Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014

ĐỀ TÀI NC: KIẾN TRÚC ĐÀ LẠT


TÓM TẮT:
KIẾN TRÚC ĐÀ LẠT
KTS TRẦN CÔNG HÒA
- PHẦN MỞ ĐẦU.
- PHẦN THỨ NHẤT:LƯỢC SỬ KIÊN TRÚC TIÊU BIỂU Ở ĐÀ LẠT.
1.Kiến trúc thời kỳ đầu: - Kiến trúc dân tộc truyền thống:nhà sàn. - Nhà sàn kiểu Thuộc địa Pháp. 2. Kiến trúc tiêu biểu tại ĐàLạt.
2.1.Công trình công cộng:
2.1.1.Công sở. -Cục bản đồ. -Bưu điện. -Ngân khố. -Viện Pasteur. -Trụ sở U.B.N.D.
2.1.2.Nhà Ga xe lửa.
2.1.3.Khách sạn.
- Hotel du Lac.
-Hotel Palace.
-Hotel Dalat
2.1.4.Trường học
- Trường Grand Lycée (Cao đẳng sư phạm)
- Trường Petite Lycée (Trường kỹ thuật Dalat).
- Trường Adran (Sở Giáo dục Lâm Đồng).
- Trường Couvent des Oieaux (Trường Dân tộc nội trú). 
- Trường nữ tu dòng Franciscain (ĐHKT-2). 
- Trường tiểu học Đoàn thị Điểm. 
- Trường Nazareth (Ecole Francaise). 
- Viện Đại học Dalat. 
- Học viện lục quân....

2.1.5.Chợ.
2.1.6.Bệnh viện
2.2.Công trình tôn giáo. 
 - Nhà thờ chánh toà.
 - Nhà thờ Domain de Marie.
 - Tu viện Dòng Chúa cưú thế.
 -Nhà thờ Cam ly.
 -Chùa Linh Quang.
 -Chùa Linh Sơn. -Chùa Linh Phong.
 -Chùa Linh Phước.
 -Chùa Tàu.
 -Thiền viện Trúc lâm.
2.3. Dinh thự.
2.3.1. Dinh 1
2.3.2. Dinh 2.
2.3.3.Dinh 3.
2.3.4.Dinh Nguyễn Hữu Hào (nay là Bảo tàng Lâm Đồng).
2.3.5.Dinh Tỉnh Trưởng.
2.4. Biệt thự.
2.4.1.Các khu Biệt thự.
- Khu PASTEUR
- Đường Trần Hưng Đạo.
- Đường Hùng Vưong.
- Đườmg Hoàng Văn Thụ.
- Đường Hoàng Diệu.
- Đường Quang Trung
- Đường Nguyễn Du
- Khu Lê Lai (Cité Belle Vue).
- Khu Mê Linh. (Cité Saint Bênoit)
- Khu trường Trần Hưng Đạo (Cité De Coux )
2.4.2.Các kiểu biệt thự
 -Phong cách kiến trúc Normandie.
-Phong cách kiến trúc Bretagne.
-Phong cách kiến trúc Provence.
-Phong cách kiến trúc Alpes -Phong cách kiến trúc Basque.
-Phong cách kiến trúc Alsace.
-Phong cách kiến trúc Aquitaine.
-Phong cách kiến trúc Savoie.
2.5.Cư xá. -Song lập. -Liên kế.
2.6.Nhà vườn.
2.7.Nhà phố.
NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN.
- Kiến trúc Đà Lạt.
-Vấn đề khôi phục các kiến trúc (biệt thự) sau 1975.
- Kiến trúc mới xây dựng sau 1975.
-Định hướng kiến trúc đến năm 2010.
-----------------------------------------------------------------
PHẦN MỞ ĐẦU. 
Đà Lạt là một thành phố trẻ so với tuổi đời của một đô thị, mới được 110 năm hình thành và phát triển (1893 - 2003), qui mô không lớn; thế nhưng thành phố là minh chứng cụ thể, sinh động về nghệ thuật quy hoạch đô thị lẫn nghệ thuật kiến trúc, nó được đánh giá cao bên cạnh những đô thị lớn có bề dày lịch sử của Việt Nam. Có thể nói rằng Đà Lạt là một trừơng hợp khá đặc biệt trong lịch sử phát triển đô thị của Việt Nam, nó được xây dựng theo một quy hoạch hoàn chỉnh ngay từ đầu, và cho đến nay những ý tưởng đô thị học đặc sắc ấy vẫn là những kinh nghiệm qúy báu rất cần được lưu giữ để học hỏi. Người Pháp nhìn nhận Đà Lạt như là một bảo tàng kiến trúc địa phương của họ, từ các kiểu kiến trúc miền Bắc, miền Đông, cho đến các vùng phía Nam, phía Tây. Thật vậy, ngày nay tại Pháp cũng rất hiếm thấy các công trình ảnh hưởng theo các phong cách này, đôi khi chúng cũng không còn nguyên vẹn. Mặt khác, nếu muốn tìm hiểu trên thực tế hình mẫu kiến trúc một thời ấy, người ta phải đi khắp nước Pháp mới thấy hết đặc trưng kiến trúc của từng miền, từng vùng của Pháp, nhưng khi ở Việt Nam, chỉ cần ghé thăm Đà Lạt là đạt yêu cầu. Đà Lạt có cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, với những ngọn đồi cao thấp trùng điệp, thảm thực vật phong phú, đặc biệt là những rừng thông bạt ngàn che phủ phần lớn diện tích của thành phố, tô điểm thêm với một hệ thống hồ nước lớn nhỏ rải rác trong thành phố ,tạo thành cảnh quan đô thị Đà Lạt thơ mộng và độc đáo.Trong đó cùng với thời gian, di sản kiến trúc được đánh gía là có những giá trị đặc biệt, nhất là về học thuật quy hoạch đô thị. Bên cạnh giá trị về thẩm mỹ kiến trúc, chúng còn chứa đựng nhiều giá trị to lớn và thực tiễn về lịch sử, văn hóa,… và những nét đặc sắc không thể so sánh sánh được.
I-LƯỢC SỬ KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU Ở ĐÀ LẠT.

