DALATARCHI- DÒNG CHÚA CỨU THẾ- VIỆN SINH HỌC TÂY NGUYÊN
HỌC VIỆN DÒNG CHÚA CỨU THẾ ĐÀ LẠT
TP. ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG, VIỆT NAM
Giống như một tòa lâu đài trong chuyện cổ tích, nằm cách trung tâm thành
phố Đà Lạt về phía bắc gần 10 km trên đường đi Suối Vàng và Thủy điện
Aroeket, trên ngọn đồi thông Tùng Lâm cao 1.548m.
Rồi men theo con đường khoảng 500m uốn quanh cánh rừng thông qua một sân
rộng rãi và bằng phẳng, có tầm nhìn thoáng đãng tới một tòa nhà đá lớn
cổ kính làm liên tưởng đến một tòa lâu đài bên Châu âu.
Thật
vậy, đây là một công trình theo kiểu kiến trúc mới, mang bố cục hình
khối đối xứng, cao 4 tầng với môt tầng hầm ở về phía sườn đồi thấp. Mặt
ngoài, phần lớn được xây ốp đá kiểu, tạo cảm giác rất vững chắc và bề
thế.
Lối vào chính nằm giữa trục chính của toà nhà, được nhấn mạnh bằng khối
mái đón vươn hẳn ra ngoài, được đỡ bằng 2 trụ xây đá kiểu vừa to vừa
mạnh mẽ. Nổi cao lên ở mặt tiền có cây thánh giá và dòng chữ tiếng La
Tinh: “COPIOSA APUD EUM REDEMPTIO”.
Học viện này được các Cha DCCT người Canada và các tu sĩ người Việt Nam
xây dựng trong vòng gần 4 năm từ năm 1949 và hoàn thành vào năm 1952.
Đây là công trình được thiết kế theo lối kiến trúc mới, với kiểu cách bố
trí ấm cúng và trang nghiêm theo cấu trúc của các tu viện Châu Âu.
Bước
vào cửa chính của ngôi nhà. Một bảng bằng đá được khắc bằng chữ Latinh
ghi ngày khánh thành của ngôi nhà. Cửa chính của ngôi nhà vẫn nguyên
vẹn, ổ khóa vẫn dùng “La partout – mọi nơi”, một loại ổ khóa được dùng
cho DCCT toàn thế giới.
Bên trong, mọi thứ hầu như vẫn còn nguyên vẹn không bị thay đổi, những
cột tường bằng đá, những hàng cây xếp thẳng đứng và nghiêm trang ở nơi
này đã 60 năm qua.
Thiết kế ban đầu của Tòa nhà là tầng đầu tiên dành cho các thầy học
Triết học, tầng thứ hai dành cho cho thầy Thần Học. Ở hai đầu là phòng
đọc sách, phòng sinh hoạt chung, và phòng của cha Giuse Nguyễn Thế
Thuấn, giáo sư Thánh Kinh, và là người đầu tiên ở Việt Nam dịch Thánh
Kinh từ nguyên ngữ ra tiếng Việt. Tại Học Viện này, các linh mục và tu
sĩ DCCT có những đóng góp đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu cũng dịch
thuật Thánh Kinh và các bản văn phụng vụ của Giáo hội. Bộ Kinh Thánh
Cựu – Tân Ứớc đã được cha Gérard Gagnon (tên việt Nam là cha Nhân) dịch
ra tiếng Việt và phổ biến rộng rãi cho các tín hữu. Có thể nói, cha Nhân
là một trong những người đầu tiên hoàn tất công việc chuyển ngữ trọn bộ
Kinh Thánh sang tiếng Việt, tuy chưa phải là bản chuyển ngữ từ nguyên
ngữ gốc.
