần rừng), Yang Bơnơm ( thần núi). Cũng như các dân tộc ít người khác ở Tây nguyên người Mạ quan niệm có những vị thần thiện ( yang) và có những vị thần ác ( Chà). Đối với người Mạ vị thần tối cao sáng tạo ra vạn vật cũng là Yang Ndu giống như quan niệm của người K ' Ho. Vì quan niệm mọi vật trong đời sống của mình đều diễn ra theo ý muốn của các thần nên người Mạ phải giết súc vật đề làm lễ tế thần vào những dịp được mùa, sinh đẻ, bệnh tật , chết chóc..v.v. Do đó, hiến sinh súc vật là hình thức biểu hiện cụ thể nhất của những quan niệm của họ về thế giới siêu hình. Lễ hiến sinh lớn nhất là lễ đâm trâu.
          Là một dân tộc sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, loại lễ nghi long trọng và đều đặn là lễ nghi tiến hành vào những khâu trong quá trình canh tác. Người Mạ có một số lễ cúng như sau ( trong một năm ) :
          _ Nhu ga bri: cúng thần rừng.
          _ Nhu duh sob: Lễ cúng sau khi phát rừng trước khi đốt, còn gọi là Lơ Yang us hay Nhu Yang us: cúng thần lửa.
          _ Trước khi chọc lỗ bỏ hạt làm lễ cúng gọi là Lơ Yang tuyt koi.
          _ Nhu tam xơ nơm hay Nhu tam nơm: cúng lúc lúa đã lên từ 2 tấc đến 5 tấc.
          _ Nhu tơ rơ mul còn gọi là Nhu đụnh: cúng lúc lúa trổ bông. Lễ vật lớn hơn các lễ trước.
          _ Lễ Nhu tuyn kách hoặc Nhu pas koi: cúng trước khi suốt lúa mang về kho. Lễ vật gồm có gà rượu và được cúng ở rẫy.
          _ Lễ Nhu R'he: Lúc mọi nhà đã đem lúa về kho, cả buôn định ngày lễ mừng gặt hái xong. Nhu R'he được tiến hành trong 7 ngày ( từ khi chuẩn bị trang hoàng tới lúc tiến hành lễ cúng xong)
          Những năm gần đây đa số các buôn đã bỏ bớt nhiều lễ, chỉ giữ lại một vài lễ quan trọng như Nhu tam nơm, Nhutơrơmul, Nhu R'he.
  •  MA CHAY:
          Khi có người chết, viêc đầu tiên người Mạ chọn quần áo quý nhất mặc cho người chết. Để duỗi tay chân ngay ngăn buộc dây lại. Để tỏ lòng luyến tiếc họ để người chết trong nhà 7 – 8 ngày. Ttrong thời gian đầu những người đàn ông đi tìm gỗ tốt làm hòm. Hòm được đưa vào nhà bằng một cửa lớn mới làm chứ không phải bằng cửa chính của gia đình. Đến ngày thứ 3 người chết được bỏ vào hòm và sau đó bà con họ hàng buôn làng tới thăm viếng, cúng bái ăn uống. Người Mạ có tục sắm sửa cho người chết những đồ đạc cần thiết khi còn sống để có thể được tiếp tục " sống " ở " thế giới bên kia" Những người thân như anh em con cháu thường cắt một phần tóc của mình bỏ vào hòm người chết để mai kia người chết có " nguyên liệu lợp nhà".
          Người ở làng nào thì chôn trong địa phận làng đó. Nghĩa địa là khu vực cấm kỵ đối với mọi người, đặc biệt là người ngoài làng.
  •  VĂN HỌC DÂN GIAN:
          Người Mạ có một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian quý giá phản ánh cảnh quan, địa lý, môi trường sinh sống và cuộc sống tinh thần khá phong phú độc lập của họ.
          " Tam pớt" là loại hò đối đáp giữa nam nữ, là những bản tình ca nam nữ, rất phổ biến ở vùng Mạ.
          Luật tục ( Ndri ) của người Mạ không những là một bộ luật cổ truyền của xã hội người Mạ, mà còn là một di sản văn hóa tinh thần – Đó là những câu nói có vần có điệu mà nội dung của nó là những quy ước xã hội, cách đối nhân xử thế.
          _ Âm nhạc: dụng cụ âm nhạc của người Mạ chủ yếu là bộ chiêng gồm 6 cái: trống, khèn bầu 6 ống, 6 lỗ âm thanh, sáo bầu 3 lỗ, khèn sừng trâu, đàn lồ ô 6 dây, đàn môi.

NGƯỜI K 'HO
         
     Người K ' Ho ở Lâm Đồng là một tộc người thuộc ngôn ngữ Môn – Khơ me. Họ cư trú ở nhiều nơi trong Tỉnh Lâm Đồng: Đà Lạt, Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh, Đa Hoai. Người K 'Ho tập trung nhiều nhất là ở huyện Di Linh. Người K ' ho ở Lâm Đồng hiện nay là 104.025 ( theo điều tra 01/ 10/ 1997) bao gồm các nhóm địa phương Srê, Nộp, Cờ dòn, Tố la, Măng tố ( Prô), Bajà, Ta ngâu ( Đạ ngao), Chil, Lạt.

v      SINH HOẠT KINH TẾ:
Người K' ho chủ yếu làm kinh tế nương rẫy và ruộng nước. Một đội nhóm K'ho sống bằng nghề lúa nước. Nghề rẫy gắn liền với đời sống du cư, du canh theo chu kỳ 3 năm một lần dời chỗ ở. Nghề lúa nước gắn với đời sống định cư.
Cây lương thực chính của các nhóm K 'ho là lúa, riêng đối với nhóm Chil lại là bắp.

  •  VỀ XÃ HỘI :
Đơn vị tổ chức xã hội cao nhất của người K ' ho là Bon – Đây là một đơn vị tổ chức xã hội vừa là  một đơn vị kinh tế tự cung tự cấp của dân tộc K ' ho.
Bon là làng truyền thống theo kiểu một công xã nông thôn hoặc công xã láng giềng, mang đậm dấu vết của công xã thị tộc mẫu hệ. Đứng đầu Bon là già làng ( Kuang bon) . Ông là người có uy tín tuyệt đối sao với các thành viên khác trong làng.
Trong xã hội truyền thống thì chủ làng, cùng với chủ rừng (Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người K ' ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyền thống chủ yếu dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt truyền thống như ché, cổ chiêng..v.v. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng đồng. Nhưng trong xã hội đã xuất hiện sự phân tầng lớp kẻ giàu người nghèo.
Trong xã hội truyền thống của người K ' ho đã tồn tại hai hình thức tổ chức : gia đình lớn mẫu hệ và gia đình nhỏ mẫu hệ.
Điều đáng chú ý là dù ở gia đình lớn hay gia đình nhỏ những dấu ấn mẫu hệ vẫn được duy trì và bảo lưu. Con cái sinh ra đều mang họ mẹ. Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và cư trú bên vợ đã được xác lập và duy trì một cách khá chặt chẽ trong xã hội.
  •  PHONG TỤC, TẬP QUÁN, TÍN NGƯỠNG:
Tín ngưỡng về siêu nhiên của người K ' ho cũng như của các dân tộc ít người khác ở Tây nguyên nói chung, tập trung vào ý niệm một bên là thần thánh luôn phù hộ con người và một bên là ma quỷ luôn luôn làm hại con người.
Về thần thánh ( Yang) trong quan niệm của người K ' ho có một vị thần tối cao đó là vị thần khai sáng vũ trụ và là vị thần bảo hộ tối cao của con người tên gọi là Nđu – Mặc dù vậy trong các dịp tế lễ người K ' ho ít vầu tời vị thần này mà thường  cầu xin các vị thần khác có ngôi vị thấp hơn như: thần mặt trời, mặt trăng, thần núi, thần sông, thần đất, thần ruộng, thần nhà, thần ché rượu, thần kho lúa, thần rừng..v.v Đối nghịch với thần là ma quỷ ( chà) luôn gây ra tai nạn cho con người như phá hoại mùa màng, gieo các bệnh tật. Do quan niệm về sự chi phối của thần và ma quỷ đối với đời sống, người K ' ho thường phải cúng kiến để cầu xin vào các dịp như: mùa màng, hôn nhân, tang, ma , ốm đau.
Do đời sống kinh tế của người K' ho cơ bản dựa vào nông nghiệp, cho nên những lễ nghi liên quan đến công việc làm rẫy, làm ruộng là những lễ nghi quan trọng nhất và được tiến hành thường xuyên. Ngoài lễ Đâm trâu Nôsarpu được tổ chức rất linh đình và mang nhiều ý nghĩa như mừng lúa mới, tạ ơn thần linh đã ban sự an lành cho làng; Người K ' ho đã có một một số lễ nghi nông nghiệp như : Lễ gieo giống ( Nhô Sih Srê), cúng trước khi gieo trồng. Lễ rửa " chân trâu" tiến hành sau khi gieo hạt một tháng, lúc này con trâu đã được nghĩ ngơi sau một thhời gian cày bừa mệt nhọc, với mục đích cầu cho trâu mập mạp, sinh sản nhiều.
Lễ Nhô Wer cúng vào lúc lúa đã mọc đầy đồng. Lễ này để thần linh đã cho mưa thuận gió hòa .
Lễ Nhô kẹp – cử hành vào mùa lúa trổ bông.
Lễ Nhô tốt đông ( lễ trồng câu nêu) được cúng khi lúa chín.
Lễ cuối cùng trong một chu kỳ nông nghiệp là lễ Nhô Lir bông – Từ Lia bông có nghĩa là đậy nắp vựa thóc lại. Đấy là lễ tết của người K ' ho Sêrê. Lễ được tổ chức tại kho thóc của mỗi nhà có sự tham dự của chủ các bon, chủ gia đình khác trong họ.
Bên cạnh tín ngưỡng đa thần phổ biến và thống trị trong xã hội K ' ho, sau này ta thấy xuất hiện nhiều bộ phận dân chúng theo những tôn giáo từ bên ngoài du nhập vào như thiên chúa, tin lành.

