Họa sĩ Đinh Cường,cô Tôn Nữ Kim Phượng và hs Trịnh Cung trong một buổi triển lãm tranh tháng 5 năm 1964
Nhà văn Lại Văn Long
Khi tôi 5 tuổi nhìn ra mặt hồ mênh mông thấy sợ hãi…
Khi tôi 25 tuổi đã khóc vì “nước Vạn Kiếp” không còn …
Khi tôi gần 50 tuổi đi hết đáy hồ quá khứ, bỗng nhìn thấy phần thứ ba (ngoài ý thức - vật chất) của con người.
Tôi ước 75 tuổi sẽ tìm lại Vạn Kiếp một lần nữa để hỏi mặt hồ tái sinh về những bóng đen đeo bám phận người!
*
Con đường Vạn Kiếp từ ngã ba Nguyễn
Hoàng chạy ven theo cái hồ cùng tên Vạn Kiếp rồi rẽ quặt ôm theo triền
đồi vàng rực hoa dã quỳ.
Nhà tôi bên phải đường, ngó lên là những biệt thự cổ, mái ngói rêu phong buồn bã trong rừng thông già âm u.
Ba mẹ tôi từ miền Trung vào Đà Lạt lập
nghiệp, ba gát dang* cho một tu viện, mẹ làm mướn cho những chủ vườn ở
khu Hà Đông. Hàng ngày tôi 5 tuổi ở nhà với chị Hai 11 tuổi, anh Ba 9
tuổi và thằng em mới hơn một tuổi. Nhờ Đức ông chủ tu viện nên ba tôi
được ở một nửa căn nhà cổ của Pháp, nửa kia là nhà ông cảnh sát trưởng
tên Lý. Hai gia đình đều ở tầng trệt, bên trên có gác gỗ bỏ trống. Mỗi
tuần ba tôi chỉ về nhà được một buổi rồi lại tất tả đạp xe trở về với
công việc ở tu viện. Ba thường kể Đức ông người Y - Pha - Nho (Tây Ban
Nha) - chủ nhân của ba chỉ ăn trái cây, bánh mì, pho mát và uống sữa.
Ông ấy bệ vệ, hồng hào và nhân từ như ông già Noel… Thỉnh thoảng Đức ông
cho ba mấy cuốn truyện tranh rất đẹp vẽ các điển tích thiên chúa giáo
để làm quà cho chị em tôi. Cũng có lúc cho quần áo cũ, mùng mền, cá hộp…
Chị em tôi học ở ký nhi viện Hoa Mai của mấy bà xơ người Pháp, người
Việt gần nhà, thường được mấy xơ tặng bánh thánh (như bánh tráng hay
bánh đa nhỏ). Ba tôi thỉnh thoảng cũng mang về bánh thánh của Đức ông,
nhưng ba mẹ khuyên chúng tôi đừng ăn vì: “Nhà mình đạo Phật, ăn bánh
thánh vào sẽ bị Chúa với Phật cùng giành linh hồn, điên điên dại dại…”
Chị em tôi vẫn lén ăn vì tò mò…
Buổi tối ba vắng nhà, mấy mẹ con cùng
ngủ chung chiếc giường trải bao bố bên dưới chiếu để giữ hơi ấm. Trời
lạnh hơn, mẹ lại đốt nồi than để gầm giường. Đêm nào trên gác gỗ cũng có
tiếng chân người mang giầy đi lộp cộp. Chị em tôi sợ hãi ôm nhau nín
thở, mẹ bảo: “Ông Lý lại lên gác…”. Có hôm chị Hai hỏi lại: “Nhưng cầu
thang bên nhà mình, ông Lý lên gác sao được?”… Mẹ quát: “Đừng hỏi nữa,
ngủ đi!”. Sau này, khi đã chuyển chỗ ở, mẹ mới kể ngôi nhà đó có ma, đó
là oan hồn người bị Tây tra tấn chết…
Những hôm anh Ba giữ em, chị tôi nhỏ bé
đội cái nón lá của mẹ trông như cây nấm, lại rủ tôi đi nhặt củi. Hai bên
đường Vạn Kiếp toàn những biệt thự của Pháp, nhiều cái bỏ hoang. Chị em
tôi thơ thẩn dưới những táng thông già, nhặt những cành khô rụng. Đôi
khi chúng tôi vào những căn nhà hoang bốc mùi ẩm mốc, lạnh lẽo, dùng
than vẽ bậy lên tường. Vẽ chán, chị lại rủ tôi ra các bụi hoa ngũ sắc để
tranh giành hút mật với lũ ong, bướm. Chị dạy tôi dùng mấy ngón tay rút