Các căn phòng ngày xưa của nhà dòng được bố trí giản đơn gồm một chiếc
bàn quỳ, một kệ đặt bàn thờ, một chiếc giường nhỏ, một cái bàn. Hiện
nay, Tòa nhà vẫn ở trạng thái hoàn chỉnh như thiết kế ban đầu. Bên trong
vẫn còn nguyên các bảng lớn bằng gỗ ghi tên và các giờ lễ, lịch giảng
của các cha…
Ở tầng trên cùng, gần mái, nơi ban nhạc Alleluia năm xưa đã dùng làm nơi
tập luyện vào thập niên 60. Nơi xuất phát tất cả những bài ca Vào đời
do các thầy Học Viện lúc đó sáng tác với nguồn cảm hứng từ Kinh Thánh.
Nhóm Alléluia đã giới thiệu một khuôn mặt mới của Giáo hội với dân Chúa,
nhất là với giới trẻ và áp dụng các nhạc cụ “đời” như đàn, guitar,
trống, kèn vào nhà thờ vào có những ảnh hưởng nhất định vào thời kỳ đó
tuy cũng có nhiều thành kiến phản đối. Những bản Vào Đời của nhóm
Alléluia đến nay vẫn được yêu mến: Vào Đời, Xuất Hành, Trên Đường
Emmaus, Alléluia Hát Lên Người Ơi!, Quê Hương Thượng Đế …
Lần
trở ngược lại lịch sử, vào nhưng năm 1949 và năm 1950, cha Alphonse
Tremblay, Bề trên Giám phụ tỉnh, đã di chuyển Học viện Dòng Chúa Cứu Thế
Việt Nam vào Ðà Lạt, tiếp tục đường lối đào tạo đã được thực hiện tại
Học viện Thái Hà Ấp, đào tạo các linh mục, tu sĩ cho Dòng Chúa Cứu Thế
Việt Nam và cho Giáo hội Việt Nam. Các sinh viên Học Viện đã trực tiếp
góp tay xây dựng toà nhà đồ sộ và khang trang này.
Viện sinh học Tây Nguyên nằm trên đồi Tùng Lâm, cách trung tâm TP Đà Lạt (Lâm Đồng) khoảng 7 km. Đây vốn là tu viện thuộc dòng Chúa cứu thế của Việt Nam, được sử dụng vào hoạt động nghiên cứu sau năm 1975.
Công trình nằm giữa rừng, đường lên men theo triền dốc với hai hàng thông thẳng tắp. Tu viện xây dựng năm 1949 và hoàn thành sau ba năm. Khu nhà được thiết kế theo lối kiến trúc mới, với phong cách tu viện châu Âu.
Khi xây dựng, tu viện là công trình bằng đá kiên cố thứ hai tại Việt Nam, sau nhà thờ Phát Diệm. Ngay chính giữa tòa nhà là cây Thánh giá với dòng chữ bằng tiếng Latin “Copiosa Apud Eum Redemptio”, nghĩa là “Ơn cứu độ chứa chan nơi Người”.
Viện sinh học gồm 5 tầng với 120 phòng lớn nhỏ. Riêng tầng thứ hai làm bảo tàng chuyên về sinh thái. Bảo tàng có 7 gian trưng bày và 6 phòng lưu trữ. Từng gian phòng được chia thành nơi trưng bày các loài thuộc lớp thú, chim, bò sát, thảm thực vật…
Bộ sưu tập nổi bật của bảo tàng là 386 mẫu thú thuộc 58 loài, trong đó có 38 loài quý hiếm đã được công bố trong sách Đỏ Việt Nam.
Bên cạnh các loài thú, bảo tàng còn lưu giữ 245 mẫu của 95 loài chim; các mẫu của hơn 30 loài lưỡng cư, bò sát… Nhiều loài mang nét đặc trưng riêng của khu vực Tây Nguyên.
Ngoài ra, bảo tàng còn trưng bày 245 mẫu nấm lớn của 240 loài thuộc khu vực rừng thông Lâm Đồng.
Các tiêu bản đa dạng, trình bày sinh động từ những loài côn trùng đến muông thú. Một vài loài đã tuyệt chủng vẫn lưu giữ bộ xương hoàn chỉnh.