NGƯỜI CHU RU
Chu ru là một dân tộc thiểu số thuộc ngữ hệ Mã Lai – đa đảo ở miền Nam – Dân ố tương đối ít. Ở LÂm Đồng theo thống kê dân số 01/ 10/ 1997 người ChuRu có 12.993 người
  • Sinh hoạt kinh tế:
          Nghề trồng trọt chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế, lúa là nguồn lương thực chính yếu; Ngoài ra còn có các laọi ngô, khoai, sắn và rau đậu..v.v
          Trong canh tác người Chu Ru có nhiều kinh nghiệm về việc làm làm thủy lợi nhỏ, nhất là việc điều tiết nước cho các thời kỳ sinh trưởng của cây lúa.
          Ngoài ruộng, người Chu Ru còn làm thêm nương rẫy và vườn. Ngoài nông nghiệp, đồng bào còn chăn nuôi: trâu, bò, heo, dê ..v.v và  các loại gia cầm khác.
          Săn bắn, hái lượm cũng là một hoạt động thường gặp trong đời sống của người Chu Runhằm cung cấp thực phẩm, rau quả trong sinh hoạt hàng ngày.
          _ Nghề dệt của người Chu Ru hầu như không phát triển vì vậy hầu hết các y phục cổ truyền của họ đều phải mua bán, trao đổi với các dân tộc láng giềng như người Chăm, K ' ho, Mạ…v.v
          Tóm lại, nền kinh tế cổ truyền của người Chu Ru là một nền kinh tế tự nhiên, mang tính tự cung tự cấp. Trong đó trồng trọt giữ vai trò chủ đạo, chăn nuôi chưa trở thành nghề chính, thủ công nghiệp vẫn là nghề phụ trong gia đình.
  • Tổ chức xã hội:
          Xã hội cổ truyền Chu Ru dựa trên tổ chức plei ( làng ). Đứng đầu làng là một chủ làng ( pô plơi, pô plei) do tất cả mọi thành viên lựa chọn trong số những người đàn ông lớn tuổi nhất của làng mình để bầu ra. Ông ta ngoài tiêu chuẩn cao tuổi còn là người có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu, hiểu biết lịch sử, phong tục tập quán làng và dân tộc.
          Người có uy tín sau chủ làng là thầy cúng, trưởng thủy ( có kinh nghiệm về thủy lợi ) và bà mẹ. Họ là những người có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, tín ngưỡng trong cộng đồng  làng của người Chu Ru.
Gia đình trong xã hội cổ truyền của người Chu Ru là chế độ gia đình mẫu hệ.
Trongđó vai trò của người vợ, người cậu rất quan trọng.
          Chế độ hôn nhân của người Chu Ru là chế độ hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên vợ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân mà họ gọi là tục " bắt chồng".
  • Phong tục, tập quán, tín ngưỡng:
          Người Chu Ru cũng có tín ngưỡng đa thần như các dân tộc thiểu số khác. Ngoài việc thờ cúng thần linh họ còn có lễ thờ cúng tổ tiên ( pơ khimôcay), lễ này khác hẳn với  lễ thờ cúng tổ tiên của người Việt. Việc hành lễ không có một trật tự ngày tháng nào nhất định . Có thể hai ba năm hoặc hai ba mươi năm mới cúng một lần tùy theo hoàn cảnh kinh tế gia đình, và dòng họ, và dòng họ trong nhà của người Chu Ru cũng không có bàn  thờ , bài vị dành cho  ngừi đã khuất. Họ chỉ làm bàn thờ và tiến hành thờ cúng vào một dịp nào đó ở ngoài nghĩa địa chứ không đem về nhà.
          Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, người Chu Ru còn tiến hành các lễ nghi nông nghiệp như: cúng thần đập nước ( Bơmung), thần mương nước, cúng thần lúa khi gieo hạt ( Nhum Tốt đoồng hay khâu đoồng), cúng  ăn mừng lúa mới, cúng sau mùa gặt. Trong các lễ nghi cổ truyền đó, đáng chú y nhất là lễ cúng thần Bơ mung. Trong mỗi vùng cư trú của người Chu Ru có một nơi dành riêng để thờ cúng vị thần này. Hàng năm vào khoảng tháng 2 người Chu Ru mang dê, ngựa đến cúng thần. ( Tục truyền người Chu Ru cho hay các vị thần hay cưỡi ngựa nên phải cúng ngựa có đóng yên cương, phủ lễ phục quý giá). Ngoài lễ cúng Bơ mung, theo phong tục cổ truyền người Chu Ru còn cúng Yang Wer – Yang Wer là một cây cổ thụ ở gần làng được dân làng tin đó là nơi cư ngụ của một vị thần có quyền phép. Người Chu Ru thường làm các hình nộm như đầu voi, ngựa, cọp, dê, .v.v bằng gỗ hoặc bằng củ chuối, cùng đồ ăn thức uống mang tới gốc cây Yang Wer để cúng tần. Khi cúng xong họ bèn đặt một phần đồ cúng lên võng khiêng tới một cây Yang Wer cách chừng trăm thước. Họ hạ võng bày đồ ăn ra vệ đường với ngụ ý tiễn Yang Wer đi chơi. Sau đó tất cả mọi người trở lại gốc cây cùng ăn uống vui vẻ. Trước khi ra về, mỗi gia đình hái một nhánh cây đem về cắm trước cửa. Tiếp sau đó cả làng kiêng cử 15 ngày không được ai ra vào. Đó là thời gian nghĩ  ngơi sau một vụ mùa gặt hái ( vào tháng 2 hàng năm ).
v      Văn học nghệ thuật:
          Người Chu Ru cũng có một kho tàng truyện cổ, ca dao , tục ngữ rất phong phú. Phản ảnh chế độ mẫu hệ đề cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Phản ánh cuôc đấu tranh bất khuất của nhân dân đối với thiên nhiên, xã hội để giành cuộc sống ấm no hạnh phúc.
          _ Về âm nhạc: Ngừi Chu Ru có trống ( sơ gơn), kèn ( rơkel), đồng la ( sar), còn có r'tông, kwao, terlia lànhững nhạc cụ đặc sắc của họ. Trong ngày vui họ thường múa điệu Tam –ga.
          Cũng như các dân tộc ít người khác ở Lâm Đồng, Tây nguyên, người Chu Ru tin rằng bệnh tật là do Yang gây ra. Bởi vậy khi có người lâm bệnh nặng, lập tức họ mời thầy cúng (mdjao) để cúng và trị cho người bệnh. Mdjao có nhiều phương pháp chẩn đoán bệnh và trị bệnh mang tính bua phép kết hợp với các kinh nghiệm y học cổ truyền.
          Trứớc đây dưới chế độ cũ đồng bào Chu Ru, cũng như các dân tộc ít người khác ở Tây nguyên đã bị kìm hãm về nhiều mặt; bị áp bức bóc lột nặng nề và lại bị khinh rẽ, miệt thị.
          Sau giải phóng đồng bào Chu Ru mới thực sự được đổi đời  - Với những chính sách tiến bộ, bình đẳng của Đảng  và Nhà nước , đồng bào Chu Ru đã và đang sát cánh cùng các dân tộc anh em ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh , xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc.


PHẦN 2
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ NHÀ Ở
CỦA BA DÂN TỘC MẠ – K'HO – CHURU
TỈNH LÂM ĐỒNG

        Về nhà ở của đồng bào dân tộc Lâm Đồng chúng ta có thể phân loại ra thành hai loại hình lớn: Loại hình truyền thống và loại hình hiện đại.
Trong loại hình thứ nhất chúng ta thấy có một quá trình tiến hoá rõ rệt từ nhà sàn dài đến nhà đất qua giai đoạn nhà sàn ngắn, tuy trong các loại hình này có những điểm chi tiết khác nhau do điều kiện môi sinh và do đặc trưng văn hoá từng dân tộc tạo nên. Còn về loại hình nhà dân tộc hiện đại, tuy chúng có khác nhau như là nhà sàn hay nhà đất nhưng đó chỉ là biểu hiện của sự giằng co giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển, còn về mặt cấu trúc cũng như về mặt kỹ thuật và vật liệu xây cất, đây là những nhà ở hiện đại theo đúng nghiã của chúng.

A. CÁC LOẠI HÌNH NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG
1. Nhà sàn dài:
Nhà sàn dài là loại hình nhà ở cổ nhất trong xã hội truyền thống của các dân tộc Lâm Đồng. Khi các nhà thám hiểm Pháp đầu tiên đến vùng này như Henri Maitre, Patte, vào đầu thế kỷ 20, họ vẫn còn thấy những nhà sàn dài 100 đến 120m. Những nhà dài như thế hiện nay ở vùng Lâm Đồng không còn nữa. Căn nhà sàn dài nhất mà chúng tôi có dịp quan sát là căn nhà dài của người Mạ ở "bon" B'Su, xã Đạ Tẻh, dài 54m, sàn cao 1,5m, có tất cả 8 cầu thang, 12 cửa ra vào, bên trong có 12 bếp lửa. Rất tiếc là nhà mới xây cất nên các gia đình chưa dọn về đầy đủ để chúng tôi có thể quan sát thêm cấu trúc bên trong và cách bố trí từng hộ gia đình.
Tuy nhiên loại nhà sàn phổ biến nhất ở Lâm Đồng là nhà sàn của người Mạ và người K'Ho, Srê, dài khoảng từ 20 đén 35m, rộng từ 3m đến 3,5m, cột nhà sàn cao từ 1m đến 1,5m, Mỗi cửa đều có cầu thang lên xuống. Nhà sàn dài của người Mạ ở Lộc Bắc, người K'Ho, Srê ở Di Linh, đều có sàn hiên ở mỗi cửa ra vào và 1 sàn hiên khác rộng hơn ở một phiá hông nhà. Nhà sàn dài ở Lộc Trung không có sàn hiên trước cửa ra vào nhưng sàn hiên bên hông rộng và phát triển hơn đồng thời phiá sau có thêm những dãy sàn phụ.
Nhà sàn dài thường có hai mái lợp bằng lá "rsôi", một loại lá mây rất phổ biến trong vùng Mạ, hay bằng lá tranh. Lá "rsôi" được ghép thành từng tấm lớn dài 4,5m; khi dời nhà thì được dỡ ra và cuốn lại để mang theo. Vách và mặt sàn làm bằng tre lồ ô đập dập, vì kèo làm bằng tre và cột sàn bằng gỗ.
Kỹ thuật lắp ráp thô sơ, chủ yếu là sử dụng cột ngoãm rồi dùng dây mây để cột.
Cấu trúc bên trong rất đơn giản: Cả nhà là một buồng dài không vách, giữa nhà là một dãy bếp lửa, có nhà có đến 14 bếp dùng làm nơi nấu nướng, sưởi ấm cho các gia đình nhỏ ngoại trừ bếp khách không dùng gì khác hơn là để tiếp khách. Dọc theo vách đối diện với cửa ra vào là hàng ché, mà nhiều hay ít tùy theo mức độ giàu, nghèo theo thang bậc giá trị cổ truyền của xã hội. Có nhà có hàng trăm cái ché vừa cổ vừa mới, và niềm tự hào của một nhà giàu có trong xã hội xưa là có toàn ché cổ. Trên mái nhà phiá bên này là nơi giắt vũ khí. Phiá vách bên kia là nơi để củi và trên mái là nơi giắt các công cụ sản xuất.
Mỗi nhà dài đều có chỗ để tiếp khách chung cho cả nhà và thường trùng với chỗ ở của người có địa vị cao nhất. Đây có thể gọi là đầu nhà và cũng là nơi đặt bàn thờ (nao), là chỗ tôn nghiêm nhất trong nhà dài. Nói là bàn thờ nhưng cái "nao" xưa làm bằng ván gỗ có chạm trổ không còn nữa, giờ đây người ta chỉ còn nhận ra là chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào. Những nhánh cây, bông lúa này là vết tích còn lại của các buổi cúng thần đã qua và sẽ được mang theo mỗi khi dời nhà.
Phiá trên trần nhà, trên các bếp lửa khoảng 1m có treo những cái "giá" hoặc " mẹt" tròn dùng để chưá các thức ăn cần hun khói hay để khô như thịt rừng, cá khô men rượu, tỏi hành… Ngoài ra, cũng dọc theo nhà, chúng ta còn thấy những tấm tre đan lơ lững, mỗi tấm chỉ dài độ vài mét treo lung chừng nhà dùng làm nơi để chiếu, chăn mền, gùi, rìu và các vật dụng khác như bầu nước…
Ngoài ra bên cạnh nhà dài còn có nhà kho, chuồng gia súc và nhà sản phụ là những kiến trúc phụ không thể thiếu được của loại hình nhà dài.
Nhà kho là nơi chứa lúa. Đó là một nhà sàn nhỏ, cột cao hơn nhà ở ( cao trung bình là 2,5m ) và cách nhà chính khoảng 10m. So với nhà ở, tuy nhỏ hơn nhưng nhà kho được xây cất tương đối chắc chắn và kỹ lưỡng hơn. Nhiều khi cửa kho được chạm trổ bằng những mô  típ  kỷ hà chứng minh cho sự chú ý của con người với mục đích làm đẹp và chăm sóc nhà kho. Nhà kho thường được xây cất riêng rẽ từng nhà, nhưng cũng có thể tập trung thành khu riêng biệt.
Ngược lại với nhà kho, chuồng gia súc được cất sơ sài hơn. Thường cũng là nhà sàn nhưng rất thấp và nhỏ đủ để cản gia súc không thoát ra được ra ngoài.
Nhà sản phụ cũng là một nhà sàn nhỏ ( cách đất khoảng 0,3m ) dài và rộng từ 3 đến 4m dùng để biệt lập người phụ nữ đang kỳ sinh nở. Bên trong bố trí rất giản dị gồm có một bếp lửa  để sản phụ sưởi ấm, kế bên là những vật dụng cần thiết cho người sản phụ như chăn , mền, bầu nước .v.v..
2. Nhà sàn ngắn:
Đứng về mặt phát triển xã hội, nhà sàn ngắn là giai đoạn chuyển tiếp từ nhà sàn dài đến nhà nền đất, cho nên từ cấu trúc đến kỹ thuật và vật liệu xây cất đều giống nhà dài. Cái khác chăng là loại nhà này ngắn hơn nhiều, chỉ dài khoảng từ 4 đến 8m. Nhà cũng lợp hai mái, cũng có sàn nhà hiên, cầu thang ..v.v… Bên trong cũng bố trí như vậy, cũng bếp lửa, trên treo " giá", treo " nia", cũng gác lững nhỏ dùng để xếp chăn, chiếu, nhưng phạm vi thu hẹp lại đủ cho một cặp vợ chồng và 1 – 2 đứa con nhỏ.
Tại "Bon" B' lạch A, chúng ta thấy rõ quá trình phân hóa kiểu gia đình này. Đó là nhà của chị Ka Lọi và anh K ' Tẻ có quan hệ thân thuộc với nhà dài đối diện của ông K ' Poi. Chị là con ruột của bà Ka gió và chồng chị là K' Tẻ đến ở rễ nhưng đáng lẽ hai vợ chồng phải sống chung trong nhà dài thì lại xây cất một căn nhà nhỏ đối diện đó để ở. Nhà dài khoảng 4 mét và cách đó khoảng 10 mét.
Theo chúng tôi nghĩ hầu hết các nhà sàn ngắn cổ truyền ở Lâm Đồng đều có quá trình như vậy.
3. Nhà trệt (nhà nền đất)
Nhà trệt là một bước phát triển rõ rệt so với hai loại hình trên về mặt kỹ thuật lắp ráp cũng như về cách bố trí bên trong.
Tuy vật liệu xây cất giống nhau như gỗ, tre, lá mây, tranh..v.v…nhưng nhiều nhà nền đất khác với nhà sàn bởi đầu hồi như kiểu mái nhà người Việt (4 mái). Về kỹ thuật xây cất và lắp ráp, tuy còn sử dụng cột ngoãm ở vài nơi, nhưng phần đông đã biết dùng mộng đẽo và cột cái để chống đỡ sườn  nhà. Nhưng cái biến đổi nhiều nhất là cách bố trí trong, nhiều nhà đã ngăn chia thành buồng có vách hẳn hoi và tuy bếp lửa vẫn còn để trong nhà nhưng sạp bàn ghế và sạp ngũ tre đã thấy xuất hiện. Theo chúng tôi, đây không phải vì nhu cầu sinh hoạt trong gia đình không thể diễn ra ngay trên nền đất dơ bẩn mà vì do ảnh hưởng bên ngoài trong quá trình tiếp xúc với người Việt hoặc người Chăm tạo nên.
Để chứng minh quá trình biến đổi từ nhà sàn dài đến nhà đất chúng ta hãy xem các loại hình nhà của người Mạ ở hai " bon" Jirai và Minh Rồng Đỏ xã Lộc Thắng ( Bảo Lộc). Tại 2 " bon" này mỗi đơn vị gia đình gồm có các nhà sau đây: Nhà sàn dài, một số nhà trệt ngắn nằm trước mặt và một số kho thóc nằm sau lưng hay bên cạnh. Nếu nhà sàn dài có hai hộ thì có hai nhà trệt ngắn, nếu có ba hộ thì có ba nhà trệt ngắn. Nhà sàn dài là chỗ nấu nướng, ăn uống và dành cho các ông bà già ngủ. Nhà trệt là nơi tiếp khách và là chỗ ngủ của thanh niên. Nhà trệt ngắm không có bếp, nhưng có giường, phản, người già thích ngủ ở nhà dài hơn.
Qua một đơn vị nhà dài vừa miêu tả như trên, chúng ta thấy rõ một quá trình biến đổi về nhà ở đang diễn ra tại vùng Mạ này. Chắc chắn đây là một bước quá độ từ nhà sàn dài đến nhà trệt ngắn, ở đó, nhà trệt ngắn đã được xác lập nhưng nhà sàn dài vẫn chưa mất hẳn vị trí của nó.