- Nha địa dư –(Cục bản đồ).
Nằm cách nhà ga xe lửa không xa, khoảng 300m là công trình Nha địa dư - Xưởng in 2-Cục bản đồ hiện nay. Nha địa dư nằm ở số 14, đường Yersin, phường 10 Đà Lạt, gần như giáp ranh với trường Cao Đẳng Sư Phạm. Công trình được xây dựng từ năm 1939 và hoàn thành năm 1943. Ngày 5/7/1894, Sở Địa dư Đông Dương được thành lập, trụ sở đặt tại Hà Nội. Đến 1940, được dời vào Gia Định. Cuối năm 1944, trụ sở dời lên Đà Lạt, với nhiệm vụ in bản đồ phục vụ cho 3 nước Đông Dương. Ngày 1/4/1955, Nha địa dư quốc gia được thành lập. Đây là một công trình đồ sộ, mang sắc thái của một công trình hành chính có hình thức thể hiện theo kiểu kiến trúc hỗn hợp. Diện tích toàn bộ khuôn viên của Nha địa dư rộng 30.670m2, nằm trên một sườn đồi dốc thoải.
Mặt bằng công trình chịu ảnh hưởng của kiến trúc cổ điển với 2 trục đối xứng ngang và dọc, tổ hợp theo kiểu hành lang giữa. Có một tầng hầm dùng làm kho bản đồ, tầng trệt ở đây có hai dãy phòng hành chính ở hai bên hành lang, trung tâm là tiền sảnh và phòng tiếp khách, hai khối cầu thang và vệ sinh bố trí đối xứng hai đầu. Ở tầng hai là các phòng kỹ thuật chiếm một không gian rộng lớn. Ngoài ra, còn có tầng áp mái (mansardre) được dùng làm kho phụ. Trong nội thất xuất hiện hệ cuốn tại các bước và nhịp độ (theo dạng cuốn trong kiến trúc Romansque) để phân chia không gian, làm giảm bớt không khí nặng nề của các phòng kỹ thuật, đồng thời tạo cảm giác hành lang giao thông dường như ngắn lại. Kết nối giữa sảnh chính của công trình với đường nhựa là một hệ thống những bậc thang đặt trên hệ kết cấu vòm bằng đá, trông thật duyên dáng và ấn tượng. Vòm cong của cầu đá kết hợp với đường cong nhẹ nhàng của con đường trải nhựa tạo ra một nét duyên riêng có của Nha địa dư Đà Lạt. đây cũng là điểm đặc sắc của công trình, làm cho nó khác với những công trình hành chính thông thường.
-Bưu điện.
Trạm bưu điện đầu tiên được xây dựng năm 1915,ở đầu đường Trần Hưng Đạo.Do nhà thầu khoán Julien đảm nhận.Năm 1919 dời về vị trí như hiện nay.
 -Ngân khố. (số 2 Trần Hưng Đạo).
Một trong những công trình có mặt sớm ở Đà Lạt. Nằm đối diện khách sạn Palace.Xây dựng năm 1915, do nhà thầu Julien thực hiện. Tầng hầm được xây kiên cố để chứa bạc. Kiến trúc điển hình kiểu vùng Normandie: khungsườn gỗ, tường lấp gạch, mái bẻ góc...
-Viện Pasteur Đà Lạt .
 Ngày 1/1/1936,Viện Pasteur Đà Lạt - viện Pasteur cuối cùng trong các viện Pasteur ở Đông Dương - được khánh thành (thời gian xây dựng 1932- 1935). Dưới sự chỉ đạo của bác sĩ Souchard, ngoài việc sản xuất vắc- xin, viện Pasteur Đà Lạt còn có nhiệm vụ xét nghiệm nước và thực hiện các xét nghiệm khác về giải phẫu bệnh học, xác định sức khỏe của người dân trên toàn vùng cao nguyên, không chỉ riêng cho Đà Lạt . Kiến trúc của Viện Pasteur chịu nhiều ảnh hưởng của trào lưu kiến trúc mới (Modern). Công trình được tổ hợp bởi những mảng khối hình chữ nhật. Sử dụng các hình khối mạnh mẽ, đường nét đơn giản, rõ ràng. Mặt đứng phản ánh khá trung thực cấu trúc của mặt bằng. Hệ mái bằng (đúc bê tông) có phần tường xây cao hơn mái hắt là một nét mới trong hình thức kiến trúc thời kỳ này. Ô văng đưa ra xa, xử lý thoát nước bằng hệ thống sê nô đúc bê tông cốt thép. Toàn bộ cửa sổ đều có hình vuông vức, chỉ duy nhất một cửa sổ tròn nhấn mạnh ở vị trí lối vào chính. Có thể nhận thấy rằng, hình thức kiến trúc của công trình Viện Pasteur Đà Lạt có nhiều điểm tương đồng với công trình Townhall Holland ở Hà Lan, một công trình cũng được xây dựng trong cùng thời kỳ (năm 1928) và được thiết kế theo hình thức kiến trúc Hiện đại tiên kỳ ở Hà Lan . Đà Lạt với khí hậu mát mẻ, khung cảnh đẹp và yên tĩnh thực sự thích hợp với việc học tập và nghiên cứu. Người Pháp đã cho xây dựng tại đây nhiều trường học với quy mô lớn nhỏ khác nhau, từ trường tiểu học, trung học cho tới viện đại học.
-Nhà ga hỏa xa Đà Lạt.
Do kiến trúc sư Reveron thiết kế, kiến trúc sư Moncet đã hoàn chỉnh thêm một số chi tiết của bản thiết kế này và trực tiếp trông coi xây cất công trình, khởi công năm 1935 và hoàn thành năm 1938. Trước đây , khi xây dựng một nhà ga xe lửa, thông thường người ta chỉ chú trọng về mặt kỹ thuật xây cất và nhất là tiện nghi giao thông mà thôi. Đây là lần đầu tiên, người ta đã đưa cả yếu tố mỹ thuật kiến trúc và ý nghĩa của công trình vào việc xây dựng một công trình có tính kỹ thuật. Tuyến đường sắt độc đáo có bánh răng cưa nối liền Đà Lạt với mọi miền đất nước qua ga Tháp Chàm đã được khai thông. Không phải ngẫu nhiên, mà chính kiến trúc sư Reveron và Moncet đã chọn vị trí xây dựng nhà ga Đà Lạt và trường trung học Yersin phải nằm cạnh nhau, để tạo thành một tổng thể kiến trúc sao cho công trình nọ hài hòa với nét độc đáo của công trình kia. Bởi vì nhà ga cũng như trường Yersin, ngoài giá trị về mỹ thuật và kỹ thuật xây dựng, nó còn mang ý nghĩa rất sâu sắc: mặt đứng nhà ga tượng trưng cho mùa hè, tổng thể kiến trúc mang dáng dấp của dãy núi Lang Bian hùng vĩ; chiếc đồng hồ đặt trên đỉnh núi ở mặt tiền nhà ga tượng trưng cho thời gian Yersin đã chinh phục cao nguyên Lâm Viên mà ông đã ghi trong nhật ký. Toàn bộ khu vực ga nằm trên sườn đồi dài, được ủi bằng phẳng. Công trình này đã được xếp vào thể loại có quy mô khá lớn, chẳng những ở thập kỷ 30 của thế kỷ XX mà cho tới tận ngày nay. Công trình chịu nhiều ảnh hưởng của kiểu kiến trúc Modern (Hiện đại). Mặt bằng được tổ chức theo nguyên tắc gần như đối xứng qua một trục vuông góc với mặt tiền: một phòng lớn ở giữa (37m x 10m) và các phòng phụ nhỏ nối dài sang hai bên .Bố cục đăng đối thể hiện giữa các bộ phận kiến trúc: ở mái ngói đỏ cao vút, những phần mái gấp, mái bẻ góc và ở những ô cửa sổ cùng với bức tường xây bằng đá chẻ tới ngang bệ cửa,… Sự đồ sộ của công trình thể hiện rõ trên mặt cắt: hệ vì kèo đỡ mái bằng bê tông cốt thép có chiều cao hơn 6m, bằng với chiều cao của không gian sử dụng chính . An tượng nhất vẫn là mặt đứng . Đập ngay vào mắt người thưởng thức là 3 chóp mái song song liền nhau chạy suốt từ đỉnh xuống rìa mái giả ở lối vào chính. Phía dưới của chóp mái có ốp dòng chữ DALAT khá lớn. Vuông góc với 3 mái theo chiều ngang của công trình là 2 mái dọc chạy về 2 phía và bẻ góc ở phần rìa mái. Tương ứng với 3 chóp mái là 3 cửa sổ với nhiều ô kính nhỏ, tạo nên sự khoáng đạt cho mặt tiền và cho cả tòa nhà. Các ô cửa sổ bằng kính màu nằm ngay ngắn trong hệ khung ca rô vuông vức. Tất cả các chi tiết trang trí đều thực sự đơn giản, toát lên vẻ hiện đại của tổng thể công trình. Toàn bộ khối nhà tạo cho ta sự liên tưởng tới những đỉnh núi nhấp nhô của vùng đất cao nguyên. Ở mặt đứng phía Đông có thêm các dãy mái che bằng bê tông chạy dài dọc theo 2 bờ "ke" đón khách, càng tạo thêm dáng thanh thoát và tiện nghi cho công trình. Từ đây, hành lang nhìn ra là một đường hỏa xe chạy dài tượng trưng cho chí phiêu lưu tang bồng của bác sĩ Yersin. Không gian nội thất được chiếu sáng lung linh bởi các ô cửa kính nhiều màu ở phần chân mái. Đây chính là phòng chờ cho hành khách, một không gian rộng lớn với các góc cạnh và đường nét ngay hàng thẳng lối, vừa uy nghi cao cả nhưng cũng thật giản dị như chính cuộc đời của bác sỹ. Đây là một công trình có kiến trúc đẹp và độc đáo của thành phố Đà Lạt và của cả nước ta. Trước đây, nó đã từng được đánh giá không những là nhà ga đẹp nhất tại Đông Dương mà cả nước Pháp nữa.
- Hotel du Lac.
 Là khách sạn đầu tiên của Đà Lạt , có tên gọi ý nghĩa là khách sạn bên hồ. Lúc xưa đó là một quần thể kiến trúc dạng nhà nghỉ biệt lập nhỏ (Bungalow), nằm rải rác trong một công viên rộng rãi cạnh khách sạn Palace; được nối liền nhau nhờ một con đường nhỏ dẫn về nhà đón tiếp có qui mô lớn hơn. Hiện nay vị trí này là khách sạn Hàng không.
- Khách sạn Lang Bian Palace.
 Sofitel DaLat Palace là một công trình kiến trúc có "tầm cỡ" được xây dựng sớm nhất ở Đà Lạt. với ý đồ trang bị cho "thủ phủ Đông Dương" một nơi đón tiếp du khách có đầy dủ tiện nghi, năm 1916, toàn quyền Roume đã cho xây dựng một "đại khách sạn" và khách sạn Lang Bian Palace đã được khai trương vào năm 1922. Khuôn viên khách sạn rộng đến 40.320m2, xung quanh công trình là vườn hoa, cây cảnh, thảm cỏ và rừng thông. Xét về vị trí xây dựng thì khách sạn này có ưu thế rất lớn. Nằm trên vị trí đã được quy hoạch dành riêng cho mình, công trình có một cảnh quan kiến trúc tuyệt diệu. Cận cảnh là khuôn viên nhà Thủy Tạ, Hồ Xuân Hương, Đồi Cù… hậu cảnh là dãy núi Lang Bian xanh thẫm. Tất cả các yếu tố này cùng hòa quyện với nhau trong một tổng thể thống nhất, thật ấn tượng và quyến rũ. Cũng như những công trình kiến trúc khác trong tổng thể quy hoạch chung đương thời, khách sạn Palace được thiết kế có mặt tiền hướng thẳng về phía núi LangBian. Nét độc đáo và bất ngờ nhất là tầm nhìn từ mặt đứng chính của công trình ôm trọn chiều dài lớn nhất của lòng hồ uốn lượn theo hình dạng đồi Cù. Có một hệ thống bậc thang trải dài theo sườn đồi, từ phía Hồ Xuân Hương đến tận lối vào chính.Chi tiết này làm cho khách sạn Palace thêm phần uy nghi, duyên dáng mà những khách sạn khác không có được. Khách sạn Palace được xây dựng theo hình thức kiến trúc hiện đại kết hợp với trường phái cổ điển. Khách sạn gồm 3 tầng, phần tầng trệt nhô cao hơn mặt sân để tạo thêm một tầng hầm và lối vào với hệ thống bậc thang sang trọng. Là một công trình phát triển theo chiều dài, khối chính giữa nhô cao 3 tầng với hệ mái bằng, hai khối ở hai bên thấp hơn một tầng và có hệ mái lợp ngói. Mặt bằng hoàn toàn đối xứng qua hai trục vuông góc . Nội thất được chia làm hai dãy phòng với một hành lang giữa. Các phòng khách, phòng họp có diện tích rộng, trang trí sang trọng nhưng vẫn tạo được cảm giác ấm cúng. Các phòng ngủ bố trí đều theo mạng lưới cột 6m x 8m, được bày biện theo bố cục nội thất của các "Palace" Tây phương, với lò sưởi đốt củi và các tiện nghi sinh hoạt hiện đại Bên cạnh các phòng ngủ còn có phòng khánh tiết dùng cho hội họp, tiếp kiến, họp báo sang trọng. Khách sạn càng thêm phần lộng lẫy bởi những dãy đèn chùm qúy giá và rất nhiều bức danh họa Đông Tây kim cổ treo trên các bức tường phòng và dọc các hành lang. Cầu thang khách sạn được ốp gỗ và trang trí rất sang trọng. Cũng như đa số các công trình khác ở Đà Lạt, tại đây sàn nhà và vật dụng nội thất đều làm bằng gỗ, một loại vật liệu có rất nhiều ở địa phương . Những yếu tố hiện đại ở mặt bằng kể trên lại được đặt trong hệ kết cấu bao che với những trang trí theo hình thức kiến trúc cổ điển. Mặt đứng được tô điểm với nhiều họa tiết trang trí trau chuốt trên khung cửa sổ, nhất là phần sát mái. Mái hắt trên tầng hai chạy viền xung quanh khối nhà, phía dưới có dãy trụ đỡ tạo nên những điểm nhấn nhẹ nhàng, giảm bớt sự nặng nề của một khối công trình vuông vức. Sân thượng được viền quanh bằng tường chắn xây kép. Đặc biệt trên mặt đứng không thấy xuất hiện hệ thống ban công hay lô gia như vẫn thường thấy trong kiến trúc khách sạn. Đúng như tên gọi của mình, khách sạn này mang dáng dấp của một cung điện nguy nga. Tọa lạc trên một ngọn đồi nhỏ nhìn xuống Hồ Xuân Hương thơ mộng, Khách sạn Palace như một tòa lâu đài tráng lệ nổi bật giữa thảm cỏ mượt mà, như một dấu chứng kiến trúc mang đậm hình thức kiến trúc Châu Âu cuối thế kỷ XIX.