nhụy hoa đưa vào mồm mút rồi nhắm mắt lại tận hưởng vị ngọt ít ỏi trên
đầu lưỡi. Chị em tôi lại đi săn những con ốc sên bám trên các móng nhà
xây bằng đá phủ rêu xanh. Lấy đầu nhọn trên vỏ hai con ốc ấn vào nhau,
ốc nào còn nguyên là thắng, vỡ là thua. Chơi một lát hai tay đầy nhựa
ốc, mùi tanh nồng, chị lại đưa tôi ra mép hồ Vạn Kiếp để rửa tay. Ven hồ
có cây cỏ lạ, thân dài yếu đuối, trên đầu có bông kết bằng những sợi tơ
trắng. Chị ngắt đưa lên mồm thổi, tơ trắng mong manh bay theo gió, tôi
thích quá cười ngất. Chị lại moi những bụi cỏ me ra bông vàng thắm. Rễ
của nó hình củ cải nhỏ xíu bằng nửa cây bút chì. Chị rửa dưới nước hồ
Vạn Kiếp rồi đưa tôi, tôi vừa nhai vừa nhăn mặt vì vị chua chua của nó…
Khi đã chơi đùa chán chê, chị mới lấy dây vải buộc mớ củi khô thành bó
lớn, bó nhỏ để hai chị em ôm về.
Hôm đó…ông Tây to lớn tóc bạc trắng,
hồng hào sang trọng trong cái áo rộng thùng thình trắng tinh đang đứng
với ba tôi ở sân nhà. Ba chỉ chúng tôi rồi khoanh tay cung kính với ông
ấy:
- Thưa đức ông đây là hai con của con!
Chị em tôi quăng củi xuống đất, lật đật bắt chước ba khoanh tay ạ ông. Ông Tây xoa đầu tôi, nói bằng tiếng Việt rất dễ nghe :
- Các cháu kiếm củi ở hồ Vạn Kiếp hử? Hồ
thiêng đấy! Lúc ta còn trẻ có lần đi thuyền ngắm hoàng hôn, chợt thấy
trong màn sương mờ ảo Đức mẹ hiện lên chói lòa. Mấy chục năm trước hồ
này rộng lắm, chung quanh toàn rừng chứ không có nhà cửa như bây giờ.
Chị tôi bé choắt, linh lợi, nón lá hất sau lưng, mặt mũi lem luốc, tròn mắt nghe ông Tây kể chuyện. Bất ngờ chị hỏi lại :
- Con nghe người ta nói dưới hồ có cả
làng ma da, ma kéo chân ai tắm dưới hồ nên có nhiều người chết đuối. Cứ
kéo được một người xuống là con ma da ấy lại được thành người. Ban đêm
ma da rủ nhau đi chơi đàn đàn, lũ lũ trên mặt hồ, còn đùa giỡn ca hát
với nhau nữa. Đức mẹ hiện trên mặt hồ có phải là ma da không hở ông? Ma
chúa phải không ông?
Ba tôi điếng hồn, quắt mắt nhìn chị Hai rồi thưa:
- Xin Đức ông tha thứ cho con trẻ dại mồm…
Đức ông nhìn chị tôi sững sờ, mặt ông đỏ
thẫm. Ông làm dấu thánh, lim dim mắt đọc một tràng tiếng gì đó nghe lổn
ngổn như ly thủy tinh va cọ vào nhau, sau đó thở phì phì rõ to rồi mới
nói bằng thứ ngôn ngữ tôi hiểu được:
- Nơi nào có Chúa thì ma quỷ không thể
lộng hành. Nếu tâm hồn các con có niềm tin vào Chúa, ma quỷ không dám
đến quấy phá! Ta thường khuyên ba của các con nên sớm cho các con rửa
tội, chịu phép thánh là vì vậy…
Nói xong Đức ông quay lưng đi lên mặt
đường Vạn Kiếp, tự lái chiếc xe con cóc mui trần, cũng trắng tinh như bộ
đồ ông đang mặc, chạy về phía hồ Vạn Kiếp. Mẹ bế em trong nhà bước ra,
ba chỉ vào bao gạo dựng trước hiên nhà:
- Đức ông lại cho gạo, vậy mà con bé lại làm ngài giận! Mỗi khi phải đọc kinh bằng tiếng La tinh là ngài đang giận…
Mẹ lắc đầu:
- Mình không vào đạo thì đừng nhận quà của Đức ông!