B. NHÀ Ở HIỆN ĐẠI
Chúng tôi dùng khái niệm "hiện đại" ở đây chỉ là tương đối để đối chiếu với khái niệm "cổ truyền" hay "truyền thống" mà chúng tôi dùng, cùng với ý nghĩa tương đối, trong phần trên. Nhà hoện đại đây không ý nghĩa là những ngôi nhà nguy nga làm bằng bê tông cốt sắt đầy đủ tiện nghi hiện đại..v.v…mà chỉ là những ngôi nhà dân tộc tương đối hiện đại về mặt kiến trúc, kỹ thuật lắp ráp cũng như về mặt vật liệu xây cất. Trong phần này chúng tôi cũng muốn chứng minh rằng về mặt nhà ở quá trình tiến lên vẫn là từ nhà sàn đến nhà trệt và điều kiện môi sinh không có, hay rất ít ảnh hưởng đến loại hình nhà ở. Duy chỉ có ảnh hưởng bên ngoài tác động nhiều về mặt kỹ thuật và vật liệu xây cất.
Nhà ở hiện đại gồm nhà sàn và nhà trệt.
1. Nhà sàn hiện đại :
Nhà sàn hiện đại tồn tại khá nhiều tại vùng người Kơho, Srê ở Di Linh và Chu Ru ở Đơn Dương. Đây là loại nhà  sàn ngắn, dài từ 8 đến 12 mét, rộng từ 5 đến 6 mét, cột sàn cao khoảng 0,5 mét làm bằng gỗ đẽo vuông rất chắc chắn, đôi khi còn có trụ bằng gạch xây để cũng cố thêm. Nhà lợp bằng tôn 4 mái, kỹ thuật lợp cũng khá tinh vi bằng đinh đầu tròn lớn, vách và mặt sàn bằng ván gỗ. Trước cửa ra vào là sàn hiên, mặt sàn cũng bằng ván, có thang để leo lên. Bước saàn lên trên, là một hành lang chạy chung quanh có lan can để vịn. Đôi khi hành lang chỉ có phân nữa nghĩa là chỉ có bên phía hông trái và sau lưng nhà. Kỹ thuật lắp ráp chủ yếu là cột đẽo có mộng, bắt thêm "bù loong" cho thêm chắc chắn.
Bên trong nhà chia thành nhiều buồng có vách ngăn và cửa ra vào. Buồng bên trái khi ta đi vào là buồng cha mẹ, buồng bên phải là của gia đình cô con gái. Gian chính giữa là phòng khách có bếp lửa để tiếp khách, còn bếp để nấu nướng thì xây cất bên ngoài ở phiá sau nhà.  Phòng khách là nơi để bàn thờ "nao", chiêng, ché và trống. Bàn ghế trong phòng  khách có nhưng còn ít. Trong  buồng có giường và đôi khi có tủ.
Nhà sàn người Chu Ru tại Đơn Dương còn hiện đại hơn nhiều, tuy cũng một kiểu kiến trúc nhưng chung quanh nhà có hành lang và cột sàn thấp hơn bằng gạch xây.


2. Nhà trệt hiện đại :
Nhà trệt hiện đại không khác nhà sàn từ cấu trúc kiến tạo đến cách bố trí bên trong. Kỹ thuật lắp ráp và vật liệu xây cất cũng giống nhau, duy chỉ có khác là nhà được xây dựng trên nền đất và hành lang phía trước được thay thế bằng một thứ hàng ba. Một số kiểu nhà trệt này có thêm một mái hiên trước đi thẳng vào cửa chính.
Một hiện tượng về nhà ở tại ấp Đạ Me xã Tu Tra 1, cho chúng ta thấy một quá trình chuyển sang nhà nền đất. Tại ấp này chỉ còn duy nhất một nhà sàn ngắn truyền thống. Theo chủ nhà cho biết đây là nhà của ông khi xưa. Nhưng nay ông chỉ dùng nó làm nhà bếp, còn nhà ở chính của ông hiện tại là một nhà nền đất rất khang trang rộng rãi xây ở phía trước cách đó 5 mét.
Ngày nay, tuy xã hội cổ truyền của các dân tộc ở Lâm Đồng bị xáo trộn sâu rộng. Nhưng, nhìn chung địa bàn cư trú của họ vẫn còn tập trung tương đối theo từng tộc người : Người Mạ ở phía Tây thị xã Bảo Lộc, người Kơ ho, Srê ở phía Đông Nam huyện Di Linh và người Chu Ru, Raglai ở phía Đông huyện Đơn Dương. Chỉ có vấn đề là một phần lớn các làng người Kơho, Srê, Chil và Chu Ru đã bị dồn xuống đồng bằng đông dân cư nhưng lại ít đất canh tác. Vả lại số đất đai của các làng định canh định cư này, nay đã bạc màu trong tình trạng nguồn phân bón ngày càng hiếm hoi nên đời sống của đồng bào hiện nay gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó ở phía Tây Bảo Lộc, nơi vùng Mạ, một vùng trước kia là căn cứ địa của cách mạng ít bị xáo trộn nhất, đất đai lại còn quá thừa thãi. Với chính sách định canh định cư và phân bố hợp lý lại các vùng canh tác hiện nay, các vùng đất chưa khai thác và màu mỡ này có thể trở thành những vùng kinh tế mới của đồng bào các dân tộc đang gặp khó khăn trong các trại tập trung cũ của Mỹ Ngụy để lại. Trong quá trình tiến hành định canh định cư, xây dựng vùng kinh tế mới, xây dựng nông thôn mới, cần thiết phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố văn hóa tốt đẹp vốn có của các dân tộc với yêu cầu của công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa xã hội và nền văn minh hiện đại.

NHÀ SÀN DÀI CỦA NGƯỜI MẠ
Nhà sàn dài là loại hình nhà ở cổ nhất trong xã hội truyền thống của các dân tộc Lâm Đồng. Hiện nay sự tan rã của những "đại gia đình" đã kéo theo sự ra đi của những ngôi nhà dài vốn là kiến trúc truyền thống của họ. Ở Lâm Đồng hiện nay, xã Lộc Bắc huyện Bảo Lâm là một trong những xã hiếm hoi mà ta còn được may mắn nhìn thấy những ngôi nhà sàn dài mà người Mạ vẫn còn gọi là "Hìu rọt".
Vật liệu sử dụng trong ngôi nhà sàn dài chủ yếu là những loại có sẵn trong thiên nhiên (rừng) như gỗ, tre, nứa, lá, dây mây… Các loại vật liệu này sau khi lấy về được gia cố bằng cách tước vỏ, tạo ngoàm… tùy theo vị trí thích hợp, cụ thể trong kết cấu nhà mà người Mạ chọn loại vật liệu thích hợp.
Cột nhà và cột sàn thường được dựng đầu tiên theo trình độ kiến tạo nhất định. Hai hàng cột nhà chạy song song với nhau từng đôi một, số đôi cột này nhiều hay ít tuỳ theo độ dài của nhà. Nghiã là nhà càng dài thì số cột càng tăng. Sàn nhà bao gồm nhiều phần liên kết với nhau: Cột sàn bố trí dọc theo các đà ngang chạy từ mặt trước ra mặt sau nhà; Khoảng cách giữa cột sàn này và cột sàn kia trong cùng hàng không quá dày (0,8m – 1m); các hàng cột sàn cách nhau từ 1m – 2,5m trên kết cấu đà ngang là một lớp kết cấu đà dọc khá dày bằng tre hay lồ ô. Có những ngôi nhà kết cấu phần này ngược lại: đà ngang dày, đà dọc thưa, nhưng không phổ biến. Cột nhà cũng đồng thời đóng vai trò cột sàn được chôn xuống đất như cột sàn. Khoảng cách từ sàn nhà xuống mặt đất thường không quá 1,2m. Chiều rộng nhà thường lớn hơn khoảng cách cột này tới cột kia trong cùng đôi cột. Cột nhà nằm vào phiá trong mép sàn từ 0,5m đến 1m. Chiều rộng nhà vì thế tương ứng với chiều rộng mặt sàn khác với nhà của người Kinh, nhà dài của người Mạ không có kết cấu vì kèo, nghiã là không có xiên chính, kèo chính – kèo phụ. Trong nhà dài cột này liên kết với cột kia theo chiều dọc bằng mọt cây đà gác lên đà cột đã tạo ngoàm liên kết. Riêng hai đôi cột ở hai đầu hồi nhà là có sự liên kết giữa hai cột trong một đôi, nhưng xét cho cùng liên kết ở đây là phần hổ trợ cho liên kết xương vách.
  • Sàn nhà và cửa nhà dài:
Vốn là một nhà tập hơp nhiều tiểu gia đình chung sống nên nhà dài thường có nhiều cửa. Mỗi cửa tương ứng với một sàn lộ thiên (sàn hiên) được làm tiếp giáp với mặt sàn, thấp hơn mặt sàn 0,5 – 10cm. Cửa nhà có cấu tạo hình vòm, cửa mở vào phía trong, dây mây giữ cửa cố định sát trên mái nhà). Khi đóng cửa chỉ cần tháo dây mây hạ xuống. Toàn bộ nhà được lát kín bằng tre lồ ô đập dập. Riêng phần từ cửa vào (rộng 0,5m – 0,7m) lát bằng lồ ô nguyên cây như sàn lộ thiên. Ở mỗi sàn lộ thiên đặt một cầu thang lên xuống hoặc không đặt nếu mặt sàn thấp. Vách nhà thưng kín bằng phên lồ ô, là mây hay thân lau sậy sau khi đã hoàn thành kết cấu xương vách. Xương vách bao gồm hàng loạt liên kết ngang dọc hợp với mép sàn một góc vuông. Điều khá đặc biệt là mặt trước ngôi nhà phần xương vách nằm ngoài, thưng vách quay vào bên trong: Hai đầu hồi nhà thưng bằng mây là chính.
Bộ mái nhà người Mạ có kết cấu riêng. Có thể hình dung mỗi bên mái là một khung hình chữ nhật, ở đó liên kết ngang dọc khá đều đặn bằng tre hay lồ ô. Cây nọ cách cây kia 0,4m – 0,5m. Liên kết mái tạo sự "gánh vác" đồng đều của toàn bộ khung mái khi tấm lợp được phủ lên.
Việc tạo ra tấm lợp không chỉ cần đòi hỏi thời gian mà cả sự khéo léo. Lá mây được chọn lợp nhà là loại lá không già và cũng không quá non (lá bánh tẻ). Sau khi lấy về phơi vài nắng thì đưa vào kết: từng tệp lá mây được xếp chồng như vảy cá, mức độ bền chắc của mái nhà phụ thuộc vào khoảng giữa các tệp lá trong liên kết bảo đảm bằng dây mây. Phên lá mây được đưa lên mái lợp theo chiều dọc củatệp lá, mái rũ xuống trùm hầu như toàn bộ phần vách nhà. Hai khung mái có độ rộng tương đương nhau nên số lượng phên lá mây lợp lên trên mỗi mái bằng nhau. Nóc nhà nơi bộ khung mái tiếp giáp cũng dùng lá mây nẹp kín.
Tóm lại: Nhà sàn dài của người Mạ là đặc trưng kiến trúc dân gian, truyền thống tiêu biểu. Ở một số dân tộc khác như K' Ho, Ê Đê cũng có nhà sàn dài, nhưng nhà sàn của người Mạ vẫn có nét đặc trưng riêng mà các nhà sàn dài của các dân tộc khác không có đó là :"Cửa hình vòm" (khi là phần xương mái đến nơi cửa họ uốn cong phần xương làm cho nó khum và nhô hẵn lên so với những chỗ mái bình thường khác).
Cửa vòm nhà sàn dân tộc Mạ: qua tìm hiểu thì theo quan niệm của đồng bào là họ muốn làm cho giống kiểu hang đá, nghĩa là muốn tạo kiểu mái hang nơi cửa ra vào. Phải chăng trong quan niệm người Mạ vẫn còn lưu luyến với cuộc sống xa xưa, nói đúng hơn là họ vẫn chưa quên những thói quen, tập tục từ thời nguyên thủy.
(Trong phần tổng hợp tư liệu trên có sử dụng tài liệu của tác giả nhà nghiên cứu dân tộc học Mạc Đường, của tác giả Lý Ngọc Hiển).
---------------------------
PHẦN 3
KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN TỘC MẠ
THỊ TRẤN ĐẠTẺH – TỈNH LÂM ĐỒNG
 NỘI DUNG