- Khách sạn Đà Lạt 
Hotel Du Parc nằm trên đường Trần Phú, ở vị trí giữa nhà thờ Con Gà và khách sạn Palace. Được xây dựng vào năm 1932, khách sạn Hotel Du Parc được thiết kế theo kiểu kiến trúc mới - Modern. Mặt bằng công trình hình chữ nhật, tổ hợp kiểu hành lang giữa. Có một trục đối xứng vuông góc với sảnh chính, hai khối ở hai đầu hồi có kích thước mở rộng hơn. Khách sạn gồm bốn tầng, trong đó có một tầng hầm. Chính giữa tầng trệt là đại sảnh và cầu thang chính, hai đầu có hai khối thang phụ. Ở các tầng trên, phòng ngủ được bố trí hai bên hành lang giữa. Đặc biệt mỗi phòng đều có một tiền phòng (phòng đệm) sang trọng, tạo không gian chuyển tiếp đổi hướng tránh tầm nhìn chính diện vào giường ngủ ,sàn phòng và đa số các vật dụng làm bằng gỗ. Mặt đứng sử dụng những đường nét mạnh mẽ, vuông vức. Không có sự xuất hiện của hệ balcon hay logia. Trên cùng là mái lợp ngói nhưng độ dốc rất nhỏ. Hệ console bằng bê tông cốt thép đỡ mái hắt vươn ra khoảng 1,5m. đặc biệt là sự góp mặt của diềm mái ngói thay cho ô văng cửa sổ ở tầng trệt - một hình thức kiến trúc dân gian Việt Nam đã được đưa vào công trình . 
- Khách sạn Công Đoàn.
 Đường Yersin-xây dựng năm 1936. Ngày trước đây là biệt thự của bác sỹ Lemoine,nằm trên một ngọn đồi cạnh hồ Xuân Hương có diện tích hơn 15 ha.Sau đó Bác sỹ Sohier thành lập một dưỡng đường tư.
- Trường Grand Lycée (Cao đẳng sư phạm).
 Trường Trung học công lập Lycée Yersin được hình thành từ 2 trường trung học là: Le Petit Lycée (khánh thành năm 1972) và trường Grand Lycée (khởi công xây dựng năm 1929 và hoàn thành năm 1941). Ngày 28/6/1935, trường trung học Yersin được thành lập ngay trên vị trí của trường Grand Lysée cũ. Sau năm 1975, đổi tên thành trường Cao Đẳng Sư phạm Đà Lạt. Hiện nay, trường thuộc khu vực phường 9, thành phố Đà Lạt. Trước đây, tổng diện tích toàn trường là 22,295 ha. Toàn bộ khu vực chính gồm 8 ha, nằm trên đỉnh đổi bằng phẳng. Sườn hướng về phía Tây và Tây Nam, có độ dốc khoảng 500- 600, nghiêng về phía Hồ Xuân Hương. Sườn phía Bắc có độ dốc tương đối cao, khoảng 700- 800, nhìn xuống thung lũng giáp Nha Địa dư. Sườn phía Đông khá bằng phẳng, có một sân bóng giáp với đường Nguyễn Đình Chiểu. Công trình này do kiến trúc sư Moncet thiết kế và chỉ đạo thi công. Kết cấu của công trình đã chứng tỏ tác giả của nó là một trong những kiến trúc sư đầy sáng tạo, với việc vận dụng táo bạo về mặt kích thước của kết cấu, cũng như dùng gạch ép xây tường và mái lợp ngói ardoise (thạch bản) xanh đen được vận chuyển từ Pháp sang. Đây là một ngôi trường có kiến trúc độc đáo hiếm thấy không chỉ ở nước ta. Được xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XX, ảnh hưởng bởi hình thức kiến trúc cổ điển. Bố cục mặt bằng đơn giản, tổ hợp kiểu hành lang bên. Tầng trệt để trống làm sân chơi trong nhà với những cột tròn, khẩu độ 8 x 8m . Tầng lầu gồm các lớp học, bên ngoài mỗi lớp đều có tủ âm tường là nơi để áo khoác, áo mưa của học sinh . Nếu đứng trên quan điểm của các nhà kiến trúc theo chủ nghĩa công năng thì việc lựa chọn hình dạng mặt bằng của các lớp học trong công trình này (tường không xây theo đường thẳng mà bị ép uốn cong theo hình dáng tổng thể, nhằm đề cao hình tượng nghệ thuật của công trình) gần như dẫn đến kết quả "hình thức phi công năn". Khối lớp học "uốn mình" theo một đường cung tròn mềm mại, ôm lấy khoảng sân khá rộng và một tháp chuông lợp ngói thạch bản vút lên cao, như một dấu ấn mạnh mẽ vươn cao giữa rặng thông xanh, soi bóng xuống mặt Hồ Xuân Hương thơ mộng . Trên mặt đứng khối lớp học, cứ mỗi bước cột lại có hai vòm cung tròn xây bằng gạch đất nung với tỷ lệ hài hòa tạo nên vẻ đẹp thanh thoát cho khối nhà . Nét cách tân trong khối lớp học thể hiện ở phần mái dốc, bẻ góc ở phần đuôi mái, có hệ thống cửa sổ mái. Cùng một trục với dãy lớp học chính, qua một dãy hành lang nối có mái che bằng bê tông lượn sóng và hai hàng cột tròn là khối hành chính. Đây là một tòa nhà hai tầng, mái màu xám gồm ba phần mái nhà liên thông nhau theo hình chữ U. Công trình được thiết kế theo hình thức cổ điển Pháp. Thức cột chạy suốt hai tầng, mái lợp ngói thạch bản ( ngói ardoise), sử dụng các ô cửa sổ mái, bẻ góc ở phần đuôi mái. Mặt bằng hoàn toàn đối xứng, gồm 5 phần: phần giữa là một sảnh lớn, hai bên là hai buồng lớn và hai khối đầu hồi là các buồng nhỏ và khối Cùng một trục với dãy lớp học chính, qua một dãy hành lang nối có mái che bằng bê tông lượn sóng và hai hàng cột tròn là khối hành chính. Đây là một tòa nhà hai tầng, mái màu xám gồm ba phần mái nhà liên thông nhau theo hình chữ U. Công trình được thiết kế theo hình thức cổ điển Pháp. Thức cột chạy suốt hai tầng, mái lợp ngói thạch bản ( ngói ardoise), sử dụng các ô cửa sổ mái, bẻ góc ở phần đuôi mái. Mặt bằng hoàn toàn đối xứng, gồm 5 phần: phần giữa là một sảnh lớn, hai bên là hai buồng lớn và hai khối đầu hồi là các buồng nhỏ và khối phụ. Bố cục này phỏng theo công thức chia năm theo chiều ngang và chia ba ftheo chiều dọc của công trình cung điện Louvre ở Paris. Song song với hai dãy hành chính là hai dãy nhà ( mỗi dãy gồm một tòa nhà ba tầng, một tòa nhà hai tầng) có kết cấu và trang trí mặt đứng đơn giản hơn, vừa dùng làm phòng học, vừa dùng làm ký túc xá cho học sinh. Vuông góc với các dãy nhà trên là một tòa nhà có quy mô nhỏ hơn dùng làm hội trường, phòng thí nghiệm, … Lối đi giữa các khu được nối bằng những dãy hành lang có mái che bằng bê tông lượn sóng, góp phần tô điểm thêm cho nét duyên dáng của tổng thể. Toàn bộ ngôi trường, đẹp nhất vẫn là dãy lớp học chính, với đường nét thanh nhã, rõ ràng, hài hòa với vật liệu xây dựng. Công trình đã tượng trưng rất hoàn hảo cho cuộc đời bác sĩ Yersin, người đã tìm ra Đà Lạt. Khung cảnh ngôi trường mang dáng dấp nét kiến trúc ở quê hương Ông, cụ thể là kiến trúc của thành phố Morges - Thụy Sỹ. Do đó, trường có tháp chuông, có mái dốc đứng, có vòm hành lang cong. Khối hành chính, khối lớp học và phòng thí nghiệm cũng kết thành một dạng kiến trúc Thụy Sỹ. Riêng dãy nhà nghỉ, nhà giặt, phòng hội trường,…lại được thiết kế theo dạng kiến trúc thông dụng của các trường học ở Pháp. Tổng thể kiến trúc tượng trưng cho vẻ uy nghi, trang trọng của cuộc đời Yersin. Nóc tháp chuông vươn cao như nói lên tấm lòng cao cảvang vọng của ông. Đặt biệt là gạch ép tường và ngói đá phiến đen lợp mái (ardoise), trong đó có sự ngay thẳng rõ ràng của các đường nét đã hài hòa với vẻ bình dị của các vật liệu xây dựng đã diễn tả chính cuộc đời của Yersin, vừa cao cả, uy nghi, cũng vừa bình dị, chân thật, chang hòa với mọi tầng lớp người nghèo khổ trong xã hội. Vị trí được chọn để xây dựng trường sao cho từ sân trường nhìn ra, luôn nhình thấy dãy núi Langbian hùng vĩ (tượng trưng cho cao nguyên Lâm Viên, kết hợp với Đồi Cù và Hồ Xuân Hương bên cạnh, tạo nên một bức tranh sơn thủy tuyệt tác để nhắc nhở cho các em học sinh luôn nhớ rằng chính Yersin là người đã khám phá ra Đà Lạt, chính người đã mang đến cho các em một bầu không khí mát mẻ, một thành phố xinh đẹp, một ngôi trường khang trang. Chính vì thế ngoài giá trị vể mặt thẩm mỹ kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, trường trung học Yersin còn mang ý nghĩa diễn tả cuộc đời Yersin và ý nghĩa giáo dục học sinh phải nhớ ơn và tôn kính vị danh nhân này. Như vậy, công trình còn mang giá trị về văn hoá và lịch sử của Đà Lạt. Điều đó lý giải vì sao các nhà phê bình, các kiến trúc sư và các nhà nghiên cứu kiến trúc nổi tiếng trên thế giới (UIA) đã công bố 1.000 công trình kiến trúc tiêu biểu của thế giới trong thế kỷ XX, thì trường Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt mà tiền thân là trường Grand Lyceé Yersin hân hạnh góp mặt với tư cách là một công trình duy nhất của Việt Nam. Nhìn chung, đây là công trình kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ân Châu Âu, nhưng cũng đồng thời kết hợp được nhiều chi tiếyt kiến trúc bản địa để tạo thành một công trình kiến trúc hòa hợp giữa Đông và Tây.Được đánh giá là một kiến trúc theo phái hiện đại lúc bấy giờ, với công trình xây dựng trên vị trí tổng mặt bằng do kiến trúc sư Ernest Hébrad thiết lập, đây quả là một thành công của các tác giả,khi đặt để gắn bó tổng thể công trình với đạ hình đỉnh đồi,xứng đáng được chiêm ngắm như một di sản kiến trúc tiêu biểu của thế giới.
-Trường Nazareth (E cole Francaise).
Ngày 1.3.1920, ngôi trường đầu tiên của Đà Lạt được thành lập, đó là một ngôi trường Pháp mang tên École Francaise. Lúc đầu, trường chỉ có hai lớp: lớp mẫu giáo lớn (douzième) và lớp 1 (cours enfantin). Trường phát triển dần, đến năm 1930 có các lớp 1 (enfantin), 2 (préparatoire), 3 (élémentaire), lớp dạy đàn piano, tiếng Anh (Anglais), lớp dạy đánh máy chữ (dactylographie). Sau đó trường đổi tên thành trường Nazareth (trường Thăng Long ngày nay).