Ba gãi đầu:
- Mình chịu ơn bề trên… từ chối khó quá!
*
Cả xóm Vạn Kiếp náo loạn với tiếng súng
nổ liên hồi chát chúa, tiếng rượt đuổi rầm rập và quát tháo inh ỏi. Cùng
lúc đó là tiếng “xì… bụp” của súng bắn hỏa châu. Đêm đó có ba ở nhà, mẹ
gọi ba:
- Anh ra xem hỏa châu rớt chỗ nào mai ra nhặt dù của nó về may vỏ mền bông!
Ba mở cửa, tôi cũng theo ra sân đứng ngắm những trái hỏa châu như mặt trời con con lơ lửng, sáng rực giữa trời đêm. Ba reo lên:
- Rơi hết xuống hồ rồi em ạ, giá mà nhà mình có chiếc ghe!
Ba đứng luôn ngoài sân hút thuốc, một
lát thì ông cảnh sát trưởng đeo súng lục lủng lẳng, từ ngoài đường bước
vào. Thấy ba, ông bảo:
- Cho tao điếu thuốc…
Ông Lý lớn tuổi hơn, lại có phong độ,
chức quyền nên thường gọi người sức khỏe kém, không phải đi quân dịch
như ba tôi là “chú em”, xưng “tao” ngon lành. Ông rít mấy hơi thuốc làm
đầu lửa đỏ lòe trong đêm rồi dậm chân chửi thề bằng giọng Quảng Nam:
- Bọn tao phục ở trường Trần Hưng Đạo để
bắt một thằng với một con Việt cộng vào rải truyền đơn xúi học sinh
biểu tình. Hai đứa nó bị dí quá nên nhảy xuống hồ Vạn Kiếp. Tao cho bắn
tới sáu trái hỏa châu tìm khắp hồ mà không thấy tụi nó đâu. Mấy lần
trước cũng bắt hụt tụi nó như vậy. Rồi mấy thằng nghi là Việt cộng ở xóm
này tự nhiên biến mất? Không lẽ Việt cộng đào được đường hầm từ đáy hồ
vào tận mật khu trong rừng? Ngày mai tao sẽ cho thợ lặn kiểm tra…
Đêm đó ông Lý không lên đồn mà ngủ luôn ở
nhà. Đến sáng bên sân nhà ông ồn ào, tôi theo ba lật đật chạy ra thấy
rất đông dân vệ, cảnh sát bao quanh tờ giấy trắng to như tờ báo dán
trước cửa nhà ông. Ba vô nhà kể với mẹ:
- Việt cộng dán giấy dọa tử hình ông Lý…
Mẹ bâng khuâng:
- Mới tối qua ông Lý còn dí bắt họ, bây
giờ lại bị họ dí lại. Chắc họ ở quanh đây… thời buổi này không biết ai
là người, ai là ma, ai quốc gia, ai Việt cộng!
Ăn sáng bằng cơm nguội chiên lại xong,
ba đạp xe chở tôi về nhà bác Hai để dự đám giỗ. Đám giỗ rất đông, toàn
người làng của ba ở Huế vào Đà Lạt sinh sống. Họ tíu tít hỏi nhau đủ
chuyện. Khi ba nói đang ở gần hồ Vạn Kiếp, một mệ nhai trầu bỏm bẻm,
dặn ba:
- Hồ đó linh lắm nghe con. Mệ nghe người
ta nói có con cá thần to như chiếc chiếu đêm nào có trăng lại nổi lên
chở Quan Âm Bồ Tát hào quang sáng chói đứng trên lưng. Con đi ngang đó
nhớ khấn vái hỉ! Đừng cho mấy đứa nhỏ ra hồ chơi…
Tôi ngồi cạnh ba tự nhiên buột miệng nói:
- Chị con nói hồ đó nhiều ma da lắm mệ!
Mệ cười:
- Nhiều ma nên Quan Âm Bồ Tát mới đến để
diệt trừ. Khi mô gặp ma, con cứ nhắm mắt lại, chấp tay trước ngực khấn
“Nam mô A di Đà Phật” là ma chạy liền!
