Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Giáo sư Trương Quang Thao

Giáo sư Trương Quang Thao
Bài viết cho “Diễn đàn Quy hoạch đô thị nông thôn ” theo chủ đề “QUY HOẠCH XÂY DỰNG TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ XU HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở V.N” – Hải Phòng 11/2007
“…Với tư cách nhà quy hoạch, chúng ta không thể né tránh xã hội chúng ta. Các nhà viết tiểu thuyết và các hoạ sĩ đều tự do tưởng tượng nên thế giới không tưởng của mình hoặc sử dụng sự phóng túng nghệ sĩ để thao tác trên các chủ đề của họ. Các nhà khoa hoc cơ bản có thể bất chấp các điều kiện chính trị và xã hội trong khi làm việc với các biến số chính xác của các lĩnh vực tri thức của họ. Bởi vì quy hoạch về cơ bản là một quá trình xã hội. Chúng ta cứ phải trở đi trở lại để xác định vai trò của chúng ta và phải quy định rõ các sản phẩm của chúng ta trong ngã cảnh của một môi trường xã hội phức tạp, thay đổi và thường là mập mờ. . .” – David GOLSCHALK
[Planning in America : Learning from Turbulence - Quy hoạch ở Hoa kỳ: Bài hoc từ sự hỗn loạn), Editor : “American Institute of Planners”, Washington D.C.,1974]

I. Vài lời mở đầu
Chủ đề mà quý Viện nêu ra cho hội thảo theo chúng tôi là hết sức quan trọng. Bởi vì từ sau khi Đảng lãnh đạo chủ trương đổi mới vào cuối những năm 80 thế kỷ trước, chúng ta đã chuẩn bị hội nhập với thế giới và nay thì đã bước vào dòng chảy ấy một năm rồi, song hệ thống quy hoạch đô thị thì chưa, thậm chí theo tôi còn chưa chuẩn bị nữa là khác. Sở dĩ như vậy là vì các nhà quy hoạch của chúng ta vẫn tiếp tục nhận thức, thực hành quy hoạch và quản lý sự phát triển đô thị theo mô thức của thời kinh tế bao cấp, do các kiến trúc sư làm bá chủ với sự khép kín mọi hoạt động trong vòng kiềm tỏa của cái gọi là “sáng tác kiến trúc” tách rời với thực tiển xã hội và với dòng chảy mới của tư duy triết luận về quy hoạch đô thị trên thế giới. Đô thị đối với họ là đối tượng nghiên cứu của các nhà kinh tế, các nhà địa lý, các nhà xã hội học và nhân học, sinh thái học và chính trị học, luật học và tâm lý học chiều sâu, các khoa học kỹ thuật và khoa học môi trường. Trong khi đó thì sau năm 1986, thế giới cũng đã tới và chia xẻ với chúng ta thông qua các lớp học mà các cơ quan của Liên Hiệp Quốc thuê các thầy giáo ở các trường đại học nước ngoài tới giảng cho chúng ta thông qua các chương trình VIE và liên tục mở những lớp học tương tự như ở các nước khác. Nhưng câu hỏi đặt ra là, tại sao đã hai mươi năm chúng ta luôn nhận được sự viện trợ về mặt tri thức mới ấy của quốc tế ấy mà nền “quy hoạch đô thị” của chúng ta vẫn dậm chân tại chỗ ?. Tôi đã tham dự hai lớp học như thế va tôi rút ra được kết luận: những học viên phần lớn là kiến trúc sư trẻ được học quy hoạch đô thị từ các thầy giáo vốn là học trò của các tiến sĩ và tiến sĩ khoa học từng đỗ đạt ở các nước xã hội chủ nghĩa thời nảo thời nao và đã từng là giáo sư, phó giáo sư, nhà giáo nhân dân hoặc giữ các chức vụ từ trưởng phó phòng, chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm ở các bộ môn ở các trường kiến trúc, các viện trưởng, viện phó, vụ trưởng, vụ phó và thậm chí cả thứ trưởng nữa …..đều không bao giờ tham dự. Các kiến trúc sư trẻ học xong về lại tiếp tục làm việc như thường lệ với những công việc quen thuộc như quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết, quy hoạch cây xanh, quy hoạch cải tạo do các thủ trưởng, thủ phó đơn vị giao cho. Còn những tập tài liệu dày được phát tại các lớp học như “quy hoạch chiến lược” (strategic planning), quy hoạch sách lược (policy planning), quy hoạch đầu tư (investment planning), quy hoạch tham dự (participative planning) ….thì cứ mang về để đó…Cũng có những đề tài cụ thể liên quan đến các đề tài về tác động của đô thị hóa lên xã hội của các nước đang phát triển như vấn đề người nghèo, vấn đề đất đai ở các đô thị Châu A, vấn đề cộng đồng tham gia vào tiến trình quy hoạch v.v…và v.v… thì thường tổ chức nghiên cứu theo kiểu phong trào thi đua, có báo cáo kết quả, có tư liệu in ấn đẹp đẽ, nhiều khi rất hoành tráng với sự tham dự của chuyên gia nước ngoài, nhưng rồi kết thúc đợt nghiên cứu thì cũng là lúc mọi thứ rơi vào sự im lặng. Và còn nhiều chuyện nữa, nhưng xin được chuyển sang tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng ấy.
2. Nguyên nhân?
Muốn giải quyết các vấn đề theo tôi cần phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân của tình hình đó, bằng không nếu cứ bám lấy cách làm việc lâu nay, vội vã mỗi người nêu lên một vài hiện tượng cá biệt rồi đề xuất biện pháp cũng xuất phát từ những ý tưởng nhất thời, rồi thì hội thảo xong với kết luận “thành công rực rỡ”, “thành công đẹp đẽ” và mọi việc đâu lại hoàn đấy.
Như chúng tôi trình bày ở phần đầu chú thích số 2 (trang 25,26,27) từ ngữ “urbanisme” xuất hiện từ năm 1911, và mãi tới năm 1925 LE CORBUSIER mới ra tập sách “Urbanisme” và năm 1930 mới có định nghĩa chính thức của ông về nó (điểm 2), nhưng trường phá“Kiến trúc đô thị” (urbanisme) đã xuất hiện “hoành tráng” vào năm 1914, khi Tony GARNIERtổ chức một cuộc triển lãm kiến trúc đồ sộ về mô hình “Thành phố công nghiệp” tại lâu đài Médicis ở Roma nhằm tìm kiếm giải Khôi nguyên La Mã. Hội đồng giám khảo thủ cựu của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Pháp đã bác bỏ đề án ấy, tuy ai cũng công nhận tính mới mẻ và thời thượng của chủ đề. Cuối cùng rồi Tony GARNIER cũng nhận được giải Khôi nguyên nhờ một đề án về đề tài khác, nhưng tốt nghiệp xong ông lại cho công bố ngay đề án “Thành phố công nghiệp”. Thế rồi do cuộc chiến tranh thế giới 1914-1918 nên mọi việc bị xếp xó …và do sự nổi danh sau đó của mô hình “Thành phố – vườn” (Garden-city) của Ebenezer HOWARD nên mãi tới năm 1930 LE CORBUSIER mới trình làng mô hình “Thànhphố tươi sáng” (La ville radieuse) (3) mà tính chất công năng chủ nghĩa của nó đã được GARNIER phát kiến từ hơn 15 năm trước trong mô hình “Thành phố công nghiệp”. Tuy vậy mô hình “Thành phố tươi sáng” là đỉnh cao của tư duy đô thị học vào thời kỳ nằm giữa haicuộc chiến tranh thế giới, nên chỉ ba năm sau đó những luận cứ chủ chốt của “urbanisme” (4) trong triết thuyết của “Thành phố tươi sáng” lại hiện hình trong cái gọi là “Công ước Athènes” (Charte d’Athènes), một dạng “biên bản” của đại hội lần thứ IV của tổ chức CIAM (Congrès Internationaux d’Architecture Moderne – Các Đại hội Kiến trúc Hiện đại) (5) do chính LE CORBUSIER tổ chức và thống lĩnh. Những ý niệm đô thị học và kiến trúc học của LE CORBUSIER được biểu thị bằng một ngôn ngữ báo chí đầy sức thuyết phục với mức độ diễn cảm cao và hùng hồn nữa là khác. Do vậy dù ông có ít công trình được xây dựng hơn, song so với Frank Lloyd WRIGHT (Mỹ) Watler GROPIUS và Mies van der ROHE (Đức, hai người sau này đã di cư sang Mỹ khi HITLER lên cầm quyền và tạo lập nên trường phái Chicago của Kiến trúc Hiện đại ở Mỹ), tiếng tăm của ông nổi hơn bất cứ ai trong số các nhà tiên phong của trào lưu Hiện đại chủ nghĩa. Thế nhưng chủ thuyết “Kiến trúc công năng” (P: architecture fonctionnelle) và “đô thị công năng” (P: ville fonctionnelle)với chủ trương xây dựng một thứ chủ nghĩa toàn xưng (universalism) trong kiến trúc và đô thị ở khắp nơi trên địa cầu dần dần bị phản đối từ trong lòng của tổ chức CIAM, bằng chứng là tại đại hội lần thứ X tổ chức tại Hà Lan năm 1958 LE CORBUSIER đã không được mời tham dự.
