Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Những đô thị theo lối tư duy mới và Quy hoạch phân khu ở Việt Nam

 
Chiến lược phát triển phải được đặc biệt phục vụ cho nhu cầu của mỗi quốc gia, là những đặc điểm và môi trường độc đáo của mỗi quốc gia đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Đối với đô thị hóa ở Việt Nam, rất nhiều sức ép được đặt trong các lĩnh vực sau: phát triển bền vững, hiệu quả, và giữ gìn bản sắc văn hóa sẽ tăng cường vị thế cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực và giai đoạn kinh tế toàn cầu.

Sức tăng trưởng dân số đô thị ở Việt Nam
Dân số đô thị tăng dần của Việt Nam chắc chắn sẽ truyền tải một tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Như năm 2011, dân số Việt Nam đã tăng trưởng tới 88,8 triệu người, trong đó dân số đô thị chiếm 25% tổng dân số. Con số ước tính sơ bộ cho thấy rằng vào năm 2050, số liệu dân số của Việt Nam được dự báo sẽ tăng thêm 40% lên 125 triệu người, với 50% dân số sống ở các thành phố hay nói cách khác sẽ có hơn 60 triệu dân sống ở thành thị. Điều đó có nghĩa là dân số đô thị tăng 40 triệu người trong khoảng thời gian 40 năm, hay nói cách khác là 1 triệu dân một năm. Những con số đáng kinh ngạc cho thấy sự cần thiết cần tập trung vào quy hoạch sử dụng đất trong các khu vực đô thị tại Việt Nam. Việt Nam sẽ tiếp tục trải nghiệm những khó khăn mang tính chu kỳ và tình trạng chậm phát triển kinh tế nếu như không chú trọng đến sự cần thiết phải “có những nhận thức mới” đối với các đô thị của mình.
Do hệ quả của quy hoạch kém, quá trình đô thị hóa truyền thống dẫn đến tình trạng thiếu hụt thực phẩm, không gian, nước và năng lượng ngày càng tăng. Việt Nam đã trở thành một nước nhập khẩu ròng năng lượng và tất cả các dấu hiệu cho thấy nhu cầu cần các nguồn lực sẽ tiếp tục tăng. Việt Nam có sự phong phú đất đai và tài nguyên thiên nhiên, nên phấn đấu để trở thành một nước xuất khẩu ròng năng lượng và nguồn lực để hỗ trợ tăng trưởng GDP. Trong khi đó, tăng trưởng sẽ phát triển thành một mối đe dọa có ảnh hưởng đến quốc gia cũng như phần còn lại của thế giới. Mối tương quan giữa dân số đô thị tăng vọt của một quốc gia và những ảnh hưởng xấu, việc sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên và môi trường của một quốc gia đến như là một vận mệnh không thể tránh được trong tất cả các quốc gia đang công nghiệp hóa. Việt Nam sẽ sớm gặp phải tình trạng khó khăn này nếu tình hình không được đề cập trước để giải quyết.
Học hỏi từ những “Con Hổ” – những cơ hội bỏ lỡ 
Trong thập kỷ qua, một số nước láng giềng của Việt Nam như Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines, thường được gọi là những “Con Hổ“- được coi là mô hình để học hỏi khi xây dựng cách tiếp cận phát triển đô thị của Việt Nam. Trước giai đoạn công nghiệp hóa, những “Con Hổ” này chủ yếu dựa vào nền kinh tế nông nghiệp. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và lực lượng lao động giá thấp, những “Con Hổ” này vươn lên, không còn trong tình trạng duy trì nền kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi thành nền kinh tế sản xuất để cung cấp hàng hóa giá rẻ cho các quốc gia phát triển. Kết quả là các nhà máy mọc lên, nhiều đường giao thông và và vận tải hàng hóa được xây dựng, phát triển nhiều nhà ở phục vụ dân cư tăng lên, GDP tăng mạnh. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa của những “Con Hổ” này đã tạo ra nhu cầu ngày càng tăng về nguồn cho các quốc gia, ví dụ như trong đầu những năm 90 Malaysia đã chuyển đổi từ vị thế quốc gia sản xuất ròng gạo thành quốc gia nhập khẩu ròng gạo. Mức lương hấp dẫn đã thu hút dân cư rời làng quê đến các khu vực đô thị, làm tăng quá trình đô thị hóa nhanh chóng, dẫn đến mất cân bằng, kéo theo những hệ quả như lũ lụt nghiêm trọng, mất điện, giao thông tắc nghẽn, cơ sở hạ tầng và thể chế xuống cấp, nhiều vấn đề đô thị không hiệu quả. Khi nhận ra sau này, sự phát triển vượt bậc của những “Con Hổ” này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn và suy thoái kinh tế năm 1997 đã cho thấy rằng những quốc gia này đã sống trong thời gian khủng hoảng. Các nước như Malaysia, Thái Lan, Philippines, và Indonesia đã mất hơn một thập kỷ để tìm ra con đường hồi phục. Mặc dù tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong ngắn hạn, những “Con Hổ” đến nay vẫn phải đối mặt với các cơ cấu kinh tế mất cân bằng đi kèm với các vấn đề chính gây do tình trạng quá tải, giao thông tắc nghẽn và xuống cấp môi trường đô thị do hệ quả của sự mở rộng nhanh chóng. Để giải quyết sự thiếu hiệu quả đòi hỏi sự quan tâm nghiêm túc, các giải pháp phức hợp và kinh phí lớn của chính phủ, do đó chính phủ bị hạn chế cơ hội hơn để tài trợ hiệu quả các lĩnh vực khác đang có nhu cầu.