Tôi mừng quá, định bụng tối về sẽ bày
lại cho chị Hai, anh Ba. Nhưng đêm đó cha con tôi ngủ lại nhà bác. Gần
trưa ba mới chở tôi bằng xe đạp trở về. Khi đi ngang hồ Vạn Kiếp, đông
người đang đứng trên bờ nên ba dừng xe hỏi thăm chuyện gì. Bác Cậy làm
vườn gần đó kể:
- Có thằng học trò tắm hồ chết đuối. Nó
là người Thượng (dân tộc thiểu số) ở tận Lạc Dương. Ba mẹ nó nhờ thầy mo
đến cúng gọi hồn nó về nhà…
Trên bờ hồ có đông học sinh trung học
Trần Hưng Đạo mặc đồng phục quần xanh đen, sơ mi trắng, áo len xanh sậm.
Có cả mấy giáo sư (thời đó dạy trung học được gọi là giáo sư) mặc đồ
vét, thắt cravat, đeo kính trắng. Tôi chen vào đám đông, nghe hai giáo
sư nói chuyện với nhau. Một thầy kể:
- Tôi đọc tài liệu của Pháp nói dưới đáy
hồ này có kho báu Chàm (Chămpa) chôn cùng chín trinh nữ và những lời
nguyền. Linh hồn các trinh nữ sẽ canh giữ kho báu, ai lặn xuống hồ là
xâm phạm kho báu, đều phải chết theo lời nguyền.
Thầy kia nói:
- Tôi sẽ cho ông mượn một tài liệu được
dịch từ chữ Nho. Trong đó nói rõ hồ Vạn Kiếp này là một mắt của con rồng
khổng lồ mà lưng của nó là dãy núi Lang Biang. Mắt còn lại là hồ Đa
Thiện. Là mắt rồng nên dưới đáy hồ chắc chắn phải có “Long Mạch”. Ông
nhớ truyện Đinh Bộ Lĩnh không? Đưa được xương cốt của cha vào Long Mạch
là thành hoàng đế…
Tai tôi căng ra nghe lén câu chuyện
huyền bí của hai giáo sư, mắt thì nhìn không chớp vào ông thầy mo đóng
khố, choàng khăn thổ cẩm, tay cầm tù và cong vút hướng ra hồ gọi hồn.
Bỗng một bàn tay cứng ngắt nắm chặt cổ tay tôi lôi đi. Ngước lên thấy ba
đang giận dữ, quát:
- Ba đi tìm con mệt phờ, lạng quạng rớt xuống hồ là chết!
*
Tết Mậu Thân 1968…
Gia đình tôi về nhà bác Hai ở khu số 4
ăn tết. Sáng mồng một, đại gia đình đang bày mâm cúng trời phật, tổ tiên
thì súng nổ dồn dập khắp nơi, tiếng phản lực cơ gào thét trên trời. Bác
Hai hô hào con cháu chạy ra con suối sau nhà để ẩn núp. Một lát thì có
trực thăng bay đến xả đạn xuống suối, cả nhà tôi lại dắt nhau chạy ngược
ra đường Hai Bà Trưng. Ba ôm tôi vào lòng, mẹ bế thằng em, anh Ba chị
Hai chạy theo. Cả nhà vừa chui vào ống cống bê tông trước nhà bác Hai
thì trực thăng phóng một trái rốc két xuống ngã tư gần đó. Một tiếng nổ
như trời sập làm cả khối cống nặng nề chôn dưới đất như muốn nảy lên.
Gia đình tôi kinh hoàng khóc thét gọi nhau giữa mịt mù bụi bặm trong ống
cống. Chùa Linh Quang, chùa Tuệ Quang ở gần đó đều bị máy bay phản lực
ném bom, trực thăng bắn rốc két phá tan tành. Tượng Phật lớn ở chùa Tuệ
Quang chỉ còn thân phật lỗ chỗ mảnh bom, vết đạn. Đầu phật gãy đổ cùng
chánh điện bốc cháy ngùn ngụt…Khi trên trời đã hết máy bay, tiếng súng
cũng im bặt, ba tôi dẫn cả gia đình chạy trở vào nhà bác Hai… Cả nhà bác
Hai ai cũng tái mét, ướt sũng, lấm lem bùn đất. Bác Hai mắt đỏ hoe,
nghẹn ngào nói với ba:
- Chú đưa gia đình về nhà đi. Ở đây lỡ
chết chùm là… hết! Anh em mình phải còn một đứa sống để lo cho con cháu,
giỗ chạp cha mạ (mẹ), ôn mệ (ông bà)…
Ba tôi dắt xe đạp thồ chị Hai, anh Ba,