4. Quy hoạch là gì?
Nếu ta dở từ điển Oxford English Dictionary hay The American Webster ta sẽ thấy có ba nghĩa như sau đối với danh từ “plan” và động từ “to plan” : 1) Đó là hình chiếu (thường là lên mặt phẳng nằm ngang) của một vật thể có hình khối (physical object – còn gọi là vật thể không gian) để có được bình đồ hay mặt bằng; 2) đó là sự sắp xếp các phần việc để đạtđược một mục tiêu nào đó : dự định, dự kiến, dự trù, kế hoạch, phương kế. Chẳng hạn như trong “dự kiến” (nghĩa 2) đi thăm thú thành phố Hà Nội có phần việc tìm cho được bản đồ se“mặt bằng phố xá” Hà Nội (nghĩa 1); 3) Thế nhưng còn có một nghĩa thứ ba ở dạng “dự án”, “đề án”, “phương án” làm một ngôi nhà chẳng hạn thì cả 2 nghĩa nói trên cùng phối hợp làm lờ mờ định nghĩa : ở đây vừa có nghĩa của một bản vẽ thiết kế không gian như chúng ta có ý định xây cất, vừa có ý nghĩa của một bản định hướng cho việc thực hiện dự định xây nhà của chúng ta.
Cho nên Peter HALL đã viết như sau: động từ “to plan”, các danh từ “planning” và “planner” phiên xuất từ đấy trên thực tế chỉ có nhóm nghĩa chung thứ hai : các nghĩa ấy không quy về nghệ thuật đồ họa mặt bằng không gian hay bản thiết kế lên giấy vẽ. Chúng có nghĩa hoặc là “sắp xếp cácbộ phận của“ (to arrange the parts of) hoặc “thực hiện hành động mong muốn của” (to realize achievement of) hoặc lờ mờ hơn là “có ý định” (to intend). Nghĩa chung nhất của từ “planning” bao hàm cả hai yếu tố đầu của các yếu tố ấy : “quy hoạch có liên quan tới việc hoàn thành một cách có chủ tâm một mục tiêu nào đó và điều đó được tiến hành bằng cách tập hợp các hành động lại thành một chuỗi có trật tự của các hành động. Có từ điển định nghĩa quy hoạch bằng cách quy kết nó về cái mà nó làm, từ điển khác lại định nghĩa quy hoạch bằng cách quy kết nó về việc nó phải làm như thế nào” (9).
Hầu như mọi người đều nhận thức được rằng quy hoạch có cái nghĩa chung như vừa nói, song vẫn còn có người cứ lấn bấn với ý niệm về dự án (plan) như là sự biểu hiện hay thiết kế không gian. Quả đúng là có nhiều loại hình quy hoạch phải bao gồm cả việc chuẩn bị một bản thiết kế như vậy hoặc sẽ có lợi hơn từ việc đó: quy hoạch thường được vận dụng để sản xuất các vật thể không gian như ôtô, máy bay, nhà cửa hoặc cả một thị trấn, và trong trường hợp ấy thì các bản vẽ cho sản phẩm mong muốn đúng là cần thiết. Tuy thế rất nhiều những loại hình quy hoạch, dù chúng cần nhiều sơ đồ, ký hiệu, biểu đồ vẽ lên giấy, song lại không kéo theo việc sản xuất ra một bản vẽ biểu thị cho toàn bộ thực thể cần “chế tác” ra.
Ngày nay, quy hoạch được vận dụng vào rất nhiều các hoạt động của con người, hầu như quy hoạch cần thiết cho mọi hoạt động: chẳng hạn như người ta quy hoạch để làm các cuộc chiến tranh; các nhà ngoại giao làm các quy hoạch bảo vệ hòa bình, các chính phủ soạn thảo quy hoạch cải tổ giáo dục, cải tổ hành chính, phát triển dân số, phát triển nhà ở. Việc đưa một kiểu mẫu ôtô con vào sản xuất được trù liệu hàng chục năm trời trước đó.
Để tóm tắt lại, có thể phát biểu thế này: “Quy hoạch là một hoạt động nhằm tạo ra một chuỗi có trật tự các hành động dẫn dắt tới sự thực hiện một hay nhiều mục tiêu đã dự kiến. Các kỹ thuật chính của quy hoạch là các văn bản tường trình (written statements) được bổ sung theo nhu cầu những dự báo thống kê, những công thức toán, những đánh giá số lượng và những biểu bảng minh họa cho các quan hệ giữa các bộ phận khác nhau của dư án. Nó có thể, nhưng không nhất thiết phải bao gồm các bản vẽ không gian chính xác của các đối tượng” (10).
5. Vận dụng quy hoạch vào đô thị và vùng lãnh thổ
Sự vận dụng quy hoạch vào giải quyết các vấn đề phát triển của đô thị – quy hoạch đô thị (A:town planning; city planning, urban planning) hay của vùng lãnh thổ) (A:regional planning, territorial planning). Và loại hình quy hoạch đặc thù ấy quy dẫn về sự quy hoạch với thành tố không gian hay địa lý (spatial or geographical component) trong mục tiêu chung là cung ứng một cấu trúc không gian của các hoạt động (hoặc của việc sử dụng đất) [spatial structure of activities (or of land uses)] mà về nhiều phương diện là tốt hơn trường hợp không có bất cứ quy hoạch nào. Một sự quy hoạch như vậy được trường phái Anh-Mỹ trong quy hoạch đô thị gọi là physical planning (quy hoạch vật thể) nhưng chính xác hơn và trung hòa hơn là spatial planning (quy hoạch không gian).
Như vậy, điểm mấu chốt của loại hình quy hoạch này, dù cho quy mô của nó thế nào, hay chuổi các hành động ra sao, thì nó vẫn cứ mang tính không gian. Điều đó liên quan tới sự tác động của không gian (spatial impact) lên các vấn đề khác nhau cũng như tới sự điều phối không gian (spatial coordination) của các chính sách (policies). Nhà quy hoạch kinh tế (economic planners) chẳng hạn, đề cập tới sự tiến bộ của nền kinh tế nên họ tìm kiếm một cấu trúc kinh tế ở dạng các ngành công nghiệp và công ăn việc làm, một sự tổ hợp các yếu tố sản xuất sản sinh ra các dòng chảy hàng hóa và dịch vụ sản xuất cũng như các vấn đề về trao đổi hàng hóa. Nhà quy hoạch kinh tế địa phương cũng thế song luôn đứng trên quan điểm của tác động không gian đặc thù của cự ly và khoảng cách địa lý lên các hiện tượng ấy.
Cũng thế, các nhà quy hoạch xã hội (social planners) sẽ quan tâm tới các nhu cầu của cá nhân và nhóm xã hội, tới cấu trúc xã hội của dân cư, tới sự di động của họ có liên quan tới công ăn việc làm, tới ảnh hưởng của lối sống lên mô thức nhà ở, v.v… và v.v…
Qua các ví dụ ấy, chúng ta thấy mối quan hệ giữa quy hoạch đô thị và quy hoạch vùng với các loại hình quy hoạch đặt thù là giống với mối quan hệ giữa địa lý học, như một bộ môn mang tính chất hàn lâm, với các khoa học xã hội liên đới. Là bởi vì địa lí học có một bộ mặt đa dạng, mà mỗi bình diện ấy lại nhấn mạnh tới các quan hệ không gian lên từng bộ môn của các khoa học xã hội. Chẳng hạn như địa lý kinh tế (economic geography) phân tích các ảnh hưởng của cự ly và khoảng cách địa lý lên các cơ chế của sản xuất, tiêu thụ và trao đổi; địa lý xã hội (social geography) khảo sát các tác động không gian lên mô thức của quan hệ xã hội v.v…Từ đó người ta lập luận rằng quy hoạch không gian, tức quy hoạch đô thị và quy hoạch vùng , về cơ bản là địa lý nhân văn (human geography) ở các bình diện ấy, và nó khai thác và vận dụng vào vấn đề ra các nhiệm vụ cho hành động nhằm đạt tới các mục tiêu của quy hoạch không gian.