Đồ án quy hoạch phân khu N9 tại Hà Nội

NHỮNG ĐÔ THỊ THEO LỐI TƯ DUY MỚI – Cơ hội của Việt Nam

Thế kỷ 21 sẽ được đánh dấu bằng ba sự kiện quan trọng tương quan với nhau sẽ mở ra cách mà chúng ta định hình thế hệ tương lai và cách chúng ta sống và sử dụng nguồn lực hạn chế trên trái đất như thế nào:
- Đô thị hoá và Tăng trưởng kinh tế ở châu Á sẽ tạo ra một ấn tượng toàn cầu và định hình thế kỷ 21.
- Các đại đô thị với dân số vượt quá 10 triệu sẽ cạnh tranh trên quy mô toàn cầu để thu hút nhân tài và các doanh nghiệp hàng đầu cũng như các nguồn lực.
- Như với các thách thức môi trường đã được biết đến trước đây, cách tiếp cận sáng tạo và hiệu quả là rất cần thiết để khắc phục sự phức tạp và thiếu sót sinh ra do quá trình đô thị hóa.
Giải pháp hiện tại của vấn đề đô thị hóa sẽ dẫn đến giảm hiệu quả nguồn lực, theo sau đó là sự gia tăng nhu cầu nguồn lực toàn cầu đến một mức độ mà nó có thể ảnh hưởng đáng kể và có thể gây mất ổn định phát triển kinh tế của Việt Nam và các quốc gia khác.
Trước đây, các đô thị đã đưa ra nhu cầu to lớn về tài nguyên quốc gia, nếu như nguồn tài nguyên này là không giới hạn và các hệ thống tự nhiên là hoàn toàn dễ phục hồi. Lịch sử gần đây đã chứng minh rằng các nguồn lực này chẳng bao lâu nữa sẽ cạn kiệt. Thay vào đó, cần phải có sự chuyển đổi đô thị từ sử dụng nguồn lực đến giảm thiểu các tác dụng phụ từ sự vận hành các đô thị. Con người có thể không còn chỉ tiêu thụ tài nguyên, chúng ta cần phải hành động như "nhà sản xuất" bằng cách chấp nhận trách nhiệm để giảm thiểu việc sử dụng, tái chế, tái sử dụng và tái tạo nguồn tài nguyên của thế giới.
Trong trường hợp này, chúng ta cần một cách tiếp cận mới xa hơn việc phát triển đô thị bền vững, cung cấp các giải pháp và dịch vụ đô thị để hoạt động như một sự chuyển đổi trong vòng đời của chúng ta.
  • Ảnh bên: Các quy hoạch phân khu tại Hà Nội 
Tiêu chí mới cho Phát triển đô thị tại Việt Nam
Việt Nam đang tiếp cận giai đoạn tiếp theo của chu kỳ tăng trưởng kinh tế có cơ hội thiết lập tiêu chuẩn mới cho việc đô thị hóa ở châu Á và áp dụng một cách tiếp cận mới tới các đô thị sinh thái bền vững, bằng cách đối đầu với những thách thức đô thị hóa hiện tại và tương lai. Theo truyền thống, việc phát triển đô thị đã nhấn mạnh các giải pháp nhà ở và giao thông trực tiếp trong khi bỏ qua việc phân bổ cân bằng sự hiệu quả và bản sắc văn hóa. Ba tiêu chí phát triển đã được thiết lập cho việc quy hoạch, triển khai và vận hành các khu đô thị mới tại Việt Nam:
(a) Các đại đô thị liên hợp cao tầng và mật độ cao: Mật độ đô thị cao và cao tầng tối đa hóa lợi ích và cách sử dụng các khu vực bề mặt đô thị, thực hành nông nghiệp và thân thiện con người trong khi vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa qua đó tối đa hóa hiệu quả sử dụng đất và hạn chế xâm lấn vào đất sản xuất nông nghiệp.