Tiêu bản chim già đãy, một loài được xếp trong danh mục sách Đỏ động vật Việt Nam được trưng bày sinh động.
Vẻ đẹp cổ kính của bảo tàng khiến nơi đây là điểm chụp hình cưới, “sống ảo” của nhiều du khách. Mỗi ngày, có hàng chục đôi đến đây lưu lại khoảnh khắc kỷ niệm. “Nơi này có không gian rộng rãi, yên tĩnh mà kiến trúc tựa như tòa lâu đài cổ kính châu Âu, rất hợp để chụp ảnh cưới. Khách cũng không mất phí chụp, chỉ phải mua vé vào cổng 15.000 đồng thôi”, anh Thiện Chánh (thợ ảnh) cho biết. Ngoài ra, những hành lang sâu hun hút, cầu thang rêu phong, bức tường đá cổ điển… trở thành phông nền sáng tác ảnh độc đáo của giới trẻ.
Theo Quỳnh Trần/ vnexpress
----------------
Phân viện Sinh học Đà Lạt.
Viện Sinh học Tây Nguyên nguyên là tu viện Dòng Chúa cứu thế,
nằm ở phía tây bắc thành phố Đà Lạt, trên một ngọn đồi ở độ cao 1548m, thuộc khu đất
có diện tích 35ha, do Jean O’Neill khai thác từ năm 1925. Năm 1942,
ông Jean Baptiste Cassaigne, Giám mục Sài Gòn đứng tên mua lại.
Năm 1948, các cha Dòng Chúa cứu thế khởi công xây dựng tu viện này,
đến năm 1952 hoàn thành. Đường dẫn từ đường chính vào tu viện dài
hơn 500m tiếp cận một sân rộng rãi và bằng phẳng, có tầm nhìn
thoáng đảng. Công trình theo kiểu kiến trúc mới, nhưng có bố cục
hình khối đối xứng, cao 4 tầng với một tầng hầm ở về phía sườn đồi
thấp. Mặt ngoài, phần lớn được xây ốp đá, tạo cảm giác
vững chắc và bề thế. Lối vào chính nằm giữa trục chính của toà nhà,
được nhấn mạnh bằng khối mái đón vươn hẳn ra ngoài, được đỡ bằng 2
trụ xây đá kiểu vừa to vừa mạnh mẽ. Nổi bật ở mặt
tiền là cây thập giá với hai dòng chữ bằng tiếng Latin: ”Copiosa Apud Eum Pedemptio”, có nghĩa: “Ơn cứu độ chan chứa nơi Ngài”.
Các tiện nghi kỹ thuật rất hiện đại vào thời đó: sử dụng hầm khí
sinh vật (biogaz) cung cấp khí đốt, hệ thống bơm nước từ thung
lũng suối đưa lên công trình.
Sau ngày đất nước thống nhất, chính quyền
địa phương đã dùng cơ sở này cho các hoạt động công ích. Đến ngày 5-9-1978, công
trình được chuyển giao cho Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Đà Lạt.Sau vài lần
thay đổi đơn vị quản lý, đến năm 1991 nơi đây được chuyển giao cho Viện
Sinh học nhiệt đới trực thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
và trở thành Phân Viện Sinh học tại Đà Lạt.
Phân Viện Sinh học có chức năng nghiên cứu hoá học, nghiên cứu vi sinh,
nghiên cứu thực vật và công nghệ sinh học nuôi cấy mô... Ngoài ra, Phân
Viện Sinh học còn hoạt động như một bảo tàng nhằm giới thiệu những loài
đặc hữu tại Tây Nguyên và Lâm Đồng gồm bảo tàng động vật và vườn thực
vật phục vụ tham quan và du lịch.
-------------
Người chủ trương xây dựng Học viện tại Đalat là cha A, Tremblay. Khi
ngài được đề cử làm Bề trên Phụ tỉnh thay thế cha E. Dionne thì coi như
vấn đề không còn thắc mắc gì nữa. Ngày 8-12-1947, cha Tremblay bước vào
thực hiện dự án.