Rất nhiều thầy giáo ở các trường dạy quy hoạch tại cả nước Anh cũng lên tiếng phản bác các điều vừa nói ở trên. Họ lập luận rằng quy hoạch như họ đang dạy nhất thiết phải đưa các môn học không nằm trong chương trình giảng dạy của địa lý học. Ví dụ như luật lệ có liên quan tới đất đai, môn xây dựng dân dụng (civil engineering) và thiết kế đô thị (civic design, urban design) nữa. Thế nhưng ngay trong các trường quy hoạch và cả ở ngoài nữa nhiều chuyên gia cho rằng không phải tất cả các môn ấy đều cần cho ngành quy hoạch. Điều đúng đắn là khối lượng chính của các khoa học xã hội đều được giảng dạy như là những bộ phận của địa lý nhân văn: kinh tế học (economics), xã hội học (sociology), chính trị học (politics) và tâm lý học (psychology) cần phải tạo nên cốt lõi của ngành học quy hoạch đô thị và quy hoạch vùng. Peter HALL còn cho rằng “ một yếu tố khác khá quan trọng trong giáo dục quy hoạch nhưng không nằm trong khối lượng của các khoa học xã hôi: đó là sự khảo cứu về phương pháp quy hoạch (planning methods), tức là cách thức con người đảm trách công việc kiểm soát đối với môi trường không gian và môi trường xã hội và vận hành cả hai nhằm phục vụ cho các mục tiêu họ xác định nên. Theo sự phân biệt áy thì phương pháp quy hoạch sẽ phải là tri thức chung đối với sự giáo dục mọi loại hình các nhà quy hoạch – dù đó là nhà quy hoạch giáo dục (educational planners), nhà quy hoạch công nghiệp (industrial planners), nhà quy hoạch quân sự (military planners) và các quy hoạch khác (11). Vậy là để có được “ tri thức về quy hoạch đô thị và vùng cần có một chương trình đào tạo cơ sở trên hai khu vực sau :
1.Địa lý học xã hội và nhân văn với các bộ môn khoa học xã hội liên quan : kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, chính trị học.
2. Phương pháp quy hoạch.
6. Quy hoạch là một hoạt động
Cốt lõi của việc giáo dục quy hoạch phải là phương pháp quy hoạch. Vậy nó là cái gì thế ? Đó là một vấn đề mấu chốt và ở Anh, Mỹ, Nhật tại các trường quy hoạch người ta tranh luận dai dẳng về nó. Thế nhưng một thời gian dài người ta lại né tránh nó bởi người ta cho rằng đào tạo quy hoạch đuợc nhìn nhận như là đào tạo ra những người làm nên các dự án không gian (như ở trường phái Pháp – Nga và như ở ta hiện nay). Các thầy giáo đầu tiên nêu vấn đề này ra không phải là các thầy giáo dạy quy hoạch không gian mà là các thầy giáo dạy quy hoạch công nghiệp (industrial planning) và quy hoạch hoạt động của liên hiệp công ty (corporate planning). Đó là vào khoảng 1945 khi mà giáo dục kỹ năng quản lý chỉ xoáy quanh các kỹ năng hẹp của kỹ thuật học (engineering) và kiểm toán (accounting), nhằm mục đích nhận được hiệu quả tối đa trong hoạt động của nhà máy (ở nghĩa của kỹ thuật học và kế toán học) chứ không phải ở khâu ra quyết định (decision-taking) trong những tình thế phức hợp. Và trong đào tạo các nhà quản lý có sự thay đổi lớn lao ở hai điểm: một là sự hình thành bộ môn khoa học về ra quyết định (science of decision making) vốn chiết ly các khái niệm từ triết học và chính trị học và hai là, người ta khai thác tư duy từ các bộ môn khoa học xã hội như kinh tế học, xã hội học và tâm lý học.
Việc đào tạo ra những người làm công việc quản lý mỗi ngày một vươn tới phía trước bởi đối tượng để quản lý ngày càng phức tạp và như vậy cần phải có những hệ thống kiểm soát (sự hoạt động của các đối tượng ấy) tinh vi hơn. May thay có một bộ óc kiệt xuất của một nhà tư duy lỗi lạc, Norbert WIENER, đến từ Harvard: quyển sách Human use of human Beings ra mắt vào năm 1950 đặt nền tảng cho sự ra đời của điều khiển học (cybernetics) mà ông định nghĩa bằng đầu đề của một quyển sách khác xuất bản trước đó 2 năm như là “Sự kiểm soát và giao tế trong (thế giới) động vật và (thế giới) máy móc (Control and comunication in the Animal and the Machine). Theo WIENER, thì thế giới động vật, và thế giới loài người nói riêng, từ lâu đã sở hữu những cơ chế giao tế và kiểm soát vô cùng phức tạp – một thứ cơ chế giống như của các máy computers song ở người thì phức tạp hơn nhiều. Và WIENER đã đề nghị, tại sao chúng ta lại không vận dụng các cơ chế ấy vào sự điều hành và kiểm soát các xã hội con người (human societies).
Và thế là một khoa học mới, khoa học về điều khiển các hệ thống phức hợp ra đời vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX và bắt đầu tác động lên công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo về quản lý (management) đặc biệt là quy hoạch (planning).Là bởi vì nếu mọi sự sắp đặt hay tổ chức của con người (human arrangements) có thể dược xem như là hệ thống phức hợp có quan hệ tương hỗ, thì về nguyên tắc là có thể lập những hệ thống kiểm soát tương tự trên máy tính và lúc bấy giờ máy tính có thể được sử dụng để theo dõi (monitor) các diễn biến và áp dụng các hiệu chỉnh cần thiết. Chẳng hạn như để kiểm soát một chuyến bay của con tàu vũ trụ có người trên khoang bay lên mặt trăng thì phần lớn các hiệu chỉnh đối với con tàu không phải do phi công (vũ trụ) làm lấy mà do hệ thống kiem soát bằng máy tính cực kỳ phức tạp đặt ở trên mặt đất. Hệ thống kiểm soát ấy không có “mắt” để nhìn con tàu và điều khiển mà tiến hành việc ấy bằng cách tiếp nhận thông tin từ con tàu bằng các thiết bị điện tử rồi “trả lời” bằng cách cung cấp thông tin ấy cho các hình mẫu mô phỏng (models) [hay còn gọi là các tái hiện nhân tạo (artificial simulations) ] về hành trình của con tàu vũ trụ trong mối quan hệ với sự chuyển động của trái đất và mặt trăng. Rồi hệ thống đó xử lý thông tin ấy, tính toán các cách kiểm soát phù hợp để vận dụng và tự động vận hành các hiệu chỉnh.
7. Quy hoạch một chuyến du hành lên Mặt trăng dễ hơn một khu đô thị
Xin lỗi các bạn, đó không phải là “ý tưởng” của chúng tôi mà là của Peter HALL; ông nói thế này: “Nhiều người nghĩ rằng với sự phát triển của các công cụ tính toán cao tốc và siêu tốc sẽ làm cho quy hoạch trở nên nhẹ nhàng hơn bởi có nhiều thứ được “tự động hóa” trong tiến trình làm quy hoạch. Đúng là tự động hóa có tác động làm dịu bớt một số tiến trình nhàm chán như các tính toán chi tiết song điều đó không làm giảm trách nhiệm ra quyết định (responsibility to take decisions).Và cái khó khăn chính là ở chỗ việc điều khiển hóa (cybernation) dễ vận dụng vào trường hợp đưa người lên mặt trăng hơn là trong quy hoạch không gian. (12). Thoạt đầu, điều ấy tưởng như vô nghĩa: có gì phức tạp cho bằng đưa người bay vào vũ trụ. Thế nhưng xin đừng lẫn lộn các mức độ khó khăn. Lên mặt trăng quả là không dễ dàng và đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các bài toán kỹ thuật phức tạp. Nhưng có hai đặc thù làm cho điều đó trở nên đơn giản hơn: Thứ nhất là mục tiêu được xác định rõ: chỉ có một đích đến là đưa người lên mặt trăng. Thứ hai: các lộ trình cần trải qua mang tính vật lý, chúng đều quy thuộc về các quy luật vật lý học, nghĩa là dễ được tiếp thu, dễ điều tiết … hơn là các quy luật của ứng xử con người (human behaviour). Còn loại hình quy hoạch mà chúng ta đang bàn thì ngược lại, phức tạp hơn nhiều. Thứ nhất các mục tiêu cơ bản thường không được hiểu đúng cách, và thường là nhiều, có khi hàng tá: tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập cho cân bằng ; giảm số lượng người không có công ăn việc làm, tăng cường và điều tiết khu vực kinh tế phi chính quy, giảm ùn tắc giao thông độ di động của người dân, ổn định các trung tâm y tế trong khám chữa bệnh, giảm stress, giải quyết ô nhiễm các dòng sông, tạo lập môi trường giải trí lành mạnh, tăng cường diện tích ở cho người nghèo, cải thiện đời sống đân nghèo… danh mục tưởng không bao giờ hết. Thứ hai, các quá trình cần xử lý đều là các quá trình con người (human processes) hay quá trình xã hội (social processes), nghĩa là rất khó để có thể hiểu rõ, và các quy luật xã hội đứng phía sau các hiện tượng rất khó phát hiện so với các quy luật vật lý học. Ai từng học và làm quen với xã hội học, tâm lý học, nhân học xã hội, kinh tế học đều biết tới các khó khăn ấy. Chúng ta thường phải làm việc với các quy luật của thống kê học chứ không phải với các quy luật chắc chắn của khoa học vật lý.