(b) Phát triển đô thị Hiệu suất cao: hiệu quả cao, tính cạnh tranh cao với chất lượng sống, giáo dục và triển vọng cao; khả năng thu hút tài năng, các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp hàng đầu toàn cầu.
(c) Tổ chức: đưa việc sử dụng các nguồn tài nguyên mới, tài nguyên thay thế và năng lượng tái tạo trong khi tạo cảm hứng phát triển đổi mới và công nghệ của thế kỷ 21 để hồi sinh sự phục hưng của Đô thị; Vận hành một hệ thống Quản lý đô thị thông minh theo cụm để quản lý và làm mô hình hoạt động đô thị và kịch bản tài nguyên hiệu quả. Các đô thị không chỉ là một sự sắp xếp ngẫu nhiên của các tòa nhà riêng lẻ mà còn là hệ thống hỗ trợ thông minh và toàn diện / hỗ trợ cho dân cư đô thị với các tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật đem lại lợi ích cho cộng đồng.
Câu kết: Việt Nam cần các đại đô thị nông nghiệp liên hợp tự cung ứng vận hành như nhà sản xuất, chứ không phải là người tiêu dùng, nhấn mạnh tốc độ và hiệu quả trong khi giữ gìn bản sắc văn hóa của Việt Nam.

Đồ án quy hoạch phân khu N5-7-8 tại Hà Nội

TƯ DUY ĐÔ THỊ MỚI! – Quy hoạch phân khu và Đổi mới Quy hoạch đô thị tại Việt Nam

Phương pháp luận quy hoạch đô thị thông thường của Việt Nam cần xây dựng lại cơ bản, thiết lập tiêu chuẩn mới để cung cấp đại đô thị liên hợp nông nghiệp độc đáo, hiệu quả và năng suất cao và tối ưu hóa chất lượng cuộc sống cho cư dân. Vì thành phố phát triển trong sự phức tạp nên cần có một cách tiếp cận quy hoạch đa chiều và đa cấp. Chúng tôi đã xác định được bốn cấp độ quy hoạch chính:
 
- Quy hoạch O-clit tiêu chuẩn được đặc trưng bởi sự phân biệt sử dụng đất vào các khu vực địa lý và các tiêu chuẩn kích thước quy định hạn chế về hoạt động phát triển trong mỗi loại của khu vực. Ưu điểm bao gồm hiệu quả tương ứng, dễ dàng thực hiện, tiền lệ pháp lý được thiết lập lâu dài và quen thuộc. Tuy nhiên, phân khu O-clit đã nhận được những lời chỉ trích cho việc thiếu tính linh hoạt.
- Quy hoạch ưu đãi được thiết kế để cung cấp một hệ thống khen thưởng để khuyến khích phát triển nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển đô thị được thiết lập. Thông thường, phương pháp thiết lập một mức độ cơ bản những hạn chế và quy mô thưởng để lôi kéo các chủ đầu tư kết hợp các chỉ tiêu phát triển mong muốn. Quy hoạch ưu đãi cho phép mức độ linh hoạt cao, nhưng có thể phức tạp để quản lý.
- Quy chuẩn mẫu cung cấp sự linh hoạt đáng kể trong sử dụng xây dựng hơn so với quy chuẩn O-clit. Quy hoạch phân khu mẫu không chỉ điều chỉnh các loại hình sử dụng đất mà còn hình thành hình thức sử dụng đất. Ví dụ, quy hoạch phân khu dựa trên hình thức trong một khu vực dày đặc có thể nhấn mạnh vào khoảng lùi thấp, mật độ cao và khả năng tiếp cận cho người đi bộ.