Từ 8-11 đến 2-12-1948, cha Lapointe cùng với cha Phêrô Nguyễn Xuân Lộc
người chuyên về địa chất vẽ bản đồ của sở đất, quy hoạch nơi xây dựng
nhà, chỗ làm vườn, tài sản có thể khai thác, suối nuớc…. Kiến trúc sư
Hokayen nhận công trường vào tháng 10-1942, nhà thầu Aubert đại diện cho
ông Hokayen đến công trường vào tháng 11. Cha G. Trempe đưa 61 người
thợ từ Huế vào. Sau đó là ông Raoul thay thế ông Aubert. Mấy nhà thầu
khác nối tiếp: Meslier, Gaudier.
Ngày 6-2-1950, cha Antoine Lapointe lãnh trách nhiệm trông coi công
trường. Cha Francois Laliberté làm Bề trên. Công việc tiến triển chậm.
Thiết kế điện do ông Saudreau trách nhiệm.
Đó là thời gian mà Học viện, nhà Tập được chuyển từ Hanội vào Saigon rồi
lên Đalat, ở tại Cité des Pics. Khi còn chưa xong, Học viện và nhà tập
đã về nhà mới, trả lại những biệt thự đã thuê từ nhiều năm nay. Nhà mới
được vinh dự đón tiếp cha Bề trên Tỉnh đến kinh lược.
Nhà Nguyện và nơi ở của các cha các thầy lo việc xây dựng nhà Đàlạt
“CHRISTO REDEMPTORI
FIDE, SPE
DILECTIONEQUE MAXIMA
HOC OPUS EDIFICII
IN SAECULA DEDICATUM EST
XVI – VII – MCML”
Dâng về Đức Kitô Cứu Thế
Bởi Tin cậy và lòng Yêu mến lớn lao
Công trình nhà này được xây dựng đến muôn đời.
16-7-1950
Ngày nay, ở cách trung tâm thành phố bảy cây số về hướng Bắc, trên một ngọn đồi thông già, có một khối nhà bề thế, cao bốn tầng cộng một tầng hầm, với bờ tường ốp đá, kiến trúc đối xứng và vững chãi. Đường vào dài hơn trăm mét, lát đá và tráng nhựa, có rào dây leo kín, len dưới hai hàng cây tịch mịch. Tâm điểm mặt tiền tòa nhà có khung hiên lồi, mặt chính diện khối vuông giật cấp, đỉnh cao có hình khối cây thập tự, bên dưới có hàng chữ Latin đắp nổi COPIOSA APUD EUM REDEMPTIO (nghĩa là: Ơn cứu độ chứa chan nơi Ngài).
Học viện Dòng Chúa cứu thế Đà Lạt, 1957. Ảnh: Nguyễn Bá Mậu
Một thời người Đà Lạt quen gọi đây là “Phân Viện Sinh học”. Thực ra, đây là cách nói rút gọn những cơ quan sử dụng công trình này ở vào giai đoạn sau 1975. Mãi gần đây, lai lịch của nó được phát lộ qua nhiều mảng sử liệu, cái tên Học viện Dòng Chúa cứu thế mới được nhắc nhớ trở lại.
Học viện này có một gốc gác khá kỳ lạ.
Đến từ Canada
Khác với hình dung các nhà thừa sai ở Tây Nguyên thường đến từ nước Pháp, thì Dòng Chúa cứu thế Đà Lạt khởi đi từ các cha dòng người Canada.
Trước hết, cần lật lại những dấu chân tiên khởi của Dòng Chúa cứu thế trên đất nước Việt Nam.