8. Tiến trình và lộ trình quy hoạch
Như vậy công việc làm quy hoạch ở đây khác hẳn với khái niệm “kiến trúc đô thị” mà chúng ta nói ở trên, chủ yếu do các nhà kiến trúc tiên phong của trào lưu kiến trúc hiện đại đề xướng. Quy hoạch như một tiến trình xã hội (social process) do Patrick GEDDES (1854- 1932), người Scotland, vốn được đào tạo như một nhà sinh học, sáng tạo ra. Ông đã từng lập một đài quan sát (outlook tower) ở Edingburg để tìm hiểu về xã hội mà ông gọi là điều tra (survey) để sau đó phân tích (analysis) và khâu cuối cùng là quy hoạch (plan). Chuỗi các hành động của ông là:
Điều tra > Phân tích > Quy hoạch
và ông đã trình bày các quan điểm của ông về tiến trình ấy trong quyển sách, bây giờ đã trở thành kinh điển [ và ông được xem là “ông tổ của các lý luận xã hội tạo nên cơ sở cho Khoa quy hoạch đô thi và nông thôn “(13)] có tên là Cities in Evolution (Đô thị trong quá trình tiến hóa). Song ông không chỉ dừng ở đấy. Sự phân tích quá trình tiến hóa của đô thị đã đưa ông đến nhận xét khá độc đáo, là sự phi tập trung hóa (decentralization) các đô thị lớn ra các khu vực ngoai thị (mà bây giờ người ta còn gọi là hiện tượng ngoại thị hóa - suburbanization) sẽ dẫn tới sự kết dính các đô thị nhỏ thành những kết tụ đô thị (urban agglomerations) mà ông gọi là conurbations (vùng đô thị hóa). Ông cũng là người đưa ra khái niệm world city (đô thị thế giới) để chỉ những đại đô thị (primate cities) mà tầm quan trọng của chúng về dân số (chung quanh 10 triệu trở lên) kinh tế, văn hóa, kinh doanh, tài chính… vượt ra xa khỏi ranh giới quốc gia và giữ vai trò đầu tàu trong nền kinh tế toàn cầu (14).
Ngày nay, chuỗi các hành động của quy hoạch được điều khiển (cybernated planning) được đặt vào một sơ đồ dòng chảy (flow chart hay flow diagram) như sau:
mục tiêu – thông tin liên tục – hình thành và mô hình hóa các phương án cho tương lai – đánh giá – lựa chọn – theo dõi liên tục (15).
Qua đó, chúng ta thấy chuỗi hành động bắt đầu bằng xác định các mục tiêu cho sự phát triển của khu vực (đô thị hoặc vùng hoặc một bộ phận của đô thị). Chúng ta sẽ thấy rằng đây là công việc tưởng không có gì khó song vô cùng phức tạp, bởi xác định sai mục tiêu là mọi thứ về sau sẽ đi chệch đường, cho nên, cứ phải xác định nhiều lần, quay đi quay lại. Sau đó là cập nhật với thông tin, liên tục theo dõi và thu thập những biến đổi của đối tượng. Tiếp theo là hình thành những giải pháp thay thế dưới dạng các mô hình với các chính sách khác nhau. Sau đó các giải pháp thay thế ấy phải được so sánh, đánh giá so với các chuẩn mực mà các mục tiêu yêu cầu và soạn thảo hệ thống các chính sách kèm theo để lựa chọn rồi tiến hành thực hiện theo phương án được chọn.
Và sơ đồ dòng chảy của tiến trình quy hoạch (đô thị và vùng) đã được ba nhà lý luận hàng đầu của lĩnh vực tri thức về quy hoạch của nước Anh (16) đề cập.

Quan niệm của Brian McLOUGHLIN về tiến trình quy hoạch


Quan niệm của Alan WILSON về tiến trình quy hoạch (Sơ đồ cần được đọc từ dưới lên, tuy vậy sự tương tác lại thường xuyên xảy ra giữa tám cấp độ với nhau)
Với sự trích dẫn ba sơ đồ của tiến trình quy hoạch (đô thị và nông thôn) do ba nhà địa lý Anh đề xuất, chúng tôi muốn dừng bài viết ở đây. Ở phần tiếp theo chúng tôi sẽ trình bày tiếp về tiến trình quy hoạch ấy với sự so sánh cách thức tiếp cận của ba nhà khảo cứu Anh vừa nói. Phần cuối cùng chúng tôi sẽ bàn về mối quan hệ giữa quy hoạch chiến lược (strategy planning) và quy hoạch hành động (action planning) thay thế cho quy hoạch chung (còn gọi là quy hoạch khống chế) và quy hoạch chi tiết của thời bao cấp. Tuy vậy, chúng tôi vẫn muốn nói vài điều gọi là kết thúc bài viết này, bài viết về những suy tư đối với khái niệm quy hoạch.
9. Vài lời sau cùng
Thực ra thì do từ plan trong các ngữ hệ Latin và Anglo – saxon có hai nghĩa gốc: một là mặt bằng, dự án (danh từ) hai là hoạch định, trù liệu, quy hoạch, xếp đặt để tạo ra một trật tự (động từ). Trong tiếng Pháp thì nghĩa sau cùng tương đương với động từ aménager. Và do vậy aménagement urbain (quy hoạch đô thị) có nghĩa là xếp đặt các yếu tố không gian lên mặt bằng lãnh thổ để tạo ta trật tự mong muốn. Đó là chủ trương của LE CORBUSIER và sau đó lan sang Nga, nơi mà danh từ plan sinh ra động từ planirovat’, động từ này có hai nghĩa rõ rệt, một nghĩa là tổ chức, sắp xếp các yếu tố không gian lên mặt bằng đất đai đô thị (planirovka), còn nghĩa thứ hai là hoạch định, trù liệu, lập kế hoạch (planirovanie). Công việc thứ nhất do các kiến trúc sư thực hiện, còn việc thứ hai _ trong đó có quy hoạch kinh tế (ekonomitsexkoe planirovanie), và quy hoạch xã hội (xotxialnoe planirovanie) _ thì đều do các nhà kinh tế đảm nhận.
Như vậy tất cả những người làm quy hoạch đô thị ở Việt Nam học tập ở Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa (trước đây) đều được đào tạo để làm các dự án quy hoạch không gian theo cách mà LE CORBUSIER chủ xướng và được các nhà phê bình đặt cho cái tên là chủ nghĩa dự án (17). Điều đó ăn sâu vào đầu óc chúng ta đến mức chúng ta cứ tưởng như quy hoạch đô thị (urbanisme) của trường phái Pháp – Nga là đương nhiên và là đỉnh cao của đô thị học, nhất là từ những năm 60 – 80 của thế kỷ trước, khi những dự án đô thị lớn mà bây giờ mà người ta gọi là siêu dự án (megaproject) (18). Cho nên khoảng từ những năm 1990 về sau khi các tổ chức của LHQ nhờ chuyên gia của các nước như Thụy Điển, Anh, Canada, Úc… đến Việt Nam để quảng bá phương thức quy hoạch mới của trường phái Anh-Mỹ, và nhất là gần đây, sau năm 2000 khi quyển sách của HALL và PFEIFFER Urban Future 21. A Global Agenda for Twenty-First Century Cities ra đời thì khái niệm phát triển đô thị bền vững (19) đã được “chộp” và biến thành bùa hộ mệnh cho các phương án quy hoạch rất “vị lai chủ nghĩa” theo phong cách quy hoạch thời bao cấp nhưng lại đính viên kim cương giả của “Đô thị bền vững” (20). Chúng tôi cũng đã được đọc hai luận án tiến sĩ, một tên là “… hướng tới mô hình đô thị tương thích” (21), và một nữa tên là “Giải pháp quy hoạch tổ chức không gian đô thị cực lớn theo hướng phát triển bền vững”. Cả hai đều đi tìm mô hình không gian (tức là theo lối “quy hoạch không gian” kiểu cũ, kiểu đi tìm một hình mẫu không gian tổng thể của đô thị nhưng lại cài “bông hoa” mới “phát triển tương thích” và “phát triển bền vững” để trang trí và để nói lên rằng “chúng tôi cũng đang thời thượng đây”. Xin nhắc một lần nữa “quy hoạch không gian” theo phong cách Anh – Mỹ không dính gì tới tổ chức không gian cả mà chủ yếu là hướng sự quản lý đô thị để cho đô thị sẽ phát triển bền vững về mọi mặt (chứ không chỉ có mỗi mặt không gian). Cho nên như Peter HALL nói “sự phát triển đô thị bền vững là một nguyên tắc dễ phát thành những lời chung chung, nhưng lại khó hơn rất nhiều trong việc biến lời nói thành hành động xét về phương diện ra các quyết định hàng ngày” (22). Nguyên tắc ấy đã được nhiều người trích dẫn từ báo cáo Brundtland 1987: “Nhân loại có khả năng làm cho sự phát triển trở nên bền vững – đảm bảo cho sự phát triển thỏa mãn được các yêu cầu của thời hiện đại mà không làm hại tới khả năng của các thế hệ mai sau thỏa mãn các nhu cầu của chính họ.” (23).