A - Con người và phong tục dân tộc Mạ
I- Giớí thiệu:
1.     Gốc tích và địa vực cư trú.
2.     Nhân dạng.
3.     Tính tình.
II- Đời sống cá nhân:
1.     Ăn uống.
2.     Hút thuốc.
3.     Y phục.
4.     Trang sức.
III- Sinh hoạt xã hội:
1.     Xã giao.
2.     Hôn nhân.
3.     Giáo dục – Y tế.
4.     Việc ma chay.
IV- Đời sống tinh thần:
1.     Tín ngưỡng.
2.     Âm nhạc.
V- Đời sống kinh tế:
1.     Trồng trọt.
2.     Chăn nuôi.
3.     Săn bắn, hái lượm.
4.     Tiểu thủ công nghệ.
5.     Thương mại.
B - Kiến trúc
I- Buôn làng.
II- Những yếu tố cơ bản thuộc về ngôi nhà.
1.     Nhà 1 hộ riêng lẽ.
2.     Nhà dài.
3.     Vật liệu xây dựng.
4.     Kết cấu.
5.     Không gian bên trong.
III- Nhà kho
IV- Nhà rẫy (nhà chòi)
V- Nhà làng.
VI- Nghiã địa
VII- Thần thoại về nhà ở.
C - Phương hướng nghiên cứu
* Nhà ở
I- Phương hướng.
II- Giải pháp đề nghị.
1.     Cải tạo ngôi nhà sàn hiện tại.
2.     Mẫu nhà sàn cải tiến
3.     Mẫu nhà mới.
III- Bố cục không gian ăn, ở cho 1 hộ.
IV- Vệ sinh ăn, ở.
V- Kỹ thuật xây dựng:
1.     Vật liệu.
2.     Kết cấu.
3.     Mái.
4.     Sàn.
5.     Vách tường.
 -----------------------
 KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN TỘC MẠA
THỊ TRẤN ĐẠTẺH – TỈNH LÂM ĐỒNG
A - CON NGƯỜI VÀ PHONG TỤC DÂN TỘC MẠ.
I- GIỚI THIỆU:
1.     Gốc tích và địa vực cư trú:
Rất ít người biết rằng trước đây cả vùng Đồng Nai thượng thuộc Tỉnh Lâm Đồng có một "Tiểu quốc" của người Mạ nằm giữa Chân Lạp và Chiêm Thành. Tiểu quốc này mờ dần trên con đường Nam tiến của người Việt và bị xoá nhòa vào thế kỷ 17 khi cả Chân Lạp và Chiêm Thành thuộc về Việt Nam.
Hiện nay sắc tộc Mạ có hơn 30.000 người. Tuy ít nhưng chiếm cứ cả vùng Đồng Nai thượng rộng lớn chạy từ vùng Đơn Dương xuống tới Bảo Lộc, đông nhất ở Di linh, một số ít ở Long Khánh.
Mạa còn gọi là Cqâu Mạ, Châu Mạ, Chi Hạ. Mạa là một sắc tộc Thượng, có gốc tích Indonésien. Ngôn ngữ thuộc ngành Môn-K'hmer.
2.     Nhân dạng:
Người Mạ thường nhỏ người, cao trung bình 1m60, nặng từ 50kg đến 55kg, da ngăm đen hoặc nâu thẩm, tóc đen cứng, thỉnh thoảng lại hung hung do thiếu vitamin, có người lại có tóc loăn xoăn. Họ đi bộ rất khoẻ, gùi được nhiều. Nhưng nếu ta bắt họ khuân vác hay xách nặng thì họ không quen.
3.     Tính tình:
Thật thà, mộc mạc trong nếp sống bình dị sơ khai. Họ trở nên cộc cằn khi đụng chạm đến đời sống của họ.
·      Tính lười biếng, không thích suy nghĩ sâu xa, đầu óc họ thực tế hướng về cụ thể hơn là trừu tượng, không cần lợi vì ít nhu cầu.
·      Có tính di truyền bảo thủ, câu nệ tập tục.
·      Thích sống và hoạt động tập thể.
·      Tình cảm quyến luyến làng xóm, nhà ở, nương rẫy của mình.
·      Người đàn ông Mạ can đảm, hăng say chiến đấu, ảnh hưởng của những thế hệ trước.

II- ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN:
1- Ăn uống:
Lúc ăn uống, người Mạ quen ăn bốc, họ cũng biết dùng chén, đũa. Một ngày, họ chỉ ăn hai bữa cơm; Một bữa lúc 7 giờ sáng, trước khi đi làm việc hay đi rẫy, chiều về dùng bữa tối trước khi đi ngũ. Món ăn chính là cơm nấu bằng gạo tẻ hay nếp, cũng có thể ăn độn trừ bữa. Thức ăn thông dụng là muối sống đâm nhỏ. Gia vị là ớt, tiêu. Họ thích ăn măng, cà, mướp nấu với muối. Cơm hay món ăn nấu một lần buổi sáng, để dành cả ngày. Họ nấu trong những cái nồi đất miệng hơi loe ra, đậy bằng là chuối. Ngày nay, họ dùng nồi đồng hay xoong chảo bằng nhôm mua ở chợ.
Rượu cần là một món ưa thích nhất của họ. Rượu ủ bằng cơm gại tẻ hay nếp, cũng có thể ủ bằng ngô, sắn hay khoai lang, bo bo. Men rượu làm bằng bột bắp củ riềng và vài thứ lá rừng. Rượu cần có vị chua chua ngọt ngọt, uống nhiều rất say. Rượu được hút bằng những cần trúc đã thông mắt..
  2- Hút thuốc:
Hút thuốc là một thói quen của người dân tộc Mạ cũng như uống rượu. Đàn bà, đàn ông, trai gái cho chí những em bé vài tuổi cũng biết hút thuốc. Họ hút bằng ống điếu, quấn lá, đàn bà ưa ăn thuốc.
  3- Y phục:
Không kể những lối phục sức phức tạp mà đồng bào Thượng trong nhiều năm gần đây đã chịu ảnh hưởng người Kinh, lối ăn mặc thuần túy của người Mạ rất đơn giản.
·        Đàn ông đóng khố và ở trần. Khố là một miếng vải hẹp, bề rộng từ 15cm – 20cm , dài 2m, đôi khi mặc thêm áo cánh cụt tay rộng, tay choàng thêm khăn về muà lạnh.
·        Đàn bà mặc "yêng" (váy). Đó là một tấm vải quấn nữa mình, dài tới đầu gối, khi mặc giao hai múi tới trước rồi quấn cho chặt. Mình để trần hoặc có thêm áo cánh cụt hay dài tay với những vết sọc ngang.
Ngoài ra, họ còn hay khoác 1 tấm choàng, để che thân hay che con nhỏ.
Đa số đàn bà Mạ biết dệt vải.
Những lúc hội hè lễ phục tươm tất hơn.
4- Trang sức:
·      Cà răng: Thanh niên đến tuổi trưởng thành phải cà răng, vừa để biểu lộ lòng can đảm. Chỉ cà sát nướu 6 răng cửa hàm trên.
·      Căng tai: Thành những lổ thật rộng bằng những khoanh ngà hay những vòng đồng.
Ngày nay, ở những nơi gần người kinh, tục lệ này đã được hủy bỏ dần dần.
·      Những đồ trang sức: cả đàn ông, đàn bà đều thích đeo những vòng đồng, những khoanh ngà, vòng cườm, xâu chuỗi cườm. Đàn ông thích cắm lên búi tóc những lông chim rừng.
III-SINH HOẠT XÃ HỘI:
1.      Xã giao:
Hiếu khách, phòng khách của họ là một bếp lửa ở giữa nhà. Bất kỳ khách lạ hay quen đến nhà cũng được chủ nhà ngồi bên bếp lửa, mời hút thuốc uống rượu cần rồi nói chuyện.
2.     Hôn nhân :
Trước đây theo chế độ mẫu hệ, ngày nay đã chuyển sang phụ hệ. Người con trai đi hỏi cưới vợ, nhưng lại ở rể nhà vợ. Nếu không muốn ở rể thì phải nộp của hồi môn (tổn phí, trâu, rượu…) và được sự đồng ý của nhà gái. Con gái lấy họ Mẹ.
Lễ hỏi chỉ có đơn sơ đôi sợi cườm, vòng đeo tay, chiếc nhẫn.
Lễ cưới theo nghi thức tín ngưỡng và vậ phẩm gồm có heo, dê, rượu cần.
Người Mạ cũng có chế độ đa thê với sự chấp thuận của người vợ cả.
Nếu cuộc sống gia đìng trở ngại cũng có thể ly dị.
3.     Giáo dục – Y tế:
Đối với họ chỉ là bước đầu, đa số mù chữ ngôn ngữ tiếng Mạ và tiếng Việt. Đồng bào Thượng bị bệnh rất nhiều, thuốc men không có. Họ chữa bệnh theo phù phép, cúng tế và lá cây rừng. Tại xã có trạm xá nhưng họ ít đến.
Khi có một sản phụ sắp sinh, họ để ở góc nhà chờ đợi phó mặc thiên nhiên. Do vậy số trẻ sơ sinh bị chết khá nhiều. Hiện tại y tế xã không quản lý được điều này.
Vấn đề vệ sinh trong buôn thượng là cả một vấn đề, trên nhà rận rệp, ruồi muỗi đầy rẫy, trong nhà tối om, xung quanh nhà rác rưới tràn ngập, nước sinh hoạt thiếu thốn nhất là về muà hạ khi sông suối cạn nước.
4.     Việc ma chay:
Khi có người chết, thân quyến lo khâm liệm, ngã trâu bò làm lễ cúng. Xóm làng vào rừng kiếm cây to (thường là cây bằng, gạo)đem về đục lỗ khoét rỗng bên trong như hình chiếc mõ dài, trên có nắp đậy. Khi liệm, để nghiêng người chết cho lọt vào, đến khi chôn thì lật ngữa xác người lên. Áo quan được đục lỗ ở phiá dưới và đưa để trên một cái vại. Hàng ngày, họ mang đi để ở nghiã địa, khi nào xác chết không chảy nước nữa mới mang đi chôn.