Theo bộ Lịch sử Phát triển Công giáo Việt Nam của Trương Bá Cần, Dòng Chúa cứu thế “đã được thành lập trước hết ở Huế năm 1925 và từ Huế các linh mục của dòng người Canada đã ra Bắc Kỳ, hoạt động giảng đại phúc vào năm 1928; đã có dự án xây dựng cơ sở ở Hà Nội”.1
Trong phúc trình các năm 1930, 1931 và 1938, Đức Giám mục phó Chaize đều ghi nhận những bước tiến trong việc phát triển cơ sở Dòng Chúa cứu thế tại Hà Nội, đặc biệt là việc xây tập viện (noviciat) và học viện (scholasticat) xinh đẹp tại Thái Hà Ấp. Năm 1939, niên giám Dòng Chúa cứu thế Hà Nội ghi lại rằng có 12 linh mục Canada, chín trợ sĩ (hai người Canada và bảy người Việt, bảy sinh viên triết học (hai người Canada, năm người Việt) và 16 sinh viên thần học.2
Dòng Chúa cứu thế từ Huế triển khai vào Nam cũng được Cha Giám tỉnh Sainte Anne de Beaupré chú trọng. Cơ sở ban đầu được tính toán có thể đặt ở Sài Gòn hoặc Đà Lạt, nhưng rồi Sài Gòn là nơi được hiện thực hóa từ đầu thập niên 1930.
Cụ thể, các cha Dòng Chúa cứu thế đã được giao chăm sóc việc thiêng liêng cho một cộng đoàn tín hữu ở khu vực Khánh Hội. Ngày 7/10/1933, cha Patrick Murray – Bề trên Tổng quyền Dòng Chúa cứu thế – ký Quyết định thành lập Nhà Sài Gòn.
Một năm sau, Bề trên phụ tỉnh Huế Edmond Dione được bổ nhiệm kiêm luôn Bề trên Nhà Sài Gòn; Nhà Sài Gòn trở thành trụ sở của phụ tỉnh đặt ở 163 đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng ngày nay).
Đến năm 1937 thì Dòng Chúa cứu thế mua thửa đất ở đường Kỳ Đồng. Một tu viện được xây dựng vào tháng cuối 10/1938. Tu viện Dòng Chúa cứu thế ở đường Kỳ Đồng thánh hiến ngày 14/4/1940, sau khi khánh thành một năm. Trụ sở mới này trở thành trụ sở chính của Dòng Chúa cứu thế Việt Nam.3
Hoạt động truyền giáo của Dòng Chúa cứu thế tại Sài Gòn lan tỏa rộng ra các tỉnh Nam Kỳ trong khoảng 10 năm, từ 1934 đến 1942.
Từ 1943, cuộc Thế chiến thứ hai đã tạo ra những biến động chính trị, văn hóa và tôn giáo trên toàn khu vực Đông Dương, làm gián đoạn hoạt động của những dòng tu đến từ phương Tây, trong đó có Dòng Chúa cứu thế. Sau Thế chiến thứ hai, thì sinh hoạt truyền giáo và nghiên cứu của dòng này trở lại bình thường.
Học viện Dòng Chúa cứu thế Đà Lạt 2005. Ảnh: Nguyễn Bá Trung.
“… một mẩu Canada rơi xuống giữaViệt Nam”
Thật ra, vào cuối thập niên 1920, khi Đà Lạt đang dần thành hình với những công trình hạ tầng tiên khởi, thì đã xảy ra một cuộc tranh luận giữa các cha Dòng Chúa cứu thế Canada về việc nên hay không nên xây dựng một tu viện ở Đà Lạt.
Cũng như cuộc tranh luận ban đầu trong chính quyền thuộc địa về việc nên hay không nên thiết lập một thành phố trên vùng cao nguyên này, các vấn đề như khí hậu, bệnh nhiệt đới hay sự hiện diện của người bản địa với tư cách là đối tượng tiếp nhận tin mừng, đích đến của quá trình truyền giáo… được đặt cân nhắc hơn thiệt. Nhưng cuối cùng, Dòng Chúa cứu thế, cũng như Tu hội Nữ tử Bác ái Vinh Sơn, Đan viện Benedict, Dòng nữ Đức Bà Paris… đều chịu một lực hút đặc biệt từ một thành phố “Đất hứa của Công giáo”, cánh đồng truyền giáo trên cao nguyên trong thập niên 1940-1950. (Tập Kỷ yếu Chu niên của Địa phận Đà Lạt năm 1961 thì gọi Đà Lạt là “tuyển địa của các dòng tu”, “một chân trời vinh quang chờ đón” đối với các nhà truyền giáo!).