tôi và bọc quần áo, mấy dĩa xôi, đòn bánh tét lấy ở nhà bác. Mẹ bồng
thằng em lẽo đẽo theo sau. Gia đình tôi hòa vào dòng người gồng gánh
lỉnh kỉnh, hớt hải tản cư trên đường. Có những căn nhà đang bốc cháy,
mùi lửa đạn khét lẹt giữa nắng xuân se lạnh. Bên hồ Vạn Kiếp cũng vừa
xảy ra một trận đánh. Khá đông lính Mỹ đang đóng quân ven hồ, có cả xe
thiết giáp lội nước…
Khi ba đẩy xe đạp đến đoạn đường sát mép
hồ, chị em tôi thấy có ba xác chết mặc quần đùi, áo đen bị lính Mỹ lôi
dưới hồ lên đặt trên đường để lục soát. Gần đó là mấy lính Mỹ bị thương
được băng bó nằm trên băng ca. Khi chúng tôi về đến nhà, nhìn ra hồ thấy
ba chiếc trực thăng đang hạ xuống chỗ lính Mỹ đóng quân, họ khiêng
những người bị thương nằm trên băng ca và cả những ông Mỹ đã chết trong
túi vải bạt, đẩy vào trực thăng. Sân nhà tôi cũng đông người, mẹ ôm em
bé chen vô, tôi nhảy xuống xe đạp chạy theo mẹ. Vợ con ông Lý quỳ dưới
sân gào khóc tức tưởi. Bà Lý hiền, thường cho thằng em tôi cháo tôm khô
đựng trong mấy cái chén hàng viện trợ của Mỹ cứng và nặng như đá. Thấy
bà là tôi nhớ tới cái chén Mỹ với mùi cháo tôm khô. Mấy người lính, dân
vệ, cảnh sát khiêng về một cái băng ca phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ. Khi lá
cờ gấp xuống, hiện ra ông Lý mặc bộ đồ cảnh sát đẫm máu, mặt mũi cũng
đầy máu, mắt mở trừng trừng… Người ta đặt một chén cơm đầy vun với một
quả trứng luộc có cắm ba cây nhang nghi ngút ở đầu băng ca… Tôi đứng
thẫn thờ bên xác ông Lý, nhìn đôi giày trận bê bết bùn đất của ông thò
ra dưới lá cờ, tôi chợt thấy mấy cọng cỏ me bông vàng còn dính dưới đế
giầy. Loại cỏ ăn vào hết khát nước và trị được táo bón này chỉ có trên
triền hồ Vạn Kiếp. Chị Hai đến kéo tay tôi:
- “Đi ra hồ nào, ở đó cũng có đám ma”…
Tôi chạy theo chị với anh Ba. Lính Mỹ đã
theo trực thăng bay hết lên trời, chiếc xe thiết giáp nổ máy như trời
gầm cũng không còn. Bây giờ chỉ toàn những khuôn mặt quen trong xóm Vạn
Kiếp vây quanh mấy cái xác mặc quần đùi, áo bà ba đen. Bà Tư thường ngày
quẩy gánh đi lang thang khắp xóm rao “Ai ve chai sắt vụn lông vịt bán
khô…ô..ông…” đang ôm một cái xác như thế gào khóc “Con ơi! là con ơi…”
Cũng như ông Lý, trên đầu xác con bà Tư và các xác kia đều có chén cơm
đầy vun, quả trứng luộc cắm ba cây nhang nghi ngút khói. Ông Lý được phủ
cờ vàng ba sọc đỏ, còn mấy cái xác này đang được bà con bó chiếu mang
ra nghĩa trang gần đó chôn. Tôi đứng giữa đám đông ồn ào, nhìn ra mặt hồ
Vạn Kiếp gió hiu hiu buồn thảm, ngước thấy chị Hai khóc, tôi cũng sợ
hãi khóc theo…
Sau Tết Mậu Thân, gia đình tôi về khu số
4 ở chung với bác Hai, tôi học hết tiểu học ở trường Đa Nghĩa gần nhà
bác. Thị xã Đà Lạt giải phóng, ba đưa cả gia đình đi kinh tế mới ở vùng
núi R’Chai - Đức Trọng, cách Đà Lạt - thủ phủ của tỉnh Lâm Đồng hơn 40
cây số. Tôi học xong cấp hai ở trường xã, cấp ba ở trường huyện rồi
xuống Sài Gòn học tiếp. Mãi đến năm 1988, tốt nghiệp đại học tôi mới trở
lại Đà Lạt, làm việc ở khu Chi Lăng.