- Thực hiện quy hoạch phân khu còn được gọi là "quy hoạch dựa trên các hiệu ứng", sử dụng các tiêu chuẩn dựa trên hiệu suất hoặc định hướng mục tiêu để thiết lập các thông số đánh giá cho các dự án phát triển đề xuất. Thực hiện quy hoạch phân khu được thiết kế để cung cấp sự linh hoạt, hợp lý, minh bạch và trách nhiệm, tránh sự chuyên quyền của phương pháp tiếp cận O-clit, nguyên tắc thị trường tốt hơn và quyền sở hữu tư nhân với sự bảo vệ môi trường. Những khó khăn bao gồm một yêu cầu một hoạt động tùy ý mức độ cao của trên phần của cơ quan giám sát.

Đồ án quy hoạch phân khu S5 tại Hà Nội

KẾT LUẬN

Chuyển đổi đô thị của Việt Nam kêu gọi mối quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa chính phủ, các thành phần tư nhân và các cộng đồng – một sự hợp tác sẽ hướng sự chuyển đổi phát triển đô thị của Việt Nam dựa trên việc trung tâm tài nguyên, hiệu quả cao, mật độ tăng, sự phân tầng sử dụng đất, hỗ trợ xã hội và ổn định, giáo dục tăng cường và triển vọng việc làm và cuối cùng, một chất lượng sống cao trong một bối cảnh văn hóa phong phú.
Giải pháp cho những thách thức đang nổi lên của Việt Nam trong thế kỷ 21 sẽ là việc thực hiện chiến lược quy hoạch sử dụng đất được hình thành một cách độc đáo thúc đẩy chất lượng cuộc sống, tăng trưởng hiệu quả và các đại đô thị nông nghiệp liên hợp tự cung ứng với cơ sở hạ tầng nông nghiệp, đảm bảo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và chủ yếu trước mắt là việc bảo tồn bản sắc văn hóa của Việt Nam. Việt Nam có tiềm năng để trưởng thành thành một quốc gia lãnh đạo toàn cầu về đổi mới đô thị bằng cách phát triển các dịch vụ chuyên ngành, các cơ sở tiện ích và một môi trường vận hành. Cuối cùng Việt Nam sẽ thu hút các nhân tài và doanh nghiệp hàng đầu toàn cầu, tạo vị thế cạnh tranh bền vững cho Việt Nam trên thế giới./.

Tóm tắt:

Trình bày vấn đề: Việt Nam hiện đang sắp bước sang giai đoạn tăng trưởng phát triển tiếp theo. Dự báo dân số thành thị của Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng một triệu người mỗi năm trong thập kỷ tới. Sự gia tăng đáng kể dân số thành thị ở Việt Nam sẽ tạo ra những thách thức lớn về cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, nhà ở và thể chế. Để đối mặt với các đòi hỏi do những thách thức mới tạo ra, thì cần có cách tiếp cận mới thay thế các chiến lược phát triển thông thường hiện đang áp dụng để mở rộng đô thị Việt Nam. Cách tiếp cận hiện tại đối với cơ sở hạ tầng đô thị tại Việt Nam tập trung vào việc xây dựng nhà ở cơ bản và phù hợp với văn hóa phát triển xe cơ giới trong nước sẽ không đáp ứng được những thách thức sắp tới của Việt Nam trong thế kỷ 21, cũng như không thúc đẩy phát triển xa hơn nữa nếu các vấn đề không được giải quyết. Các quốc gia lân cận Việt Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển tương tự như sự chuyển đổi mà Việt Nam sẽ sớm trải qua, do đó Việt Nam có cơ hội đúc rút các bài học và phát triển. Điều này hỗ trợ Việt Nam nắm giữ cơ hội để trở thành miền đất của các ngành công nghiệp mới, thúc đẩy các giải pháp đô thị mang tính sáng tạo, nhấn mạnh đến tính bền vững, hiệu quả sử dụng, bảo tồn bản sắc văn hóa, tiếp tục tăng trưởng kinh tế dài hạn, hệ quả là thiết lập những tiền lệ độc đáo mới cho phát triển đô thị ở châu Á.
Cách tiếp cận: Việc triển khai các chiến lược quy hoạch đô thị tăng cường có thể khuyến khích và đem lại những phát triển bền vững thích hợp và hiệu quả, đóng góp vào lợi ích công cộng và chất lượng cuộc sống của đất nước. Có thể đưa nền nông nghiệp độc đáo của Việt Nam vào kết hợp với quá trình đô thị hóa ngày càng tăng của Việt Nam để tạo ra các Đại Đô thị Liên hợp. Đây là một giải pháp khác xa những tư duy đô thị thông thường và sự phổ biến của phương tiện giao thông cơ giới cá nhân, có các nguồn lực tái sinh và hiệu quả bố trí tập trung xung quanh, với phương thức giao thông vận tải thay thế có hiệu quả và năng suất, trong khi hỗ trợ cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật, nông nghiệp, thúc đẩy bản sắc và giá trị văn hóa truyền thống.