IV- ĐỜI SỐNG TINH THẦN:
1-/ Tín ngưỡng:
Do điều kiện kém văn minh nên họ có rất nhiều lễ lộc và cúng tế. Tất cả hành động từ sự canh tác, gặt hái, săn bắn, cưới hỏi, đình đám, ăn ở và mọi sinh hoạt trong xã hội bị bao trùm bởi những tín ngưỡng, dị đoan. Họ tin tưởng ở thần linh , núi sông, cây cối, đất đai. Tế lễ là một hình thức mua chuộc thần thánh qua trung gian thâỳ cúng (bojou). Một số lễ chính: lễ đâm trâu; cúng mồ mã; cúng ruộng nương; lễ tạ ơn; lễ cúng tại những nơi mà họ cho là có thần linh. Đau ốm cũng cúng bái.
Ngày nay, họ đã cố gắng khắc phục bỏ dần khi tiếp xúc nhiều với người Kinh.
2-/ Âm nhạc:
- Đơn giản kết hợp những ăm thanh man dại của núi rừng, vẫn giữ được bản chất nguyên vẹn buổi ban đầu.
- Những bài ca là những điệu hát thần thoại truyền khẩu.
- Nhạc cụ được chế biến từ những vật liệu thảo mộc tự nhiên, công chiêng…
- Vũ khúc bình dị như tâm hồn họ, đơn giản hòa với lời ca tiếng nhạc.
Ngày nay, nhạc mới cũng khá phổ biến, cây đàn guitar rất được thanh niên dân tộc sử dụng thành thạo và ưa thích đặc biệt.
V- ĐỜI SỐNG KINH TẾ:
1-/ Trồng trọt:
Người Mạ sinh sống bằng nghề làm rẫy, kỹ thuật rất đơn giãn. Về muà nắng họ đốn cây để cho khô rồi đem đi đốt, tro còn lại dùng làm phân bón đất. Khi muà mưa bắt đầu, họ lấy cây tre nhọn chọc lỗ và gieo lúa. Đến mùa gặt, đàn bà ra tuốt lúa bằng tay, cho vào gùi đem về cất trong nhà sàn. Lúa trồng trên đồi nên rất đễ bị nước cuốn trôi đi và thế nên cứ vài ba năm họ lại chọn nơi khác làm rẫy.
Kỹ thuật thô sơ, năng suất lúa rẫy kém, mỗi năm làm một mùa lúa nên không đủ dùng.
Họ còn trồng thêm hoa màu phụ như: bắp, sắn, khoai, đâu, chuối, miá, thuốc lá...
2-/ Chăn nuôi:
Có tính cách cá thể: heo, dê, gà trâu…
Trước đây họ nuôi trâu giống rất mập và thả đi tự do.
3-/ Săn bắn, hái lượm:
Những nơi gần sông suối, người Mạ cũng biết đánh bắt cá.
Họ vào rừng săn thú, thu lượm những lâm sản như quế, mật ong, sáp ong, dầu chai, củ măng rừng…
4-/ Tiểu thủ công nghệ:
Thường là thô sơ, có tính cánh gia đình.
- Đan gùi mây, đồ dùng bằng tre, mẫu nhà sàn nhỏ, cà nồi đất gia dụng.
- Dệt vải để mặc và trao đổi.
5-/ Thương mại:
- Thu nhặt lâm sản để đem trao đổi với miền xuôi.
B .KIẾN TRÚC
–      Buôn làng
–      Nhà ở
–      Nhà kho
–      Nhà rẫy
–      Nghiã địa
–      Nhà công cộng

I- BUÔN LÀNG:
Làng là đơn vị quan trọng trong xã hội người Thượng (người Mạ gọi là BON). Những người đã sống trong một làng có sự liên đới cổ truyền với nhau một cách mạnh mẽ và cả với những người ở khác làng mà cùng một sắc dân, toàn thể coi nhau như là phần tử trong một gia đình.. Sự cách nhau của các buôn làng tùy theo vị trí địa dư của từng bộ lạc và tùy theo sự canh tác của họ. Thường thì cách nhau 1,2,3 cây số. Những ngôi làng Châu Mạa thường được xây dựng ven bờ suối, ở chân núi, dọc theo những thung lũng nhỏ hẹp hoặc nằm rãi rác ở các sườn đồi hẻo lánh. Khu đất dựng buôn được khai hoang sạch sẽ chỉ chừa những cây lớn.
Nhà ở trong buôn bố trí tùy tiện, không theo một quy hoạch nào cả. Thường thì người nào chiếm được chổ nào thì làm nhà ở đó, thành ra sự đi lại trong buôn rất tự do và lộn xộn. Ở những khoảng trống là những nơi sinh hoạt lẽ tẻ, cũng là sân thả heo, gà…giếng nước chung. Xung quanh buôn làng có hàng rào với cổng đơn sơ. Những ngày lễ ở đầu buôn có treo vật biểu tượng như đầu trâu, cành lá, rua…
Đặc điểm buôn người Mạ không có nhà rông (nhà làng). Họ chỉ lấy nhà vị chủ làng làm nơi hội họp, tiêp khách.
Có những bộ lạc hướng nhà của họ về nhà chủ làng hoặc là hướng nhà về phiá con đường lớn hay dòng suối chảy ngang đó.
Thường ngày cả làng đi làm rẫy hay về chợ đổi chác thực phẩm, trong làng còn lại người già đau yếu và trẻ con.

II- NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN THUỘC VỀ NGÔI NHÀ:
Qua khảo sát thực tế chúng tôi thấy có nhiều loại nhà nhưng thực tế có 2 loại chính:
1-/ Nhà cho hộ riêng rẽ, thường được lợp lá RSÔI
- Nhà sàn cao cẳng (1m-1,5m), kho ở bên ngoài nhà.
- Nhà sàn thấp cẳng (0,5m – 0,8m), kho ở bên ngoài nhà.
- Nhà có 1 phần hạ xuống đất, kho ở bên trong nhà.
2-/ Nhà hẹp và dài (sàn thấp) hơn 50m, có khi đến 70m – 80m dành cho nhiều hộ gia đình trong tôn tộc, kho lúa ở ngoài nhà.
- Loại chỉ lợp lá RSÔI.
- Loại lợp tranh hoặc vật liệu khác.
Kiểu nhà sàn thông thường cao cách mặt đất từ 0,8m tới 1m2, chiều cao trung bình của nhà là 4,5, dài khoảng 7m. Họ ở trên sàn là do nhiều lý do:
·      Đất có độ dốc nên làm nhà sàn để giải phóng mặt bằng.
·      Điều kiện khắc nghiệt của khí hậu miền núi, chống khí độc, thú dữ.
·      Đất dể thấm nước, đất tơi xốp, mùa mưa thì lầy lội, mùa nắng thì bụi mù nên họ ở nhà sàn cho sạch sẽ.
·      Nhà sàn là sản phẩm kế thừa của tổ tiên, ít chịu suy nghĩ cải cách, họ hành động theo thói quen.
3-/ Vật liệu xây dựng:
- Là thảo mộc địa phương: tranh, tre, nưá, lá, vầu, hóp,mai bương dùng  làm bộ xương mái.
- Khung nhà: cột, quá giang, sà dọc, dầm sàn bằng gỗ tốt như : êrăng (cẩm lai), cà te (gụ), săn drao (giổi), Hlok (đinh hương) để làm cột. Grat (trám) làm quá giang, Kpang truột (ổi rừng) , hrat làm sà dọc và dầm sàn.
- Lạt buộc : ngoài tre còn phải kể đến song, mây và các dây rừng như đùng đình, thèm bép.
- Những vật liệu để làm vách: tre hay lồ ô đan thành phên hay là thanh tre chẻ nhỏ buộc khít vào nhau.
4-/ Kết cấu:
- Cấu trúc bộ sườn đơn giản. Mỗi vì gồm 2 cột cái (Kneh) đẽo tròn, chân cột chôn sâu xuống đất (1 heh = 0,4m) , đầu cột được khoét để ôm lấy xà dọc. Ngoài ra bên cạnh cây quá giang chính cũng có thể có 1 quá giang phụ cho mỗi vì cột, cây này cũng được ngàm ở hai đầu để giữ xà dọc.
- Không có vì kèo thật mà chỉ có những hàng kèo giả mặt kèo giả cách nhau 2 heh = 0,8m).
- Kết cấu sàn: dầm ngang được ốp vào cột cái bằng ngàm khoét vào dầm và cột xiết chặt bằng dây mây, cột theo hình chữ thập.
- Mái nhà thường có 2 mái, đôi khi có thêm 2 mái phụ ở đầu hồi, trên mái cũng như trên đường nóc không có trang trí gì cả.
- Vách phên ở 2 đầu hồi thẳng đứng, còn vách phên 2 bên thì ngã ra ngoài so với mặt sàn (hạ thu thượng thách).
- Nhà có 2 cửa đi đặt gần chính giữa 2 hồi. Cửa trước nhìn ra lối xuyên thôn dành cho khách và đàn ông, cửa sau dành cho đàn bà và người nhà. Chổ góc hai hồi nhà có sàn nước, dùng để rửa chân.
- Lên nhà bằng cầu thang bằng gổ hay tre.
- Nhà không có cửa sổ trông rất bưng bít, tối tăm.
5-/ Không gian bên trong:
Bước vào nhà chúng ta dễ để ý đến cái Bếp, nhà nhỏ thí, 2 cái.Nhà dài thì nhiều bếp, mỗi bếp một hộ, cạnh bếp có chổ để củi, phiá trên bếp là dựa treo bằng tre đan để hun khói thực phẩm (sấy thóc). Ché rượu đặt ở góc nhà, nơi dễ thấy nhất.
- Không có tủ, quần áo treo , móc rất luộm thuộm.
- Cả nhà sàn chổ nào cũng có thể ngũ được, chân quay về bếp lửa, đầu hướng về vách phiá trên. Vách bên kia để gùi đựng quần áo, nhà không có vách ngăn gì cả.
- Đôi khi trên xà ngang họ làm cái dàn để đựng đồ lặt vặt.
Ở những ngôi nhà dài chứa khoảng 10 gia đình, sống quây quần trong đó. Ở giữa nhà, là một dãy bếp đặt theo chiều dọc của nhà sàn, mỗi gia đình một bếp. Dọc theo mặt vách là một dọc chổ ngũ chạy từ đầu nhà đến cuối nhà và được chia thành từng ngăn cho mỗi gia đình, bên kia vách người gia đình để ché rượu, gùi thóc, gùi đựng quần áo và trên vách treo chiêng, còng, rìu, xà gạo, chổ để củi, đồ linh tinh.

III -  NHÀ KHO:
Tại xã Đạ tẻh, người Mạ cất thêm 1 nhà sàn nhỏ để chứa lương thực, phiá dưới là chổ để công cụ, củi thô. Họ bố trí cách xa nhà ở từ 5m – 10m vì sợ nhở cháy nhà thì lương thực ăn quanh năm vẫn còn.
Kiến trúc cũng giống như nhà ở, chỉ có 1 cửa và vách không nghiêng ra, quy mô nhỏ và cao hơn nhà ở.

VI - NHÀ RẪY (CHÒI):
Ngoài nhà ở, Người Mạ còn cất thêm 1 chòi nhỏ nơi họ làm nương rẫy. Hiện nay có những lúc mà những gia đình sống ở trên rẩy luôn trong thời gian làm luá, vì rẫy của họ ở cách xa buôn làng, có chổ tít phiá bên kia sông Đồng Nai. Mỗi lần đi là họ dùng xuồng độc mộc xuôi theo dòng Đạ tẻh mà lên trên ấy. Lúc đó nhà cửa họ để trống như nhà hoang. Ta có thể thấy:
- Nhà: nơi ở chính thức, nơi thờ cúng, đón tiếp khách và tổ chức các nghi lễ trong năm (chức năng xã hội, tôn giáo và che đậy bảo vệ).
- Chòi: Dựng ở nơi sản xuất trong vòng vài ba năm. Khi nào đất hết màu mở, họ dời chòi đi nơi khác (chức năng liên quan đến sản xuất).
Khi vào 1 làng, ta ít gặp vườn tược, trái lại tới chòi, cây cối hoa màu rất nhiều. Chòi là nơi ở người sản xuất, đồng thời là nơi chăn nuôi. Khi cuộc sống đã định cư, nhưng sản xuất vẫn còn du canh thì cái chòi vẫn còn tồn tại.
V - NHÀ LÀNG:
Người Mạ không có nhà rông như phần lớn các dân tộc khác. Thay vào đó họ coi nhà của vị chủ làng là nơi đại diện cho làng. Phần lớn sinh hoạt của làng được tổ chức nơi đây.