*
Đúng hai mươi năm sau kể từ tết Mậu
Thân, tôi mới quay lại thăm hồ Vạn Kiếp. Tôi đi bộ từ Chi Lăng xuống đó
chừng sáu cây số, vừa đi vừa nghĩ ngợi buồn vui với cái hồ đã gắn bó
suốt tuổi thơ. Tôi đi ngay sau giờ tan tầm, định bụng sẽ đứng ngắm hoàng
hôn trên mặt hồ sương mù dày đặc, rồi chờ trăng lên. Trong túi xách
trên vai, tôi có ổ bánh mì, bình nước trà còn ấm, thuốc lá, hộp quẹt…
chẳng còn lo gì nữa!
Tôi bước thoăn thoắt theo sức trai, dưới
chân là đôi giầy nhà binh Liên Xô do anh bạn giảng viên học viện lục
quân tặng. Giầy cao cổ bằng loại da tốt, mang vào cũng hùng dũng như bốt
- đờ - sô của Mỹ trang bị cho lính cộng hòa hồi đó. Người Việt Nam ta ở
phía nào của chiến tranh cũng được đồng chí, đồng minh lo cho từ cái
lớn nhất như máy bay, tàu chiến, xe tăng… đến thứ nhỏ xíu như cái chén
ăn cơm, đôi giầy trận… Sướng thật mà cũng… đau thật!
Đến ngã ba Nguyễn Hoàng - Vạn Kiếp, tôi
đứng lại ngắm những bụi hoa dã quỳ lơ thơ, ngắm cây thông già ba cành
nhiều kỷ niệm. Hai mươi năm trước nó là cây thông đồ sộ nhất khu này,
chị em tôi từng nhặt những cành khô rụng của nó đem về cho mẹ nấu cơm.
Ngày nào cũng nhặt nhưng cành rụng cũng như tiếng chim hót lảnh lót trên
cây, chẳng bao giờ hết. Trong xương thịt, máu huyết và tâm hồn tôi có
một phần công lao của nó. Bây giờ tôi lớn lên, thấy cây bé lại, cả con
đường Vạn Kiếp cũng hẹp và ngắn lại… tôi nghĩ như vậy rồi bỗng sợ hãi
nếu như lát nữa đây thấy hồ Vạn Kiếp cũng nhỏ lại. Ám ảnh đó làm tôi
không dám đi về phía trước, cứ đứng mãi dưới gốc thông. Tôi dằn vặt mình
sao nhút nhát quá. Chỉ mới mấy chục phút trước, tôi đã trừng mắt vào gã
đàn ông bặm trợn đang đánh một phụ nữ ven đường. Hắn cầm gậy và hung
hăng gây sự luôn với tôi. Tôi tự tin với mũi giầy cứng như đá của Liên
Xô nên đứng chống nạnh thách thức. Thấy tôi ung dung như võ sĩ dày dạn,
hắn chửi thề rồi bỏ đi. Nạn nhân đến cám ơn tôi rồi giải thích: “Chồng
cũ của em, li dị rồi mà ổng cứ chặn đánh em…”. Nhớ lại chuyện đó, tôi
thấy can đảm hơn nên lê được vài chục bước chân đến nơi mà trong ký ức
tôi là mặt hồ. Thế nhưng… tôi tìm mãi chẳng thấy cái hồ mênh mông thuở
nào, chỉ có những vườn rau nối tiếp những vườn rau! Tôi nghĩ đến chuyện
bị lạc đường, nhưng lạc thế nào khi cây thông ba ngọn còn đây, đường Vạn
Kiếp còn đây… Trường Trần Hưng Đạo? Phải rồi trường nằm dọc theo triền
hồ bên phải, những dãy phòng học quét vôi màu sáng nổi lên giữa rừng
thông ven hồ. Tôi đưa mắt về phía muốn tìm, không có rừng mà cũng chẳng
thấy những dãy nhà, chỉ có một quả đồi thấp trơ trụi, vài mảng tường
loang lổ đổ nát trong hoàng hôn tím thẫm. Bây giờ thì tôi sợ, thật sự
sợ… Vùng này nhiều ma. Không lẽ ma đã biến hóa cả cái hồ to đùng, cả
ngôi trường trung học danh tiếng, cả rừng thông thơ mộng thành hoang vu
thảm hại thế này sao? Hay là hồi nhỏ tôi theo đạo Phật lại trót ăn vụng
bánh thánh nên Phật với Chúa cùng giành linh hồn, bây giờ điên dại không
còn nhìn được sự thật, không còn thấy được điều cần thấy? Tôi cuống lên
sợ hãi, tim đập thình thịch và chân muốn khụy xuống…
Có người đàn bà cùng một cậu bé từ phía
nhà cũ của tôi đi bộ xuống. Tôi chặn họ lại hỏi về hồ Vạn Kiếp. Chị ta
chỉ xuống vườn rau:
- Ở đó!
