Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

A Functional City?


A Functional City?
Architecture, Planning, Zoning, and Their Critics




[In Dalat] French determination has created an elegant and harmonious town,  developed in such a way that it has become a veritable little paradise, in a setting  of flowered gardens and pine trees.. . . In designing the town, we avoided  pretentious and unattractive buildings. Everywhere, delectable villas hide behind lovely gardens, gardens full of flowers from Europe. Roads are wide, asphalted,  and offer breathing room. On the vast artificial lake’s limpid waters, majestic swans swim by. Tennis courts and a perfectly conceived golf course add a sporting note to the resort.

“PHYSIONOMIE DE DALAT EN 1937”

So rhapsodized a French journalist for L’Asie nouvelle in 1937. To that commentator at least, Dalat emblematized French rationality, determination, good taste, and quaintness. In other words, Dalat offered much more than just tiger and gaur hunts, the spectacle of highland minority peoples put on display for tourists, a luxury hotel, and a pristine natural setting evoking Europe; it was above all a perfectly designed new resort, where French urban planning made possible a “little paradise,” an escapefrom the tropics. It is noteworthy that the above passage, which dwells so insistently on Dalat’s inherent Frenchness—reflected in its vegetation, its aesthetics, and its amenities—fails to make the slightest mention of either local highland minorities or Vietnamese people. This chapter will focus on  the themes exposed or suggested in the above quotation: the process of urban planning, the attempt to segregate the Vietnamese at Dalat, as well as questions of style, unity, and modernity.1


Trước đây, một nhà báo Pháp trong tạp chí L' Asie nouvelle năm 1937. Để bình luận rằng ít nhất, Đà Lạt (emblematized) tượng trưng sự hợp lý kiểu Pháp, quyết tâm, hương vị tốt, và sự kỳ lạ (quaintnes). Nói cách khác, Đà Lạt cung cấp nhiều hơn chỉ là đi săn hổ và bò tót, những cảnh tượng của các dân tộc vùng cao thiểu số đặt trước mắt du khách du, khách sạn sang trọng, và một khung cảnh thiên nhiên hoang sơ gợi hình ảnh châu Âu, trên tất cả một khu nghỉ mát mới được thiết kế hoàn hảo, nơi các nhà quy hoạch đô thị Pháp thực hiện có thể là một " thiên đường nhỏ ", một nơi trốn tránh cái nóng vùng nhiệt đới. Đáng chú ý là đoạn trên , mà ngự nên khăng khăng trên Đà Lạt vốn có Frenchness được phản ánh trong thực vật của nó, tính thẩm mỹ của nó, và nó tiện nghi - không thực hiện đề cập đến nhỏ của một trong hai dân tộc thiểu số vùng cao địa phương hoặc người dân Việt Nam. Chương này sẽ tập trung vào các chủ đề tiếp xúc hoặc đề xuất trong báo giá ở trên: quá trình quy hoạch đô thị, nỗ lực để phân biệt người Việt Nam tại Đà Lạt, cũng như câu hỏi của phong cách, sự đoàn kết, và modernity.
1. Much ink has been spilled on colonial planning and architecture since 1965 when Janet Abu Lughod bemoaned that the topic remained utterly uncharted.
2. This chapter will consider the chasm between architectural and spatial discourses on the one hand, and practices on the other. To be sure, there was a guiding principle at Dalat: colonial segregation—but even its implementations gave rise to tensions of all sorts. The most prominent studies on French colonial urbanism to date suggest that the colonies represented “testing grounds” where “master plans” (often unimaginable in the metropole) could be carried out.
3 .While Dalat certainly saw its share of master plans in the colonial era—five to be precise—their implementation proved a messy affair. Budget constraints, local pressure groups, and villa owners challenged imposed visions. The Vietnamese bourgeoisie publicly opposed schemes to cordon it off. Freshly created councils endlessly debated questions of style and good taste. There is, in other words, a major paradox between Dalat the quintessentially planned resort—designed from nil—and the chaos or at least dissonances that often seemed to result. In order to investigate this tension, one needs to examine more than the master plans themselves, and delve into municipal council minutes, press reactions, and petitions, reading each against the grain.

1. Nhiều mực đã được đổ về quy hoạch và kiến trúc thuộc địa từ năm 1965 khi Janet Abu Lughod than vãn rằng chủ đề này vẫn hoàn toàn uncharted.
2. Chương này sẽ xem xét sự cách biệt giữa thuyết kiến trúc và không gian trên một mặt, và thực tiễn về việc khác. Để chắc chắn, có một nguyên tắc hướng dẫn tại Đà Lạt: thuộc địa phân biệt chủng tộc, nhưng ngay cả hiện thực của nó đã dẫn đến những căng thẳng của tất cả các loại. Các nghiên cứu nổi bật nhất trên đô thị thuộc địa Pháp cho đến nay cho thấy các thuộc địa đại diện cho " căn cứ thử nghiệm ", nơi " quy hoạch " (thường không thể tưởng tượng trong Metropole ) có thể được thực out.
3. Trong khi Đà Lạt chắc chắn đã nhìn thấy thị phần của kế hoạch tổng thể trong thời kỳ thuộc địa - năm để được chính xác - của họ thực hiện đã chứng minh một vụ lộn xộn. Hạn chế ngân sách, các nhóm áp lực địa phương, và chủ sở hữu biệt thự thách thức đối với tầm nhìn. Giai cấp tư sản Việt Nam công khai phản đối phương án Cordon nó đi. Hội đồng vừa tạo không ngừng tranh luận các vấn đề về phong cách và hương vị tốt . Có, nói cách khác, một nghịch lý lớn giữa Đà Lạt các kế hoạch tinh túy khu nghỉ mát được thiết kế từ con số không và sự hỗn loạn hoặc ít nhất là dissonances thường dường như kết quả. Để điều tra sự căng thẳng này, cần kiểm tra hơn so với kế hoạch tổng thể mình, và đi sâu vào phút hội đồng thành phố, phản ứng báo chí, kiến nghị, đọc từng chống lại grain.


URBAN MASTER PLAN
5. A military report dated December 1900 laid out the original blueprint for Dalat. Early planners conceived of this vast plateau as a tabula rasa, presenting multiple advantages and a few drawbacks. On the one hand, it allowed the colonial administration to establish a European town removed from the traditional seats of Vietnamese power, on the model of the British hill stations in India, which served as summer capitals. On the other hand, everything, literally, needed to be built: transportation routes, infrastructures, buildings, villas, supply networks—all daunting tasks in a remote highland region. Still, the 1900 report envisioned that “with a rail line, comfortable buildings, paved roads, vegetable and fruit gardens, the salubrious Lang-Bian plateau could become a decent little piece of France, and a good colonial sanatorium.”
5. Một báo cáo quân sự ngày tháng 12 năm 1900 đặt ra các kế hoạch chi tiết ban đầu cho Đà Lạt. Những người lập kế hoạch ban đầu nhận diện cao nguyên rộng lớn này như một vùng đất hoang sơ, có nhiều lợi thế và một vài hạn chế. Mặt khác, nó cho phép chính quyền thực dân thiết lập một thị trấn châu Âu cách xa căn cứ quyền lực truyền thống của Việt Nam, trên các mô hình các trạm nghỉ mát trên cao của người Anh ở Ấn Độ, như là thủ đô mùa hè. Hơn nữa, tất cả mọi thứ, nghĩa là, cần thiết để xây dựng: đường giao thông, cơ sở hạ tầng, các tòa nhà, biệt thự, hệ thống cung cấp, tất cả các nhiệm vụ khó khăn trong khu vực vùng cao xa xôi. Tuy nhiên, báo cáo năm 1900 Hình dung rằng "với một tuyến đường sắt, tòa nhà tiện nghi, con đường lát đá, vườn rau và cây ăn quả, Cao nguyên Lang Bian  sạch sẽ - có thể trở thành một phần nhỏ của Pháp, và một Trung tâm điều dưỡng thuộc địa tốt.".
6. Dalat would experience a prodigious growth spurt between this first vision in 1900 and its colonial zenith circa 1944. In 1913, the hill station consisted of some dozen cottages, one of which doubled as a hotel..
6. Đà Lạt sẽ kinh nghiệm phát triển mạnh mẽ phi thường giữa tầm nhìn đầu tiên vào năm 1900 và đỉnh cao thuộc địa của nó vào khoảng năm 1944. Năm 1913, trạm nghỉ dưỡng trên cao bao gồm một số hàng chục biệt thự, một trong số đó đã tăng gấp đôi như một khách sạn .. 
7. By 1944, it counted 750 private villas, numerous government offices, the summer estates of the emperor of Annam, the governor general of Indochina, those of leading authorities from Annam and Cochinchina, and a golf course. The resort town could readily accommodate the 2,537 European visitors who summered there in a single month.
7. Vào năm 1944, 750 biệt thự tư nhân, nhiều văn phòng chính phủ, các bất động mùa hè của hoàng đế An Nam, Tổng đốc Đông Dương, những người hàng đầu của chính quyền từ An Nam và Nam Kỳ, và một sân golf. Thị trấn nghỉ mát có thể dễ dàng thích ứng với 2.537 du khách Châu Âu nghỉ hè ở đó trong một tháng.7
8. Strong central planning lay behind this remarkable expansion. Five major plans stand out: Paul Champoudry’s of 1905, Jean O’Neill’s 1919 report, Ernest Hébrard’s grand model from 1923, Louis-Georges Pineau’s from 1932, and Jacques Lagisquet’s from 1942.
8. Những đồ án quy hoạch tập trung mạnh mẽ nằm phía sau mở rộng đáng chú ý này. Năm đồ án quy hoạch lớn nổi bật: Paul Champoudry-  năm 1905, báo cáo Jean O'Neill năm 1919, mô hình lớn của Ernest Hébrard từ năm 1923, Louis-Georges Pineau từ năm 1932, và Jacques Lagisquet từ 1942
9. Paul Champoudry, Dalat’s very first mayor, claimed considerable expertise in urban affairs from his experiences in Paris. In his new functions as mayor of the nascent town of Dalat, Champoudry drafted his blueprints in concert with military authorities, who were the first to benefit from the hill station. Accordingly, in his 1905 projection, Champoudry concentrated all public and administrative services in a single quarter, noting that the military authorities had counted on taking up considerable space on the vast plateau. Champoudry foresaw a market, situated at the juncture of the town’s main arteries, giving onto a public square, itself designed to facilitate traffic. Near the market and in the center of town, he designated spaces for merchant stalls and small businesses. In the heart of the downtown, Champoudry imagined a hotel, featuring a restaurant and a casino. He dedicated a district to the post office and train station, conveniently located across from one another. A school would be placed to the east of the town, on a vast property near the train station. Hygiene was a paramount concern for Dalat’s first mayor. The public laundry would be located downstream from the town. Dalat would also be a thoroughly modern center: all buildings and homes would be electrified and would feature indoor plumbing. Reinforced concrete would be the construction material of choice.
9. Paul Champoudry, thị trưởng đầu tiên của Đà Lạt, tuyên bố chuyên môn đáng kể trong các vấn đề đô thị từ kinh nghiệm của mình ở Paris. Trong các chức năng mới của mình như là thị trưởng của thị trấn non trẻ của Đà Lạt , soạn thảo bản thiết kế của ông Champoudry phối hợp với cơ quan quân sự, những người đầu tiên được hưởng lợi từ các trạm đồi . Theo đó, năm 1905 dự của mình, Champoudry tập trung tất cả các dịch vụ công và hành chính trong một quý duy nhất, lưu ý rằng các cơ quan chức quân sự đã tính trên chiếm không gian đáng kể trên cao nguyên rộng lớn. Champoudry đã nhìn thấy trước một thị trường , nằm ở điểm nối của động mạch chính của thị trấn, đưa vào một quảng trường công cộng , tự thiết kế để tạo thuận lợi cho giao thông. Gần thị trường và ở trung tâm của thị trấn , ông được chỉ định không gian cho các quầy hàng thương gia và các doanh nghiệp nhỏ . Ở trung tâm của trung tâm thành phố , Champoudry tưởng tượng một khách sạn , có một nhà hàng và một sòng bạc. Ông dành riêng một khu để các trạm bưu điện và xe lửa , thuận tiện nằm đối diện nhau. Một trường sẽ được đặt về phía đông của thị trấn, trên một tài sản lớn gần ga xe lửa . Vệ sinh là một mối quan tâm quan trọng nhất cho thị trưởng đầu tiên của Đà Lạt . Giặt ủi công cộng sẽ được đặt ở hạ nguồn từ thị trấn . Đà Lạt cũng là một trung tâm hoàn toàn hiện đại : tất cả các tòa nhà và nhà sẽ được điện khí và sẽ tính năng hệ thống ống nước trong nhà. Bê tông cốt thép sẽ là vật liệu xây dựng của choice.



 The main lines of Champoudry’s vision would for the most part be carried out by later planners and architects: the separate native village, the site of the future hotel, train station and so on, would all be retained. In 1919, Jean O’Neill, the author of Dalat’s next master plan—and of a budget for public works—would build upon Champoudry’s initial blueprints. Indeed, it was at the close of the First World War that funds began to flow into Dalat, and that many of Champoudry’s visions became realities.

Các đường chính của tầm nhìn của Champoudry sẽ phần lớn được thực hiện bởi các nhà hoạch định và  kiến ​​trúc sư sau: làng bản địa riêng biệt, địa điểm của khách sạn, nhà ga xe lửa trong tương lai..., tất cả sẽ được giữ lại. Năm 1919, Jean O'Neill, tác giả của của Đà Lạt chủ tiếp theo kế hoạch và ngân sách của một công trình công cộng-sẽ xây dựng dựa trên bản thiết kế ban đầu của Champoudry. Thật vậy, nó đã ở gần của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất rằng các quỹ bắt đầu chảy vào Đà Lạt, và rằng nhiều người trong tầm nhìn Champoudry đã trở thành thực tế.
1919, Jean O'Neill,





MAP 4. Hébrard Plan for Dalat, 1923. CIAM Archives, Zurich.



Ernest Hébrard, the advocate of an associationist style of architecture capable of integrating and respecting local forms, was also a strong proponent of zoned planning. The man who had redesigned Thessalonika drafted the following preamble to his 1923 master plan for Dalat: “Instead of leaving the division and concession of lands to fate and the fancy of individuals, [my] plan takes into account the future of this city, which should avoid costly modifications down the road.” Zoning lay at the core of Hébrard’s vision. He deemed it “intolerable” for a residential quarter to rest near “noisy or uncleanly areas.” Hébrard foresaw three towns within one: the administrative quarter, a European residential quarter, and an “Annamite district.” Each of these quarters was itself subdivided. Thus the administrative district would encompass a religious center, an educational complex, and a commercial area. Like so many of Dalat’s architects and planners, Hébrard drew from a deep well of knowledge on other hill stations around the globe. According to Hébrard, “at Baguio [Philippines], the governmental quarter forms the main axis of the hill station. Given Dalat’s configuration, we cannot do the same, but I have situated the administrative quarter, in a place where it will command part of the valley, making for . . . a monumental ensemble, fitting of Indochina’s richness and grandeur.”
10 Hébrard’s 1923 vision proved too grand. As the Depression hit Indochina, his plan was scrapped. As we will see below, financial considerations were not the only factor that ultimately scuttled Hébrard’s plan; local actors lent a hand in sinking a project they reviled as inflexible and ill-conceived. Dalat’s meteoric rise occurred over the next two decades. By 1930, a rail line from Saigon reached Dalat’s doorstep. As of 1937, one train per day made the Saigon-Dalat trip in each direction.11 Even Hanoi was within relatively easy reach: when Indochina’s archivist-in-chief Paul Boudet undertook the voyage in May 1940, he left Hanoi at 6:30 P.M., and arrived in Dalat the next morning at 7:30 A.M.12 In 1932, a new road, snaking over the Blao pass, put the hill station just six hours away from Saigon by automobile.13 The town’s population climbed, accordingly, from 1,500 permanent inhabitants in 1923 to some 13,000 in 1940, then 20,000 by 1942. The number of visitors rose accordingly: 8,000 in 1925,12,000 in 1940, and 20,000 in 1942.14







MAP 5. Map of Dalat, 1942. ANOM, ICM 537.