Vì thế Peter HALL nhấn mạnh, đó phải là:
“Sự phát triển tập trung vào các lựa chọn và các khả năng nào của nhân dân để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, song phân phối các lợi ích một cách đồng đều, để tái tạo lại môi trường hơn là phá hoại nó để trao quyền cho phụ nữ và nam giới hơn là gạt họ ra ngoài lề” (24).
Như thế với bốn định nghĩa ngắn gọn vừa nêu thì sự phát triển bền vững là những nguyên tắc điều phối sự phát triển của các quốc gia nói chung, và tính chất phát triển bền vững là đa dạng (sustainability is multiple) Và vận dụng vào công tác quản lý sự phát triển của đô thị sao cho sự phát triển ấy bền vững, được Peter HALL nêu thành 7 nguyên lý cơ bản như sau (25):
• “Một nền kinh tế đô thị bền vững: công ăn việc làm và sự khá giả” • “Mộtxãhộiđôthịbềnvững:Liênkếtvàđoànkếtxãhội” • “Nhà ở đô thị bền vững : Nhà ở tươm tất vừa túi tiền mọi người” • “Một môi trường đô thị bền vững : Các hệ sinh thái ổn định”
• “Tiếp xúc đô thị bền vững : Một đô thị nhằm giữ gìn nguồn lực” • “Đời sống đô thị bền vững : Xây dựng đô thị để (có thể) sống được” • “Nền dân chủ đô thị bền vững : Trao quyền cho cộng đồng công dân” (26).
Nghĩa là, bằng khái niệm phát triển đô thị bền vững Peter HALL đã cho chúng ta thấy rằng quy hoạch là công cụ để làm ra các chính sách nhằm quản lý tốt quá trình phát triển của đô thị. Bây giờ xin mời bạn đọc quay lại trang đầu, nơi chúng tôi trích dẫn câu nói của GODSCHALK nhấn mạnh rằng quy hoạch không phải là nghệ thuật, cũng không phải là khoa học mà là một lộ trình xã hội (a social process)
Và lộ trình ấy được phân thành 2 nhánh.
“Một nhánh phân tích chính sách (a policy analysis branch) và nhánh nữa về quản lý (a management branch). Nhánh thứ nhất nhắm vào giai đoạn trước – khi – ra – quyết định. Còn nhánh thứ hai nhắm vào giai đoạn sau – khi ra quyết định. Cho nên quy hoạch chủ yếu đề cập tới sự đánh giá sơ bộ mang tính chất so sánh các mục tiêu và phương tiện, đặc biệt là phương tiện để cung cấp cho các nhà ra quyết định có các phán xét được cân nhắc cẩn thận về tính hữu hiệu đã được ước lượng của các phương án khác nhau. Còn quy hoạch với tư cách là sự quản lý đề cập tới sự thực thi các quyết định bằng cách đặt dấu nhấn lên tính hiệu quả của các phương pháp va các hình thức kiểm soát khác nhau nhằm hoàn thành các mục tiêu đề ra trong bối cảnh rối loạn về mặt tổ chức. Câu trả lời cuối cùng là để bao quát các ý nghĩa đã nói trước đây trong phạm vi của một quan niệm về quy hoạch như một hình thức đối thoại (với) xã hội (social learning) (27) một sự thử nghiệm tự giác với các mục đích và chương trình xã hội nhằm phát hien ra một tương lai mong muốn” (28).
Vậy là theo D.R. GODSCHALK từ Hội các nhà quy hoạch Hoa Kỳ (29) thì quy hoạch là một lộ trình xã hội gồm hai công đoạn phân tích chính sách (trước khi những nhà chính trị ra quyết định) và quản lý sự thực hiện các chính sách ấy (sau khi đã có quyết định) và nguồn cung ứng thông tin cho các hoạt động ấy được rút ra từ sự đối thoại với xã hội. Từ nhận định đó mà quyển sách do GODSCHALK chủ biên đã bàn tới các vấn đề lớn do sự xác nhận định nghĩa mới về quy hoạch như một tiến trình xã hội: Lý thuyết quy hoạch (Planning Theory), lý thuyết của tiến trình quy hoạch (Planning Process Theory), phương pháp luận quy hoạch (Planning Methodology), thực hành quy hoạch (Planning Practice), nghề quy hoạch (Planning Profession), đào tạo quy hoạch (Planning Education).
Và một câu hỏi đặt ra cho tôi, cho anh, cho tất cả chúng ta, cho những ai ít nhiều quan tâm tới quy hoạch là:
LIỆU MỖI NGƯỜI TRONG CHÚNG TA VÀ TẤT CẢ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐÂY KHI BIẾT RẰNG NỘI HÀM CỦA QUY HOẠCH LÀ NHƯ THẾ NÀY MÀ KHÔNG PHẢI NHƯ THẾ KIA? o
Thành phố HCM, tháng 10/2007.
http://just1.com.vn/nqh/?p=6 
-----------------
MẶT BẰNG THÀNH PHỐ PARIS VÀ ĐÔ THỊ HỌC QUẢN TRỊ.
GS Trương Thao
” Bởi sự kính trọng, bởi niềm tin… chúng tôi sẽ sưu tầm làm một tuyển tập các bài viết của ông trên blog này, dành cho mọi người, nhất là cho các bạn sinh viên yêu mến”
Đà Nẵng vừa có một loạt các quyết định và biện pháp về quản lý phát triển đô thị rất hữu hiệu. Trong khi chờ cơ hội để có thể có dịp nghiên cứu về mặt lý luận các kinh nghiệm quý báu ấy, chúng tôi muốn chia sẻ với bạn đọc về một kinh nghiệm quản lý công việc mở rộng và cải tạo Paris do Nam tước Haussmann tiến hành cách này vừa đúng 150 năm. Đánh giá về kinh nghiệm ấy, người Pháp – qua ngòi bút của nhà sử học kiến trúc và đô thị Michel Ragon – xem đó là một thứ đô thị học kiến trúc đô thị học kiến trúc đô thị học quân sự (urbanisme militaire) hoặc đô thị học cảnh sát (urbanisme policière). Nhưng nhà sử học kiến trúc và đô thị người Ý Leonardo Benevolo lại xem đó như là một cú đột phá ngoạn mục vào đô thị học quản trị, một trong bốn phạm trù của đô thị học mà chúng tôi cho là quan trọng nhất, tạo điều kiện cho sự phát triển của ba phạm trù còn lại của đô thị học như kết quả hành động của Haussmann đã chứng tỏ, vậy thì…
ĐÔ THỊ HỌC QUẢN TRỊ LÀ GÌ?
Chúng ta đã từng đề cập tới đô thị học lý thuyết (urbanisme operationel ) đô thị học pháp quy (urbanisme réglementaire hay urbanisme législatif ) và bây giờ thêm một “khu vực” nữa của đô thị học: đô thị học quản trị (urbanisme administratif ). Đây là một “ khu vực” của tri thức đô thị học bị gạt ra ngoài vòng cương toả của chính những người chịu trách nhiệm cho những thành công hay thất bại của mọi sự can thiệp vào môi trường đô thị: những nhà quản lý nhà nước ở địa phương, tức chính quyền địa phương, tức chính quyền thành phố. Chúng tôi xin nhấn mạnh lại một lần nữa rằng chính quyền thành phố chứ không ai khác, cũng không phải bộ này hay bộ nọ của chính phủ trung ương, bởi họ vẫn là người ngoài cuộc, người từ nơi khác đến, còn chính quyền thành phố là người tại chỗ, là người thay mặt Nhà nước quản lý toàn diện mọi vấn đề của xã hội trong đó có vấn đề tạo ra một môi trường đô thị lành mạnh cho mọi hoạt động của cộng đồng.