Eric T. Jennings, tác giả cuốn Đỉnh cao đế quốc đã tiếp cận được văn khố truyền giáo của các cha Dòng Chúa cứu thế từ Đông Dương chuyển về trụ sở chính ở thánh đường Sainte Anne de Beaupré, phía Đông thành phố Québec (Canada), chỉ ra rằng, cuối cùng những tu sĩ ủng hộ cho việc xây dựng một học viện để nghiên cứu Công giáo, đồng thời thực thi sứ vụ truyền giáo ở Đà Lạt đã thành công. Dòng Chúa cứu thế đã mua được một khu đất nằm giữa Đà Lạt và Dankia.
Năm 1946, theo trích dẫn của nhà nghiên cứu Canada nói trên, thì cha Georges Galipeau viết trong một bức thư gửi về Canada vẫn khẳng định: “Đà Lạt rất lý tưởng cho công việc trí óc. Ở độ cao 1.700 mét (?), Đà Lạt xét về khí hậu cũng như thực vật, giống như một mẩu Canada bị rơi xuống giữa Việt Nam”.4
Cuối thập niên 1940, Bề trên Giám phụ tỉnh Dòng Chúa cứu thế Alphonse Tremblay đã có quyết định di chuyển Học viện Dòng Chúa cứu thế Việt Nam từ Hà Nội vào Ðà Lạt, tiếp nối phương thức và mục tiêu đào tạo của học viện cơ sở Thái Hà Ấp. Một học viện mới được xây trên ngọn đồi phía Bắc trung tâm thành phố Đà Lạt, trước đây từng là đất của chủ đồn điền Pháp Jean O’Neill nhượng lại cho cha Jean Baptiste Cassaigne.
Công trình được xây trong bốn năm, từ năm 1949 đến 1952 theo lối kiến trúc hình khối có sắc thái tân kỳ kết hợp chi tiết trang trí tường đá và ô cửa âm kiểu tu viện phương Tây, toát lên vẻ hiện đại nhưng thâm trầm. Đây sẽ là nơi tiếp tục đào tạo linh mục, tu sĩ cho Dòng Chúa cứu thế Việt Nam và giáo hội Việt Nam đồng thời là không gian nghiên cứu thần học và triết học, dịch thuật Kinh thánh.
Cuối thập niên 1950, Đà Lạt được bổ sung thêm một học viện nghiên cứu học thuật của Công giáo nữa, cũng bề thế quy mô không kém, đó là Giáo hoàng Học viện Thánh Pio X, đưa thành phố này vào tâm điểm của nghiên cứu Thần học ở châu Á.
Theo nhà nghiên cứu Charles Keith trong cuốn Catholic Vietnam: A Church from Empire to Nation (Công giáo Việt Nam từ Đế quốc đến Quốc gia), Công giáo ở Việt Nam diễn ra quá trình “Việt Nam hóa” trong các thập niên 1950-1970. Điều này có thể nhận thấy ở Dòng Chúa cứu thế tại Việt Nam nói riêng và tại Đà Lạt nói chung.
Không gian Học viện Dòng Chúa cứu thế Đà Lạt, 2020. Ảnh: Sam Sam.
Về truyền giáo, sau khi lập học viện ở Đà Lạt, thì “các cha Dòng Chúa cứu thế cũng tham gia vào cơn sốt cải giáo người Thượng trong vùng Đà Lạt thập niên 1950”5. Cũng như Marius Boutary hay Octave Lefèvre – các vị thừa sai Pháp cùng thời, bên cạnh việc truyền giáo còn tham gia đóng góp, mở mang văn hóa, giáo dục và chăm sóc y tế cho dân bản địa.