And yet paradoxically, in part because of the Depression, Louis-Georges Pineau’s 1932 plan proved far more restrained than his predecessor’s.
15. Indeed, while Hébrard had stressed expansion, Pineau emphasized preservation. Pineau, who would leave a stamp on Hanoi, Saigon, and Dalat, was certainly one of the more cosmopolitan French planners in Indochina. He was associated with the pioneering left-leaning CIAM (Congrès internationaux de l’Architecture moderne), and obtained a fellowship to study at Harvard in 1939. Within these circles, he met the likes of Le Corbusier and Walter Gropius. He differed from the former philosophically, noting with amazement in 1930 that Le Corbusier supported the notion that big cities could be highly livable. A careful examination of data, Pineau opined, would show infant mortality rates to be highest in urban settings. “Humankind does not reproduce in cities,” he concluded, in a note that foreshadowed the ruralist, preservationist approach he would try to bring to Dalat.
16. Pineau’s work in Indochina spans the years 1930 to 1945 (though he would later return in the 1950s to teach at the University of Hanoi).
17 He considered the following guiding principles when drafting his 1932 plan for Dalat: “protecting Dalat’s natural beauty, enlarging its artificial lake, developing gardens, establishing zones adapted to the site and the climate . . . open spaces of all sorts, be they parks, hunting reserves, or conservation areas.”
18 Pineau clashed with his predecessor in other ways as well: he tended to favor architectural eclecticism and idiosyncratic villas, for instance. Pineau’s legacy is thus preservationist in some respects, and pioneering in others, since many of Dalat’s villas were built in the era of his plan.
Between 1942 and 1945, Dalat’s last colonial grand planner, Lagisquet, would carry out Vichy governor Jean Decoux’s ambitious project: transforming the hill station into a de facto summer capital, removed from traditional spheres of Vietnamese, and now Japanese, influence. In one domain, then, all of Dalat’s planners found common ground: they all sought to define Dalat as a French city. In so doing, each grappled with the reality that a large Vietnamese community had, like the French, settled in Dalat and its surroundings.

THE PLACE OF THE VIETNAMESE

Champoudry’s 1905 plan already broached the thorny question of a native quarter. He explained in a note affixed to his blueprint: “[On the enclosed map,] we have only partially indicated the sites needed for the indigenous population (secretaries, messengers, . . . coolies). We think that these sites will be best assigned as the town grows, by allotting available lands to them.”
19. The “indigenous problem”—and there was one from the French urbaniste perspective—had been put off to a later date. Who were these “natives”? Champoudry was referring here not to highland minorities, but rather to ethnic Vietnamese auxiliaries. The 1919 O’Neill report recognized the crucial importance of Vietnamese laborers in the bluntest of terms: “a native town is vital to lodge and provide manpower, native employees, and their families.”
20. A European city by design, a ville d’agrément or leisure town according to Jean O’Neill, and a ville hôtel according to Pineau, Dalat would require indigenous hands to build and run it.
21 According to data provided by Louis-Georges Pineau, it was in 1927 that Dalat’s Vietnamese population overtook the European population. By 1932, Pineau estimated Dalat’s permanent population at 800 Vietnamese, and 350 Europeans.
22 Taking into account visitors, cottage-owners, and floating population, he advanced the figure of 4,000 Asians for roughly 1,900 Europeans. Thus, although French commentators were undoubtedly correct in considering the ratio of Europeans to Indochinese far more “favorable” in Dalat than anywhere else in Indochina, Dalat was decidedly not, as it was so often described and charted by colonial sources, a strictly “French resort.” Very early on, a Vietnamese quarter emerged near the eastern end of Dalat’s planned artificial lake (under construction in 1920), near the market stalls.
23 Again, O’Neill crudely explained that “the native town must be located near the commercial district and downstream from the European town. Its location is therefore predetermined: along the Camly river, just downstream from the lake’s dam.”
24 This decision would have tragic consequences when flooding caused the artificial lake to overflow in 1932: the seventeen resulting fatalities were all Vietnamese. Colonial sources somehow still pinned the blame on them for “refusing to leave their paillotes on time.”
25 Ernest Hébrard’s 1923 master plan promised to further demarcate the “Annamese quarter” from the administrative and European residential districts, and even to extend the said “Annamese quarter” to the north. All French parties seem to have concurred on the necessity to identify, then cordon off, a strictly Vietnamese quarter. In a March 1924 missive to the Résident supérieur d’Annam, the commissionermayor of Dalat, Léon Gamier, evoked the urgent need to “erect the Dalat market as quickly as possible, as much because it has become a nuisance, as because the neighborhood in which it is located presents the greatest danger to public health, in the absence of any paving.” Léon Gamier elaborated that “on your recent visit to Dalat in the company of architect Hébrard, you observed, on location, the need to shoo off indigenous houses, located on the site of the future market . . .”
26 Gamier nevertheless showed some empathy for the Vietnamese who faced expropriation. He requested a relocation indemnity from the Résident supérieur in Hué, and asked how Vietnamese owners were expected to meet Hébrard’s onerous style conditions— the use of brick in lieu of wood, for instance—if they could not afford it.
27 Although he decried Hébrard’s intransigence, which soon grew to be legendary in Dalat, Garnier nevertheless shared the belief that Dalat’s “little Vietnam” needed to be both refurbished and sealed off.
28 A year later, in June 1925, the members of Dalat’s Committee of Public Salubrity met to discuss ways of improving health at Indochina’s premier health resort. Dr. Guérin, the director of the prestigious Pasteur Institute, left little doubt as to how to accomplish this goal: “[He] insisted on the importance of separating as clearly as possible the Annamite village from the European center. In the event of an epidemic, the Annamite village must be easily encircled, isolated, controlled, and supervised. From a hygienic point of view, it would therefore make sense to banish the Annamite village beyond the Huyên Moï, and to allow only businesses or homes in the style of secretary residences, all hygienically sound, on the site of the current Annamite quarter.”
29 Not one to bend his plan, Hébrard rejected this idea of confining the Vietnamese town to the outlying northern suburb only. The “Annamese quarter” around the market would be rebuilt but maintained, in spite of local calls for its outright removal.
30 At the same time, additional Vietnamese housing would be built further to the north. In 1925, Ernest Hébrard supervised the transformation of Dalat’s central “Annamese town” around the market. Hébrard considered his new parcel grid, comprised of especially narrow lots, to be “very simple.” His margin for negotiation, however, appears to have been slim. The inter-axes, he noted, couldbe shifted by a “few centimeters,” but he insisted that the overall divisions be respected.
31 A few weeks later, Garnier wrote back with a series of pointed questions. The new single-floor brick structures separated by 2.5 meter paths did not draw Garnier’s ire, so much as the decision to keep “wooden boutiques” adjacent to the market—Dalat’s hygiene committee had ordered these wooden buildings destroyed the year prior. “Indigenous-styled constructions” Garnier insisted, were proscribed.
32 Once again, local authorities claimed that idealistic architects operating out of Hanoi had neglected local priorities: in this instance, the leveling of the market area and adjacent wooden residences. For all of their disagreements, though, the mayor of Dalat and the master planner shared a common vision of a segregated, modern city. Nearly the entire discussion over segregation at Dalat was coded in hygienic terms. In 1925, Commissaire Léon Garnier exposed that it was an “impossibility” for “Annamites to use garbage bins.” In lieu of bins, Garnier ordered the creation of five concrete garbage platforms in the native quarter, “destined to receive all the rubbish by a certain time. Garbage will be removed from the platform by ox-driven carriages.” In the European quarter, conversely, “garbage [was] collected by truck, and individuals thr[ew] their trash directly into the trucks.
”33 If hygiene served as the chief discursive register of segregationist policies, zoning emerged as the main instrument for implementing them. Zoning lay at the heart of Dalat’s sometimes contested, often unevenly applied, but strongly held and medically sanctioned segregationist principles. At the June 1925 meeting of the Committee of Public Salubrity, Guerin even advocated the creation of a cordon sanitaire: “gardens, public spaces, should be introduced in a neutral zone between the Annamite village and the European center.
”34. In 1926, Dalat formally obtained the status of town (commune). Its freshly minted
municipal council included the new mayor, Victor-Edouard-Marie L’Helgoualc’h,
two European members, Paul Ancel and Desanti, and two Vietnamese ones, Ho
Van Le and Nguyen Ngoc Chuc. The latter two emerged as outspoken critics of the
changes to the Vietnamese quarters caused by Hébrard’s plan. The disruption had
been considerable. Even the dead were relocated, the “indigenous cemetery”
moved to the northernmost limit of the new Vietnamese district.
35. At the November 27, 1926 session of Dalat’s municipal council, Ho Van Le
demanded some measure of stability. He insisted that the Vietnamese be given a
site to settle once and for all, so that they would henceforth be spared “relocations
imposed by the execution of urban plans.” Unfazed, the mayor and council
president retorted: stability Ho Van Le would have. The new Annamese quarter would be strictly defined, encompassing one hundred hectares between the Dankia road and the new indigenous cemetery to the north, the Camly river and new
market to the south, the native guard headquarters to the east, and the infirmary
and hill to the west. A second native town would be located on the western fringes
of town, near the future train station. L’Helgoualc’h did attempt to reassure
Vietnamese council members on one matter: relocated Vietnamese people would
be granted homes of the same size as the ones they had been forced to leave. Each
property corner would henceforth be delimited by a concrete borne—thereby
presumably offering “natives” a geometric guarantee of sameness.
36.Nguyen Ngoc Chuc took over where his compatriot had left off, drawing the
commission’s attention to the narrowness of parcels in the Vietnamese quarter. “If
we were to apply the Hébrard plan to the letter,” he noted, “homes would end up
far too close together. They would take up most of the lot, leaving no room for
gardens or sheds. I therefore ask that all lots be 50 x 20 meters; in this way we will
attract more villa owners and builders to Dalat.”
37. Nguyen Ngoc Chuc had put his finger on yet another vexing feature of Dalat’s systemic, deliberate, and indeed minutely planned urban double standard. O’Neill’s 1919 plan had indicated that “all houses for Europeans in Dalat must be surrounded by a garden, and enjoy
sufficient aeration and views.”
38 After all, this was precisely the point of Dalat:
the vast plateau allowed for large properties, wide villas, and an escape from the
congestion of Hanoi or Saigon. The narrowness of the plots in Hébrard’s revamped
Vietnamese quarter was therefore no accident, but merely a reaffirmation of
O’Neill’s principles—betraying the logic that while Europeans would enjoy large
plots, Vietnamese dwellings could be reduced to sardine tins.
39 This outcome, of course, was a far cry from Hébrard’s purported embrace of associationist
principles, as well as his professed desire to understand local architectures and
adapt French models to them. In reality, Hébrard’s Dalat plan served as the
fulcrum of colonial segregationism. Mayor L’Helgoualc’h could only recognize that Nguyen Ngoc Chuc’s complaint was widely shared. Hébrard had hoped, the mayor explained, to dissuade
speculation and the further subdivision of lots in the Vietnamese district by making
them a single, standard, and modest size to begin with. And it was possible,
remarked the mayor, to build a 12 × 12 meter house on such a lot. The mayor even
displayed a few examples in a photo album. But he agreed to show flexibility, as
he claimed to have done in the case of one Mrs. Hao.40 Indeed, according to the
cadastral map, Mrs. Hao boasted six contiguous lots in the European neighborhood
near the train station. In this instance, the two Vietnamese members seized the
opportunity afforded by the new municipal council to voice a series of grievances.
They expressed the exasperation of a relocated population, and protested the
injustice of Vietnamese Dalatois relegated to row homes, a stone’s throw away
from opulent European villas.

At times, Vietnamese and dissident French interests overlapped, as in the case of
the Hébrard plan. Vietnamese and some French locals alike—the mayor
notwithstanding—joined in condemning the narrowness of the proposed lots. E.
Riberolles’ short-lived Dalat newspaper, Le Camly, lampooned the Hébrard plan
on this very score. In a 1924 “fake news” piece, it reported that Hébrard now called
for “10 square meter lots for dwellings, to be built vertically. . . . The hospital will
be given 50 square meters, while the slaughterhouse and Masonic temple will each
stand on 100,000-meter lots. In the new plan, there will be 83 lakes that drain
automatically, and can be transformed instantly either into gardens, or into thick
forests, flowery meadows, or swamps to raise mosquitoes that transmit malaria. In
this last case, the lakes will be lined with quinine trees and eucalyptus.”
41. The newspaper had previously criticized Hébrard more tactfully, suggesting that on
such a vast plateau, one did not have to be stingy with space. In this second attack,
the editorial held no punches: Hébrard’s unwillingness to consider the views of
Dalat’s inhabitants, the plan’s unrealistic scale, the absurdly grand nature of public
buildings next to private lots, Dalat’s vulnerability to Anopheles mosquitoes, the
policy of creating artificial lakes that fostered said mosquitoes, all were connected
in this scathing article.

Over the course of the 1930s, many of Dalat’s Vietnamese inhabitants remained in
real-estate limbo, as it became clear that Hébrard’s lavish vision for the city could
not be carried out in its totality. Between the Committee of Public Salubrity’s
August 1923 decision to destroy the previous “Annamese district” and Hébrard’s
eventual completion of a new one, an urban refugee crisis had unfolded.42 In
1935, the town’s municipal council again took up the question of “displaced
Vietnamese inhabitants of Dalat.” Many had fled the transformation of the market
area for the region around the Petit Lycée in the south of the town. Some members
of the municipal council sought to regularize their situation, and allow the
relocated Vietnamese to buy the lots on which they presently lived. Others,
however, expressed concern that by setting a low price for the aforementioned
land, the “Annamites might profit from such low prices to undertake speculative
profits.” When the new mayor, Lucien Auger, reassured councilor Yves Desrioux
that this would be impossible, since the Vietnamese could only purchase the lands
they presently occupied, councilor Vo Dinh Dung interjected that if this were a
policy, it should apply to all, regardless of whether they were Asian or
European.43 Again, Vietnamese councilors directly challenged the iniquity of
Dalat’s zoning and land allocation. It seemed that even the prospect of creating a
small Vietnamese enclave near the Petit Lycée threatened the colonial order.

MAP 6. Detail of Dalat’s cadastral plan, circa 1930. Author’s collection.