Cho đến nay nhiều người trong giới chuyên môn và cả giới cầm quyền vẫn cứ đinh ninh rằng quy hoạch đô thị chỉ làm công việc sản xuất ra các bản vẽ quy hoạch, hết quy hoạch chung rồi tới quy hoạch chi tiết và hễ có thất bại trong xây dựng thì người ta lại đổ tội cho quy hoạch chung làm sai hoặc quy hoạch chi tiết làm sai, rồi mọi biện pháp xây dựng và cải tạo đô thị cứ do một và mỗi một người làm xiếc hết tung quả bóng triển khai quy hoạch chi tiết. Chúng ta nhất thiết phải đổi mới quan niệm của chúng ta, xem “quy hoạch đô thị” như một quá trình tìm kiếm tương lai sờ nắn được cho địa phương hay vùng lãnh thổ. Đó là một quá trình liên tục không bao giờ dừng lại ở việc tạo ra các mặt bằng quy hoạch mà phải tiến hành từng bước thông qua các khâu quyết định giám sát và đánh giá cao các bước thực hiện, tức đảm bảo cho các dự án được triển khai trên thực tế (chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi, TQT) A.CATANESE – J.SNEIDER, 1988.

Chúng tôi muốn nêu thêm một định nghĩa nữa về quy hoạch đô thị, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của việc thực hiện cũng như đảm bảo các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện ấy: “Quy hoạch bao gồm việc lựa chọn trong số các phương án đề xuất cái nào biểu thị được tính rộng mở vào tương lai và rồi tìm cách đảm bảo cho sự thực hiện nó bằng cách cung ứng các nguồn lực cần thiết” [ TQT) ( 128 ) M. ROBERTS, 1995] (những chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi – TT). Qua định nghĩa trên, nhà quy hoạch và nhà kiến trúc chỉ là người làm nhiệm vụ đề xuất các phương án, còn việc “ lựa chọn” phương án rồi “đảm bảo cho việc thực hiện” ( tức tiến hành thiết kế và triển khai xây dựng ) và “cung ứng các nguồn lực” đều không thuộc thẩm quyền giải quyết của nhà kiến trúc hay không quy hoạch, bởi tất cả các khâu này là những quyết định chính trị và đấy là trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Trong vài thập kỉ gần đây trên thế giới nói chung người ta bỗng quan tâm tới quy hoạch đô thị trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, nhất là việc thôi không còn bám lấy những chuẩn tắc của mô thức quy hoạch hành động thì kinh nghiệm thực thi quy hoạch Paris của nam tước Georges HAUSSMANN ( 1809 – 1891) thật đáng khâm phục, gây kinh ngạc cho cả những người chỉ đạo xây dựng và cải tạo đô thị ở cuối thế kỉ XX. Và nếu như đô thị nào cũng gồm có thượng tầng kiến trúc và hạ tầng kỹ thuật thì việc chỉ đạo công cuộc xây dựng và cải tạo đô thị không thể giao phó hoặc cho kiến trúc sư hoặc người kỹ sư mà phải do nhà quản trị ( adminitrator ) có cương vị cao nhất của địa phương đảm nhận.
ĐẰNG SAU QUYẾT ĐỊNH CHỈNH TRANG PARIS Ở THẾ KỶ XIX:
Bao nhiêu năm nay các nghiên cứu thành công trong công việc chỉnh trang Paris, người ta luôn nhắc đến cái tên Georges HAUSSMANN như là một người có công đầu trong thành tựu cải tạo Paris. Và công việc làm của HAUSSMANN được coi như kết quả của nền đô thị học nhà binh (urrbanisme militaire ) hoặc thậm chí là đô thị học của cảnh sát (urbanisme policière ) [ M, Ragon, 1971 ]. Bởi vì đây là lần đầu tiên một tập hợp các trang thiết bị kỹ thuật và biện pháp hành chính kiên quyết áp dụng cho một thành phố dân số đã vượt ngưỡng một triệu người, đã được nghiên cứu và thực thi một cách tương đối hữu hiệu trong một thời gian tương đối ngắn [ L. Benevolo, 1979 ]. Thực tế thì không ai chối cãi sự kiện rằng lần đầu tiên vấn đề mặt bằng điều phối của một thành phố hiện đại đã được chuyển thành hiện thực dưới sự giám sát chặt chẽ không những về hành chính – tài chính mà về cả không gian – kỹ thuật nữa [ L, Benevolo, 1979 ]. Cho nên cách đánh giá đúng nhất về công việc làm của HAUSSSMANN là xem đó là quy hoạch quản trị ( planning management ) [ J. UDY, 1994]. Song đó là nói về kết quả của việc thực hiện và tài chỉ đạo của HAUSSMANN, nhưng còn ý đồ cải tạo đúng hơn là ý đồ chính trị ở đằng sau công cuộc cải tạo Paris là của nhà độc tài Louis – Bonaparte lên cầm quyền nhờ cuộc cách mạng năm 1848, sau đó đã làm đảo chính xoá sổ nền Cộng hoà đệ nhị để lên ngôi hoàng đế để lên ngôi hoàng đế mang tên Napoleon đệ tam. Napoleon III đã chọn HASSMAN làm tỉnh trưởng La Seine và cặp bài trùng đó đã khai sinh ra thứ đô thị học nhà binh và cảnh sát ấy: “ Quá lo sợ đối với sự nổi dậy của quần chúng lao khổ thúc ép sự nảy sinh một thứ đô thị nhằm phá bỏ nhà ở của thợ thuyền ở các khu vực trung tâm đô thị để xua đuổi “các tầng lớn cần lao ra khỏi các khu ở của giai cấp tư sản dinh thực công cộng, rồi nhân đó cho ra các tuyến đường thẳng chỉ ít thích nghi cho việc lập các chướng ngại vật nhưng lại tạo điều kiện cho hành quân của bộ binh và pháo binh hạng nặng. RAGON, 1971.”
Phải nói đó là quyết định chính trị của người đứng đầu nhà nước làm cơ bản cho quyết định kỹ thuật đối với việc cải tạo các khu vực trung tâm Paris do chính HAUSSMANN đưa ra đã minh hoạ một cách đầy đủ cho ý đồ chính trị của Napoleon III về HAUSSMANN đã viết trong hồi ký của mình: “ Giải toả các ngôi nhà lớn…để nhằm mang lại cho thị giác một cái nhìn thoáng đãng hơn… và một sự phòng thủ dễ dàng hơn trong những nơi có nhân chứng nổi dậy…đảm bảo sự yên tĩnh công cộng, bằng cách tạo lên các đại lộ lớn cho phép lưu thông không những không khí và cả ánh sáng mà cả quân đội nữa và, bằng sự phối hợp khéo léo sẽ làm cho quần chúng có hành vi đúng đắn và ít có điều kiện để nổi loạn”.
Ngoài ra những âu lo tới tình hình chính trị nội bộ, các nhân tố kinh tế và xã hội cũng đặt thành vấn đề phải cải tạo Paris. Vào thời kỳ cách mạng 1789, Paris mới có khoảng một triệu dân, khoảng hơn một năm sau, vào lúc Louis Bonaparte lên đảo chính và lên ngôi hoàng đế ( Napoleon III), thành phố đã ngót nghét một triệu người. Trung tâm thành phố cổ xưa này càng ngày càng tỏ ra không còn khả năng chịu đựng nổi sức nặng của một cơ thể đang phình ra: các con đường bé nhỏ thời Trung cổ và thời Baroc không còn đủ chỗ cho vận chuyển; nhà cửa cũng không còn thích nghi với các yêu cầu của một thành phố công nghiệp, sự tập trung các chức năng và các quyền lợi khác nhau vào thủ đô đã làm giá đất tăng vọt… Cho nên một chuyển đổi căn bản cho lĩnh vực xây dựng là điều nhất thiết phải làm. “ Sự tình cờ may mắn đã mang lại cho toà thị sảnh Paris một tỉnh tưởng hoạt bát, tràn trề nghị lực và đầy tham vọng biết ứng với tình thế chính trị và kinh tế, có khả năng tạo lên một tổ chức chính trị bảo quản cho tổ công việc cải tạo thành phố một tính hệ thống nhất định, biết dự kiến trước những khó khăn để vượt qua bằng cách sử dụng các phẩm chất cá nhân: sự khôn khéo và lòng dũng cảm” [L. BENEVOLO, 1979]
SÁU LOẠI CÔNG VIỆC CỦA HAUSSMANN Bước chân vào toà thị sảnh, công việc đầu tiên mà G. HAUSSMANN làm là cải tổ các phòng ban kỹ thuật chịu trách nhiệm đảm bảo cho công việc xây dựng đô thị, thay thế các kiến trúc sư bằng các kỹ sư và cán bộ kỹ thuật. Điều này thì đế chế đệ nhất của Napoleon III cũng chẳng thích thú gì họ. Ông ta chỉ tin tưởng vào vái hữu ích và hữu hiệu. Đó là nhờ ngay từ thời Đế chế đệ nhất Trường Bách Khoa ( ecole de Beaux Arts ) từng làm mưa làm gió trước đó.