Tôi hỏi về trường Trần Hưng Đạo, chị chỉ
vào nơi đổ nát hoang tàn. Tôi như đang sốt với cái trán nóng hầm, thấy
chị ta và đứa bé lơ lửng trên mặt đất nên cố hết sức hỏi thêm một câu
nữa:
- Chị có phải là… người không?
Thằng bé há hốc nhìn tôi rồi hét lên:
- Ông này bị điên đó mẹ, chạy đi không ổng cắn!
Thằng bé lôi tay mẹ, bà mẹ hốt hoảng ôm
nó. Cả hai nhìn tôi bằng ánh mắt khiếp hãi, đề phòng. Tôi bỗng òa khóc
nức nở, họ càng sợ kéo nhau bỏ chạy…
Bóng tối tràn đến từ khi nào, trên con
đường Vạn Kiếp, bên cạnh hồ Vạn Kiếp của quá khứ chỉ có mình tôi đứng
giữa tối tăm, hoang vu, gió lạnh ù ù. Nơi tôi đứng hai mươi năm trước
“bà Tư ve chai” mặc áo vá, đội nón cời ôm xác con trai khóc vật vã. Anh
cùng hai đồng đội ngoi lên từ hồ Vạn Kiếp dùng AK-47 tối tân, thi hành
án tử hình ông Lý cảnh sát trưởng. Quân hộ vệ ông Lý ôm súng trường cổ
lỗ tháo chạy. Đồng minh Mỹ phải điều một trung đội cùng thiết giáp, trực
thăng đến cứu viện và chịu khá nhiều thương vong trong cuộc đọ sức giữa
tiểu liên “Nga sô” lần đầu xuất hiện trên chiến trường Đà Lạt với súng
tự động M16 của họ. Máu “cộng sản” của con bà Tư, máu “quốc gia” của ông
Lý, máu xa lạ của ngoại nhân… đã cùng hòa vào nước hồ Vạn Kiếp. Tôi
cũng từng rửa tay cho hết mùi ốc tanh, rửa mặt cho bớt lem luốc, rửa củ
cỏ me trước khi cho vào mồm hưởng chất bổ kỳ lạ của nó, của vùng đất
này… bằng nước Vạn Kiếp! Đức mẹ của ông tu sĩ da trắng mang từ Châu Âu
sang; Quan âm bồ tát của mệ già nhai trầu thỉnh ngoài cố đô vào; tiếng
tù và gọi hồn của ông thầy mo đóng khố thổ cẩm mang về từ Trường Sơn u
tịch; ma da tìm người thế thân trong tín ngưỡng hoang sơ của chị tôi…
tất cả đều sinh ra trên mặt hồ phẳng lặng mà huyền bí này...
“Đất Vạn Kiếp” còn đây mà “nước Vạn Kiếp” đâu rồi?!
Tôi đứng khóc chán chê rồi ôm đau đớn
lếch thếch ra đường Nguyễn Hoàng. Tôi thấy mình kiệt sức dù đang mang
đôi giầy của cường quốc Liên Xô, nên phải đón xe ôm để trở về khu tập
thể cơ quan ở Chi Lăng.