Dalat’s permanent inhabitants only constitute part of the story. Since the hill
station attracted an ever more numerous summer clientele, the issue of segregation
for visitors seems worth mentioning briefly. Although class seems to have trumped
race at the Dalat or Lang-Bian Palace Hotel, where Emperor Bao Dai was certainly
welcome, Dalat’s hotels nevertheless mirrored the segregated environment of the
city itself. A 1930 guidebook listed the hill station’s four main hotels: the luxurious
Lang-Bian Palace (30 rooms), the nearby Hôtel du Parc (70 rooms), the Hôtel
Desanti, composed of pavilions around the lake, and the Hôtel Annam (25 rooms).
It was at this last establishment, the guide noted, that “the native elite
congregated.”44 Unsurprisingly, it was located in the Vietnamese quarter, albeit on
its southern edge.

Still, it would be much too simple to accept administrative and settler desiderata
for total, nearly hermetic segregation, as somehow reflecting reality. By the 1920s,
significant exceptions were beginning to emerge. The Vietnamese aristocracy was
manifestly exempt from segregationist zoning. Emperor Bao Dai’s decision to
erect a summer palace in Dalat was in fact well received by French Dalatois, no
doubt seeing in the move a token of the resort’s desirability. The emperor claimed
some of the town’s finest real estate, on a hill overlooking the administrative
district and the pine forest. Architect Paul Veysseyre began work on Bao Dai’s
summer “palace” in 1933; when, a few years later, the same architect was
commissioned to design the governor general’s summer residence, a very similar
layout was chosen.45 At Dalat, power tensions were often expressed through villa
emulation or envy.

The emerging Vietnamese bourgeoisie provided an arguably greater challenge to
zoning rules.46 Vo Dinh Dung, just mentioned above, in many ways embodied the
rise of Vietnamese interests in colonial Dalat. A member of Dalat’s municipal
council, which he joined at age thirty in 1932, he also ran a company that oversaw
the construction of some of the resort’s main public edifices, including the train
station, large parts of the lycées, and the hospitals.47 Ho Van Le, for his part,
inhabited a liminal space, his home lying immediately north of the lake, between
the golf course and the Vietnamese town. Mrs. Hoa, meanwhile, was neighbor with
the likes of the Bruns, the Martys, Jean Funé, and the Bourgerys in the European
district to the town’s west in the 1930s.48 Similarly, high-ranking Vietnamese
functionaries in the French administration enjoyed exemptions from Dalat’s
zoning. By 1929, the Vietnamese inspector-in-chief of Dalat’s schools was housed
in a large house belonging to the government, on the Rue de l’Ecole.49

This rise in Vietnamese influence can thus be traced back to the 1920s, when
cracks began to appear in the segregationist model. In 1925, Le Phat An requested
an exemption from Hébrard’s master plan. He proposed the erection of “a
handsome building” that would “become part of Dalat’s esthetic cadre, since it will
be visible from the Dalat Palace Hotel, whence it will resemble a meadow in the
pines.” Interestingly, Garnier championed the project, explaining to Hébrard that
“the precedent of Mr. Le Phat An, who belongs to one of the elite families of
Cochinchina and who is French . . . might well lead other Annamites from
honorable and rich families to follow his lead. I therefore think this initiative
should be encouraged.” Le Phat An had asked for a full hectare of land for this
property—the type of request that was becoming increasingly difficult to
accommodate for anyone as Dalat’s popularity rose, and under Hébrard’s
inflexible, at times hegemonic plan. Garnier continued that “even if we were to
assign smaller lots and divide the property I am proposing for Mr. Le Phat An in
half, it would be impossible to erect two buildings on it, because of the parcel’s
layout.”50 In short, Garnier sought to draw the Vietnamese bourgeoisie to Dalat,
while Hébrard, who resisted such requests, stuck to the segregationist blueprint.

By the 1930s, bourgeois Vietnamese were increasingly managing to purchase large
properties in the “European” districts of Dalat. When in 1934, Le Duong requested
a two-hectare lot in suburban Dalat, he was granted it on the same terms that
Europeans received. So long as he was able to demonstrate that he had “developed,
occupied, and sanitized” the property (which an inspection later confirmed), he
was granted the deed.51 This is not to suggest, however, that zoning itself was
called into question. In fact, with Pineau’s plan came a newfound emphasis on
cordons sanitaires under the guise of open spaces. A 1932 article in the French
Saigon press welcomed Louis-Georges Pineau’s attempt to safeguard selected
green areas. “Aesthetic considerations” had determined that some zones be
declared “non Edificandi.”52 But in reality, Pineau’s vision of a green Dalat was
politically charged. In 1932, Dalat’s mayor approached the planner, asking him to
replace the “wasteland” near the temporary city hall—used heretofore as a
nocturnal urinal by administrators—with an elegant square featuring an area
“reserved to European children . . . where mothers and nannies could find
seating.”53 The urban planner fully comprehended the stakes of his much-vaunted
green areas, as evidenced in a letter he drafted to CIAM general secretary Sigfried
Giedion in 1932. A mere two years after having set foot in the colony, Pineau
wrote to his colleague how local law in Indochina allowed planners to designate
“open and free spaces” without so much as paying an indemnity to those
expropriated. Although Pineau recognized this new law to be “draconian,” he
nevertheless welcomed it as a great facilitator of his beautification campaigns.54

Under the authoritarian Vichy regime’s proconsul in Indochina, Governor General
Jean Decoux (in office 1940–45), a new “Annamese village” was created further
north of Dalat. This village, known as Da Thanh, attracted two thousand
Vietnamese inhabitants within a year of its completion in 1942. Colonial
authorities presented Da Tanh as “organized along the rational principles of
administration and hygiene.” They boasted that “it can be considered a model
village.”55 Decoux’s administration had revived the segregationist agenda with a
vengeance, finally accomplishing the goals local officials never saw fully realized
in the 1920s: designating a Vietnamese village well to the north of Dalat proper, so
as to avoid further spillovers of the central market area, which was bursting at the
seams.

To French planners, the role of the Vietnamese at Dalat had been problematic from
the outset. Many of the hill station’s original creators had seen its remoteness from
centers of Vietnamese influence as its greatest asset. However, already in the first
years of the twentieth century it became apparent to most colonial officials that
Vietnamese workers and functionaries would be essential to Dalat’s development
and everyday activities. Confronted with this reality, colonial planners and doctors
alike mandated the construction of a “little Vietnam” at Dalat, located downstream
from the European district, in an area separated from the administrative and
residential quarters by an artificial lake, a dam, and a river. By the 1920s, however,
major slippages were occurring—precisely around the time of modest
gubernatorial reform in Hanoi (the left-leaning Alexandre Varenne served as
governor general of Indochina from 1925 to 1927). This gradual liberalization was
accentuated in the 1930s. Interestingly, even some local Dalat authorities, who had
long resented the rigidity of plans drawn up by architects de passage on whirlwind
tours, began contesting the exclusion of elite and middle-class Vietnamese from
the good life Dalat embodied: namely its grand villas, its golf course, and its
luxury amenities. And of course, Vietnamese councilors seized the limited public
space afforded to them to bitterly condemn their ongoing exclusion and constant
relocation.

DALAT’S EUROPEAN VILLAS

While the quest to define, seal, and contain Dalat’s Vietnamese quarters
constituted a nagging challenge for Dalat’s colonial officials, most of their energies
were directed at the European administrative and residential districts. Since these
were literally planned from nil, debates over the function and identity of Dalat
were consistently mediated through questions of style, unity, elegance, and
modernity. Already in 1905, at a time when Dalat counted a handful of ramshackle
cottages, Paul Champoudry raised the matter of architectural diversity versus unity.
According to him, “if one wants to build a town with original character, through
varied architecture . . . one must commission several different architects. A single
architect would inevitably yield a regrettable uniformity of style.”56 The former
Parisian municipal councilor had established a principle of architectural
eclecticism as the very antithesis of the capital city he left—one that would be
strongly but unsuccessfully challenged by the likes of Ernest Hébrard.




FIGURE 12. A Dalat villa. Photo by author. ( 18 Trần Hưng Đạo)

At Dalat, Gwendolyn Wright has commented, Ernest Hébrard had sought to
“fashion a perfectly harmonized system [through] an architecture supposedly
emmbod[ying] scientific reason and cultural tolerance, alluding to a perfect
balance between past and future, aesthetics and industry, high art and
vernacular.”57 It was this planning, this total control that spelled modernity to
Hébrard, regardless of its inherent paradoxes. Absolute harmony would mean
controlling not only public buildings, which were certainly within his purview, but
villas as well. Here, Hébrard broke with Champoudry’s laissez-faire attitude,
which had permitted the expression of multiple villa styles. Hébrard’s 1923 plan
recommended that “in order to avoid ugliness being introduced in Dalat, villas
should be based on plans provided by the administration, with guarantees that they
be completely followed. Different types could be drawn up quite easily, and
entrepreneurs could undertake to construct these standardized villas for a set price.
This system has been successful at Welwyn City, near London.”58


FIGURE 13. A Dalat villa. Photo by author. ( 16 Trần Hưng Đạo)

Uniformity was central to Hébrard’s vision. Villa owners, he argued, were entitled
to expect their future neighbors “to build analogous villas [to their own].”59 In
1925, Hébrard even submitted a set of blueprints to Dalat’s Committee of Public
Salubrity. The plans for “houses deemed acceptable on both hygienic and esthetic
grounds” were to be distributed to construction and real estate firms.60

In spite of the level of detail, the degree of homogenization, and the aspirations of
grandeur contained in Hébrard’s plan, less of it was carried out than any other of
Dalat’s five grand designs. The complete serialization of villas would have to wait
until the Second World War, which triggered a dramatic rise in Dalat’s popularity
at a time when trips home to France became impossible. It also marked the advent
of a Vichy French administration willing to implement centralized plans where
previous regimes had balked.

In the 1930s, as the Hébrard plan was laid to rest, countless regional villas began
springing up in Dalat’s European residential quarters, to the south and east of the
artificial lake. Arnauld le Brusq has noted that Dalat’s next urbaniste, Louis-
Georges Pineau, privileged French regional styles for private villas, while
paradoxically favoring modern architecture for public buildings.61 In 1937, Pineau
pondered the questions of French versus Franco-Asian hybrid architecture,
syncretism and regionalism. He asked: Which architecture should be chosen [for
Dalat?] Without a doubt the answer is European and even French, insofar as one
can even identify a strictly French architectural school. It is a fact of human
geography that when man travels, he takes his form of habitat with him. Tonnelat
[in a 1907 article], reports that German settlements in Brazil resemble parts of the
Black Forest. At Dalat, one can find many a Basque villa, and alas, some ugly
houses reminiscent of the Paris suburbs. . . . Alternatively, French architecture in
Indochina could adopt some local influences, as it has so successfully done in
Morocco. However, the attempts in Indochina strike me as failures.62 Hébrard, an
advocate of an associationist Franco-Vietnamese style of architecture
emblematized by his museum at the Ecole française d’Extrême-Orient in Hanoi
(1926–31), that colonizers were to import their particular national or even regional
style. In truth, Hébrard’s fusion of Asian and French motifs had been unimaginable
in Dalat to begin with, given the town’s role as a temperate replica of France in the
tropics. Pineau, then, recommended the complete avoidance of Asian architectural
influences in Dalat. He endorsed some of the new regionalist villas mushrooming
on the plateau in the 1930s: those reminiscent of the Basque country, Brittany,
Savoy, and other French provinces seem to have received his blessing, while the
suburban pavillon style drew his contempt, no doubt on elitist as much as aesthetic
grounds.

The highly varied styles of Dalat’s villas soon became its cause célèbre, and
remain so to this day. The daughter of one of the highest Vietnamese officials in
Dalat in the 1930s and 1940s—the school inspector—recalls that functionaries
“inhabit[ed] villas of French regional styles.” She adds “each one [wa]s
different.”63 Clearly, the eclecticism of Dalat’s villas constituted one of its
trademarks. Some admirers of the hill station seem to have secretly longed for the
classicism or stylistic unity of Paris. In 1941, one source remarked that “the
freedom [which planners have given to villa styles] has not resulted in too great a
catastrophic anarchy: not everything is pretty, to be sure, but originality,
coquettishness, and good taste are generally present.”64 Yet rather than rendering

Dalat unique, this eclecticism betrayed a vast plagiarism of nineteenth-century
British colonial hill stations, whose villas were renowned for their Swiss, Tudor,
Gothic, and Scottish styles.65 This was even reflected in some villa names:
alongside villas named Sans soucis, Geranium, or Les Roses, one finds Mon
cottage.66 Pineau’s Dalat of regional villas resonated as much with British colonial
Gothic revival as with French terroirs.

None of this is to suggest that the villas of the 1930s were somehow “unmodern.”
As Arnauld Le Brusq has observed, much of Dalat’s architecture featured a
dialectic between modernism and regionalism.67 Indeed, the two movements and
sensibilities were anything but mutually exclusive. Paul Rabinow has observed that
French regionalists deemed their movement to be active, in contrast with the more
passive traditionalists. Regionalism, in this sense, involved “systematic but
supervised diversity.”68 Shanny Peer, conversely, sees French regionalism
emerging as a reaction against “excessive centralization.”69 The degree of stylistic
supervision or control at the hill station constituted an ongoing debate among
Dalatois keen to give their imaginations free reign over highly personalized villas.
It is tempting to see Dalat’s regional villas as a direct backlash against the Hébrard
plan, and the broader risk of “homogenization [seen] throughout the industrialized
world.”70 The modern regionalism of Dalat’s villas reflected a coterminous trend
in the métropole. There, in 1936, architect René Clozier described regionalism as
“nothing but the adaptation of modern architecture to the land where it develops.”
Similarly, Peer shows, the planners for the 1937 World’s Fair in Paris proscribed
pastiches or nostalgic reproductions, in favor of these resolutely modern, yet
putatively authentic, regionalist forms.71 Each of these descriptions fits Dalat’s
villas to the letter. What is so striking at Dalat is that such vernaculars were
invariably European—from Picardy, Provence, the Landes—and even as we are
about to see, Bavaria. The prevalence of such whimsical regionalist signifiers
underscored Dalat’s absolute Europeanness.

How precisely were Dalat’s idiosyncratic villas conceived? Dalat’s architects
clearly discussed models with customers. Among the papers of Paul Veysseyre,
one of the main architects operating in Dalat in the late 1930s and early 1940s
(designer of several religious edifices and fifty-four villas at Dalat alone), were
brochures, cuttings, and advertisements from a host of contemporaneous
architecture magazines. These were no doubt shown to customers, who could
choose from the latest designs, including regional styles, and summer villas of the
Côte d’Azur. Interestingly, as with Hébrard, who cited British modular housing
projects, Veysseyre appears to have been receptive to other European influences.
His collection contained several foreign magazines, including the January 1938
issue of the German publication Neuzeitliches Bauwessen Heraklith-Rundschau,
from which he had clipped blueprints for mountain chalets or Berghausen. This
suggests that considerable energy was expended on conceiving current designs,
and on drawing from other European schools, rather than merely mimicking
French regional elements.72

Nordic or Central European forms were by no means restricted to private
dwellings. The Berghaus style of villas found some resonance in the elegant curved
brick shape of the Lycée Yersin and its sleek square tower. In a 1943 article,
Claude Perrens likened the structure to the belfry of Stockholm’s city hall.73 The
resemblance is in fact striking. The Scandinavian and Nordic parallel proved a
recurring one. Suzanne Coussillan, who stayed at Dalat in 1946, recalls that the
place resembled “Switzerland, or even Norway.”74 This result was no accident.
Louis-Georges Pineau, for instance, maintained close relations with a network of
German, Dutch, and Swiss architects and planners like Cornelius Van Eesteren and
Sigfried Giedion. He troubled these counterparts to send their publications to him
in Indochina, and regularly sought news in the 1930s from his Dutch colleague
Mart Stam, busy designing model worker cities in the Soviet Union.75 Indeed, it
was through Pineau’s CIAM contacts that Dalat was showcased as a “functional
city” in the “leisure city” category at the fourth CIAM congress, in Athens in 1933.
International influences were thus as manifest on Dalat as was the town’s
increasing international exposure.