Bằng cách tạo ra một công cụ thực hiện hữu hiệu và được sự ủng hộ của Napoleon III, HAUSSMANN biểu thị cho sức mạnh và vị thế của ông ta, đặt họ dưới trướng của những ý đồ và dự tính lớn lao của mình.
Trong vòng 17 năm ở cương vị ông chủ toà thị sảnh Paris, HAUSSMAN đã thực hiện sáu loại công trình như sau:
1. Đường sá:
Công cuộc cải tạo Paris bắt đầu bằng hệ thống đường thành phố: xoá bỏ con đường cũ, mở các con đường mới, cải tạo các công trình bố trí thẳng hàng dọc tuyến phố. Thành phố Paris trước đây có 384 km đường ở trung tâm và 355 km ở ngoại thành. HAUSSMAN mở 95 km đường mới và bỏ đi 49 km đường cũ (ở ngoại thành các con số tương ứng là 70 km và 5 km ) Như vậy chiều dài đường mở mới là 165 km, gần gấp 3,5 lần chiều dài đường bỏ đi. Hạt nhân thời trung cổ đã bị xáo trộn ở mọi hướng, nhiều khu phố cũ bị san bằng hoàn toàn, nhất là ở phía đông, nơi thường xảy ra các cuộc nổi dậy. Vậy là HAUSSMAN đã phủ lên thành phố một mạng lưới đường phố rộng và thẳng tạo nên một hệ thống gắn bó chặt trẽ ( hình 1 ) để giao lưu giữa các trung tâm chủ yếu của đời sống đô thị cùng lúc các ga cuối tuyến của đường sắt, đảm bảo cải thiện bức tranh giao lưu của thành phố bằng các đường xuyên và đường vòng . 2. Công trình công cộng:
Loại công việc quan trọng thứ hai là hệ thống các công trình công cộng tại các khu mới và khu cũ được cải tạo: đó là trường học, bệnh viện, thư viện, trường cao đẳng, chợ…. Nhà nước còn chăm lo các công trình quân sự và cầu cống nữa. Các kiến trúc sư nổi danh đương thời như Labroste, Baltard, Vaudremer, Hittorf…. đều được huy động cho mảng công việc này.
Jacques – Ignace HITTORF ( 1792 – 1967 ) là người được Napoleon yêu quý, trực tiếp giao cho nhiều công trình, trong số đó có nhà ga phía Bắc ( Gare du Nord ) được Napoleon III đánh giá cao. Còn Victor BATARD ( 1805 – 1874 ), bạn học cũ của HAUSSMANN được giao cho việc xây dựng khu chợ trung tâm Paris ( Halles de Paris ). Vốn là người đoạt giải khôi nguyên La Mã. BALTARD đã xây dựng khu chợ bằng đá đẽo, song khi gian chợ thứ nhất vừa hoàn thành, nhìn thấy dáng cỏ vẻ nặng nề, thô kệch và xấu xí của nó Napoleon III đã hạ lệnh phá bỏ ngay. HAUSSMANN mời BALTARD tới và nói: “ vấn đề của anh bây giờ là phải biết phục hận. Anh làm cho tôi một phác thảo theo chỉ dẫn sau đây: bằng sắt, bằng sắt và chỉ bằng sắt thôi” [ G. HAUSSMANN. ( 1980 ) 1970] ( những chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi, T.T ) ( xem hình )
3. Công viên:
Tạo lập các công viên cho Paris là công việc lớn thứ ba. Cho đến lúc ấy thành phố chỉ có các vườn hoa nhỏ là vườn Tuileries và vườn Champs Elysees ở hữu hạn, vườn Champs de Mars và vườn Luxembourg ở tả ngạn sông Seine, HAUSSMANN đã cử Adolphe ALPHAND ( 1817 – 1891 ), một kỹ sư tốt nghiệp trường Bách Khoa phụ trách khối công việc này. Theo thị hiếu của Napoleon III, ALPHAND đã đưa phong cách vườn Anh vào tất cả không gian xanh của Paris: các khối cây xanh, thác nước nhân tạo, sông lừ đừ, hang động, hòn non bộ…. Ông đã biến khu rừng Boulogne thành vườn rừng ( bois ) cho giới tư sản còn khu rừng Vincennens thành vườn ( hoa ) công cộng cho mọi người ở nơi gặp gỡ của sông Marne với sông Seine. Ông còn tạo nên hai khu vườn nổi tiếng khác là Buttes – Chaumont ở phía Bắc và Parc Montsouris ở phía Nam thành phố. Trong hồi ký của mình HAUSSMANN dừng lại khá lâu ở đoạn nói về công việc tạo lập các vườn, xem nó như là sự minh chứng cho danh tiếng của ông.

4. Mạng lưới cấp thoát nước:
Mảng công việc thứ tư mang lại nhiều đổi mới cho thành phố Paris là mở rộng và cải tạo mạng lưới trang thiết bị cấp và thoát nước. HAUSSMANN giao phó cho kỹ sư Franscois Eugene BELGRAND ( 1810 – 1878 ). Vốn là một công chức thường bậc trung tỉnh lẻ được gọi về giao phó tổ chức công tác thuỷ lợi cho Paris, BELGRAND đã nâng khối lượng nước thành phố từ 112.000 m3 lên 343.000 m3 và chiều dài đường ống dẫn – từ 747 km lên 1545 km. BEL – GRAND còn tạo thêm 500 km đường ống thoát nước cộng thêm vào 107 km có từ trước. Công việc chiếu sáng cho đường phố cũng được tăng cường từ 12.400 đèn hơi đốt lên 32.320. Mạng lưới giao thông công cộng cũng được cải tiến và tổ chức lại, giao hẳn cho một công ty đảm nhận.
5. Tổ chức quản trị thành phố:
Tác động cả khối lượng công việc này lên toàn bộ công cuộc cải tạo Paris là không nhỏ. Việc đầu tiên là HAUSSMANN sáp nhập 11 công xã (communes) ở vành đai ngoài của Paris vào 12 quận (arrrondissements) truyền thống nâng số phận của Paris lên thành 20, giới hạn của thành phố trùng khít với bức tường thành bảo vệ Paris và 20 quận ấy tồn tại cho đến ngày nay. HAUSSMAN còn mong muốn sáp nhập vào một dải đất rộng chừng 250 m phía bên ngoài tường thành, hướng tới xây dựng một đại lộ ngoại vi phía bên ngoài tường thành, nhưng không có kết quả vì nạn đầu tư đất đai. Phải đến 70 – 80 năm sau, dự kiến nhìn xa trông rộng ấy của ông mới thành hiện thực: đại lộ vành đai ( boulevad peripherique – đại lộ này chạy song hành với tuyến đường tàu điện vừa ngầm vừa hở vốn được xây dựng trên nền của tường thành bị phá hỏng ). Và Paris nội thành gồm 20 quận tồn tại từ bấy đến nay.
6. Tài chính minh bạch:
HAUSSMANN hiểu rõ rằng mọi công việc cải tạo thành phố và xây dựng mới đòi hỏi những nguồn lực to lớn, nhất là tài lực bên cạnh các nguồn lực khác về nhân lực quyền lực chúng ta đề cập tới ở trên. Và ông đã có những biện pháp hữu hiệu, chủ yếu dựa vào giá trị gia tăng của đất một khi các công trình công chính được cải thiện và vào tín dụng của thị trường tự do về vốn, chỉ sử dụng ít sự hỗ trợ của nhà nước. Thật thế, các công trình công chính không những giúp gia tăng giá trị đất đai nằm ven các tuyến công trình mà còn tác dụng chung lên cả thành phố, tạo điều kiện phát triển nhiều mặt và từ đó thu nhập cũng tăng theo. Chỉ riêng phương diện ấy thôi mà hiệu quả đã mang lại cho thành phố một sự gia tăng đều đặn các nguồn thu, nhờ thế mà ông có thể vay mượn ở các ngân hàng tín dụng cần thiết như bất cứ doanh nghiệp tư nhân nào. Từ 1853 đến 1870 HAUSSMANN đã chi hết hơn 2,5 tỉ francs, trong đó chỉ có 100 triệu francs tài trợ của nhà nước trung ương. [ L. BENEVOLO, 1979 ]
Trong hồi ký của mình ở các trang 337 – 340 HAUSSMANN đã dẫn ra đầy đủ các khoản chi – thu cụ thể, dưới đây là toát chủ yếu của cân bằng ngân sách [ G. HAUSSMANN, ( 1980 ) 1979 ] .