-Trường Petite Lycée (Trường kỹ thuật Dalat).
-Trường nữ tu Couvent Des Oiseaux(TrườngDân tộc nội trú). Trước kia trường nữ tu Couvent Des Oiseaux còn có tên gọi là Đức Bà Lâm Viên (Notre Dame Du LangBian), hiện nay là trường Dân tộc nội trú, thuộc địa giới phường 5 thành phố Đà Lạt. Đây là trường nữ trung học đầu tiên dạy chương trình Pháp. Được xây dựng vào năm 1935, trên một đỉnh đồi khá bằng phẳng. Sườn phía Đông Bắc có độ dốc khoảng 300- 400 đổ xuống đường Huyền Trân Công Chúa, phía Đông có độ dốc nghiêng khoảng 500- 700 đổ xuống thung lũng khóm Nam Thiên. Phía Bắc có độ dốc khoảng 400, đổ xuống hướng Du Sinh. Trong những ngày đầu hoạt động, trường được dành riêng cho nữ sinh con nhà giàu của các gia đình người Pháp, Việt Nam, Campuchia, Lào. Các con em ở Đà Lạt phần lớn là nhà giàu hay học giỏi mới được vào học ở đây. Việc giảng dạy được tổ chức rất chu đáo, nghiêm khắc, cho nên học sinh trường này thường có tỷ lệ thi đỗ vào các trường đại học khá cao. Công trình này được thiết kế theo hình thức kiến trúc kết hợp, có thể tìm thấy ở đây những nét cổ điển xen lẫn hiện đại. Khối lớp học được thiết kế hai tầng, tổ hợp theo kiểu hành lang bên. Mặt tiền có sảnh nhô ra, phía trên là hình tam giác có ngọn núi và các hình chữ . Tường ngoài tầng trệt của một khối được ốp đá với những cửa sổ hình cung gãy, các tầng trên có tường xây gạch và cửa sổ ô vuông . Sự kết hợp theo kiểu dưới thô trên tinh này là nét đặc trưng của kiến trúc Phục Hưng.Phòng chờ ở sảnh chính rộng khoảng 30m2, có bậc cấp và hành lang để đi vào phía trong, hàng lang sau đi vào lớp, nhà ngủ và nhà ăn. Công trình bám theo dáng địa hình do đó có sự giật cấp, tạo ra các không gian phong phú và sinh động . Phía cánh sau bố trí nhà ở của các nữ tu, giáo viên và nhà hiệu trưởng. Mặt bằng tổng thể khá quy mô, có sân chơi trong trường, riêng sân trường phía trước rộng và khá đẹp. Cạnh trường còn có một nhà nguyện (chapel) dành cho khoảng 200 nữ tu với kiến trúc theo kiểu Ogival, có một lầu chuông nhỏ. mặt bằng hình chữ nhật, bước cột tương đối nhỏ. Nội thất công trình thật ấn tượng với hệ thống chiếu sáng và kết cấu đỡ mái. Mái có độ dốc khá lớn, đỡ mái là hệ khung bê tông cốt thép, li tô gỗ, mái lợp ngói đất nung. Tường rất thấp, không gian nội thất được chiếu sáng bởi những cửa sổ kính màu được chia ô nhỏ. Cửa chính mang đậm nét kiến trúc Gothic, có hình cung gãy và đá ốp Dossage, các họa tiết trang trí (có tỷ lệ rất đẹp) làm bằng sắt được gắn trên hai cánh cửa gỗ. Tường ngoài khối nhà này cũng ốp đá theo kiểu Dossage kết hợp với bê tông phun gai nhằm tạo nên những nét thô nhám, mạnh mẽ cho công trình. Điểm trên mảng tường lớn là một vài cửa sổ hình lưỡi mác giống như cửa sổ của nhà thờ Mai Anh. Trường học và nhà nguyện nối nhau bởi một lối đi với hệ thống bậc thang và hành lang bằng đá. Toàn bộ khu vực trường có kiến trúc khá đẹp và hài hòa với rừng thông bao bọc xung quanh, tạo không khí yên tĩnh, thoáng mát, rất phù hợp với việc giảng dạy và học tập.