VI - NGHIÃ ĐỊA:
Chổ ở cuối cùng, thường được đặt ở cuối làng, cây xanh cách ly chưa đủ bảo đảm.
VII- THẦN THOẠI VỀ NHÀ Ở:
Thuở ban đầu, loài người không có nhà, người ta ở trên cây rừng. Thấy cây nào được thì ở. Một hôm thần NDU thấy một người tên DOÊ đang ẩn núp trên ngọn câyMƠHI là cây thần thường trú ngụ. Muốn che chở người đó, thần Ndu làm cho lá cây không thấm nước mưa và mưa không ướt được. Từ ngày đó người đó kiếm cây MƠHI làm cây trú ẩn.
Sau đó BUNG về âm phủ đem tre, rồi rạ lên, BUNG dạy cho người ta làm nhà bằng tre, mái lợp rạ. Từ ngày cây đa lấy sắt cho con người ta, người ta mới làm ra dao, rìu, rựa. BUNG cho người ta tất cả cây to trên rừng, đủ các thứ gỗ để xây cất. BUNG còn dạy cách thức đẽo cột nhà.
Con mọt dạy cho người ta cách đục gỗ bằng cái khoan để chắp nối gỗ với nhau. Từ đó người ta mới bắt chước con mọt đẻo gỗ. Mỗi khi cần chắp nối thì đục 1 cái lổ trong khúc gỗ để đút một khúc gỗ khác vào.
C - PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU
Nhằm mục đích cải tạo khu vực cư trú và nhà ở cho đồng bào dân tộc Mạ, chúng tôi thử đề nghị các giải pháp về ngôi nhà ở, sao cho phù hợp với sinh hoạt, phong tục tập quán của họ, dựa trên nghiên cưu về:
1-/ Con người và đặc tính dân tộc:
- Về hoàn cảnh địa lý, điều kiện thiên nhiên.
- Ngôi nhà truyền thống và mối quan hệ đối với con ngưới ấy
Để tìm ra:
- Những đặc điểm tiềm ẩn.
- Những bước phát triển và chiều hướng phát triển.
- Mối tương quan giữa nó với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Từ đó chọn lọc, kế thừa và phát huy những điều tốt đẹp và cụ thể hoá qua ngôi nhà.
2-/ Ngôi nhà vẫn giữ được mối quan hệ truyền thống chặt chẽ với một số nhà khác trong nhóm tạo thành một đơn vị sinh hoạt và sản xuất tại điểm dân cư.
Sau đây có một số điều kiện làmtiền đề cho các giải pháp đề nghị:
VỀ QUY HOẠCH:
- Là một điểm định canh, định cư, bố cục không gian phải thể hiện tổ chức sản xuất mới (tập đoàn sản xuất, tiến lên hợp tác xã).
- Thể hiện được nếp sống nông thôn mới miền núi.
- Thể hiện được tính truyền thống về những sinh hoạt của người dân tộc.
VỀ KIẾN TRÚC:
- Kiến trúc phù hợp với khung cảnh địa phưong, gần gũi với tâm lý dân tộc của người địa phương.
- Tận dụng vật liệu địa phương, có biện pháp kỹ thuật kéo dài niên hạn sử dụng.
- Ngôi nhà là nhân tố tích cực trong việc cải tạo và nâng cao đời sống cho người dân tộc.
- Giải pháp nhà nữa sàn nữa đất là một dạng trung gian trong quá trình phát triển hợp lý của ngôi nhà.
VỀ KỸ THUẬT:
- Phát huy và hợp lý hoá kinh nghiệm dân gian.
- Ban lắp ghép, cơ động, thi công đơn giản, dễ thực hiện với quy mô lớn.
- Hướng nghiên cứu dễ dàng để đi đến sản xuất hàng loạt.
- Sẵn sàng sử dụng vật liệu mới mà vẫn phù hợp với bao cảnh.

NHÀ Ở:
I -PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU:
Qua tìm hiểu phong tục tập tập quán và thực tế tham quan đời sống của người Mạ ở Đạ tẻh, chúng tôi cố gắng nghiên cứu theo phương hướng sau:
- Nêu lên một số mặt không hợp lý của ngôi nhà dân, tìm cách cải tạo tốt hơn, đồng thời còn giữ lại những gì còn phù hợp để người sử dụng cảm thấy nét thân thuộc, không bỡ ngỡ cái mới lạ.
- Phát huy những kinh nghiệm dân gian theo hướng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, bố trí lại nội ốc phù hợp với nhu cầu sử dụng và điều kiện thiên nhiên.
- Đáp ứng nhu cầu xây dựng trước mắt, làm phong phú mặt đứng, tránh đơn điệu, thống nhất kết cấu, tiện lợi chế tạo thi công.
II- CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ:
Theo tình hình thực tế tại Đạ tẻh hiện nay, có 3 hướng giải quyết:
1-/ Cải tạo ngôi nhà sàn hiện tại:
Đối với nhà trong buôn chưa dời đi, sẽ sắp xếp chổ ăn, chỗ ngũ cho hợp lý, có chú ý cải tạo cái bếp trong nhà sao cho khó bắt cháy và thoát khói dễ dàng.
2-/ Mẫu nhà sàn cải tiến:
Từ ngàn năm nay, người dân tộc tự bằng lòng với ngôi nhà sàn, xem như là một tổ ấm quen thuộc bảo vệ họ chống lại sức hủy hoại của thiên nhiên. Nhà sàn có những đặc điểm:
- Cao ráo tránh được ẩm thấp của núi rừng.
- Giải phóng mặt bằng không bị ảnh hưởng của thế đất.
- Tránh được thú dữ quấy phá.
- Tự bản thân nhà sàn sạch sẽ hơn nhà đất.
Và nhà sàn cũng có những khuyết điểm không tránh khỏi:
- Tốn gỗ nhiều hơn nhà đất.
- Bất tiện trong sinh hoạt và đi lại.
Sau khi chọn lựa chúng tôi thấy ở những vùng đất dốc hoặc có khả năng ngập nước thì mẫu nhà sàn cải tiến được xây dựng là thích hợp.
- Nhà được cải tiến trên cơ sở sinh hoạt truyền thống có bố trí buồng riêng cho phụ nữ. Nhà có trổ cửa sổ lấy ánh sáng và thông gió.
- Bếp tách riêng ra khỏi nhà và có hành lang che mưa nắng.
- Cầu thang lên nhà có mái che mưa nắng.
Nhà phù hợp cho 2 hai đoạn phát triển ít người và nhiều người.
3-/ Mẫu nhà mới:
Thời đại đã đổi thay, truyền thống của một dân tộc, thể hiện trong bất cứ lãnh vực văn hoá nào cũng phải đổi thay, tức là phát triển lên. Ngay về mặt kiến trúc, tổ tiên ta đã phải giải quyết một loạt vấn đề để tự bảo vệ chống lại sức tàn phá của thiên nhiên rồi sau đó chống lại chính đồng loại. Và cho đến nay, ngôi nhà sàn tồn tại trong thời gian qua có lẽ không còn thích hợp với môi trường đồng bằng đã khai thác tương đối thành thục ổn định, thiên nhiên không còn trở lại sau mỗi lần bị con người tác động nữa. Ngôi nhà đất ra đời với nhiều ưu thế hơn. Và để có một bước chuyển tiếp thích hợp trong vấn đề giải quyết nhà ở cho đồng bào dân tộc sao cho vẫn dung hòa được các yếu ố môi trường, vật tư, kỹ thuật, quan hệ xã hội, tâm lý con người. Chúng tôi đề nghị mẫu nhà: "vừa sàn vừa đất", có những đặc điểm sau:
- Được xây dựng ở vùng đất tương đối bằng phẳng.
- Vẫn giữ được tính "cao ráo chống ẩm thấp" của ngôi nhà dân tộc, thể hiện ở 2 phần:
·      Phần sàn ngũ thay giường (điều kiện trước mắt chưa có giường mà lại tạo nét quen thuộc cho người dân tộc) có thể sử dụng làm mặt bàn, mặt ghế, mặt phẳng sinh hoạt. Mặt sàn cách mặt đất tự nhiên bên ngoài khoảng 1m, cách mặt lối đi trong nhà khoảng30 phân.
·      Phần sàn phiá trong nhà được bịt kín chỉ chừa những lổ nhỏ để thông gió. Lối đi lại đắp cao 50 phân, chỉ cần ít đất đắp mà vẫn bảo đảm tính cao ráo , thoáng mát.
- Gầm sàn coi như ở ngoài nhà, sáng sủa, thoáng đãng, dễ quét dọn. Chỉ cần nền đất nện chặt.
- Giữa những hàng cột được đóng thành những kệ tủ để đồ đạc, vừa gọn ghẽ, vừa là vách ngăn. Ngoài ra còn làm cho liên kết ngôi nhà thêm bền vững.
- Nhà phù hợp cho 3 giai đoạn phát triển.

III- BỐ CỤC KHÔNG GIAN ĂN, Ở CHO MỘT HỘ:
Từ khi rời bỏ nhà sàn vùng rừng núi với chức năng cư trú, sinh hoạt là chính, để tiến về khai thác đồng bằng phì nhiêu, người dân tộc thiên về săn bắn, hái lượm, làm nương rẫy sẽ càng nhận ra được ưu thế của các yếu tố "đất", "nước" dưới sự tác động của năng lượng mặt trời và sức lao động của người khai thác biết lợi dụng thiên nhiên một cách có lợi nhất. Việc tạo nên 1 không gian cư trú gồm nhà ở, vườn, ao, chuồng được xem như một vòng khép kín về chuỗi thức ăn hay là mối cân bằng tự nhiên về sinh thái ở quy mô nhỏ là căn hộ 1 hộ. Điển hình gồm có:
* Nhà chính:
- Phòng chung:
. Nơi tiếp khách sang trọng, chổ để trưng bày, trang trí của chủ nhà.
. Nơi sinh hoạt gia đình.
. Góc làm việc học tập.
. Chổ ăn cơm.
. Có chổ ngũ cho con trai và khách khứa.
Sinh hoạt của gia đình dân tộc truyền thốngđược gợi lại ở không gian sinh hoạt chung. Phần riêng được dự trù nhưng đó chỉ là để ngũ, không bó buộc là không gian riêng của cá nhân nào.
- Phòng riêng:
. 1 phòng ngũ của cha mẹ.
. 1 phòng ngũ dành cho những sinh hoạt kín đáo cần thiết cho con gái lớn, sẽ trở thành nơi ngũ cho cặp vợ chồng mới, trong khi chờ ra riêng.
- Bếp:
Tách riêng nhưnh vẫn gần nhà chính, được nối bởi nhà cầu. Đối với người dân tộc bếp lửa có ý nghiã đặc biệt. Một nhúm lửa con con đã thay đổi cách sinh hoạt của loài người từ địa vị loài thú lên ngôi bá chủ các sinh vật. Lửa là công cụ lợi hại.
Nấu nướng thức ăn.
Rèn đúc vật dụng, làm đồ thủ công.
Xưa kia lữa đã từng vật đổ cây cối lớn, san bằng những khu rừng rậm rạp, âm u thành nương rẫy, đưổi các con vật làm hại người, từ con nhỏ bé như muỗi đến con to lớn như mãnh thú…
Phương thế đắc lực và đơn giản để chống lại sơn lam chướng khí
Lữa mang lại ấm áp, ánh sáng cho con người, có người là có lữa. Bởi thế người dân tộc dùng lữa và biết sợ lữa.
Theo thói quen, người già thích sống gần bếp lữa (bếp coi như là một lò sưởi).
Là chổ thuận tiện để sinh hoạt, tiếp khách thân mật.
Chổ để sinh hoạt, sản xuất phụ như đan gùi , giỏ…
Vì vậy bếp được bố trí sàn ngũ cho người già ở bên cạnh. Chung quanh có tường bao che bằng đất để chống cháy. Bếp cao ngang mực sàn, dưới có chổ để củi chẻ. Trên bếp có "dựa" dùng để sấy khô thực phẩm. Riêng khói được rút lên trên mái và thoát ra ở cửa mái.
- Nhà cầu: Không gian đệm giữa nhà và bếp, có thể giành cho sinh hoạt ban ngày như ăn cơm, tiếp khách, trẻ em chơi đùa hoặc làm nghề phụ như đan lát, dệt vải.
- Sân phơi: Dù to hay nhỏ, nhà nào cũng có sân. Sân là nơi để đập lúa, phơi phóng , đan lát, làm các nghề phụ. Ngoài tác dụng kinh tế, sân còn là nơi để tụ tập đông người mỗi khi gia đình có tang ma cưới xin. Hoặc những ngày đẹp trời cả gia đìng ra ngắm cảnh gío mát, trăng thanh, giải trí sau một ngày lao động mệt nhọc.
- Sân nước; giếng; nơi tắm giặt:
Bố trí hợp lý cạnh bếp, vừa kín đáo vừa thuận tiện sử dụng.
- Cầu tiêu gia đình: kiểu hố xí hai ngăn, dùng khạp ủ phân bón vườn. Với gia đình 6 người, mổi người 7lít phân/tháng, thời gian ủ là 2 tháng, thì chỉ cần 2 khạp 80 lít là tổ chức được nhà cầu này. Ngoài ra nhà cầu có thể bố trí gần, tiện lợi đi lại đêm hôm.
- Chuồng trại: phục vụ chăn nuôi gia đình, bảo đảm khoảng cách ly xa nhà, nguồn nước uống, có trồng cây xanh cách ly.
- Ao cá: Được đề nghị vì thấy có những tiện lợi sau:
. Lấy đất đào ao làm nền nhà, vách bếp.
. Lấy nước ao tưới vườn, rửa chuồng.
. Nước thải cho chảy xuống ao.
. Nuôi cá cải thiện bửa ăn.
Ngoài ra là các phần phụ thuộc linh tinh.