SUY NGẪM VỀ HAUSSMANN
Trên 130 năm kể từ ngày HAUSSMMANN chấm dứt cuộc phiêu lưu có một không hai của mình dưới sự bảo kê của người đứng đầu nhà nước Pháp lúc ấy là Naloleon III, ngay từ thời ấy HAUSSMANN từng bị phê phán từ các giới chính trị và văn hoá. Các nhà chính trị theo chủ nghĩa tự do trách cứ ông về sự tự do quá trớn ( desinvolture ) trong cách thức điều phối tài lực, tránh né mọi sự kiểm tra của các nhà chức trách trung ương, về ý định của ông khi bán các khu đất cận kề công trình chính. ( Về sau Hội đồng nhà nước (conseil d’ etat ) quyết định các khu đất xây dựng một khi đã được trưng mua và quy hoạch lại xong còn bao nhiêu phải trả cho chủ cũ, cũng vậy phần giá trị gia tăng do các công việc cải tạo mang lại cũng phải trả về cho họ, chứ toà thị sảnh không được thu – quyết định ngày 27/12/1858 ) [ L. BENEVOLO, 1979 ]
Còn các nhà trí thức và các nghệ sỹ lại trách cứ ông về việc phá bỏ các khu phố cũ của Paris và dáng vẻ tầm thường của các công trình xây dựng mới. Tất nhiên khi phải đập phá nhiều để cải tạo một khu vực rộng lớn thì một vài cảnh bài trí đẹp dĩ nhiên phải bị dẹp bỏ, bù lại những tiến bộ kỹ thuật, những thoáng đãng của không gian mới…. cộng với sự biến mất những cảnh trí u ám và đồng điệu của thành phố công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa.
Nhưng sự thành công của HAUSSMANN chứng tỏ rằng ông , tuy có “ít văn hoá” nhưng lại tự do hơn và hiện đại hơn những kẻ phê phán ông. Thời gian trôi đi, nhiều ý tưởng mới về xây dựng và cải tạo đô thị tiếp tục nảy sinh, nhưng kinh nghiệm của HAUSSMANN vẫn chiếm một vị trí đáng nể trong các thành tựu đô thị học, nhờ vào các “ bài học” nó để lại cho giới chức quản lý và chuyên môn nữa.

1. Người ta đặt câu hỏi, liệu có phải HAUSSMANN là tác giả thực thụ của mọi công việc biến đổi thành phố Paris hay hành động của ông có thực sự được sự hướng dẫn của một dự án thống nhất được chuẩn bị từ trước? Câu trả lời tích cực cho cả hai cách đặt vấn đề. HAUSSMANN kể rằng: ” vừa được bổ nhiệm tỉnh trưởng La Seine, trong một bữa ăn tối, Napoleon III cho ông xem một bản mặt bằng thành phố Paris trên đó người ta thấy chính hoàng đế đã vạch màu xanh, đỏ, vàng, xanh lá cây tuỳ theo cấp độ cấp thiết, các con đường mới ngài đề nghị thực hiện” [ G. HAUSSMANN. ( 1890 ) 1972]. Trong mọi cơ hội ông luôn luôn tuyên bố rằng chính nhà vua mới là tác giả của các kiến nghị chỉnh trang đô thị, còn ông chỉ là người cộng tác. Và người đời cứ tin vào đó, rằng Napoleon II là tác giả thực thụ của mặt bằng Paris. Rất có thể đó là cách phát biểu có chủ tâm của HAUSSMANN nhằm che đậy các sáng kiến của mình dưới danh nghĩa nhà vua để dễ bề hành động. 2. Nhưng trong công cuộc cải tạo Paris những sự kiện nhìn thấy được ít hơn rất nhiều những sự kiện không nhìn thấy được” hành động quản trị là khía cạnh quan trọng nhất của cuộc thử nghiệm quy mô lớn ấy. Và HAUSSMANN tự đảm trách công việc lấy, tự cáng đáng lấy một mình và đi trước cả Napoleon đi trước cả các chính quyền đại diện.
3. HAUSSMANN đã chuẩn bị ngay từ đầu một chương trình hành động trọn vẹn, và sau đó ông kiên trì theo đuổi nó đến cùng. Chương trình ấy không nằm trong bất cứ bản vẽ nào, và chính ở chỗ đó mà người ta nhận ra tầm quan trọng và tính hiện đại của công cuộc cải tạo Paris do ông chịu trách nhiệm [ L. BEVEVOLO, (1963 ) 1967 ]. Ông không có ý định đặt việc cải tạo Paris theo một mặt bằng ấn định trước nào. Trước ông đã có người làm điều đó, vẽ nên những dự án Paris lý tưởng mà không quan tâm tới vấn đề thực tiễn sống động đặt ra. Cho nên từ năm 1858, sau khi sát nhập các thi tứ ven ngoại vào nội thành ông bèn lập Văn phòng quy hoạch (office du plan ) do M. DESCHAMPS chủ trì để thích nghi hoá, năm này qua năm kia, các dự án bộ phận trên cơ sở các kinh nghiệm thu được và trù tính kỹ lưỡng đến các thay đổi tuỳ theo tình thế.
4. Công việc làm của HAUSSMANN là bước đột phá quan trọng trong việc cải thiện hình ảnh đô thị công nghiệp. Có người gọi đó là đô thị học tân bảo thủ (urbanisme policier ) hay đô thị học nhà binh (urbanisme militaire ) thì kết quả của một hành động trên quy mô lớn đối với một trong những thành phố lớn của Châu Âu lúc bấy giờ là một bước khởi đầu quan trọng, ít nhất ở hai bình diện.
5. Bản thân kinh nghiệm quản lý thực hiện những ý đồ và mục tiêu nêu trong dự án tổng mặt bằng thành phố Paris ( mà thuật ngữ hiện nay gọi là quy hoạch chiến lược – strategic planning ) đòi hỏi phải tiến hành công việc phân bố các mục tiêu thành những dự án nhỏ hơn theo trình tự ưu tiên ( mà thuật ngữ hiện nay gọi là quy hoạch chiến thuật – tactic planning ) bởi ai cũng biết rằng không ai có thể cùng lúc thực hiện mọi mục tiêu theo kiểu dàn hàng ngang mà phải biết ưu tiên hoá – prior – itize – để phân bố hợp lý nguồn lực và cứ từng bước thực hiện lại điều chỉnh quy hoạch cho đến khi toàn bộ các mục tiêu được thực hiện. Đó chính là đô thị học mà HAUSSMANN là người đặt nền móng. Và đô thị học quản trị do vậy mà có tầm quan trọng hàng đầu cho sự thành công của các phạm trù đô thị học khác.
6. Tiếng vang của công cuộc cải tạo Paris rất lớn, và tác động cũng không nhỏ đến sự phát triển của đô thị học. Ở trong biên cương của nước Pháp, các thành phố khác dưới thời trị vì của cảr Napoleon III đều có những thay đổi quan trọng. Tại Lyon dưới sự quản trị cuả tỉnh trưởng VAISSE, tại Marseille tiếp theo công việc mở kênh đào Suez, rồi tại Motpellier, ROowwen, Avignon…đều có những biện pháp cải tạo, mở rộng, nắn thẳng các đường phố, bờ sông và kèm theo đó là các chỉnh trang đô thị khác. Tác động lớn nhất có lẽ là việc phá bỏ bờ tường thành của đô thị trung cổ Barcelona ( mà ở Tây Ban Nha người ta xem sự kiện đó cũng quan trọng như việc phá ngục Bastilles trong cuộc cách mạng 1789 ở Pháp ) [ Lopez de Aberasturi, 1979 ] và thiết lập mặt bằng quy hoạch mới cho thành phố. Chính cuộc đấu tranh cho việc chấp nhận mặt bằng theo kiến nghị của Iidefonso Cerda và sự ra đời của Teoria ( xem chuyên mục 2.1.3 của Đô thị học tập 2 ) mà đô thị học đã hình thành như một khoa học về vấn đề đô thị hoá ( science urbanisatrice ).
Tác động lớn khác là việc hình thành của Ring, một vành đai các công trình công ích qua bức thành của đô thị trung cổ Wien ( Áo ) theo mô hình của Camillo SITTE và sự xuất hiện của Der Staedtebau mở đường cho sự tiếp cận đô thị học theo các cơ sở nghệ thuật của nó.

Nguồn Kiến Trúc Việt Nam số 10/2004
http://just1.com.vn/nqh/?p=162

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.