To return to villas, not all were privately owned. Various branches of the colonial
administration (like the Banque d’Indochine or the Ecole française d’Extrême
Orient) purchased and developed summer residences for their employees. So too
did private enterprises. In 1934, as the Great Depression sent ripples across
Indochina, the Compagnie agricole d’Annam contacted a Saigon lawyer to sell its
three Dalat properties. These give a sense of how corporate retreats had hitherto
functioned. A large Norman (or Tudor if one prefers) style villa near the Petit
Lycée had been reserved for entertaining and housing company cadres. It featured
a billiard room. The villa went for sale with all of its contents, including the tiger
pelts that adorned the bedroom, twelve bedspreads, and several tea sets. If this first
villa was designed for vacations and receptions, the second had been earmarked as
a convalescence center for company employees posted at Banmethuot. As with
most Dalat villas, the two servant quarters in this second villa were located on the
ground floor, near the kitchen and garage. The third and final villa had served as
the residence of the company’s secretary.76

It was under the Vichy regime that Dalat saw a return to Hébrard-style rigid central
planning.77 Circumstances called for it, to be sure, since Dalat experienced an
unprecedented vogue at this time. Aesthetics and politics also played a part. An
August 1943 article in Vichy’s local mouthpiece lamented that Indochina’s hill
stations “have not yet found their individual personalities.” Frequently, the article
suggested, a new villa elicited jealousy from its neighbors who then proceeded to
“copy it, without fear of plagiarism.” This trend supposedly continued until a new
style arrived, which in turn was mimicked à outrance, resulting in unattractive
architectural strata. Lagisquet’s 1942 plan for Dalat, it was hoped, could finally
break the cycle of shameless copying and lend Dalat a “harmonious aspect.”78

At last, in 1942, Hébrard’s goal had become a reality. On the northern outskirts of
town, Lagisquet oversaw the construction of a wholly planned subdivision soon
dubbed the Cité-Jardin Amiral Decoux, in honor of Vichy’s Governor General in
Indochina. This planned community was to target categories of Europeans who had
previously been excluded from Dalat: those who could afford neither the resort’s
hotels, nor a villa of their own. A pamphlet on the Cité-Jardin explained: “[Our
goal] is to allow women and children, the sick, those who suffer from the rigors of
the Indochinese climate, to find reinvigoration, strength, and good health in the
picturesque setting of our federation’s beautiful hill station.”79


FIGURE 14. The Cité-Jardin Decoux under construction, 1942. Archives municipales de Bordeaux, Decoux papers.

Different formulas were proposed. Some thirty villas were available for renters
already by the end of 1942, to which twenty more rental villas were added the year
following. Another fifty villas were put up for sale, again at modest prices, with
income maxima placed on potential buyers. The villas bore every resemblance to
North American planned communities: renters and buyers could choose from six
different models. Each was intended “to evoke Alpine chalets.”80 The homes were
considered “simple yet elegant, perfectly planned, and equipped with rustic
furniture.”81 Half a world away from metropolitan France, Vichy authorities
implemented the kind of new social model that metropolitan authorities could
rarely see through to fruition at this time.82 In Indochina, the result was Dalat’s
most uniform district, made up of alpine chalets for a French settler community.
The Cité-Jardin, and Dalat more generally, could bring redemption to Indochina’s
petits blancs.

Despite the fact that the Vichy years signaled a return to segregationist planning,
they paradoxically afforded a greater opportunity than ever to Vietnamese
architects. This fell in line with Vichy’s policy of admitting more Vietnamese into
the public administration. At Dalat, the trend certainly contributed to perpetuating
some of the resort’s distinctive villa tropes into the postcolonial era. Consider the
case of Pham Nguyen Mau. Architectural critics under Vichy credited him with
building “solid constructions, with nice finishings, that contrast with some of
[Dalat’s] shoddy villas cobbled together with insufficient funds, whose owners
commission fanciful facades, calling to mind a Nuremberg toy.” Pham Nguyen
Mau’s clean and sharp angles, his use of concrete, drew sufficient praise that
Decoux’s mouthpiece, the review Indochine hebdomadaire illustré, cited only him
in the category of villa design.83

A FUNCTIONAL CITY?

In 1933, some of the world’s boldest architects and planners boarded a cruise in
Marseille bound for Athens. These luminaries had assembled for the fourth CIAM
congress. Among them was Louis-Georges Pineau, armed with six giant maps. He
had long dreamt of presenting at the CIAM, but had been forced to bow out of a
previous meeting in Brussels precisely because he had been called away in 1930,
as he explained, “to design several cities in . . . Indochina.”84 In 1933 he was
finally able to accept the invitation from this prestigious forum. He chose to
showcase not his work on Saigon, but rather Dalat. Dalat, then, was exposed at the
congress on the same footing as Detroit, Budapest, Paris, and Amsterdam, although
in the “rest” or “leisure city” category. Few other colonial cities were entered:
Algeria was well represented, and the Dutch submitted plans for Bandung, one of
Indonesia’s hill stations.
Functionality was the congress’ overarching theme. By functionality, the
organizers understood liveability, as their manifesto made clear: “the functional
city must ensure the proper disposition of the location and size of different
quarters: those for work, living, leisure and circulation.” Moreover, “urbanism
shall fix the relations between the sites of living, work, and leisure in such a way
that one’s daily activities: domesticity, work, recuperation, can take place with the
strictest economy of time.” Finally, the city should be considered “in its economic
totality, which is to say within its region of influence.”85 Pineau would endeavor
to weave each of these threads into his maps. The first showed Hébrard’s plan, no
doubt by way of backdrop to Pineau’s self-consciously more “liveable,”“green,”
and “modern” scheme. Another showed Dalat proper, divided into zones: the
market, native housing, European housing, and leisure (the golf course for
example). Here, Pineau simply superimposed a layer on the CIAM’s quest for
compartmentalization: on top of the geographical division of labor and
domesticity, Pineau introduced colonial segregation. A third map showcased
Dalat’s non-oedificandi green belts and buffers, of which Pineau was so proud. A
fourth presented transportation routes, a fifth displayed construction zones, and a
last one Greater Dalat. Photos adorning the fringes of these science-fair like posters
displayed variously the native quarter, seminude highland minorities, villa types,
ongoing work on the lakes, and the damage done by flooding in 1932.
86 Pineau’s presentation of the city underscored its functionality and its degree of planning, to
be sure, but also exposed its colonial divisions, its role as a site of leisure, and its
pristine nature reflected in its lakes, parks, and indigenous minorities.




THE BLIGHTS OF UGLINESS AND MEDIOCRITY

The allegory of choice among Dalat’s planners was that of paradise. No rotten
apple, no unsightly blemish, would therefore be permitted to stain the hill station.
Here, questions of good taste, of laissez-faire versus central planning were
formulated around the notion of a pristine European retreat. Maintaining a paradise
implied protecting the deer that roamed across the lawn of the Dalat Palace Hotel.
It meant preserving vistas of Dalat’s unique pine forests, which had reminded the
first European visitors of home. And it entailed reinforced segregated zoning, as
well as designating cordons sanitaires and open spaces, so as to contrast “rational,”
airy, new, and European Dalat, with the purported chaos of Vietnam’s older
cities.
87. Of course, the ugliness so reviled by each of Dalat’s planners lay at least partly in
the eyes of the beholder. Pineau showed little charity in assessing his predecessor’s
plan. For all of its grandeur on paper, he wrote, the 1923 Hébrard plan had resulted
in a single residential complex. As for that complex, the narrowness of its lots and
its poor design yielded an ensemble resembling “a mediocre product of French
suburbia.”
88 Yet for all of their differences, Pineau, like Hébrard, claimed to
“protect Dalat against ugliness.” Too often, he wrote in 1937, French colonial
towns bear the hallmarks of banality. They are uncomfortable, mediocre, in short,
they too often “resemble cheap seaside resorts.”
89. The fiercest critic of Dalat’s urban face was without a doubt the anonymous A.
D.—likely Auguste Délaval, designer of Saigon’s Musée Blanchard-de-La-Brosse,
and called upon in 1930 to sketch one of the early blueprints (ultimately rejected)
for Dalat’s train station.90 In a 1926 article reprinted in 1930, A. D. lampooned
abominable hybrid buildings and homes across Indochina. He ridiculed those
featuring, for example: “Norman roofs, Mansard rooftops, medieval corner turrets,
Greek porticos, zinc cupolas. . . . What art!”91 Here was a frontal attack on
Hébrard’s associationist syncretism.

In 1937, the anonymous critic set his sights on Dalat proper. In an article in
L’Impartial, he railed against “a criminal attack” on the resort town. After having
first allowed developers to erect “some hideous little houses” atop the hill
overlooking the Ecole franco-annamite and the cinema, at present private
residences were going to rise along the shores of the artificial lake. A. D. continued
turgidly: “The lake! To dare the sacrilege of suffocating that emerald jewel, that
sapphire or black diamond . . . with a belt of cheap villas.” A. D.’s sign-off
suggests a fury against Dalat’s recent public monuments. He concluded with
typical bombast: “After the Lycée and the train station, halt these profanations!
Dalat is neither Aubervilliers nor La Courneuve.” Like Pineau before him, A. D.
conjured up the Paris suburbs to represent the most abhorrent and drab architecture
of the 1930s. That Auguste Delaval’s own 1930 blueprint for the said train station
had been passed up for an alleged monstrosity only added to his rage.92

FIGURE 15. Deauville’s train station, present day. Photo courtesy of Lawrence
Jennings.

Jennings, Eric T. (2011-04-08). Imperial Heights: Dalat and the Making and
Undoing of French Indochina (From Indochina to Vietnam: Revolution and War in
a Global Perspective) (pp. 133-134). University of California Press. Kindle
Edition.

PUBLIC BUILDINGS: THE CASE OF THE TRAIN STATION

Dalat was and certainly remains famous for its villas. Yet debates over public
structures proved equally, if not more acrimonious, from the Dalat Palace Hotel to
the long delayed city hall, the lycées, the central market, and the train station.
Delaval’s outrage over Dalat’s railway station needs to be placed in a broader
context. We saw in a previous chapter that trains only began arriving in Dalat
proper at the end of 1932.93 Yet the terminus was not yet in place. The aftershocks
of the Great Depression delayed the train station’s inauguration. Construction
needed to be halted shortly after it had begun in 1935. The station would only be
completed in 1938.94 It had thus been put off, designed, then redesigned—to
reflect the times, the atmosphere of the hill station itself, as well as competing
interests and aesthetics.

FIGURE 16. Dalat’s train station, present day. Photo by author.

Delaval’s original 1930 sketch had called for a country style—interestingly, it
would appear that the blueprint, or a close facsimile of it, was adopted for the train
station in Pointe-Noire in the Congo. Delval’s drawing had evidently been
intended to call to mind images of rural France, in everything from its bell-clock to
its arcades and windows.
95. As Arnauld Le Brusq has remarked, this regionalist
proposal clashed with Dalat’s other public buildings, which reflected “international
forms.”
96. The project was subsequently shelved, and a new design by architect
Paul Reveron approved by the municipal council in 1935. The council entrusted
Vo Dinh Dung’s firm with the actual construction.
97.Reveron drew inspiration from the Deauville-Trouville station in Normandy,
dating from 1863.
98 The choice was no accident. Reveron had borrowed from the
golden era of Norman seaside resorts. This seaside style was clearly intended to
signal the town’s resort-aura to arriving passengers—making the statement that
passengers had left the tropics for a microcosm of France.99

To some at least, the desired effect was achieved. Iphigénie-Catherine Shelshear,
who spent part of her childhood in Dalat, recalls that “the railway station in Dalat
was an expression of French architecture at its most creative. Its appearance belied
its purpose as a centre of travel, and by stepping on the platform, a sudden change
of time, scenery, mood took place. It is as if one passed without warning from one
country to another, each having different geography, climate, and customs.”
100. Here, Dalat’s raison d’être was successfully conveyed through its train station. It
served as a gateway to a microclimatic replica of France in Indochina, a site the
colonizers claimed as culturally and even naturally French. Although its allusions
to Deauville, to the beach, and to the terroir cannot be denied, Reveron’s railway
station was far from strictly nostalgic. Reveron added many variations to his
original model. Art deco motifs, splashes of bright color, audacious curves, made
this a modern and distinctive structure, visually striking to this day.



CONCLUSION

Looking solely at Hébrard’s 1923 plan, one would surely have missed the
complexities of, and challenges to segregationist zoning, the dialectic between
regionalism and international modernism, the tension between planning and the
freedom of ad hoc villa construction, the ebbs and flows of serialized housing, the
battles over good taste and the importing of “the worst of the metropole” (the Paris
suburbs), not to mention the backlashes against several monumental plans. Indeed,
Hébrard’s grand vision was barely even implemented before it was scrapped. This
point in turn reinforces the importance of urban practices, municipal council
debates, the forms and functions of villas, and dissident voices—both Vietnamese
and French. Only by setting these practices against the five grand plans for Dalat
can some degree of historical relief be achieved. The archives in Ho Chi Minh
City, Aix-en-Provence, Paris, and elsewhere yield a complex picture of conflicting
interests, between tourists and permanent inhabitants, Vietnamese and French,
administrators and settlers, planners de passage and vested local interests.
Invariably, these tensions were inscribed in the urban face of Dalat: in its train
station, which after much wrangling was transformed from a clichéd provincial
replica into a modernist jewel; in its residential districts, where a Basque villa sits




French promoters, urban planners, and municipal authorities shared a set of
common goals: making of Dalat an oasis of France in highland Vietnam, a
sanatorium or rest station for the entire colony, and a summer, if not permanent,
capital of Indochina.

In his history of Hanoi, Philippe Papin asks how postcolonial Vietnamese have
come to view Hanoi’s two hundred colonial-era villas (note the contrast with
Dalat’s 750 villas by 1944). Although some may dismiss them as “the affected and
provincial vestiges of a hated period symbolizing foreign domination and the
ostentatious luxury of settlers,” he writes, “most seem to greatly admire the villas,”
to the point that self-consciously neocolonial architecture is experiencing a boom
in Vietnam’s capital—although as To Anh Dang notes, no law mandates the
preservation of colonial-era dwellings.101 Much the same holds true for Dalat,
whose tourist bureau promotes the eclectic, tranquil charm of successive
generations of French architecture and planning. Indeed, thanks to Pham Nguyen
Mau and a number of young Vietnamese architects plying their trade in the late
colonial era, French forms, styles, and plans continued to weigh heavily on post1954
Dalat. Lagisquet’s 1942 blueprint was even dusted off and pressed

Jennings, Eric T. (2011-04-08). Imperial Heights: Dalat and the Making and Undoing of French Indochina
(From Indochina to Vietnam: Revolution and War in a Global Perspective) (p. 112). University of
California Press.
------------------------------------------



.............................