Kết luận: Các giải pháp cho những thách thức Việt Nam phải đối mặt trong thế kỷ 21 sẽ là việc thực hiện phương pháp tiếp cận đa phương diện độc đáo, hướng đến chiến lược đô thị và phân khu sử dụng đất có tác dụng nâng cao chất lượng sống, thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng bền vững của các Đại Đô thị Liên hợp, hợp nhất với cơ sở hạ tầng nông nghiệp, ổn định nguồn lực, và bản sắc văn hoá. Việt Nam có tiềm năng phát triển thành quốc gia đi đầu trong đổi mới đô thị thông qua phát triển các sản phẩm công nghiệp chuyên ngành, dịch vụ, cơ sở vật chất, môi trường hoạt động. Việt Nam sẽ thu hút những nhân tài và doanh nghiệp hàng đầu toàn cầu, tăng cườngvị thế cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các tác giả: Robbert VAN NOUHUYS, Ying QIU, Priya GOPALAN, Sandy LAM, Frank CARRERA 
Tư liệu ảnh minh họa: Ashui.com
THAM KHẢO:
- United Nations, Department of Economic and Social Affairs/Population Division, 2010. World Urbanization Prospects, the 2009 Revision.
- United Nations, Population Fund, 2011. State of world population 2011.
- Kunzig, R. January 2011. Population 7 Billion. Official Journal of the National Geographic Society, Volume 219, No.1.
- European Environment Agency, 2010. The European Environment State and Outlook 2010 - Assessment of Global Megatrends. Luxembourg: Publications Office of the European Union.
- National Geographic Magazine (NGM), 2011
http://ngm.nationalgeographic.com/2011/01/seven-billion/kunzig-text
- ABS-CBN News, 2011
http://www.abs-cbnnews.com/-depth/03/20/11/can-megacities-cope-disaster
- Vietnam Investment Review, 2012
http://www.vir.com.vn/news/top-news/hanoi-aims-to-complete-zoning-plans-by-2015.html
- Adger, W. Neil. Social Vulnerability to Climate Change and Extremes in Coastal Vietnam. World Development Vol. 27, No. 2, pp. 249-269, Elsevier Science Ltd. 1999.
Tiểu sử tác giả:
Robbert VAN NOUHUYS, Giám đốc điều hành Dịch vụ công trình Bất động sản khu vực Đông Á của Tư vấn Hyder Consulting; Giám đốc ACLA; Thành viên của Hội đồng chuyên môn của Hyder; Thành viên của Viện Kiến trúc sư Cảnh quan Singapore (SILA), Thành viên của Viện Kiến trúc sư Cảnh quan Malaysia (ILAM), Thành viên của Viện Cảnh quan Hà Lan (BNT-VTL), Thạc sĩ chuyên ngành Kiến trúc Cảnh quan, Trường College of Advanced Agricultural Technology, Hà Lan – Xây dựng và Bất động sản, Trường ĐH Reading, Anh,  Trình độ sau đại học về Quản lý dự án, Trường ĐH Reading, Anh, Chiến lược đổi mới hình ảnh đầy đủ: Wharton Executive Education, Mỹ. - robbert@acla.com.hk
Ying QIU, Giám đốc phụ trách dịch vụ về Nước và Môi trường khu vực Đông Á, Tư vấn Hyder; Thạc sĩ Khoa học Môi trường, ĐH Yale, Mỹ; Cử nhân Kỹ thuật Môi trường, ĐH Tsinghua -  Ying.Qiu@hyderconsulting.com.
Priya GOPALAN, Tư vấn Môi trường cao cấp của Tư vấn Hyder; Thành viên Viện Quản lý và Đánh giá Môi trường (AIEMA) - Priya.Gopalan@hyderconsulting.com
Sandy LAM, Kiến trúc sư quy hoạch cao cấp ACLA; Thành viên Viện Quy hoạch đô thị Royal (MRTPI), Anh, Thành viên Viện Kiến trúc sư Quy hoạch Hồng Kông (MHKIP), Kiến trúc sư quy hoạch có chứng chỉ hành nghề (RPP), Hồng Kông - sandy.lam@acla.com.hk
Frank CARRERA, Kiến trúc sư quy hoạch của ACLA; Cử nhân Nghiên cứu Đô thị, ĐH Columbia - frankandrew.carrera@acla.com.hk
(Bài viết được đăng trong Tạp chí Quy hoạch Đô thị số 10)
http://mag.ashui.com/chuyenmuc/quy-hoach-do-thi/6836-nhung-do-thi-theo-loi-tu-duy-moi-va-quy-hoach-phan-khu-o-viet-nam.html
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
QUY HOẠCH PHÂN KHU VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP QUY HOẠCH.    