IV- VỆ SINH ĂN Ở:
1-/ Nước ăn và nước sinh hoạt:
- Nước ăn: nước giếng, nước mưa dự trữ.
- Nước sinh hoạt: giếng, suối.
2-/ Năng lượng nấu nướng:
- Trước mắt vẫn tạm dùng củi đốt, than, dầu lửa, thắp sáng thì xài đèn dầu, măng sông.
- Tương lai khi tiến lên sản xuất lớn, chăn nuôi của cụm hoặc buôn sẽ sử dụng hầm tự hoại cung cấp khí đốt cho các nhà. Khi có điện về đây sẽ thắp sáng bằng đèn điện.
3-/ Xử lý phân rác:
a- Nhà cầu gia đình: được đề nghị kiểu hố xí hai ngăn, vừa vệ sinh, vừa ủ được phân trồng vườn.
b- Phân chuồng và nước thải nhà bếp cho chảy xuống ao, phân sẽ tự rã tạo thức ăn cho cá.
c- Chất thải khác được xử lý tùy theo loại:
- Đốt lấy tro dùng cho hố xí hai ngăn.
- Chế biến làm thức ăn cho heo hoặc làm phân bón.
- Chôn lấp dưới đất.
4-/ Cải tạo vi khi hậu:
- Chọn nhà theo hướng tốt để đón gió mát.
- Dùng biện pháp nâng sàn đón gió.
- Trồng cây, làm dàn cây leo để giảm bức xạ nhiệt.
- Nắng mùa đông lấy trực tiếp vào nhà.
- Gió lạnh hoặc nắng chói được che đóng bằng cửa chống
V- KỸ THUẬT XÂY DỰNG:
1-/ Vật liệu xây dựng:
Đạ tẻh là vùng có nhiều vật liệu dùng được vào việc xây dựng, cho nên trước mắt sử dụng vật liệu sẵn có địa phương. Tương lai dự trù vật liệu địa phương có gia công, công nghiệp hoá chế tạo.
Trước mắt phải kể đến tre, không những nhiều về số lượng mà còn rất phong phú về chủng loại: tre, vầu, hóp, nứa, mai, hương, lồ ô…
- Gỗ rừng có nhiềi loại để làm nhà rất tốt như êrăng (cẩm lai), Gụ ( kate), săn drao ( giổi), hkok (đinh hương), opat ( trâm), kpang truột ( ổi rừng)
- Gỗ trồng có mít, xoan.
- Lạt buộc: tre, dang, mây song, và các loại dây rừng như đùng đình, thèm bép….
- Vật liệu lợp bằng thực vật: rơm, rạ, cỏ tranh, lá cọ, lá rsôi, nứa…
- Vật liệu làm tường vách: tre, gỗ, nứa, đất.
Các vật liệu kể trên được sử dụng kết hợp.
Vật liệu thảo mộc thường không bền, để có tuổi thọ cao, người ta tìm cách ngâm, tẩm chúng trước khi sử dụng. Kẻ thù nguy hiểm nhất của vật liệu này là mối mọt. Nhà làm bằng tre, nứa hay gỗ, nếu không ngâm chỉ được 4 – 5 năm. Nhưng nếu được ngâm kỹ có thể bền bằng mấychục năm. Tre nứa gỗ đem ngâm trong nước, tốt nhất trong bùn khoảng 1,2 năm mới vớt lên sử dụng.
Riêng lạt buộc thì không ngâm phải sấy khói ở dựa bếp, mối mọt không phá hoại mà độ bền dẽo lại tăng lên.
Ngoài ra nên khuyến khích các gia đình dân tộc tự chuẩn bị một phần nguyên liệu xây dựng bằng cách tự sãn xuất tại nhà để tăng thêm của cải xã hội trên đất thổ cư và đất kinh tế phụ như xoan, mít, rơm rạ, trấu, vôi…
2-/ Kết cấu:
Cải tiến và hợp lý hoá kết cấu nhà tre gổ cổ truyền theo hướng tiết kiệm và sản xuất cấu kiện điển hình hoá dựa theo module. Ở đây chúng tôi đề nghị module 2, có đặc điểm:
- Là tầm với tay của một người cao trung bình (1m65).
- Là khoảng cách làm việc thích hợp cho các cấu kiện như tre, gỗ.
- Bảo đảm không gian sử dụng phù hợp kích thước con người.
a- Cột: là bộ phận cơ bản tạo thành bộ khung nhà. Hệ khung cột biểu thị sức mạnh của ngôi nhà nên phải chọn cột kỹ càng.
- Muốn làm nhà cột chôn thường phải phải lấy gỗ có lõi chắc. Nhưng loại gỗ này chôn xuống đất hàng mấy chục năm vẫn không mối mọt, phần cột chôn cần ngâm tẩm hoá chất.
- Muốn làm nhà cột kể trên đá tảng, phải chọn gỗ mập, chắc.
b- Vì kèo: Do chất liệu lợp là thảo mộc cho nên vì kèo tam giác là thích hợp. Có thể sử gỗ và tre để làm vì kèo. Trong trường hợp muốn làm vì kèo hoàn toàn với tre thì theo hướng dẫn sau đây:
- Cột bằng diểu hoặc vầu Þ = 120mm, lỗ luồn quá giang nên đục trên đốt cột chừng 5 cm, đục vừa khít.
- Kèo: 2 cây diễn (vầu) Þ = 10cm, Phiá gốc cắt dưới đốt 5 cm đặt ngược lên trên, vì phần gốc phải cắt một nữa để nối đầu kèo cho nên phải khoẻ, không được đặt phía ngọn lên nóc kèo vì thân ngọn mỏng.
- Quá giang: tốt nhất là cây hop Þ = 6 –8 cm, thẳng đầu. Phiá gốc cắt dưới đốt cây 5 cm. Luồn hop ở đầu cột 1 rồi lần lượt cho qua các lỗ cửa chống đứng, cuối cùng qua lỗ đầu cột 2. Ở đầu này ngọn cạy hộp làm quá giang thường bị hỏng trong lỗ cột, ta dùng nút chêm bằng ngọn hóp có đường kính nhỏ hơn chêm vào.
- Nối quá giang: khi không có họp dài, đoạn nối cần có đốt khoẻ và nên đặt ở chân chống đứng thứ 2 để lỗ của chống đứng cũng tham gia ghì giữ mối nối. Hai đầu đoạn nối oốp 2 nữa ống tre và kẹp giữ bằng chốt tre.
- Chống đứng – chống chéo:
Dùng cây diễn phần ngọn cắt còn lại khi làm kèo cột. Chân các chống đứng cắt dưới đốt 5 cm và đục lỗ trên đốt 12cm để luồn quá giang, đầu thanh luồn  giữa 2 thanh kèo chốt bằng con sỏ. Đầu dưới chống chéo cắt vát 2 mặt để ăn khớp vào góc vuông giữa chống đứng và quá giang. Đầu trên cùng dùng con sỏ để nối với 2 thanh kèo.
- 2 chống chéo ở đầu cột, đầu chống chéo gần giáp đầu chống đứng phía trên, dưới quá giang và cột đều dùng chốt để liên kết.
- Để tránh biến dạng vì kèo còn được tăng cường thêm các chống đứng nhỏ ở 2 đầu quá giang, giằng đầu chống chéo ở cột với kèo.
- Ngoài ra còn được tăng cường thêm các giằng giữ các chông đứng và chống chéo song song với quá giang.
- Con sỏ bằng gốc tre đực già vót tròn đều va khi lắp vì kèo phải đóng thật chặt.
- Kèo tre nên làm 2 lớp được liên kết chắc bằng then cài hay buộc:
Lớp dưới là kèo lệ
Lớp trên là kèo ốp có đường kính lớn hơn đòn tay.
Phiá trên mỗi mấu có đục lỗ để đòn tay đi qua.
c-/ Mái:
Nhà lợp bằng chất liệu gì cũng phải có bộ khung để đồ vật liệu lợp. Bộ khung này gồm có đòn tay, rui, mè.
- Đòn tay làm bằng gỗ, tre, diễn hoặc hóp để nguyên cây. Đòn tay đặt trên lưng kèo, song song với nóc, cách nhau từ 50 cm – 70 cm.
- Rui: Đặt trên và thẳng góc với đòn tay, cách nhau từ 15cm – 20cm hoặc thưa hơn tùy theo cách lợp và số lượng lá. Rui có thể bằng vầu, nưá hoặc tre chẻ thành từng mảnh, bản to 4cm – 5cm.
- Mè: đè trên rui, song song với đòn tay, cách nhau 20cm – 30cm> Mè và rui tạo thành những ô chữ nhật 15cmx20cm hoặc 25cmx35cm.
Lợp mái:
Lợp bằng lá cọ, có 4 kiểu khác nhau:
. Đè mè – xé mép: người ngối lợp ngồi trên mái đưa đầu tàu lá chui xuống dời mè rồi xé 2 mép của nó vắt qua mè lên bên trên, hai mép lá đã là 2 cái móc giữ lấy tàu lá tại đây. Mỗi một ô chữ nhật được lợp 1 tàu lá theo kiểu như vậy. Bắt đầu lợp từ hàng mè dưới cùng đến hàng lá thứ 3, lấy một cái mè khác buộc lên hàng lá đó, rồi lại tiếp tục lợp.
. Khi 2 mái đã lợp lên tới đỉnh nóc thì người ta lợp phủ nóc theo kiểu cài găm và dóc lòng tôm là chắc chắn nhất.
. Đè mè: Kiểu lợp này mép lá không vắt qua mè mà cứ một hàng lá lại được buộc đè ra ngoài bằng một cái mè.
. Kiểu nảy mè: là sự kết hợp 2 kiểu trên: 1 đường mè xé mép lại đến một đường mè đè.
. Kiểu lợp chài: cho những công trình phụ, kiểu lợp lá này kém bền hơn mấy kiểu trên. Không cần rui, mè, tàu lá được buộc ngay vào đòn tay.
- Lợp bằng rơm rạ:  có 2 cách là rũ rối hay xếp thành từng lớp, mái lợp xong thường phải được phủ lên bằng một lớp mành thưa, bên trên mành được đè bằng một số bộ kèo chống gió.
- Lợp bằng cỏ tranh: tranh được đánh thành từng phên. Mỗi phên được gọi là một con tranh dài khoảng 1m –1,2m.
- Lợp bằng nưá: Nưá được đập dập thành từng phên như phên tranh.
d-/ Sàn: có 2 hướng sử dụng
- Sàn gỗ: theo thứ tự từ trên xuống có:
. Ván gỗ sàn có chiều dày 25mm.
. Dầm đở sàn.
. Dầm ngang.
- Sàn tre:
. Mặt sàn dùng tre bổ làm 4, vát nah84n, ken dầy.
. Thanh tre lót sàn, đường kính 60mm –80mm cách khoảng 150mm.
. Dầm ngang.
e-/ Vách tường:
- Đan bằng tre nứa: nứa đập dập cả cây rồi phanh ra thành từng phá rồi đan thành vách. Vách có thể đan theo kiểu nong đôi, nong ba hay nong chiếc. Nếu là tre thì pha cây tre thành từng nan nhỏ (2-4cm), rồi đan lại với nhau.
- Đối với vách bep thì kết hợp giữa đất , tre, nứa, rơm, rạ hoặc trấu. Kiểu vách này trước hết phải làm một bộ xương bằng tre hoặc nứa nguyên cây gồm những thanh ngang cách nhau chừng 15cm-20cm và những thanh đứng cách nhau từ 10cm-15cm. Chúng tạo thành những ô hình chữ nhật 10cmx15cm hoặc 15cmx20cm. Đât bùn mhào với rơm (rạ) vắt qua các ô của bộ khung, rổ vuốt hoặcc xoa bằng bàn xoa cho phẳng cả 2 mặt, lần lượt làm từ thấp lên cao.
Một kiểu khác là các thanh đứng được đan khít với nhau, bên ngoài trút bằng đất trộn trấu hoặc vôi và cát.
- Vách ngăn: làm thành từng tấm 70x180. Các tấm vách này liên kết với nhau theo kiểu bình phong nhẹ, cơ động, dễ thay thế từng phần. Vách ngăn có thể làm bằng sản phẩm phế liệu nông nghiệp như thân cây đay rộng, sậy, thân cây bắp, bã miá…
3-/ Thi công và bảo trì:
a- Tổ chức thi công:
Từ bao đời nay, người dân tộc vẫn có truyền thống tương trợ giúp đở nhau để giải quyết lấy nhà ở, chúng ta cần phát huy truyền thống tốt đẹp này. Để xây dựng nhà ở, gia đình dân tộc sẽ đóng góp tiền của, công sức, thời gian…dưới sự hướng dẫn và hổ trợ của tậpthể, nhà nước về mặt kỹ thuật, nguyên vật liệu cho vay vốn. Áp dụng phương pháp bán lắp ghép. Dự kiến sẽ tiêu chuẩn hoá và công nghiệp hoá chế tạo.
b- Các giai đoạn thi công:
Chuẩn bị vật kliệu, dụng cụ, nhân lực
Lấy đất đào ao làm nền
Dựng khung nhà
. Đối với nhà cột kê:
Lắp vì
Nâng vì
Đặt mộng nối vì
Làm mặt sàn
Kiến tạo mái và lợp mái
Làm vách làm buồng, cửa sổ, cửa đi
. Đối với nhà cột chôn
Dựng các cột
Lắp quá giang và xà dọc để hình thành bộ khung nhà
Điều chỉnh góc vuông thẳng đứng tạo thế cân đối và lớp chân cột
Làm lớp mặt sàn
Kiến tạo mái và lợp mái
Làm vách, làm buồng, cửa sổ, cửa đi
c- Bảo trì:
- Hệ cấu trúc tre, gỗ có cấu kiện gọn nhẹ, dễ tháo lắp cơ động tiện lợi cho việc thay thế những bộ phận hư hỏng hay mục mọt.
- Các phần vách cửa được làm dễ dàng trong những thời gian rỗi rãnh và thay thế bất kỳ lúc nào cần.
- Mái lợp tranh, lá hàng năm sẽ dồn xuống dưới và chôn lớp lá mới lên trên với khối lượng bằng 1/4 số vật liệu lợp.
PHẦN KẾT LUẬN:
Trước nhu cầu thực tế đang thôi thúc, chúng tôi hy vọng rằng những gì chấm dứt ở đây sẽ là khởi đầu cho những cố gắng mới trong công cuộc góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân tộc.