Về hoạt động học thuật, trong thập niên 1960, 1970, Học viện Dòng Chúa cứu thế Đà Lạt là nơi nghiên cứu, biên khảo, dịch thuật các công trình kiệt xuất về thần học, Kinh thánh của những tu sĩ người Việt. Những tên tuổi đã từng có quá trình nghiên cứu và để lại trước tác trong không gian học viện này: Stephano Nguyễn Tín, Inhacio Bùi Quang Diệm, Joseph Nguyễn Thế Thuấn, Paul Nguyễn Ngọc Lan,…
Nhiều danh tác, dịch phẩm của họ có vai trò quan trọng trong nghiên cứu và phổ biến kinh thánh tại Việt Nam, có giá trị cho đến hôm nay.
Tu viện của lãng quên
Ngày nay, trong khuôn viên của tòa nhà học viện của lãng quên, dưới những tán cây tùng, bách xanh mát, vẫn còn tám mộ phần của các cha dòng người Canada và vị học giả, giáo sư thánh kinh người Việt: linh mục Nguyễn Thế Thuấn. Đó là dấu tích thiêng liêng còn lại. Bên trong khung nhà đã có nhiều phần cải tạo chức năng, vẫn sót lại khu nội viện gồm cung thánh, thư viện, phòng đọc sách và nghiên cứu, những dãy ban công tĩnh tại hướng ra đồi thông lý tưởng cho những buổi tĩnh tâm, chiêm niệm.
Sau sự kiện 30/4/1975, cũng như nhiều tu viện, học viện, nhà dòng trong thành phố Đà Lạt, Học viện Dòng Chúa cứu thế đã được chính quyền mới tiếp quản. Công trình này lần lượt được giao cho Phân viện Sinh học tại Đà Lạt (từ 1978), Phân viện Sinh học Tây Nguyên sử dụng (từ 2008) và Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên (trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, từ 2013) sử dụng.
Khi đời sống du lịch Đà Lạt phát triển ồ ạt, một số góc có tầm nhìn đẹp của trung tâm này được “cải tạo” làm quán cà phê dừng chân, bảo tàng sinh học phục vụ khách tham quan bên cạnh duy trì các phòng ban chuyên môn nghiên cứu: công nghệ vi sinh, thực vật, tài nguyên thực vật, hóa hợp chất thiên nhiên, sinh học phân tử và tạo giống cây trồng.6
Đây trở thành một điểm check-in trong các chương trình tour du lịch trong thành phố nhờ sở hữu một không gian thâm nghiêm cổ kính và đồi cây xanh lâu năm.
Một Đà Lạt với chức năng đặc khu giáo dục và học thuật hôm qua đã chuyển dịch hoàn toàn sang hướng du lịch đại chúng. Một công trình học viện tôn giáo không thoát khỏi số phận chung của đô thị. Những viên đá dựng ngôi đền Phúc âm trên đồi thông của các tu sĩ, linh mục Dòng Chúa cứu thế đến từ Canada đã phủ những lớp rêu dày phôi pha qua thời gian. Âm hưởng thánh ca từ những giờ kinh nguyện trong quá khứ đôi khi còn đồng vọng đâu đó qua tiếng gió vi vút trên vòm thông những hôm mây gió âm u và giá lạnh.□
——
Chú thích
1 Trương Bá Cần. Lịch sử Phát triển Công giáo ở Việt Nam. Tập 2: Lịch sử thử thách và phát triển – Từ đầu thế kỷ XIX đến mùa Thu năm 1945. NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2008. Tr. 480.
2 Trương Bá Cần. Sđd. Tr. 481.
3 Trương Bá Cần. Sđd. Tr. 341.
4 Galipeau (10-1946). Văn khố Dòng Chúa Cứu Thế tại Québec, thùng 6, Lettres Dalat. Theo: Eric T. Jennings. Đỉnh cao Đế quốc – Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp. Phạm Viêm Phương và Bùi Thanh Châu dịch, Trần Đức Tài hiệu đính. NXB Hồng Đức, 2015. Tr. 371.
5 Jennings. Sđd. Tr. 376.
6 Theo website của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (vast.gov.vn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.