Imperial heights - Dalat and the making and undoing of French Indochina
29/07/2014
Loạt bài này dựng lại một toàn cảnh về sự hình thành Đà Lạt, viết theo những tài liệu mới và đặc biệt là nguồn sử liệu phong phú của nhà sử học Canada chuyên về lịch sử thực dân Pháp - tiến sĩ Eric T. Jennings, giáo sư ĐH Toronto. Những nghiên cứu mới mẻ về Đà Lạt của Jennings đã được đúc kết thành cuốn Imperial heights - Dalat and the making and undoing of French Indochina (NXB Đại Học California xuất bản tháng 5-2012). Pho sử này liền được dịch sang tiếng Pháp dưới tựa đề La ville de l’éternel printemps - Comment Dalat a permis l’Indochine Française (NXB Éditions Payot, Paris xuất bản tháng 10-2013).


http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
TT - “Chẳng có gì còn lại của sự hưng phát ngày xưa, chỉ có những đống đổ nát thảm thương” - nhà thám hiểm Henri Maitre thuật lại tình trạng hư hại của Đankia và Đà Lạt khi ông quay lại vào tháng 12-1909.
Những thay đổi của thời cuộc, chính trị từ Paris tác động trực tiếp đến chính quyền Đông Dương và thay đổi mục tiêu của tương lai Đà Lạt. Các đồ án quy hoạch và mở rộng Đà Lạt kể từ Ernest Hébrard năm 1923, Louis-Georges Pineau năm 1932, đến Jacques Lagisquet năm 1942 đều gặp phản ứng từ dư luận, mâu thuẫn với chính quyền, bất đồng của cư dân. Đồ án của nhà quy hoạch nào cũng có khoảng cách giữa viễn kiến tương lai với hiện trạng quản lý và xung đột lợi ích cá nhân, nhưng nếu không có ý chí của người Pháp sẽ không thể có di sản Đà Lạt.
Điển hình nhất của tình trạng bỏ phế này là tấm thông báo cuối cùng dán trên vách tư gia viên thanh tra Pháp ở Đankia: tỉ giá hối đoái giữa đồng quan Pháp và đồng bạc Đông Dương cách đó chín tháng! Maitre tưởng như thời gian đã ngừng trôi ở đây.
Một góc Đà Lạt giai đoạn 1925-1930, nhìn từ hướng đường Hồ Tùng Mậu ngày nay - Ảnh tư liệu

Thành phố từ con số không
Đà Lạt không khá gì hơn, vẫn y như lúc Maitre tới lần trước với chừng ấy ngôi nhà nhưng hoang tàn kỳ lạ. Chỉ có một khu nhỏ dành cho người Việt là có dấu hiệu sự sống. Maitre hết sức xót xa khi kế hoạch xây dựng thành phố trên núi bị xếp xó sau khi đã ngốn quá nhiều tiền. Thực tế chính quyền Đông Dương đã phải vay từ mẫu quốc những số tiền khổng lồ để tài trợ cho dự án Lang Bian - chỉ riêng kế hoạch xây dựng đường sắt đã phải vay 200 triệu quan Pháp vào năm 1898. Chưa thành hình nhưng ngay từ đầu Đà Lạt đã là tham vọng của người Pháp, các toàn quyền phải vay vốn từ Paris để đầu tư và trả nợ bằng tiền thuế từ Đông Dương. Vào lúc Maitre quay lại chốn này, nguồn ngân sách cho “Đà Lạt trong mơ” đã gần cạn.
“Một thành phố trong hi vọng” - Đà Lạt đã được nhìn nhận như thế trong báo cáo của sĩ quan Prosper Oden’hal năm 1901 về khả năng biến vùng đất hoang sơ trên núi ấy thành nơi dưỡng bệnh cho quân viễn chinh Pháp. Ở đầu thế kỷ 20, việc tưởng tượng một thành phố an dưỡng cho cả Đông Dương trên cao nguyên Lang Bian đòi hỏi một niềm tin sắt đá và nhiều quyết định liều lĩnh. Hai toàn quyền Paul Doumer và Jean Beau cùng các cộng sự đã cho xúc tiến nhiều nghiên cứu nhằm tạo dựng một thành phố trên núi từ con số không.
Các nhà khí tượng học tỉ mỉ đo lường lượng mưa và nhiệt độ Đà Lạt. Các chuyên gia nghiên cứu những đường giao thông tương lai. Nhiều người khác thử nghiệm nuôi trồng đủ loại gia súc và rau quả trên Lang Bian. Nhiều người nữa vẫn tiếp tục đối chiếu địa thế Đà Lạt với các thủ phủ mùa hè và trạm nghỉ cao nguyên mà các đế quốc châu Âu đã cho xây dựng ở các vùng nhiệt đới khắp thế giới.
Vào năm 1901, nơi gọi là Đà Lạt chỉ gồm 19 ngôi nhà gỗ, nhiều cái xây dựng chưa xong. Công trình lớn nhất là ngôi nhà được gọi là Sala đóng vai trò một lữ quán cho khách vãng lai. Những người Pháp điều hành ở trong ba căn nhà. Khâm sứ Trung kỳ Jean Auvergne có riêng một căn. Một nhà khác dành cho vị thị trưởng Đà Lạt đầu tiên Paul Champoudry. Thêm một căn cho nhân viên kế toán, một căn cho lính gác và hiến binh, một trạm thuế quan, một trạm bưu điện, một căn làm cơ quan “công trình công cộng”, một căn cho nhân viên thuộc cấp. Cuối cùng là bảy nhà tạm cho binh lính và làm kho chứa.
Trong bối cảnh đìu hiu này, các quan bảo hộ với những chức tước to lớn suốt ngày chỉ biết giết thời gian bằng cách nhìn ngó nhau hay đi săn hổ báo trong lúc các nhà quản lý “thành phố” đau đầu cố sức giải quyết vấn đề cung ứng nhu yếu phẩm và nguyên vật liệu. Đau đầu nhất chính là Champoudry, ông thị trưởng không có thị dân.
Hai phương tiện giao thông thô sơ và hiện đại gặp nhau trên đường Đankia - Đà Lạt - Ảnh trên bưu thiếp phát hành ở Sài Gòn khoảng năm 1930
Giấc mơ Champoudry
Trước khi đảm nhiệm dự án không tưởng là thiết lập một thành phố châu Âu ở cao nguyên xứ An Nam, Champoudry từng là ủy viên hội đồng thành phố Paris những năm 1894-1895. Ông là người giám sát việc thi công đường tàu điện ngầm và những công trình chuẩn bị cho Hội chợ quốc tế Paris 1900. Thất bại tranh cử năm 1896 đã khiến người đàn ông tuổi lục tuần này cùng gia đình đang tăng thêm nhân khẩu đi tìm kiếm phiêu lưu ở Đông Dương. Nhiệm vụ chính của Champoudry ở Đà Lạt là... tưởng tượng! Ông sẽ phải xây dựng đồ án quy hoạch đầu tiên của Đà Lạt, cố hình dung những địa điểm để xây dựng các công trình công cộng và xác định những đặc tính an dưỡng, giải trí riêng biệt ở nơi mà nhiều nhà khảo sát cho là một “sa mạc bao la” của rừng thông và cỏ hoang.
P1050179r.JPG
DALAT MAP 1906 A copyS.jpg
Champoudry phác thảo đồ án năm 1905 của mình theo đúng yêu cầu quân sự: Đà Lạt sẽ là nơi dưỡng bệnh, hồi sức cho quan binh Pháp. Những tưởng tượng của Champoudry được cụ thể hóa bằng bản đồ. Biết quân đội muốn chiếm lĩnh một không gian đáng kể trên cao nguyên này, Champoudry tập trung tất cả dịch vụ hành chính và công cộng vào một khu vực duy nhất. Ông dự kiến một cái chợ nằm ngay chỗ tiếp nối các con đường huyết mạch chính của thành phố (khu vực ấp Ánh Sáng sau này), dẫn ra một công trường được bố trí cho thuận tiện giao thông. Gần chợ và ở trung tâm thành phố, ông dành không gian cho các quầy buôn bán và tiệm kinh doanh nhỏ.
Ở giữa trung tâm, Champoudry tưởng tượng một khách sạn có nhà hàng và casino. Ông dành riêng một khu vực cho bưu điện và nhà ga nằm đối diện nhau rất thuận tiện. Vấn đề vệ sinh là quan tâm hàng đầu của ông thị trưởng. Tiệm giặt ủi công cộng phải nằm cách xa thành phố phía dưới dòng suối. Đà Lạt cũng sẽ là một trung tâm hoàn toàn hiện đại theo tiêu chuẩn châu Âu đầu thế kỷ 20: mọi kiến trúc và nhà ở đều có điện và có nước máy dẫn vào tận nơi. Vật liệu xây dựng ưu tiên sẽ là bêtông cốt sắt.
P1050179  trai linh.JPG
Với một vùng đất trinh nguyên thì Champoudry tha hồ bay bổng với mọi ý tưởng. Nhưng mặt khác, muốn thiết lập thành phố trên núi ấy thì phải xây dựng từ đầu hết mọi thứ: đường giao thông, hạ tầng, hệ thống cung cứng... không chỉ riêng cho Đà Lạt mà cho cả những ngả đường từ dưới đồng bằng có thể vượt núi đưa vật tư và nhân lực tới được chốn mơ tưởng này. Đưa được cái bàn bida và cây piano lên căn nhà nghỉ mát trên Đà Lạt cho khâm sứ Trung kỳ là cả một công trình gian khổ ròng rã trên lưng ngựa và lưng người Việt.
Nhưng Đà Lạt của Champoudry chỉ là ảo mộng, cũng gần giống như ngân sách hoạt động dành cho “thành phố” này. Vì lý do sức khỏe và buồn chán, ông xin toàn quyền Jean Beau cho phép thuyên chuyển hoặc chí ít cũng tăng cường ngân sách và nhiệm vụ cho ông. Champoudry không đủ kiên nhẫn chờ đợi 15 năm nữa để thấy giấc mơ của mình thành hiện thực.
____________
Kỳ tới: Đô thị hoang vu