II-NHẠN XÉT VÀ KẾT LUẬN.
1/ Biệt thự Đà Lạt. Dưới bầu trời có khí hậu mát mẻ trong lành, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, Đà Lạt ấp ủ trong lòng cả ngàn kiến trúc kiểu Pháp độc đáo, mang lại nét hấp dẫn đặc biệt cho thành phố du lịch trên cao nguyên nổi tiếng trong và ngoài nước. Kể từ khi khám phá Đà Lạt vào năm 1983, Thực dân Pháp đã mong muốn quy hoạch phát triển Đà Lạt trở thành nơi nghỉ mát lớn nhất Đông Dương. Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, nhiều công trình kiến trúc đã được xây dựng phục vụ cho mục đích này. Có thể kể đến gần 1000 biệt thự được thiết kế và xây dựng phần lớn theo kiểu Pháp, có hình thức kiến trúc đa dạng phong phú, khéo léo hoà nhập với cảnh quan thiên nhiên đồi núi của nơi đây. Tất cả đều phải tuân thủ theo định hướng quan trọng xuyên suốt của quy hoạch chung Đà Lạt là thành phố cảnh quan. Vì thế nên diện tích phân lô xây dựng biệt thự rất lớn. Biệt thự Pháp ở Đà Lạt được chia thành nhiều hạng, theo từng phân khu được bố trí trên hoạ đồ Quy hoạch tổng thể và cụ thể hoá bằng hệ thống các bản đồ phân lô địa chính:
-Biệt thự hạng 1 có diện tích từ 2000m2 trở lên; mật độ xây dựng dưới 10%.
-Biệt thự hạng 2 có diện tích từ 1500m2 đến 2000m2; mật độ xây dựng dưới 15%.
-Biệt thự hạng 3 từ 1000m2đến 1500m2 ; mật độ xây dựng dưới 20%.
Ngoài ra còn có các dinh thự với diện tích hàng chục ha ngự trị trên những ngọn đồi dành cho các quan chức có tầm cỡ như là Dinh 1, Dinh 2, Dinh 3 , Dinh Thị Trưởng... Các biệt thự mỗi cái một kiểu, hình thức kiến trúc độc đáo, đa dạng, phong phú không trùng lắp nhau. Đa số có từ hai đến ba tầng. Tất cả nép mình trong rừng thông quyến rũ , đặt ở trên đồi cao hoặc nằm cạnh bờ hồ, hướng tầm nhìn rộng mở về phía vườn hoa xinh đẹp, đồi thông và thung lũng xa xa. Tất cả cùng làm nên một cảnh quan tổng thể ngoạn mục. Những biệt thự còn có vườn hoa xinh tươi với đường đi dạo lát đá. Dáng vẻ của biệt thự còn được tô điểm bởi các balcon nhỏ đầy hoa, và các bồn hoa cửa sổ cầu kỳ, thanh lịch.
Khu biệt thự đẹp nhất nằm dọc theo đường Trần Hưng Đạo, đường Hùng Vương, đường Lê Hồng Phong. Các khu khác được thiết lập chung quanh thành phố như khu Lê Lai, khu Nhà nghỉ Đường sắt, Quang Trung, Cô Giang, Nguyễn Du... Ngoài ra còn có các khu biệt thự ven hồ như khu hồ Mê Linh, khu hồ Vạn kiếp...
Kiến trúc biệt thự ở Đạ Lạt có những đặc điểm dễ nhận ra ở những ống khói lò sưởi nhô cao bên bờ mái lệch, cửa sổ gỗ ngoài, kính trong, 2 lớp; tường xây toàn gạch, đá, gỗ, đôi khi sử dụng kết hợp các loại vật liệu với nhau rất sinh động và đầy ấn tượng. Rất ít nhà làm theo trục đối xứng dễ gây nhàm chán, lý do khác là kiến trúc phải tuỳ theo địa hình mỗi nơi mỗi khác. Mỗi nhà đã được làm theo một vẻ đẹp khác nhau. Dù là một tầng, hai tầng, hay ba tầng; dù ở gần đường hay lui sâu vào bên trong, bên sườn đồi hay dưới thung lũng...nhà nào cũng có cái duyên của nó. Nói như thế để thấy rằng các biệt thự Đà Lạt mang đậm dấu ấn lịch sử và giá trị thẩm mỹ kiến trúc, cần được chúng ta quan tâm bảo trì, chăm sóc đúng mức.
2/ Vấn đề khôi phục các biệt thự sau 1975.
Kể từ năm 1975, phần lớn các biệt thự được Nhà Nước quản ly, nhưng có một thời gian dài buông lỏng, một số cái đã bị xuống cấp trầm trọng. Một số bị chiếm dụng bất hợp pháp, một số mất đi hình dáng kiến trúc ban đầu vì bị cơi nới cải tạo mở rộng. Phần lớn diện tích khuôn viên các biệt thự cũng bị thu hẹp.Những khu biệt thự đẹp nhất của Đà Lạt đang ở trong tình trạng đáng quan tâm.Chính quyền địa phương các cấp đã có chủ trương lập kế hoạch mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia phục hồi tôn tạo các khu biệt thự như khu Trần Hưng Đạo,khu Lê Lai,khu Nguyễn Du...
3/ Kiến trúc mới từ 1975 đến nay.
a/ Giai đoạn từ 1975 đến 1985 Từ sau giải phóng, DaLat trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng, có ranh giới mở rộng từ 69km2 đến 417km2 bao gồm 12 phường và 3 xã. Dân số DaLat là 92.810 người. Công tác ổn định chính trị, cải tạo xã hội, kinh tế được đặt hàng đầu. Chủ trương tự túc lương thực và lấy nông nghiệp làm trọng tâm trong thời kỳ này là bước đi cần thiết , nên địa giới DaLat mở rộng bao gồm các thôn ấp vùng ven như Xuân Trường, Xuân Thọ, Tà Nung ( 1979 ). Và như vậy cảnh quan đô thị DaLat đã phải chấp nhận vấn đề mâu thuẩn gay gắt giữa cảnh quan thiên nhiên trống và cảnh quan nông nghiệp. Mặt khác bài học kinh nghiệm: “ Thành phố càng rộng lớn, càng mất vẻ đặc sắc “ cũng đã được đặt ra cho các nhà chuyên môn quan tâm,khi thực hiện nghiên cưú qui hoạch cho thành phố DaLat . Năm 1977, đoàn Qui hoạch Bộ xây dựng đã được trung ương cử vào để thiết lập qui hoạch chung cho thành phố DaLat. Công trình để lại cho thành phố là hồ sơ “Sơ phác qui hoạch chung thành phố DaLat” bao gồm tài liệu thuyết minh và các sơ đồ kèm theo. Sau đó từ năm 1983, cơ quan chuyên môn địa phương là UBXDCB Tỉnh Lâm Đồng được giao nhiệm vụ phối hợp với các ban ngành, nghiên cứu tiếp quy hoạch chung cho DaLat với các vấn đề thực tế mới phát sinh . Đến tháng 3/1985, đoàn cán bộ qui hoạch Trung ương đã tiếp tục đến DaLat phối hợp với địa phương để thiết lập “Luận chứng kinh tế kỷ thuật qui hoạch và cải tạo thành phố DaLat “. Trong giai đoạn này các công trình công cộng phục vụ dân sinh quan trọng được đầu tư xây dựng như : 
• Hồ Thống Nhất ( Đa Thiên ): 1977 
• Hồ Chiến Thắng : 1981 
• Nhà máy nước Suối Vàng: 1981 - 1983 
• Hồ Tuyền Lâm : 1984.v.v.. 
Đã góp phần tăng thêm nhiều cảnh quan hấp dẫn mới cho DaLat bên cạnh những thắng cảnh nồi tiếng cũ như thác Prenn,Cam Ly, Datanla…. Ngoài ra về kiến trúc cũng như xây dựngđược một số công trình đáng kể như: Nghĩa trang liệt sĩ, Cung thiếu nhi… Các biệt thự tại DaLat, một số được sừ dụng làm cơ quan nên phải cải tạo, cơi nới cho phù hợp với chức năng mới , một số được bố trí cho nhà tập thể cho CBCNV với tính cách tạm thời , một số ít để hoang tàn đổ nát . Còn lại là các công trình nhà ở nhân dân tự xây xuất hiện khắp địa bàn thành phố. Có thể nói vì quản lý qui hoạch xây dựng còn nhiều lúng túng nên nhiều khoảng trống của thành phố bị lấn chiếm , rừng nội ô bị tàn phá nặng nề , nhà tạm bợ nảy nở tràn lan khắp nơi . Từ khu ổ chuột ở trung tâm thành phố ( Ấp Ánh Sáng, đường Nguyễn Chí Thanh, đường Nguyễn Văn Cừ,..)cho đến các kiosque mua bán lấn chiếm hè phố; các nhà gỗ tôle mọc lên vội vã ở bìa rừng, thung lũng , khe suối, bờ hồ….Diên mạo thành phố bị xuống cấp rõ rệt .