Quy hoạch phân khu
Quy hoạch đô thị là một môn khoa học tổng hợp thuộc nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhân văn, địa lý, tự nhiên, kỹ thuật và nghệ thuật. Cốt lõi của quy hoạch xây dựng phát triển  đô thị là tổ chức không gian đô thị.
Quy hoạch đô thị hiện đại gắn liền với tên tuổi của Le Corbusier kiến trúc sư toàn diện, nhà lý luận  kiến trúc và quy hoạch chức năng nổi tiếng. Khoảng giữa năm 1920 - 1930 Le Corbusier đã cung cấp cho quy hoạch đô thị thế giới một tầm nhìn mới về quy hoạch phân khu, đặc biệt là trong quy hoạch các thành phố lớn.
Vài chục năm sau phương Tây và cộng đồng học thuật mới biết được rằng các lý luận quy hoạch hiện đại chủ nghĩa là mô hình quy hoạch không thích hợp có nhiều khiếm khuyết cố hữu mà thường kéo theo việc tạo ra môi trường buồn tẻ và không hấp dẫn về xã hội cần phải được điều chỉnh lại.
Đó là phân khu kiểu hình học (Euclidien zoning), nó được đặc trưng bởi sự được phân biệt về sử dụng đất trong các quận có địa lý cụ thể và các chuẩn về kích thước khuyến khích các giới hạn về các hoạt động phát triển trong từng loại quận. Về thuận lợi bao gồm các hiệu quả có liên quan, dễ thực hiện, tiền lệ về pháp lý đã được thiết lập thời gian dài và gần gũi. Tuy nhiên phân khu kiểu hình học đã có nhiều chỉ trích vì nó thiếu sự linh hoạt.
Giải pháp quy hoạch của các thành phố hiện đại có cơ cấu phân khu chức năng một cách quá rành mạch (ở, làm việc, giải trí, thể thao, vui chơi), những điều tưởng như logic, nhưng lại không biện chứng, không phù hợp với biện chứng cuộc sống luôn sinh động và hiện thực trong các đô thị.
Mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi quan hệ của các phần tử, các hệ thống hoặc các phân hệ được chứa đựng trong một thành phố luôn có sự liên hệ chồng chéo lên nhau. Điều đó không thể nào và không bao giờ phù hợp với các vỏ bọc mượt mà và ngăn nắp trật tự (hierarchy) mà các nhà kiến trúc quy hoạch dễ nhìn thấy, dễ nhận biết để công nhận đấy là logic.
Hơn 80 năm đã qua đi, sử dụng đất đã thay đổi và chính sách về phân khu cần thích nghi, xử lý trước và hướng dẫn các thay đổi. Trong vài ý nghĩa, phân khu không bao giờ kết thúc, nó luôn được đổi mới để đáp ứng các ý tưởng mới và các thách thức mới.
Quy hoạch phân khu và quy hoạch sử dụng đất có nghĩa là khoa học, nghệ thuật và trật tự sắp xếp về đất đai, nguồn lực, tiện nghi và dịch vụ với cách nhìn đảm bảo an toàn cho không gian vật chất, kinh tế, xã hội, sức khỏe và đô thị tốt.
Luật Quy hoạch Đô thị (2009) đã xác định “Quy hoạch phân khu là việc phân chia và xác định các chức năng, chỉ tiêu sử dụng đất quy hoạch đô thị của các khu đất, mạng lưới các công trình hạ tầng kỹ thuật, các công trình hạ tầng xã hội trong một khu vực đô thị nhằm cụ thể hóa nội dung quy hoạch chung”. Điều 18 quy định “Quy hoạch phân khu được lập cho khu vực trong thành phố, thị xã và đô thị mới”.
Quy hoạch đô thị hậu hiện đại ngày nay thì ngoài việc phân khu chức năng linh hoạt (flexibility), hợp lý (rationality) còn được quyết định nhiều hơn bởi các đại lượng như: vị trí địa hình, sự liên hệ giữa cảnh quan và nước, các di sản kiến trúc cần bảo tồn...