30/07/2014 
http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
TT - “...[Dân cư sẽ được chia] những lô đất 10m2 làm nhà ở, xây dựng đứng... Bệnh viện sẽ được cấp 50m2, trong khi lò sát sinh và hội quán Hội Tam điểm mỗi cái sẽ được xây trên những lô đất cả 100.000m2.
Một dãy nhà gỗ của người Việt ở Đà Lạt khoảng năm 1925-1930 - Ảnh tư liệu
Quy hoạch mới sẽ có 83 hồ tự động rút cạn nước và có thể lập tức biến thành những vườn hoa hay rừng rậm, những cánh đồng hay đầm lầy nuôi muỗi truyền bệnh sốt rét. Trong trường hợp sau cùng, quanh hồ sẽ được trồng cây canhkina và cây khuynh diệp”.
Đó là một đoạn trích trong mục “Fausses nouvelles” (Tin bịa) của tờ Le Camly ra ngày 22-3-1924. Le Camly là tờ báo tiếng Pháp do E. Riberolles xuất bản ở Đà Lạt những năm 1922-1925.
Tiểu Pháp quốc
Du lịch trên lưng người
Báo cáo năm 1901 của sĩ quan Prosper Oden’hal thừa nhận việc chuyển hàng cung ứng cho vài người châu Âu ở Đà Lạt đồng nghĩa với “vắt kiệt nguồn trưng dụng lao động ở xứ này”.
Biên khảo của L. Constantin đăng trên tạp chí Revue Indochinoise xuất bản ở Hà Nội năm 1916 cho biết đường tiếp tế bằng lừa, ngựa lên cao nguyên Lang Bian đã không còn tồn tại từ năm 1902, và “việc vận chuyển bây giờ diễn ra trên lưng người”.
Theo Léon Garnier - quyền thị trưởng Đà Lạt những năm 1920-1926, vào thời kỳ đầu tiên, hằng tuần đều có nhiều đoàn dân phu chuyển hàng hóa lên núi, “mỗi đoàn 250 người, và cứ bốn người khiêng một bao gạo 60 cân”.
Nhưng ngay từ khi chưa hình thành đô thị, Đà Lạt đã thu hút người Pháp và châu Âu ở Đông Dương lên nghỉ mát và săn bắn.
Bà Gabrielle Eberhardt từng viết trên tờ Le Tour du Monde xuất bản ở Paris tháng 6-1908 thuật lại chuyến du lịch trên cao nguyên Lang Bian một năm trước.
http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2014/07/29/lTh6EvsJ.jpgPhải cần tới 50 phu khiêng kiệu và khuân vác để đưa đoàn du khách chỉ có vài người của bà ta từ Phan Rang lên được Đà Lạt.
Việc quy hoạch Đà Lạt kể từ đồ án của kiến trúc sư Ernest Hébrard năm 1923 đã gặp nhiều phản đối của báo chí đương thời.
Tờ Le Camly trước đó từng chỉ trích Hébrard lịch sự hơn khi ám chỉ rằng trên một cao nguyên bao la như Đà Lạt thời ấy thì không nên hà tiện không gian.
Trong lần công kích thứ hai qua mẩu “tin bịa”, tờ báo đã châm biếm gay gắt các ý tưởng quy hoạch của Hébrard - từ quy mô của đồ án, tính chất nguy nga của những công thự cạnh bên những lô đất tư hữu, và chủ trương chặn dòng nước tạo ra chuỗi hồ nhân tạo.
Viễn kiến về tương lai của nhà quy hoạch luôn gặp trở ngại vì những mâu thuẫn trong thực tế quản lý đô thị hiện tại và không tránh khỏi xung đột lợi ích. Trừ khi quy hoạch được thực hiện trên vùng đất hoang vu như Đà Lạt thuở ban đầu...
Thế rồi Thế chiến thứ nhất đã khiến trạm nghỉ trên núi mang tên Đà Lạt trở nên nhộn nhịp. Lữ quán Sala tiếp tục đón khách cho đến khi bị phá bỏ năm 1923.
Những chiếc tàu ngầm bắn thủy lôi của Đức rình rập những con tàu Pháp định kỳ trở về mẫu quốc đã kéo dài vô thời hạn nhiệm kỳ Đông Dương của các quan chức Pháp cùng gia đình.
Năm 1917, toàn quyền Albert Sarraut quyết định: “Chúng ta có lý do để hi vọng Đà Lạt đã được định đoạt để làm thành phố nghỉ mát cho toàn bộ Đông Dương, và thậm chí cho cả một số nước lân cận với chúng ta ở Viễn Đông”.
Đồ án của Paul Champoudry được lôi khỏi đống bụi tàng thư. Tiền của bắt đầu đổ dồn cho Đà Lạt. Với ngân sách trong tay, Jean O’Neill - tác giả của quy hoạch 1919 - bắt đầu xây dựng thành phố theo phác thảo ban đầu của Champoudry. Tưởng tượng của Champoudry sau 15 năm giờ mới bắt đầu thành hình trong thực tế.
Phần lớn tài lực được dốc vào “nước Pháp thu nhỏ” - khu vực hành chánh và cư trú cho người Âu. Vì xây dựng từ số không, những vấn đề tranh cãi về chức năng và bản sắc của Đà Lạt tương lai chỉ là dung hòa cho thích hợp các vấn đề phong cách, mức tao nhã và nét hiện đại.
Từ năm 1905, khi Đà Lạt chỉ có hơn chục căn nhà gỗ xiêu vẹo, Champoudry đã chủ trương đa dạng kiến trúc. Theo ông, “nếu ta muốn xây dựng một thành phố có tính cách độc đáo, qua các kiến trúc đa dạng... thì phải ủy thác cho nhiều kiến trúc sư khác nhau. Một kiến trúc sư duy nhất sẽ không tránh khỏi tạo ra một phong cách giống nhau đáng tiếc”.
Trong đồ án 1919, O’Neill đã chỉ thị: “Mọi ngôi nhà cho người Âu ở Đà Lạt phải có vườn bao quanh và phải được hưởng đầy đủ sự thông thoáng và quang cảnh”.
Nói cho cùng đấy mới là trọng tâm của Đà Lạt - cao nguyên bao la này cho phép có đất đai rộng, biệt thự lớn, thoát khỏi cảnh chen chúc của Hà Nội hay Sài Gòn.
Những nét chính trong viễn kiến của Champoudry hầu hết đều được O’Neill và các nhà quy hoạch sau này thực hiện. Vị trí của nhà ga, khách sạn Palace tương lai, khu làng cho người Việt bản xứ... đều được giữ nguyên. Chính O’Neill là cha đẻ của ý tưởng xây đập chặn dòng nước để khai sinh ra hồ Xuân Hương vào năm 1920.
Phận thứ dân
Dù chẳng có thị dân nào để cai trị, thị trưởng Champoudry đã đề cập đến vấn đề người Việt trong đồ án 1905: “[Trong bản đồ kèm theo,] chúng tôi chỉ đánh dấu sơ bộ những vị trí cần thiết cho dân bản xứ (thư ký, tùy phái, cu li...). Chúng tôi nghĩ tốt nhất là sẽ ấn định các vị trí này khi thành phố phát triển, bằng cách phân chia cho họ những mảnh đất có thể sử dụng”.
Trong một chuyến du thám năm 1907, bác sĩ Joseph Vassal của Viện Pasteur đã ước tính số người Việt ở Đà Lạt khoảng 70 người, hầu hết là dân bán hàng vãng lai.
Trong phúc trình sau đó vào năm 1914, Vassal phân loại dân bản xứ định cư ở đây là chừng mười lính khố xanh, vài thông ngôn và một ngôi làng của dân buôn bán.
Đồ án 1919 của O’Neill đã nhìn nhận sự quan trọng của nguồn lao động Việt Nam bằng những lời thẳng thừng: “Phải có một khu dành cho dân bản xứ làm thuê cùng gia đình họ tá túc để cung cấp nhân lực”.
Mọi quy hoạch xây dựng và mở rộng Đà Lạt của người Pháp từ năm 1920 đều đặt trên một nền tảng chung: phân biệt đối xử và kỳ thị chủng tộc.
Dù một làng người Việt đã hình thành ở gần hồ nhân tạo tương lai, cạnh các sạp chợ (khu vực ấp Ánh Sáng bây giờ), O’Neill vẫn cương quyết: “Khu vực bản xứ phải nằm cách xa hẳn khu vực của người Âu. Vì thế địa điểm đã được định sẵn ở ven suối Cam Ly, dưới hạ lưu đập chắn hồ”.
Trong công văn tháng 3-1924 gửi khâm sứ Trung kỳ Pierre Pasquier, quyền thị trưởng Léon Garnier đã nêu tính cấp bách của việc xây dựng chợ càng nhanh càng tốt vì vấn đề vệ sinh, và nhắc lại: “Trong chuyến viếng thăm Đà Lạt vừa qua cùng với kiến trúc sư Hébrard, ngài đã trực tiếp nhìn thấy sự cần thiết phải tống khứ những căn nhà của người bản xứ đang nằm ngay vị trí của ngôi chợ tương lai”.
Dân Việt luôn là những người đầu tiên chịu tác động của mọi di dời giải tỏa theo quy hoạch ở thành phố của người Pháp xây dựng cho người Pháp.
Hồ Xuân Hương sau này trở thành nguyên nhân của một thảm kịch giáng xuống thân phận người bản xứ. Một trận lũ vỡ đập chắn hồ tháng 3-1932 đã làm ngập lụt ngôi làng ở hạ lưu - 17 người chết, toàn là người Việt.
Báo cáo thuộc địa thời đó vẫn đổ lỗi cho rằng những nạn nhân “đã không chịu rời khỏi túp lều của họ kịp thời”.
__________


http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
TT - Đồ án quy hoạch 1923 là mô hình vĩ đại trong giấc mơ Đà Lạt của Ernest Hébrard. Ông không bằng lòng với quy mô chật hẹp của một trạm hồi sức cho quân đội viễn chinh như Champoudry, hay một trung tâm an dưỡng cho quan chức Pháp cùng gia đình ở Đông Dương như O’Neill.