b / Từ năm 1986 đến nay: Đại hội thứ IV Đảng CSVN đã mở ra cho đất nước ta và cả DaLat chuyển mình qua thời ky mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN . Ngày 6/6/1986, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 67 - HĐBT điều chỉnh địa giới hành chính DaLat, gồm 12 phường ,3 xã với dân số gần 170.000 người . • Quy hoạch tổng thể thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2010 do viện quy hoạch ĐTNT - Bộ Xây dựng lập đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quyết định số 620/TTg ngày 27/10/1994. • Tiếp theo ngày 24/7/1999 Thủ tướng chính phủ quyết định nâng cấp DaLat lên độ thị loại 2 ( theo quyết định số158/1999/QĐ – TTg ). Từ khi quy hoạch chung ĐaLat được phê duyệt, Chính quyền địa phương đã cho tiến hành quy hoạch chi tiết các khu chức năng chính của thành phố như khu trung tâm, các khu nhà ở, quỹ đất xây dựng nhà ở, các khu du lịch…..Đồng thời hệ thống kỹ thuật hạ tầng cũng được nâng cấp một bước với các dự án đầu tư về cấp thoát nước, giao thông cải tạo lưới điện, bưu điện…. Tình hình phát triển kinh tế xã hội mau lẹ đã tác động ít nhiều đến việc xây dựng và phát triển thành phố theo qui hoạch được duyệt từ năm 1994. Trước tầm nhìn mới theo định hướng QHTT phát triển đô thị cả nước đến năm 2020, DaLat cần được nghiên cứu “Điều chỉnh QHTT DaLat và vùng phụ cận đến năm 2020”. Đến ngày 27/05/2002 , Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh quy họach chung thành phố DaLat và vùng phụ cận đến năm 2020 theo quyết định số 409/QĐ - TTg. Đây là một cơ sở pháp lý quan trọng để giúp cho TP phát triển có định hướng. Vấn đề còn  lại là khả năng áp dụng của các hệ thống quản lý? Chờ xem!
--------------------------