THÁNG 12 – 2000
HỘI KIẾN TRÚC SƯ LÂM ĐỒNG
 KTS.TRẦN CÔNG HÒA
http://dalatarchi-trchoa.blogspot.com/2011/08/kien-truc-nha-o-dan-gian-cua-ong-bao.html
000000

Đặc điểm kiến trúc truyền thống trong buôn làng xứ Thượng

Ðược coi là miền đất của “các cao nguyên xếp tầng”, Tây Nguyên chất chứa trong lòng mình khối di sản, di tích văn hóa phong phú và độc đáo. Ðó là mảnh đất của văn hóa rừng, văn hóa nương rẫy, văn hóa cồng chiêng, văn hóa trường ca và các chiến binh người Thượng; vùng đất của văn hóa cafe và hạt tiêu , vùng đất của nghệ thuật điêu khắc gỗ thấm đẫm tính nhân bản và triết lý cuộc đời… và cũng là vùng đất có nhiều biến động to lớn về chính trị, nhưng ít ai biết tới.

Tây Nguyên được coi là “mái nhà”, có vị trí khống chế đối với cả vùng Nam Ðông Dương “với dòng chảy con người tạo nên một khu vực nhân văn rất phong phú, là nơi sinh tụ lâu đời của nhiều dân tộc thiểu số thuộc hai ngữ hệ Môn-Khơme và Malayo-Pôlinêdiêng, chủ nhân của những nền văn hóa độc đáo và đặc sắc” -Tây Nguyên là vùng đất có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị xã hội, nhưng không mấy ai biết đến. Trong những năm gần đây, nhiều dân cư đổ về Tây Nguyên, vì thế vùng đất này được coi là “vùng giãn dân của cả nước”.

Trong phạm vi của bài viết này, nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá kiến trúc nhà ở truyền thống đồng bào dân tộc Tây Nguyên tại 4 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, ÐăkLăk, Lâm Ðồng) với các dân tộc Êđê, Xơđăng, Mnông, Mạ, Cơho, Churu, Giẻ triêng, Bana, Giarai. Từ đó rút ra một vài đặc điểm trong kiến trúc Tây Nguyên.



Kết cấu gầm sàn

Tên gọi và phân bố cư trú

Buôn, bon là từ dùng phổ thông để chỉ một địa điểm cư trú như làng của người Việt (buôn làng, bon làng); ngoài ra mỗi dân tộc còn có tên gọi theo thổ ngữ: pley, plơi, palây, đê, sruk. Tơ ring/Kring là tên gọi chung của đồng bào Thượng để chỉ một khu vực cư trú rộng. Buôn làng người Thượng bao giờ cũng được định vị hợp lý theo tập quán cổ truyền đều có nguyên tắc chung là gần nguồn nước sạch, cao ráo, thoáng đãng. Nước - yếu tố “âm”-  biểu tượng cho người phụ nữ (mẫu hệ). Phân bố cư trú của các tộc người theo đặc điểm địa hình, chủ yếu là 2 dạng:
  • Khu vực cư trú ở những nơi có nhiều rừng, tập trung ở vùng cao, vùng xa và hẻo lánh: bắc Tây Nguyên (Giẻ triêng, Xơ đăng); tây nam Ðăk Lăk: nhóm Mnông, Mạ, Chil (Lâm Ðồng)..
  • Khu cư trú ở vùng thấp: gồm các địa hình cao nguyên, thung lũng, các dãy đồi đỉnh tròn, dốc thoải nơi cư trú của đồng bào Gia rai, Êđê, Bana, Cơho.
Các thành phần kiến trúc truyền thống trong buôn làng

Làng có chiều hướng bố cục thoi dần về phía nguồn nước: Ðường vào > cổng làng > đường làng nhà Rông > nhà sàn > nhà kho >ruộng > sông và một số thành phần kiến trúc phụ trợ khác.
  • Nhà Rông, nhà cộng đồng được coi là sản phẩm kiến trúc truyền thống biểu tượng cho giá trị của làng, còn kỹ thuật cất dựng đến trang trí đều thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ dân gian. Ngày nay, đồng bào gọi ngôi nhà công cộng, nhà Rông là nhà cộng đồng (community house) bởi các bon đã trở thành các làng văn hóa.
  • Nhà ở: nhà sàn dài, nhà sàn ngắn, nhà trệt (nhà đất). Có dân tộc sống ở cả 3 dạng nhà này, cũng có dân tộc chỉ ở 1 hoặc 2 dạng. Cách sinh sống này còn phụ thuộc vào các nhóm khác nhau của mỗi tộc người. Mỗi làng có từ 10 đến vài chục nóc nhà. Xu hướng ngày nay, các tộc người ưa sinh sống trong những nhà sàn ngắn/nhỏ (gia đình nhỏ), một số vẫn thích ở nhà đất. Dạng nhà nửa sàn nửa đất (X đăng) ít gặp ở Tây Nguyên.


Nhà Rông Giẻ triêng (làng Nú Vai, h.ĐăkKley, t.Kon Tum)
Bến nước người Gia rai
Làng bố cục tự do (Bana)
Liên kết cột, đà dọc và đà ngang

Không thể thiếu các thành phần phụ trợ làm phong phú, sinh động và hài hòa cảnh quan buôn làng xứ Thượng như: cổng làng, hàng rào, nhà mồ, nhà cúng, nghĩa địa, kho thóc, lều, chòi trên rẫy, bến nước, suối, rừng, đất canh tác

Các dạng bố cục buôn làng

Tùy từng vùng, từng tộc người, với tập quán khác nhau tạo nên bố cục làng truyền thống người Thượng.

Các dạng mô hình làng mới : Làng phòng thủ; làng kháng chiến (phát huy tác dụng trong kháng chiến); làng kinh tế mới, làng tái định cư, làng văn hóa (thời kỳ đổi mới và hội nhập).

Hướng làng : hướng Nam được lựa chọn để xây dựng nhiều; hướng Ðông có ý nghĩa tốt cho sự sống; hướng Tây không tốt nên là vị trí đặt nghĩa địa. Nếu ở những khu vực sông suối nhà phân bố dọc theo chiều của dòng chảy; nếu ở sườn đồi thì nhà phân bố hàng ngang triền dốc và quay mặt xuống phía dưới; những chỗ bằng phẳng thì những căn nhà rìa ngoài thường mở cửa chính hướng vào trong làng…vv. Có những làng chỉ gồm 1 hay 2-3 nóc cạnh nhau (Mạ, Giẻ chiêng)

TT
Không gian
Chức năng
Kỹ thuật tạo liên kết
1
Gầm sàn
Chăn nuôi, chứa củi, đồ đạc
Cao 0,40-1,5m.Chân cột hoặc kê chân tảng (đá, bê tông)
2
Thân nhà (Từ mặt sàn đến lưng chừng mái)sàn hiên vách
hệ cột bộ khung
Sàn: ở, sinh họat
Hiên: có mái che, lối vào chính
Vách/bao che: bao toàn bộ phần kết cấu bên trong thên nhà
Sàn: dầm ngang (gỗ) > dầm dọc (gỗ,tre) > phên lót (tre,lồ ô) >  ván sàn
Hiên/sân trước/sàn ngoài: làm b"ng ván gỗ ghép lại. Cột hiên.
Vách/bao che (tre, nứa, lồ ô): thượng thách hạ thu. Ðược định vị bởi 4 thành giếng ở góc. 4 góc có mộng khớp với nhau, có tác dụng liên kết khung sàn, khung nhà, định vị các thanh dầm ngang, dọc. Các phên trê có nẹp ngang, nẹp dọc bằng ống tre.
3
Mái (từ lưng chừng mái trở lên)
Không gian thần linh, nơi định vị bàn thờ.
Bao che toàn bộ phần kết cấu và thân nhà.
Lợp tranh, ngói
Kết cấu tam giác gồm: đà ngang > cột hiên > xà dọc (giằng mái). Khong cách giữa các kèo 1m, rui 0,60m. Ðộ dốc: 450.. Thanh chống chéo định vị độ rộng và dốc của mái.
Nóc mái (xà nóc) và các kèo có liên kết ngàm hoặc ngoàm.
Nẹp gỗ ở đầu hồi mái.


Bố cục, cấu trúc không gian và vật liệu

Nhà sàn là đặc trưng văn hoá, kiến trúc của đồng bào xứ Thượng. Ngôi nhà sàn có những đặc trưng riêng của từng dân tộc, từng vùng nhưng cũng mang đặc trưng chung của cả vùng/khu vực. Những điểm chung và riêng này được thể hiện từ hình thức nhà, tập tục liên quan, kỹ thuật xây dựng, kết cấu. Ðiểm chung trong phân chia chức năng không gian ngôi nhà ở chỗ đó là ngôi nhà đa chức năng, sử dụng không gian sinh hoạt nhiều tầng.


Kết cấu mái khum vòm
Trang trí "sừng trâu" nội thất nhà Rông Bana
Trang trí "mặt trời" đầu hồi nhà sàn Êđê
Trang trí "rau rớn", "sừng trâu", "quả trám" trên nóc nhà Rông Bana

Thảo mộc là thứ vật liệu được sử dụng nhiều nhất bởi nó dễ tìm thấy ở trong rừng: gỗ (cà chít, cẩm lai, cămxe), tre, nứa, lồ ô, gianh và các loại; dây buộc, cỏ tranh hoặc một số loại lá khác để lợp nhà. Ðồng bào hạn chế sử dụng gỗ, sử dụng tối đa tre và lồ ô vì nhu cầu “tạm” của ngôi nhà trong điều kiện du canh, du cư.

Ngày nay, ngôi nhà của đồngbào đã chuyển từ nhà sàn xuống nhà đất (theo kiến trúc của người Kinh): loại nhà trệt bình dân và nhà biệt thự mái bằng vật liệu hiện đại. 

Nghệ thuật trang trí chạm khắc và các biểu tượng

Ðiêu khắc gỗ là một nghệ thuật độc đáo và nổi bật của các vùng Tây Nguyên được hâm mộ và ca ngợi nhất. Ðó là sự kết hợp giữa trang trí và hội hoạ… đều phản ánh tinh thần mẫu hệ. Tộc người ở mỗi vùng Tây Nguyên có phong cách trang trí khác nhau, có thể chia thành 2 nhánh: trang trí ở các dân tộc bắc Tây Nguyên và trang trí ở các dân tộc nam Tây Nguyên. Nhưng nhìn chung, các trang trí này từ dạng đơn giản (khắc chìm trên thân nỏ, cán rìu, chuôi dao, ống đựng tên, tẩu thuốc) đến phức tạp hơn là trên cột nhà, cầu thang, mái nhà, hiên, quá giang, nhà mồ).

Tạ Hoàng Vân, Vũ Ðình Thành, Nguyễn Minh Ðức và các cộng sự
http://ashui.com/mag/index.php/chuyenmuc/kientruc/67-kientruc/595-dac-diem-kien-truc-truyen-thong-trong-buon-lang-xu-thuong.html

1 nhận xét:

  1. ở thành phố thì có bên thiết kế cảnh quan resort hoangnguyengreen.com làm rất đẹp, chuyên cảnh quan trong nhà luôn

    Trả lờiXóa

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.