Tôi ở Đà Lạt thêm hai năm nhưng không
một lần dám quay lại hồ Vạn Kiếp. Năm 1990, tôi phờ phạc rời Đà Lạt với
chứng trầm cảm lây lan quá nửa ý thức. Tôi muốn mượn sự náo nhiệt của
Sài Gòn để chữa trị tâm lý u uất…
*
Hai mươi bốn năm sau, tức mùa hè 2012,
tôi là gã trung niên sắp tuổi “tri thiên mệnh” lại về Đà Lạt. Không còn
tin vào chính mình nên khi quay lại tìm hồ Vạn Kiếp tôi phải nhờ thêm
hai ông bạn thân thời trung học đang sống ở Đà Lạt đi cùng. Tôi cũng
không dám đến đó lúc hoàng hôn nên rủ hai bạn đi vào buổi trưa, mặt trời
chói chang làm minh bạch tất cả. Chúng tôi đón taxi đến ngã ba Nguyễn
Hoàng. Tôi định giới thiệu với hai bạn cây thông ba cành, nhưng hỡi ôi…
nó đã không còn! Tôi dẫn hai bạn đi xuống lòng hồ Vạn Kiếp…
Đáy hồ của quá khứ bây giờ nhà cửa chen
chúc - nhà dân, nhà trọ, nhà xây lậu, nhà kính trồng rau… Những con
đường bụi bặm len lỏi khắp các ngỏ ngách như những mũi kim đang gây đau
đớn trên khắp thân tôi. Tôi cố tìm con cá thần to như chiếc chiếu chở
phật bà Quan Âm đi cứu khổ; con mắt rồng lung linh hứa hẹn sản sinh minh
quân hoàng đế; kho báu Chàm chôn cùng chín số phận trinh nữ tức tưởi
hay đường hầm bí mật của cuộc chiến tranh thăm thẳm đau đớn… nhưng tôi
chỉ thấy mùi phân heo, phân cá ô nhiễm; mùi thuốc sâu độc địa cùng nỗi
thống khổ hay sự tha hóa vì sinh nhai! Tôi mơ đến lời ca của bầy đàn ma
da trên mặt hồ tuổi thơ rờn rợn; tiếng tù và rúc gọi hồn thần bí của đại
ngàn Tây Nguyên; tiếng gió miệt mài ru rừng thông vi vu và nâng đỡ
những sợi tơ mong manh từ bông hoa ước mơ của chị tôi ngày đó… Nhưng
quanh tôi bây giờ chỉ có tiếng chó sủa chát chúa, tiếng cãi vả thô tục,
tiếng xe máy rú lên tàn nhẫn!
Một bạn tôi rút ra tờ báo có ảnh vị
lãnh đạo địa phương tuyên bố sẽ giải tỏa khu dân cư trong lòng hồ Vạn
Kiếp, khôi phục lại ba hecta mặt nước làm cảnh quan du lịch. Tôi muốn
nói với ông ấy: “Cái hồ này không chỉ là ba hecta, ba mươi, ba trăm hay
ba ngàn hecta… nó rất vĩ đại vì dài bằng hành trình hình thành văn hóa
đa diện mạo, rộng như ước mơ của nhiều thế hệ đa sắc tộc cộng lại và sâu
không đáy như chia ly, mất mát của chiến tranh…”
*
Tôi nhìn lên quả đồi của trường trung
học Trần Hưng Đạo ngày nào nay có trường đại học Yersin mới xây dựng bề
thế. Đây là trường đại học buồn nhất vì phải phủ định một trường học
khác để có chỗ ra đời! Thật đáng sợ khi giáo dục phủ định giáo dục, văn
hóa phủ định văn hóa và cái bao tử nhỏ bé của con người nuốt chửng cả
thiên nhiên bao la lẫn huyền tích sâu lắng mấy ngàn năm của tôn giáo!
Một người làm vườn vác cái nĩa đất năm
răng đang đi tới. Tôi muốn làm quen để hỏi chuyện, bỗng giật mình kinh
hãi khi thấy sau lưng người này có một bóng đen to lớn cứ bám chặt lấy
ông ta. Tôi quay sang bạn bên trái để hỏi có thấy điều đó không… lại
càng kinh hãi hơn khi bạn cũng có một bóng đen như vậy! Lật đật quay
sang phải - người đứng cạnh tôi nãy giờ, chơi với tôi suốt mấy chục năm,
cũng có bóng đen nhô sau lưng… Bây giờ đang là buổi trưa không thể có
ma, cũng không thể là ảo ảnh, bóng đen kỳ dị sau lưng mỗi con người dưới
đáy hồ quá khứ này là gì vậy? Đó là thành phần thứ ba ngoài vật chất và
ý thức cấu tạo nên con người chăng? Tôi muốn chia sẻ với hai bạn thân
phát hiện này, nhưng lại sợ họ nghĩ tôi điên như mẹ con thiếu phụ hai
mươi bốn năm trước…
Khi chúng tôi rời khỏi đáy hồ, bóng đen sau lưng hai bạn tôi và những người đi đường mà tôi gặp không còn nữa.
Suốt bảy tiếng đồng hồ ngồi xe đò trở về
Sài Gòn, tôi cứ nghĩ miên man về hiện tượng kỳ lạ này. Tôi đã đi vào
“nấm mồ văn hóa” của chính mình và nhìn thấy điều huyền bí từ… “Vạn
Kiếp”!
Bao giờ “Vạn Kiếp” phục sinh, tuổi già tôi sẽ thủ thỉ hỏi hồ về những bóng đen đeo bám phận người…
*Gardien (tiếng Pháp) : Người trông giữ nhà.
Tp. HCM 24 - 11 - 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.