DALAT -Kien Truc

Category: DI SAN DALAT, Tag: Đồ họa Thiết kế,Nghệ thuật Thiết kế
08/30/2009 10:18 pm
La station d'altitude de Dalat
" Aux uns elle donne la joie, aux autres, la santé"

DALAT -THÀNH PHỐ NGHỈ MÁT MIỀN NÚI

 

La station d'altitude de Dalat
" Aux uns elle donne la joie, aux autres, la santé"
Sur ce document de 1931,  on peut lire la devise de la ville "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem", qui signifie " Aux uns elle donne la joie, aux autres, la santé"


  Les photos noir et blanc proviennent de la base Ulysse, du CAOM



Dalat, en 1955 ; Au fond, on distingue Ste Marie (Revue Indochine, 1955)
"C'est vers 1897 que la région du Lang-Bian fut visitée pour la 1ere fois par le Docteur Yersin et c'est à la suite de ce voyage que Paul Doumer décida la création d'un sanatorium pour Européens. Une mission spéciale, dite "mission du Lang Bian" fut confiée, en avril 1899, au Capitainre Guynet pour la construction de la route allant de la mer (Port de Ninh Chu, près de Phan-Rang) au Lang Bian. Le médecin de l'expédition, le Docteur Tardif, se prononça très nettement pour le choix de Dalat plutôt que de Dankia comme emplacement du futur sanatorium.
Malheureusement, pour des raisons diverses, la réalisation de ce projet ne fut pas poursuivie. Ce ne fut qu'en 1916 que le gouverneur Roume accorda les crédits nécessaires pour l'installation de la station d'altitude. "
  
"La construction consécutive de deux routes carrossables a permis le développement rapide de la station et, en particulier, la construction d'un grand hôtel confortable et d'un hôtel secondaire comprenant plusieurs pavillons logements et de nombreuses villas privées et administratives.
Ainsi Dalat représente déjà [en 1931] actuellement une petite ville, coquette et propre, ou le service de l'Hygiène est bien assuré.
Avec l'achèvement très prochain du chemin de fer à crémaillère - de Krongpha à Dalat même -  l'accès du plateau complètement réalisé par la voie ferrée sera mis à la portée de tous les indochinois et même des étrangers. En effet; Dalat, qui est déjà la plus grande station d'altitude et la plus confortable de l'Indochine, deviendra sans doute la plus  moderne et la plus agréable de tout l'Extrême Orient."
D'après la monographie éditée pour l'exposition coloniale de 1931, Les Station climatiques de l'Indochine.
Toutes les photos contemporaines datent de décembre 2007
Gare de chemin de fer
 
  
Le projet de voie ferrée est entériné par Paul Doumer dès 1898. Mais les contraintes budgétaires et la difficulté de l'ouvrage retardent considérablement les travaux. En 1926, le train n'arrive qu'à 40 km de Dalat....Le dernier tronçon est inauguré en 1932 et fonctionne à crémaillère. 
Reste le problème de l'emplacement de la gare qui est totalement excentrée du centre ville. Choisi par un administrateur sans concertation, elle restera au milieu d'un thalweg... Construit en 1938.
      
    Au rez de chaussée de cette gare façon Deauville, salle d'attente séparée pour les indigènes et les européens, logement du chef de gare, guichet. Quelques chambres à l'étage pour les européens. 
Aujourd'hui, seuls quelques kilomètres sont en activités, pour le seul transport des touristes. Il reste une vieille loco japonaise de 1936. 45 tonnes, 700 cv. Rail de Longwy.
Le Lang Bian Palace
Durant la 1ere guerre mondiale, Dalat n'offre que quelques bungalows aux français que ne peuvent retourner en europe. Décision est prise de construire un hôtel d'une trentaine de chambre. Il sera achevé en 1922. Il sera modernisé en 1943 et, au dire de certains, perdra son charme. L'environnement ne demeure pas moins propice à la chasse, au golf, et à la restauration de qualité. Actuellement, l'hôtel possède 45 chambres. De vieux disques d'époque vous accueillent ...
 
  
Vue plongeante et dégagée sur le lac
   
  
L'hôtel a été complètement refait. Il est exploité aujourd'hui par le groupe Accor : Hôtel Dalat Palace
Moins huppé que le Lang Bian Palace, l'Hôtel du Parc offrait 70 chambres. Ici, l'arrière de l'hôtel. Coté décoration, de belles affiches des Messageries Maritimes.
 
Résidence de Bao Dai
Le Palais de Bao Dai a été construit entre 1933 et 1938 et servit de palais d'été au dernier empereur jusqu'à son exil en France en 1955. Ensuite, cette résidente accueillit les présidents sud vietnamien jusqu'en 1975, dont le Président Diem.
Construite non loin de l'institut Pasteur, elle est du à l'architecte Paul Veyserre et un architecte vietnamien. Elle reprend le style adopté pour la demeure du gouverneur général (voir ci après). Le balcon (voir photo de gauche) en "moon watching" fait penser au film de Jacques Tati "Mon oncle" ! 2600 mètres carrés pour 26 pièces.
  
   
Trophée de chasse et portrait de Bao Dai. Portrait de la reine, Nam Phuong   
  
Magnifique carte en verre du Vietnam offert par les étudiants vietnamien de Paris en 1952. Pièces du rez de chaussée, dont le bureau
 
 
 
 
Chambres du 1er étage, notamment pour loger les 5 enfants du couple. Luxe sans ostentation. Mobilier d'époque des années 40. 
   
   
  
Résidence du Gouverneur Général 
Construit par Paul Veysseyre, en 1937. Aujourd'hui, résidence pour le gouvernement. Photo interdite !
  
Le Golf de Dalat
Construit par et pour Bao Dai dans les années 20. A réouvert en 1994. Le lac est entouré d'une bande de terrain interdite à la construction.
 
   
L'institut Pasteur
  Architecte Charles Christian, 1935
Chargé dès 1931 des recherches bactériologiques et de fournir à la colonie les vaccins, notamment antivarioliques.  
L'église St Nicolas
Construite en 1932. Elle était autrefois entourée d'un cimetière européen. Vitraux fabriqués en France, à Grenoble, à la maison Balmet (1935 à 1949). Les noms des donateurs y figurent. 
    
  
  
 
La résidence de la famille de Nam Phuong, épouse de Bao Dai
Demeure de Nguyen Huu Thi Lan. Puis ce fut le musée des ethnies montagnardes et le musée actuel avant son déménagement dans un nouveau musée, à proximité. Le père de la reine était un riche propriétaire terrien dans la région de Go Cong. Elle sera Miss Beauté à plusieurs reprises avant d'épouser Bao Dai.
  
    Cheminées et mobilier d'origine
   
   Notre Dame du Lang Bian et le Couvent des Oiseaux
Filiale du couvent des oiseaux de Verneuil sur Seine, cette école est réservée aux jeunes filles de bonne société. Elle a vu passer les jeunes filles de bonne familles de la société vietnamienne avant de fermer brusquement ses portes à l'arrivée des communistes. 
Dans les années 40, Dalat brasse la jeunesse des deux mondes, européennes et vietnamiennes. La bourgeoisie se côtoie, tout en se confrontant lors des rencontres sportives du stade municipal.
  