Một góc Đà Lạt khoảng năm 1930. Trong ảnh là hồ Xuân Hương và trục đường Trần Quốc Toản, Hồ Tùng Mậu ngày nay. Sau khi hồ được mở rộng theo đồ án quy hoạch 1932, khoảng đất ven hồ được cải tạo thành ốc đảo xây nhà thủy tạ - Ảnh tư liệu
Đà Lạt trong viễn tưởng của Hébrard là cả một thủ phủ liên bang 300.000 dân trong khi dân số Đà Lạt lúc đó chỉ khoảng 1.500.
Ông viết trong lời tựa đồ án của mình: “Thay vì phó mặc cho việc phân chia và nhượng đất cho số phận và ý muốn nhất thời của cá nhân, đồ án đã cân nhắc tới tương lai của thành phố này để tránh những sửa đổi đắt giá về sau”.
Quy hoạch đối chọi quản lý
Vị kiến trúc sư vào năm 1917 đã từng chủ trì đồ án tái thiết Thessalonika - thành phố lớn thứ nhì của Hi Lạp - là người cổ xúy mạnh mẽ cách quy hoạch phân vùng. Hébrard “không thể chịu nổi” khi để cho khu dân cư đặt gần “những khu vực ồn ào hay mất vệ sinh”. Ông hình dung Đà Lạt như ba thành phố trong một: khu vực hành chính, khu dân cư dành cho người Âu và một “khu An Nam”.
Mỗi khu vực lại được chia nhỏ. Do đó khu hành chính sẽ bao gồm cả một trung tâm tôn giáo, một khu phức hợp giáo dục, và một khu thương mại. Hébrard bố trí khu vực hành chính “ở một nơi sẽ bao quát cả một phần thung lũng, tạo thành... một bản hợp tấu đồ sộ, xứng đáng với vẻ hùng vĩ và giàu có của Đông Dương”. Nhưng tham vọng kiến tạo của một nghệ sĩ và việc thiết kế quá chi tiết lẫn tính cố chấp bảo vệ ý tưởng của mình đã khiến Hébrard không lường trước các trở ngại...
Dân cư đông dần lên, tổng cộng đã có khoảng 2.000 “Dalatois” - người Đà Lạt, cả Pháp lẫn Việt - khi Léon Garnier là quyền thị trưởng (1920 -1926). Giai đoạn này Đà Lạt đã có một tờ báo riêng bằng tiếng Pháp - tờ Le Camly. Tờ này không ít lần đả kích tính cố chấp đã trở thành huyền thoại của Hébrard. Cả giới cầm quyền Đà Lạt cũng bất bình với Hébrard ngay cả ở những điểm tưởng chừng đã nhất trí: cách ly dân bản xứ vì vấn đề an toàn vệ sinh.
Đồ án mới hứa hẹn sẽ tách bạch hơn nữa khu vực dân Việt khỏi các khu vực hành chính và dân cư châu Âu, thậm chí còn mở rộng thêm “khu An Nam” nói trên về phía bắc (hướng Lạc Dương ngày nay). Tháng 6-1925, trong cuộc họp với Ủy ban vệ sinh công cộng Đà Lạt, Garnier nhất định: “Trong trường hợp có dịch phải dễ dàng bao vây, cô lập, khống chế và giám sát làng An Nam... Do đó phải đẩy làng An Nam đi xa hơn huyện Mọi là hợp lý và chỉ cho phép trên mặt bằng khu An Nam hiện nay những tiệm kinh doanh hay nhà ở nào [của người bản xứ] xây đúng kiểu quy định, hoàn toàn hợp vệ sinh”.
Không khoan nhượng, Hébrard bác ngay ý tưởng chỉ hạn chế khu người Việt ở vùng ngoại vi phía bắc mà thôi. Ông khăng khăng đòi xây lại và duy trì “khu An Nam” quanh khu chợ mà chính quyền Garnier đã phá bỏ, đồng thời lại mở thêm một khu dân cư bản xứ nữa về phía bắc. Đích thân Hébrard giám sát việc chuyển đổi “khu An Nam” trung tâm ở quanh chợ. Ông phân địa giới thành những lô đất rất hẹp “cho đơn giản” và chỉ cho phép xê dịch các trục liên kết “vài centimet” nhưng không được phá vỡ tổng thể phân khu.
Những kiến trúc mới kiểu nhà trệt bằng gạch phân cách nhau bằng những lối đi 2,5m theo ý đồ Hébrard không khiến Garnier nổi giận cho bằng quyết định của nhà quy hoạch muốn duy trì các cửa hàng bằng gỗ gần kề khu chợ. Ủy ban vệ sinh địa phương năm trước đã ra lệnh phá hủy số nhà gỗ này. Garnier không đời nào chấp nhận những công trình theo kiểu bản xứ. Chính quyền sở tại cho rằng các nhà quy hoạch quá lý tưởng và nhiều quyền lực ở tận Hà Nội đã bất kể những vấn đề ưu tiên của địa phương.
Người Việt lên tiếng
Với tân thị trưởng Victor - Edouard - Marie L’Helgoualc’h, Đà Lạt chính thức trở thành thị xã vào năm 1926 như một đơn vị hành chính tự trị, trực thuộc toàn quyền Đông Dương. Người Việt đã bắt đầu đông hơn người Pháp và không chỉ là dân thợ, lao công, buôn bán hay nhân viên chính quyền mà đã xuất hiện một tầng lớp mới: tư sản bản xứ.
Hai ủy viên Hồ Văn Lê và Nguyễn Ngọc Chúc trong hội đồng thị xã bốn người - hai Pháp, hai Việt - thuộc tầng lớp này. Họ phản đối thẳng thừng đồ án Hébrard vì tác động đến thân phận dân “Dalatois” Việt. Đời sống dân chúng bị xáo trộn lớn vì quy hoạch giải tỏa. Ngay cả người chết cũng bị di dời vì “nghĩa địa bản xứ” đã chuyển lên tận cùng phía bắc khu An Nam mới.
Theo biên bản phiên họp hội đồng thị xã Đà Lạt ngày 27-11-1926, Hồ Văn Lê đòi hỏi phải có biện pháp ổn định. Ông Lê cương quyết đòi chính quyền phải phân bố một khu vực vĩnh viễn cho người Việt để tránh “những việc di dời do thực hiện quy hoạch đô thị”. Không bối rối, thị trưởng L’Helgoualc’h bảo đảm ủy viên Lê sẽ có sự ổn định và trấn an rằng những người Việt phải di chuyển sẽ được cấp nhà mới bằng diện tích nhà cũ mà họ buộc phải từ bỏ.
Tiếp nối ủy viên Lê, Nguyễn Ngọc Chúc buộc chính quyền phải quan tâm đến việc đất phân lô quá hẹp ở khu người Việt. Ông Chúc nói: “Nếu làm đúng theo đồ án Hébrard thì rốt cuộc các căn nhà sẽ quá sát nhau. Nhà ở sẽ chiếm hết lô đất, đâu còn chỗ làm vườn hay nhà kho. Do đó tôi yêu cầu mọi lô đất đều phải là 1.000m2, như vậy mới thu hút được thầu khoán và chủ biệt thự tới Đà Lạt được”. Ủy viên Chúc đã chọc ngay vào vấn đề quy hoạch quá chi tiết và thiên vị người Pháp. Nhưng đâu chỉ ưu tiên người Pháp? Một Madame Hoa người Việt vào lúc đó lại được mua luôn sáu lô đất liền kề trong khu vực người Âu gần nhà ga!
Hai ủy viên Việt Nam đã nói lên được nỗi bất bình của những người dân bản xứ bị di dời theo quy hoạch và vạch rõ sự bất công khi dân Việt phải sống trong căn nhà chật chội khác biệt một trời một vực với những biệt thự thênh thang kiểu Âu. Phản ứng của dân “Dalatois” bản xứ còn kéo dài cả chục năm sau. Nhưng đừng tưởng các chủ biệt thự ở Đà Lạt lại hài lòng với đồ án của Hébrard!
Ernest Hébrard (1875-1933)
Một mồi lửa rơm bất cẩn gặp mùa gió dữ đã bùng phát thành trận đại hỏa hoạn càn quét thành phố cảng Thessalonika. Chỉ trong hai ngày 18 và 19-8-1917, thần hỏa đã khiến thành phố lớn thứ nhì Hi Lạp với 270.000 dân này cháy rụi gần 1/3 diện tích, đẩy 1/4 dân số lâm vào cảnh vô gia cư. Nhưng chính phủ quyết định cấm xây dựng lại ngay sau thảm họa và chờ tái thiết mở rộng Thessalonika thành một đô thị hiện đại.
Ernest Hébrard được thủ tướng Hi Lạp mời chủ trì đồ án quy hoạch Thessalonika. Chỉ giữ lại di sản kiến trúc Byzantine, ông xóa bỏ các nét đặc trưng Trung cổ và phương Đông vốn có và kiến tạo một thành phố mới với các đại lộ, đường phố, công viên và quảng trường theo phong cách đương đại châu Âu. Sau đồ án này, ông còn tham gia quy hoạch thủ đô Athens.
Sang Đông Dương năm 1921, Hébrard để lại dấu ấn nổi bật với nhiều đồ án quy hoạch tổng thể. Không chỉ có Đà Lạt, ông còn là người quy hoạch Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và Phnom Penh. Hébrard pha trộn các yếu tố Á-Âu và tạo ra phong cách kiến trúc Đông Dương riêng biệt. Một trong những công trình tiêu biểu của Hébrard ở Hà Nội là Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử VN).
________________
Kỳ tới: “Bùng nổ” biệt thự
01/08/2014 11:00 GMT+7
http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
TT - Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã bóp nghẹt giấc mơ Ernest Hébrard. Nhưng không chỉ là vấn đề ngân sách từ Paris hay chủ trương từ Hà Nội, những xung đột lợi ích với các “Dalatois” - dân Đà Lạt cả Âu lẫn Việt - đã khiến chính người Đà Lạt góp phần làm phá sản một đồ án mà họ cho là quá cứng nhắc và không thực tế.
Khách sạn Langbian Palace chính thức hoạt động từ tháng 3-1922, khi đường sắt và đường ôtô lên Đà Lạt chưa hoàn thành - Ảnh tư liệu
Hébrard không chỉ muốn kiểm soát thiết kế các công thự - việc hoàn toàn trong phạm vi của ông - mà còn cả thiết kế của biệt thự tư nhân nữa.
Giấc mơ nghiệt ngã
Chơi trước làm sau!
Chính thức khánh thành tháng 3-1922 sau nhiều lần chậm tiến độ và tốn kém vượt dự toán, khách sạn Langbian Palace là công trình lớn nhất được xây dựng đầu tiên ở Đà Lạt. Khách sạn này được khởi công trước cả bưu điện, nhà ga hay tòa thị chính, thậm chí trước cả nhiều trường học và sự đồ sộ của nó áp đảo mọi công thự xây dựng về sau. Quy định từ mẫu quốc buộc khách sạn Palace phải có quản lý và bếp trưởng người Pháp sẵn sàng trước khi hoạt động.
Từ năm 1920, Marc Desanti đã quản lý khách sạn còn xây dang dở này và Desanti chiêu mộ một bếp trưởng từ Pau, miền nam nước Pháp, sang Đà Lạt. Đầu bếp Henri Passiot cùng bà vợ, người kiêm luôn phụ trách buồng phòng, đã ký hợp đồng ba năm để bắt đầu làm việc từ 1-1-1921. Sau mười tháng ngồi không mà phần nội thất khách sạn vẫn chưa hoàn thiện, bếp trưởng Passiot đâm đơn kiện Desanti đòi trả hết tiền lương còn nợ cũng như chi phí đi về giữa Pháp và Đông Dương cho cả hai vợ chồng. Chẳng biết làm sao, Desanti đành phải cầu cứu toàn quyền Maurice Long can thiệp!
Trong đồ án 1923, Hébrard khuyến cáo rằng “để tránh đưa những thứ xấu xí vào Đà Lạt, các biệt thự phải được xây theo những bản vẽ do chính quyền cung cấp và phải cam kết làm đúng hoàn toàn theo đó. Rất dễ dàng thiết kế ra nhiều kiểu khác nhau và các thầu khoán có thể nhận xây các kiểu biệt thự đã chuẩn hóa này theo giá cả ấn định”. Trọng tâm của tầm nhìn Hébrard là tính đồng nhất để bảo đảm một thành phố “hài hòa tuyệt đối” cho một thành phố hiện đại tương lai. Năm 1925, ông thậm chí còn giao cho Ủy ban Vệ sinh công cộng Đà Lạt một tập hợp nhiều bản thiết kế “những kiểu nhà có thể chấp nhận được cả về mặt vệ sinh lẫn về mặt thẩm mỹ” để phân phát cho các công ty bất động sản và xây dựng.
Carl H. Nightingale trong cuốn Segregation - A global history of divided cities (Phân ly - Lịch sử toàn cầu về các thành phố chia rẽ - NXB Đại học Chicago 2012) viết: “Giới phê bình Pháp đã đánh giá đồ án quy hoạch này còn có sức quyến rũ hơn cả thủ phủ mùa hè Simla của Ấn Độ thuộc Anh hay Buitenzorg của Indonesia thuộc Hà Lan” đã lừng danh từ trước. Nhưng đó là giấc mơ nghiệt ngã! Chẳng có mấy chủ nhân biệt thự muốn xây nhà theo đồ án rập khuôn giống nhau và phong cách kiến trúc Đông Dương cổ xúy chất châu Á của Hébrard. Ngay từ đầu nó đã bị nhiều người cho là không phù hợp với “tiểu Pháp quốc” này. Chính lối quy hoạch kiểm soát toàn bộ chi tiết đã khiến đồ án đầy tham vọng của Ernest Hébrard thất bại. Đây là mô hình vĩ đại nhất trong năm lần quy hoạch kéo dài suốt 40 năm hình thành Đà Lạt nhưng lại được thực hiện trì trệ và ít hoàn thiện nhất.
Từ năm 1930, sau khi đồ án Hébrard bị gác lại, những biệt thự đa phong cách mới nhanh chóng xuất hiện. Tính đa dạng trong kiểu dáng và dấu ấn thiết kế các vùng miền châu Âu từ đó đã khiến Đà Lạt nổi tiếng đến tận ngày nay. Không chỉ là biệt thự của quan chức Pháp, sức hấp dẫn của dự án Đà Lạt đã thu hút cả dân châu Âu và Pháp kiều ở Đông Dương mua đất xây biệt thự tại đây. Những cơ quan ở Hà Nội như Ngân hàng Đông Dương hay Trường Viễn Đông Bác cổ cũng có biệt thự ở Đà Lạt làm nơi nghỉ hè cho nhân viên. Các công ty tư nhân cũng mua hoặc xây biệt thự ở Đà Lạt để nghỉ mát. Công ty nông sản Compagnie Agricole d’Annam có tới ba biệt thự như thế.
Tất nhiên là các kiến trúc sư có sẵn kiểu mẫu cho khách hàng tham khảo. Một trong những kiến trúc sư chính hoạt động ở Đà Lạt những năm 1930-1940 là Paul Veysseyre. Chỉ riêng ở thành phố này ông đã thiết kế nhiều công trình tôn giáo và 54 biệt thự. Trong hồ sơ của Veysseyre có nhiều tập quảng cáo, tài liệu cắt từ báo chí, và mẩu quảng cáo từ rất nhiều tập san kiến trúc quốc tế đương thời. Đây là những kiểu mẫu để khách hàng xem và chọn lựa từ các thiết kế mới nhất, đủ mọi phong cách vùng miền châu Âu thuộc mọi trường phái. Veysseyre sưu tầm nhiều loại tạp chí nước ngoài, có cả tạp chí Neuzeitliches Bauwessen Heraklith-Rundschau của Đức, mà từ đó ông đã cắt ra các mẫu thiết kế biệt thự nhỏ trên núi theo kiểu Berghausen. Điều này cho thấy tính quốc tế rất cao trong phong cách biệt thự Đà Lạt chứ không chỉ đơn thuần là kiến trúc Pháp.
Người Việt giành phần
Chính sách phân biệt đối xử của Pháp áp đặt ở Đà Lạt cũng bị uốn cong trước thế lực của tầng lớp quý tộc Việt Nam cùng thiểu số tư sản bản xứ muốn đòi bình đẳng quyền lợi. Quyết định của vua Bảo Đại muốn xây một biệt điện mùa hè ở “tiểu Pháp quốc” được người Pháp hoan nghênh vì điều đó càng chứng tỏ giá trị đáng khao khát của Đà Lạt. Kiến trúc sư Veysseyre là người thiết kế dinh thự này cho Bảo Đại năm 1933 (nay là dinh III). Rồi sau đó cũng chính Veysseyre lại được thuê thiết kế biệt thự nghỉ hè cho toàn quyền Jean Decoux (nay là dinh II).
Đầu những năm 1930, đường giao thông đã nối liền Đà Lạt với đồng bằng. Lái ôtô đi Đà Lạt nghỉ mát trở thành một dấu hiệu đẳng cấp của giới tư sản mới của Sài Gòn. François de Tessan nhận xét vào năm 1923: “Có khoảng 3.000 ôtô lưu thông ở Sài Gòn. Trong khi vào năm 1914 chỉ có 68 chiếc có đăng ký... Không phải chỉ có người châu Âu là thích mua ôtô. Trong số 1.000 ôtô nhập cảng vào Đông Dương trong 18 tháng qua, người da trắng mua 500 chiếc, còn dân An Nam mua tới 256 chiếc”. Số ôtô còn lại thuộc các chủ người Ấn, Miên và Lào.
Sau du hí bằng ôtô thì việc mua đất xây biệt thự ở Đà Lạt của tư sản Việt trở thành thời thượng. Một madame Hoa mua luôn sáu lô đất liền kề ngay trong khu vực dành cho người Âu từ năm 1926. Năm 1934, một monsieur Lê Dương mua được cả 2ha đất vùng ngoại ô với các điều kiện bình đẳng như người Pháp. Nghề thầu khoán hưng thịnh và tầng lớp tư sản Việt Nam mới ở Đà Lạt cũng đi lên từ nghề này. Ví dụ công ty của Võ Đình Dung từng xây dựng nhiều công trình công cộng của Đà Lạt như nhà ga xe lửa, phần lớn hạng mục các trường học như Lycée Yersin cùng các bệnh viện. Năm 1932, khi mới 30 tuổi, Dung trở thành ủy viên hội đồng thành phố và luôn là một tiếng nói đòi quyền lợi bình đẳng cho dân “Dalatois” bản xứ.
Từ gần 400 cái vào năm 1938, số biệt thự tư nhân ở Đà Lạt đã tăng gấp đôi sau năm năm. Đây cũng là cơ hội cho các kiến trúc sư Việt đầu tiên, nổi tiếng nhất có Phạm Nguyên Hậu. Giới phê bình thời đó đã khen ngợi kiến trúc sư Hậu vì “những công trình vững chãi, chi tiết hoàn thiện, trái ngược với nhiều biệt thự xấu xí vì chắp ghép vội vã do không đủ kinh phí và do chủ nhân thuê làm những mặt tiền hoa hòe vô giá trị”. Những góc độ sắc sảo, tinh tế và việc sử dụng chất liệu bêtông của kiến trúc sư Hậu đã khiến tờ Indochine Hebdomadaire Illustré - tờ báo của chính quyền Decoux - luôn nhắc đến tên ông trong vấn đề thiết kế biệt thự.
Xây biệt thự ở Đà Lạt hoặc sao chép trắng trợn những kiểu mẫu biệt thự của nhau trở thành cách ganh đua đẳng cấp trong giới tư sản cả Âu lẫn Việt đương thời. Nhưng khi các biệt thự đủ loại khiến cho bộ mặt Đà Lạt bị chê là “xấu xí” thì lại nảy sinh vấn đề... phá quy hoạch!
_____________
Kỳ tới: Pineau và 6 tấm bản đồ
02/08/2014 07:45 GMT+7
·         http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
TT - Năm 1933, một số kiến trúc sư và nhà quy hoạch cấp tiến nhất thế giới lên con tàu du lịch đi từ Marseille đến Athens. Họ tổ chức Đại hội kiến trúc hiện đại quốc tế (Congrès Internationaux de l’Architecture Moderne - CIAM) ngay trên con tàu này. Trong số đó có Louis-Georges Pineau và sáu tấm bản đồ vĩ đại.
Phải mất 30 năm mới nối liền được Phan Rang - Đà Lạt bằng đường sắt. Trong ảnh: đoạn đường sắt xuyên núi gian nan nhất ở đoạn Sông Pha - Eo Gió, thi công năm 1928 - Ảnh tư liệu
Pineau từng mong ước thuyết trình ở CIAM ba năm trước nhưng vào lúc đó ông lại được mời đi thiết kế nhiều thành phố tại Đông Dương. Lần này ông mới có thể tham gia diễn đàn kiến trúc uy tín này. Pineau không trưng bày tác phẩm của mình về Sài Gòn mà tự hào giới thiệu đồ án quy hoạch Đà Lạt 1932, ngang hàng với các đồ án quy hoạch Detroit, Budapest, Paris và Amsterdam của các tác giả khác.
Thành phố thư giãn
Chủ đề của CIAM Athens là “Thành phố chức năng”. Bằng khái niệm “chức năng”, ban tổ chức ngụ ý một thành phố dễ sống và tuyên cáo của CIAM xác định rõ: “Thành phố chức năng phải đảm bảo sự phân bố thích hợp về vị trí và diện tích của các khu vực khác nhau dành cho làm việc, sinh hoạt, giải trí và lưu thông.” Ngoài ra, “quy hoạch đô thị phải ấn định sự tương quan giữa các vị trí làm việc, sinh hoạt, giải trí theo cách nào đó để mọi hoạt động hằng ngày của dân cư có thể tiếp diễn mà ít tốn thời gian nhất.” Và một thành phố chức năng phải được xem xét trong “toàn bộ bối cảnh kinh tế, tức là phạm vi ảnh hưởng của nó.”
Chức năng Pineau xác định cho Đà Lạt là thành phố thư giãn, và ông thể hiện các tiêu chí ấy trong số bản đồ mang theo triển lãm. Bản đồ đầu tiên chính là đồ án 1923 của Ernest Hébrard, chỉ dùng làm nền cho quy hoạch “hiện đại hơn, xanh hơn và dễ sống hơn” của Pineau. Bản đồ thứ hai trình bày khu vực chính của Đà Lạt, phân vùng thành khu chợ, khu dân bản xứ, khu dân châu Âu và khu thư giãn (điển hình là sân golf). Ở đây, bên trên các quy hoạch nơi làm việc và cư trú, Pineau cũng áp đặt yếu tố phân biệt chủng tộc. Bản đồ thứ ba trình bày các vùng đệm và các vành đai xanh bất kiến tạo (cấm xây dựng) mà Pineau hết sức tự hào. Bản đồ thứ tư vẽ các đường giao thông. Bức thứ năm xác định các khu vực xây dựng, và cuối cùng là Đà Lạt Lớn của tương lai. Bên lề các bản vẽ là những ảnh chụp minh họa nhiều góc độ của khu vực dân cư bản xứ, những người thiểu số thân trần đóng khố, các kiểu biệt thự, những công trình đang thực hiện trên các hồ nước, và thiệt hại do trận lũ ngập tràn hồ Xuân Hương năm 1932.
Khi thảo đồ án này, Pineau cân nhắc các nguyên tắc định hướng sau: “bảo vệ vẻ đẹp thiên nhiên Đà Lạt, mở rộng mặt hồ nhân tạo, phát triển nhiều vườn hoa, thiết lập các phân khu thích ứng theo địa điểm và khí hậu... và các loại không gian trống dù đó là công viên, khu săn bắn hay vùng bảo tồn”. Chính Pineau đã cho xây dựng đập chắn hồ ở vị trí hiện tại và mở rộng hồ Xuân Hương như ngày nay. Giống như các nhà quy hoạch trước, Đà Lạt của Pineau là hình ảnh của một thiên đường. Không được phép có một vết nhơ nào trên bộ mặt đô thị. Gìn giữ thiên đường có nghĩa là phải bảo vệ lũ hươu nai vẫn tha thẩn trên bãi cỏ khách sạn Dalat Palace, bảo tồn những rừng thông độc đáo vốn là điều khiến những nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên nhớ tới quê nhà.
Đối chọi và thiên kiến
Khác biệt về trường phái quy hoạch và quan điểm thiết kế đã khiến Pineau bài xích và phủ nhận các ý tưởng Hébrard. Nếu Hébrard nhấn mạnh mở rộng thì Pineau chú trọng bảo tồn. Hébrard chủ trương thiết kế biệt thự đồng nhất thì Pineau lại cổ xúy đa dạng kiến trúc. Nhờ quy hoạch 1932 của Pineau mà số biệt thự tư nhân ở Đà Lạt tăng vọt với kiểu dáng phong phú nổi tiếng tới ngày nay. Như Hébrard đã khuyến cáo “tránh đưa những thứ xấu xí vào Đà Lạt”, Pineau cũng tuyên bố “bảo vệ Đà Lạt khỏi sự xấu xí”, nhưng theo một hướng khác.
Các không gian bất kiến tạo nổi tiếng của Pineau không chỉ nhằm tạo không gian xanh mà còn là hành lang vệ sinh phòng dịch triệt để nhằm bảo vệ một “thành phố resort” phong quang, hợp lý dành cho người Âu, cho du khách. Còn những khu phố cũ hỗn độn cố ý dành cho người bản xứ phải nằm khuất mắt. Mọi di dời, giải tỏa theo quy hoạch ở Đà Lạt chỉ đảo lộn cuộc sống của người Việt bản xứ mà thôi. Như một tiền định, Đà Lạt không phải của dân Việt “Dalatois”! Các nhà quy hoạch Pháp chỉ bảo tồn và phát triển những gì mỹ miều nhất cho ngoại kiều, cho thiểu số tư sản Việt có thế lực không phải cư dân thường trú, và cho khách bốn phương du lãm. Nhưng thẩm mỹ còn tùy thuộc vào thị hiếu riêng.
Ngay thời kỳ Đà Lạt phát triển nhất ấy, báo chí Đông Dương đã từng lên tiếng chỉ trích việc xây dựng biệt thự ào ạt làm hỏng cảnh quan “thiên đường hạ giới” này. Chê bai bộ mặt đô thị Đà Lạt hung hăng nhất là cây bút ký tên tắt A. D.. Tác giả này từ năm 1930 từng viết bài trên tờ Extrême-Asie chế nhạo các kiến trúc pha trộn phong cách bản địa ở khắp Đông Dương. Thực tế, tác giả đã bài xích triết lý thiết kế của chính Hébrard. Năm 1937, A. D. cũng không bỏ qua quy hoạch của Pineau và chĩa mũi dùi vào chuyện kiến trúc phá hoại nhan sắc thành phố thiên đường. Tác giả viết trên tờ L’Impartial (Công Bằng) ở Sài Gòn một bài có tựa đề gay cấn “Dalat, un criminel attentat” (Đà Lạt - cuộc tấn công tội ác).
Bài báo chỉ trích các nhà phát triển đô thị đã dựng lên “mấy ngôi nhà nhỏ gớm guốc” trên ngọn đồi nhìn xuống trường học, rạp chiếu bóng và lại đang để cho nhiều nhà ở tư nhân bắt đầu mọc lên ven bờ hồ Xuân Hương. A. D. viết một cách khoa trương: “Cái hồ! Đúng là báng bổ khi bóp nghẹt viên bích ngọc ấy, viên lam ngọc, viên hắc kim cương ấy... trong một vành đai biệt thự rẻ tiền”. Cuối bài báo, tác giả trút thịnh nộ vào những công trình công cộng lớn mới hoàn thành và kết thúc bằng một giọng văn đặc trưng: “Sau trường Lycée [Yersin] và nhà ga, hãy dừng lại ngay những trò ô uế!”.
Tờ báo mang tên L’Impartial chưa chắc đã có quan điểm vô tư. Không ai biết rõ tác giả A. D. là ai, nhưng có thể đó là kiến trúc sư Auguste Delaval, người thiết kế Musée Blanchard-de-La-Brosse ở Sài Gòn (nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM, tại Thảo cầm viên). Delaval đã được mời thiết kế ga Đà Lạt năm 1930 nhưng đồ án của ông ta cuối cùng không được duyệt và thay thế bằng đồ án của Paul Reveron năm 1935.