Cần linh hoạt liên hợp giữa các khu ở, làm việc và dịch vụ công cộng để tránh giao thông con lắc, giảm ách tắc giao thông tạo ra một cơ cấu đô thị hợp lý, nhất là trong quy hoạch tái tạo (regeneration) hoặc tái đô thị hóa (reurbanization) các khu đô thị cũ. Một thành phố sinh động phải là một bản liên hợp.
Cần linh hoạt kết hợp các phương pháp quy hoạch phân khu:
Phân khu thực hiện (Performance zoning) cũng được hiểu như là “quy hoạch tạo ra kết quả” (effects-based planning) được sử dụng như là cơ sở để thực hiện hoặc tiêu chí hướng tới mục tiêu để lập ra các thông số rà soát các dự án phát triển. Phân khu thực hiện có dụng ý cung cấp sự linh hoạt, hợp lý, minh bạch và trách nhiệm tránh sự độc đoán của cách tiếp cận kiểu hình học và thích nghi hơn với các nguyên tắc của thị trường và quyền tài sản tư nhân gắn với bảo vệ môi trường. Khó khăn là yêu cầu hoạt động thận trọng ở mức cao dựa trên  sự giám sát của chính quyền.
Phân khu khuyến khích (Incentive zoning) có ý định cung cấp một hệ thống tạo ra sự khuyến khích để thúc đẩy phát triển đáp ứng các mục tiêu phát triển đô thị được thiết lập. Điển hình là phương pháp này thiết lập sự hiểu biết cơ sở về giới hạn và phạm vi khuyến khích để hấp dẫn các nhà đầu tư phát triển kết hợp với các tiêu chí phát triển mong muốn. Phân khu khuyến khích cho phép linh hoạt ở mức cao nhưng phức tạp cho quản lý.
Phân khu tạo hình dạng (Form-based Zonning) cung cấp sự linh hoạt đáng kể hơn trong sử dụng công trình so với phân khu kiểu hình học. Phân khu tạo hình dạng không quy định các loại đất sử dụng, nhưng hình dạng tùy theo việc sử dụng đất có thể chấp nhận. Ví dụ, phân khu tạo hình dạng trong khu vực mật độ cao có thể khẳng định ít bị cản trở, mật độ cao và có các lối đi bộ.
Ngày nay đầu vào của quy hoạch phân khu phải là kết quả của sự hợp nhất 3E  (Equality, Economy, Environment): Công bằng xã hội, Kinh tế cạnh tranh và Môi trường bền vững có yêu cầu về không gian trong quy hoạch phân khu. Do vậy cần đổi mới về phương pháp quy hoạch.
Đối với thành phố quy hoạch phân khu có thể chia ra 5 vùng:
1. Khu vực xúc tiến di chuyển (Relocation Promotion Zone) khu trung tâm thành phố.
2. Khu vực phát triển có giới hạn (Restricted Development Zone) khu vực đô thị bao quanh khu trung tâm thành phố.
3. Khu vực khuyến khích phát triển (Encouraged Development Zone) các khu đô thị vệ tinh.
4. Khu vực bảo vệ môi trường thiên nhiên (Environmental Protection Zone) khu vực này dành cho rừng sinh thái cây xanh, đất nông nghiệp. Đây là vùng rừng tự nhiên, cảnh quan môi trường tự nhiên, di sản thiên nhiên cần được bảo vệ. Khu vực này cũng là đất dự trữ cho tương lai.
5. Khu vực phát triển đặc biệt (Special Development Zone) khu vực an ninh quốc phòng.
Đổi mới phương pháp quy hoạch 
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới cần đổi mới phương pháp quy hoạch tại Việt Nam để thành phố phát triển bền vững với 4 tiêu chí: 2 tiêu chí đầu ra là kinh tế cạnh tranh được (competitiveness) và điều kiện sống tốt (liviability) và 2 tiêu chí đầu vào là quản lý nhà nước tốt (good governance), tài chính ngân hàng lành mạnh (bankability).
Quy hoạch chiến lược hợp nhất (integrated strategic planning) và phương pháp quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng (participatory approach) ra đời từ thập niên 1990 thế kỷ trước đã đáp ứng được yêu cầu nêu trên.
Đây là đề xuất của dự án quốc gia VIE/95/051 “Tăng cường năng lực quy hoạch và quản lý đô thị TPHCM” do UNDP tài trợ trong 3 năm 1996-1998, đã được UBND TP. HCM chấp thuận nhưng tới nay vẫn chưa thể đưa vào thực hiện,
Tuy nhiên quy hoạch chiến lược hợp nhất không thay thế được quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng đô thị và quy hoạch quản lý môi trường đúng hơn là quy hoạch chiến lược như một cái dù bao trùm lên các loại quy hoạch nêu trên. Do vậy cần giao cho một đơn vị đứng ra là  đầu mối  hợp nhất  các bản quy hoạch nêu trên.