Kiến trúc sư Pineau - tác giả đồ án quy hoạch Đà Lạt năm 1932 - Ảnh tư liệu
Louis-Georges Pineau (1898-1987)
Tốt nghiệp Học viện Quy hoạch Paris năm 1927 và được chứng nhận kiến trúc sư năm 1928, Pineau thuộc thế hệ những nhà kiến tạo mới theo trào lưu hiện đại và quốc tế hóa. Chính quan điểm cấp tiến đã liên kết ông với Congrès International d’Architecture Moderne (CIAM), một tổ chức do kiến trúc sư Le Corbusier sáng lập năm 1928 quy tụ các kiến trúc sư và nhà quy hoạch táo bạo nhất thế giới thời đó.
Dù đến Đông Dương từ năm 1930, qua CIAM mà Pineau có được mối liên lạc mật thiết với các đồng nghiệp cùng chí hướng như Cornelius Van Eesteren từ Hà Lan, Sigfried Giedion từ Thụy Sĩ, Carlos della Paolera từ Argentina, và Mart Stam lúc đó đang quy hoạch các thành phố công nhân kiểu mẫu ở Liên Xô. Ảnh hưởng quốc tế thể hiện rõ trong đồ án Đà Lạt của Pineau và sau khi ông triển lãm đồ án quy hoạch Đà Lạt năm 1932 ở Đại hội CIAM Athens 1933, “thành phố resort” này ngày càng được thế giới chú ý. Sau Đà Lạt, Pineau còn quy hoạch Phnom Penh năm 1933 và Vientiane năm 1935.
Tin bài liên quan:
___________
Kỳ tới: Vãn hồi trật tự
·         CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
·         PHÓNG SỰ - KÝ SỰ
03/08/2014 13:45 GMT+7
·         http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
·         http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
·         http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
·         http://static.new.tuoitre.vn/assets/tto/f2a738b8v279/images/transparent.png
TT - Đến năm 1937 thì hằng ngày đã có một chuyến tàu lửa đi về giữa Đà Lạt và Sài Gòn. Từ năm 1932, con đường mới vượt đèo Blao đã nối liền Sài Gòn - Đà Lạt bằng sáu giờ đi ôtô.
Biệt thự nghỉ mát của thống đốc Nam kỳ Jean - Félix Krautheimer ở Đà Lạt đầu những năm 1930. Biệt thự này hiện là trụ sở UBND tỉnh Lâm Đồng - Ảnh tư liệu
Dân số Đà Lạt từ khoảng 1.500 người vào năm 1923 đã tăng lên 13.000 năm 1940 và rồi 20.000 năm 1942. Số lượng du khách cũng tăng theo và từ năm 1940, lượng du khách đến Đà Lạt hằng năm đã xấp xỉ bằng tổng dân số địa phương.
Đà Lạt đã trở thành một khao khát thời thượng chưa từng thấy. Ai cũng muốn có Đà Lạt trong cuộc đời mình - nếu không thể xây biệt thự thì cũng phải một lần đến chốn “thiên đường” đó.
Phục hồi giấc mơ thủ phủ
Ý tưởng táo bạo
Lý do chính khiến Ernest Hébrard hay Louis-Georges Pineau nhận lời sang thuộc địa làm việc chính là khát vọng kiến tạo: chỉ ở những vùng đất còn hoang sơ hay kém phát triển họ mới có cơ hội thể hiện những ý tưởng táo bạo nhất và biến nó thành hiện thực. Paris không còn đất trống cho những quy hoạch vĩ đại!
Trước khi theo ngành quy hoạch - kiến trúc, Pineau từng được đào tạo khoa học chính trị ở Ecole Libre des Sciences Politiques (là Đại học Sciences Po ở Paris lừng danh ngày nay). “Giấc mơ Đà Lạt” của Pineau thực tế còn lớn hơn cả Hébrard. Nếu Hébrard chỉ dừng ở một “thủ phủ mùa hè” cho cả Đông Dương thì Pineau trong bài viết quan trọng gây nhiều tranh cãi “Dalat, capitale administrative de l’Indochine” đăng trên L’Avenir du Tonkin ngày 25-5-1937 đã đề xuất Đà Lạt như “thủ đô của Liên bang Đông Dương”. Hai năm sau, trong tạp chí Vie Urbaine số 49 năm 1939, ông viết bài “Le plan d’aménagement et d’extension de Dalat” và đề cập một vấn đề khác mà cả toàn quyền Jean Decoux lúc đó chưa chắc đã dám nghĩ tới: Đà Lạt có thể trở thành “một thủ đô còn an toàn và có tính trung tâm” hơn cả Hà Nội!
Thế chiến thứ 2 không chỉ một lần nữa chặn đường hồi hương của quan chức Pháp và Âu kiều ở Đông Dương mà còn đe dọa cả sự tồn vong của chính phủ bảo hộ khi bóng dáng quân đội Nhật đã xuất hiện ở vùng đất này từ năm 1940. Toàn quyền Jean Decoux đã thường xuyên đến nghỉ hè ở dinh thự riêng tại Đà Lạt. Những chuyến lưu trú và làm việc của toàn quyền càng lúc càng kéo dài hơn theo bước tiến của quân Nhật ở Đông Dương. Rốt cuộc, mô hình vĩ đại của Hébrard 20 năm trước giờ mới có cơ hội thực thi bằng quy hoạch của Jacques Lagisquet. Nhà quy hoạch cuối cùng của chính phủ bảo hộ phải thực hiện tham vọng của Decoux: biến thành phố núi này thành thủ phủ mùa hè thực tế, tách rời hẳn phạm vi quyền lực bản xứ lâu nay và ảnh hưởng của quân đội Nhật bây giờ.
Ngoài yếu tố chính trị, việc chỉnh trang dung nhan Đà Lạt là cần thiết vì sự phát triển biệt thự ào ạt đang phá vỡ những quy hoạch vốn có. Tờ Indochine Hebdomadaire Illustré trong một bài báo tháng 8-1943 đã ta thán rằng thành phố trên núi của Đông Dương “vẫn chưa tìm thấy bản sắc riêng biệt”. Bài báo cho biết một biệt thự mới luôn khêu gợi lòng ghen tị của các hàng xóm và họ liền “sao chép kiểu dáng không e ngại chuyện ăn cắp ý tưởng”. Xu hướng này cứ tiếp diễn cho đến khi một kiểu dáng mới xuất hiện và lại bị bắt chước theo ồ ạt, kết quả là một mặt bằng kiến trúc gai mắt. Bài báo hi vọng đồ án quy hoạch 1942 của Lagisquet đang thực hiện rồi sẽ kết liễu được cái vòng luẩn quẩn này và sẽ cho Đà Lạt “một diện mạo hài hòa”.
Đà Lạt phải định hình là một thành phố Pháp. Lúc này cần phải quay lại cách quản lý quy hoạch tập trung chặt chẽ của Ernest Hébrard. Ý tưởng thiết kế biệt thự đồng dạng hàng loạt của nhà quy hoạch đồ án 1923 bị phản đối gay gắt thời trước bây giờ cũng được Lagisquet áp dụng. Đích thân Lagisquet giám sát xây dựng nguyên một khu quy hoạch mới sau đó được mang tên Cité-Jardin Amiral Decoux (khu vực Đại học Yersin ngày nay). Tờ gấp quảng cáo Cité-Jardin giải thích: “[Mục đích của chúng tôi] là cho phụ nữ và trẻ em, người đau ốm, người khổ sở vì khí hậu khắc nghiệt của Đông Dương được tiếp thêm sinh lực, sức khỏe, thể chất trong khung cảnh như tranh của thành phố trên núi xinh đẹp của liên bang chúng ta”.
Khu cư xá quy hoạch này dành cho các đối tượng Pháp kiều lâu nay không được tận hưởng Đà Lạt vì không có khả năng ở khách sạn hay sắm biệt thự riêng. Khoảng 30 biệt thự ở cư xá Cité-Jardin đã sẵn sàng cho thuê và cuối năm 1942 thêm 20 căn được bổ sung vào năm tiếp theo. Thêm 50 biệt thự nữa được rao bán với giá vừa phải, người mua có thể chọn một trong sáu kiểu dáng khác nhau. Kiểu nào cũng mang dáng dấp những biệt thự nhỏ vùng núi Alps, đơn giản nhưng thanh nhã, quy hoạch hoàn hảo và trang bị sẵn đồ đạc đơn giản. Nhiều cơ quan của chính phủ Đông Dương từ Hà Nội dần chuyển vào Đà Lạt làm việc và đến năm 1944 thì một Đà Lạt “thủ phủ mùa hè” trong giấc mơ Hébrard đã thành hình.
Đường sắt đã hoạt động từ năm 1932, nhưng công trình nhà ga Đà Lạt mãi đến năm 1935 mới xây dựng xong - Ảnh tư liệu
Số phận... con nuôi
Suốt 20 năm từ thời Jean O’Neill xây dựng cho tới thời triển khai quy hoạch của Louis-Georges Pineau, không ít dân Đà Lạt bản xứ lâm vào tình trạng liên tục bị giải tỏa di dời theo quy hoạch. Trong những năm 1920, chỉ riêng việc khu chợ và “khu An Nam” lân cận ở vị trí ấp Ánh Sáng ngày nay bị phá đi xây lại, rồi sau cùng dời lên vị trí rạp hát Hòa Bình bây giờ đã khiến nhiều người lao đao. Thiểu số trung lưu và tư sản mới nổi người Việt ở Đà Lạt luôn bất mãn vì không được bình đẳng thụ hưởng chất lượng sống như người Âu.
Đến thời Lagisquet thì những vấn đề của dân Đà Lạt bản xứ đã tạm ổn định. Năm 1942, Lagisquet còn quy hoạch cả một “làng An Nam” ở xa hơn nữa về phía tây bắc như một “làng kiểu mẫu” ở khu Đa Thành (phường 7 hiện nay). Chỉ sau một năm, làng Đa Thành đã thu hút được 2.000 cư dân Việt. Những vấn đề dân cư bản xứ giờ đã giải quyết xong. Nhưng chính người Pháp cũng không ngờ rằng đứa con đẻ xinh xắn của họ chỉ mười năm sau lại vĩnh viễn trở thành “con nuôi” của người Việt và đồ án quy hoạch 1942 của Lagisquet được chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện tiếp tục.
Hình thành trong hai đại chiến thế giới xen giữa là một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mọi quyết định từ Paris đều chi phối cục diện Đông Dương và ảnh hưởng đến chính sách về Đà Lạt. Nhưng Đà Lạt luôn là đứa con cưng sinh ra từ óc lãng mạn điên rồ và tham vọng sắt đá của người Pháp. Trong 40 năm đầu thế kỷ 20, Đông Dương đã 34 lần thay đổi toàn quyền - từ Paul Doumer tới Jean Decoux - với các chính kiến khác nhau, nhưng việc quy hoạch xây dựng Đà Lạt vẫn luôn được duy trì và phát triển. Cùng thời gian đó, 10 đời thị trưởng - từ Paul Champoudry tới André Berjoan - đã tiếp nối nhau ở Đà Lạt thực hiện các quy hoạch, bất kể thời cuộc thăng trầm hay ngân sách biến động.
Mặc những mâu thuẫn giữa viễn kiến quy hoạch và hiện trạng đô thị, mặc những xung đột lợi ích, mặc những tác động dư luận, cả người khởi xướng và các toàn quyền, các nhà quy hoạch lẫn người quản lý Đà Lạt đều chung một giấc mơ hầu như không tưởng: kiến tạo bằng được thành phố này. Ý chí của người Pháp mới đã biến nó thành hiện thực! Và là một hiện thực ngoại lệ mà sau 100 năm thế giới còn phải ngỡ ngàng tìm hiểu.
TRẦN ĐỨC TÀI




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.