Quy hoạch chiến lược hợp nhất là sự hợp tác về mặt tổ chức giữa Nhà nước, cộng đồng và doanh nghiệp theo phương pháp quy hoạch có sự tham gia. Điều đó là sức mạnh để huy động các nguồn lực và phối hợp hành động trên diện rộng, là công cụ quản lý của chính quyền, đã thay đổi từ quan niệm “lập quy hoạch thành phố” sang “thành phố lập quy hoạch”.
Quy hoạch chiến lược hợp nhất sẽ tìm ra vùng chung/ tiếng nói chung của các bản quy hoạch hội đủ các mục tiêu phát triển bền vững.
Trên cơ sở phân tích SWOT hiện trạng: mạnh (strongs), yếu (weakness), của môi trường bên trong (internal environment) và cơ hội (opportunities), thách thức (threats) của môi trường bên ngoài (external environment) đối chiếu với các mục tiêu phát triển bền vững hướng tới tầm nhìn tương lai  để tìm ra các chiến lược phát triển, đây là đầu ra của quy hoạch chiến lược hợp nhất.
Từ các chiến lược phát triển sẽ có rất nhiều dự án và các nhu cầu về không gian, đó chính là đầu vào cho quy hoạch xây dựng đô thị.
Phát triển đô thị ngày nay trong cơ chế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa là kết quả của thị trường, trong đó có hàng trăm, hàng ngàn các dự án với các quyết định của các nhà đầu tư tư nhân và cá nhân do vậy quy hoạch chỉ như là một công cụ hỗ trợ và điều tiết theo sự phát triển của các dự án.
Quy hoạch thực chất chỉ là dự báo, dự báo thì không bao giờ thành hiện thực hoàn toàn dù đó là dự báo của các nhà quy hoạch tài giỏi nhất do vậy quy hoạch cần có cơ chế  thường xuyên được điều chỉnh theo sự phát triển của dự án kể cả quy hoạch phân khu chức năng và quy hoạch chi tiết.
(Ở Pháp 1 năm điều chỉnh 3 lần, còn ở nước ta 3 năm mới điều chỉnh 1 lần, khó thích nghi với cơ chế thị trường ?).
Phương pháp quy hoạch chiến lược hợp nhất hướng tới khắc phục những nhược điểm của QH ĐT hiện đại (hay truyền thống) như tính toàn diện, linh hoạt, hành động thay vì lý thuyết, tập trung vào quy trình thay vì sản phẩm, có sự tham gia của cộng đồng... do vậy cần sớm được triển khai ở nước ta.
Tài liệu tham khảo:
1. A city is not a tree - Chiristopher, Architechtural Forum-1965.
2. Từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch chiến lược - VIE/95/051, 1998.
 3. Hướng tới sự tham gia của nhiều thành phần trong quản lý và phát triển đô thị -VIE/95/051, 1998.
4. Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị - Nguyễn Thế Bá, NXB Xây dựng, 2004
5. Vùng đô thị châu Á& TP HCM- Nguyễn Minh Hòa, 2005.
6. Quy hoạch đô thị theo đạo lý châu Á - William S.W. LIM, NXB Xây dựng, 2007
7. Kiến trúc sẽ trở thành vấn đề thứ yếu - Albert Speer, 2010.
8. Những chiến lược của các vùng đô thị lớn - Thách thức, quyền lực và quy hoạch - Gilles Antier, 2010.
9. Kinh nghiệm quốc tế trong đổi mới phương pháp quy hoạch đô thị đương đại - Ngô Trung Hải & Lưu Đức Cường, 2011.
10. Zonning Plan - Robert van Nouhuys 2011.
11. Nghiên cứu phát triển nội dung quy hoạch phân khu theo Luật Quy hoạch Đô thị tại TP. HCM - Nguyễn Trọng Hòa, 2011.
12. Thực tiễn áp dụng và đề xuất phương hướng triển khai quy hoạch phân khu tại Hà Nội - Lã Thị Kim Ngân, 2010.
13. Các bài viết đã đăng trên Tạp của của Nguyễn Đăng Sơn.
Nguyễn Đăng Sơn - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu ĐT & PTHT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.