 
   
Le mur de la honte, version locale ! La chapelle, récemment refaite. Aujourd'hui, il ne reste plus que 4 sœurs dans les bâtiments conventuels. Les jardins sont loués pour la culture de la rose. Les autres bâtiments ont été réquisitionnés et servent d'école de professeurs pour les minorités ethniques. Les sœurs sont revenues en 1995, car elles ne pouvaient plus travailler sur place après 75. Création en 1935 à Dalat. Le terrain a été donné par le femme de Bao Dai, et ses filles ont fait leurs études ici. Des 12 hectares d'origine, il en reste 2. Du temps de sa splendeur, l'école accueillait 300 jeunes filles, externes ou internes. On y apprenait la couture, les travaux manuels... Les cours étaient dispensés en français jusqu'en 1970 puis en langue vietnamienne.
 

Les étudiantes d'un coté, les sœurs de l'autres.  
Le lycée Yersin
Après le petit lycée, s'ouvre le Grand Lycée Yersin en 1935, en présence de l'homme de talent. 600 enfants français et vietnamien peuvent y suivre les cours et y loger. 
 
   
    
   
Tuilerie de l'indochine. C'est du vrai !   
Un bâtiment superbe sera ajouté en 1940, tout en brique et en courbe. Il est dû à l'architecte Paul Moncet. Surmonté d'une "tour clocher" qu'on voit de loin...  
  
   
Non loin de l'entrée du lycée Yersin, cet imposant bâtiment a conservé sa vocation initiale : société de géographie
-----------------------

http://www.vanhoavu.com/VHV/DALAT.htm
Dalat, Thành Phố Nghỉ Mát Cao Nguyên

(Tài Liệu bằng Pháp Ngữ do Anh Lê Ngọc Trác gởi đến – VHV phỏng dịch)
La station d'altitude de Dalat
"Aux uns elle donne la joie, aux autres, la santé"
"Nó mang đến lạc thú cho người nầy, sức khỏe cho người khác"


Bài nầy được trích từ "Belle indochine".
http://belleindochine.free.fr/Dalat.htm


La station d'altitude de Dalat
" Aux uns elle donne la joie, aux autres, la santé"

Theo tài liệu nầy từ 1931, ngưòi ta có thể đọc được câu phương ngôn của thành phố là, “Nó mang đến lạc thú cho người nầy, sức khỏe cho người khác - Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem”
  

Les photos noir et blanc proviennent de la base Ulysse, du CAOM
Vào khoảng năm 1897, vùng cao nguyên Lâm Viên được Bác Sỹ Yersin đến viếng lần đầu; và sau đó thì Toàn Quyền Paul Doumer mới quyết định thành lập một viện an dưởng dành cho người Âu Châu. Vào tháng 4/1899 một sứ mệnh đặc biệt mệnh danh là “Sứ mệnh Lâm Viên” được giao phó cho Đại úy Guynet nhằm thành lập một con đường từ cửa biển Ninh Chử gần Phan Rang dẫn tới Lâm Viên. Bác Sỹ Tardif trong phái đoàn nêu rõ thích chọn Dalat thay vì Dakia làm nơi xây dựng viện an dưỡng trong tương lai.


Tiếc thay, vì nhiều lý do khác nhau, dự án trên không được thực hiện. Cho mãi đến năm 1916 Toàn Quyền Roume mới xuất ngân khoản cần thiết để thực hiện dự án.
  

Việc kiến thiết liên tiếp hai con đường xe chạy được đã gíup thành phố phát triển nhanh chóng và đặc biệt là việc xây dựng một khách sạn tiện nghi lớn và một khách sạn phụ gồm nhiều tòa nhà, phòng ngủ và nhiều biệt thự tư nhân và công thự.
Thế là vào năm 1930 Dalat đã thực sự là một thành phố nhỏ, duyên dáng và sạch sẽ, có dịch vụ y tế đảm bảo.

Khi tuyến đường sắt có trục răng cưa bám dốc từ Sông pha lên Dalat được hoàn tất thì tất cả mọi người trên Bán đảo Đông Dưong và ngoại quốc có thể đến cao nguyên toàn bộ bằng hoả xa. Thật vậy, vì đã là thành phố cao nguyên lớn nhất và tiện nghi nhất của Đông Dương, chắc chắn Dalat sẽ trở thành thành phố tân tiến nhất và thích thú nhất Viễn Đông.
 
Toutes les photos contemporaines datent de décembre 2007
Gare de chemin de fer
 
  

Dự án hoả xa được Toàn Quyền Paul Doumer phê chuẩn từ năn 1898; nhưng những khó khăn tài chánh và kỹ thuật làm chậm trể công trình rất nhiều. Năm 1926, tàu lửa chỉ đến được cách Dalat 40 cây số … Mãi đến năm 1932, chặn cuối cùng mới được khánh thành và chạy bằng trục bám dốc.
Vấn đề còn lại là thiết lập nhà ga hoàn toàn nằm ngoài trung tâm thành phố. Nếu chọn mà không tính toán kỷ lưỡng thì nhà ga sẽ nằm dưới đáy thung lũng… Cuối cùng nhà ga được thành lập năm 1938.


      
 
Dưới tầng trệt của nhà ga xây cất theo lối nhà ga ở những nơi nghỉ mát này là phòng chờ đợi riêng biệt một bên cho người bản xứ và một bên cho người Âu châu, phòng ngủ của trưởng ga, và quày vé. Một số phòng trên lầu dành cho người Âu châu.

Ngày nay, chỉ có một đoạn đường vài cây số còn hoạt động, duy nhất dùng vào việc chuyên chở du khách. Còn vỏn vẹn một đầu tàu Nhật bản chế tạo từ năm 1936, nặng 45 tấn, 700 mã lực. Đường rây (rail) là của Công ty luyện thép Longwy.
Khách Sạn Lang Bian Palace (Khách Sạn Lam Viên)

Trong Đệ Nhất Thế chiến, Dalat chỉ có một vài bungalows (nhà gỗ trệt) dành cho những người Pháp không thể trở về Âu châu được. Bấy giờ có quyết định xây một khách sạn 30 phòng, sẽ hoàn tất vào năm 1922, và sẽ được tân trang năm 1943, và, theo lời một số người nói, sẽ mất hết quyến rủ. Môi trường cũng không kém thích hợp cho săn bắn, chơi golf, và trùng tu chất lượng. Thực sự, khách sạn có 45 phòng, kết quả thực tế của bao nhiêu ước tính …

  
  
Vue plongeante et dégagée sur le lac
   
  

Khách sạn được hoàn toàn trùng tu lại và ngày nay được Tập đoàn Accor khai thác : Hôtel Dalat Palace

Kém sang trọng hơn Khách sạn Lâm Viên, Khách sạn Công Viên (Hotel du Parc) có 70 phòng, có trang trí bên hông và những biển hiệu của các công ty vận tải đường biển.
    

Résidence de Bao Dai
Dinh Bảo Đại được xây giửa năm 1933 và 1938 và đã được dùng làm nơi nghỉ mát cho vị Hoàng Đế cuối cùng này cho đến khi lưu vong tại Pháp vào năm 1955. Sau đó dinh nầy dành cho các vị Tổng thống của miền nam Việt Nam cho đến năm 1975, trong đó có Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Cách Viện Pasteur không xa, Dinh được thiết kế bỡi kiến trúc sư Paul Veysseyre và một kiến trúc sư ngươi Việt Nam. Dinh lập lại biểu mẫu dành cho cơ dinh của Toàn Quyền Pháp. Ban công “ngắm trăng” gợi nhớ đến bộ phim “Mon Oncle” của Jacques Tati. Rộng 2600 mét vuông cho 26 phòng.
  
   

Trophée de chasse et portrait de Bao Dai. Portrait de la reine, Nam Phuong   
  

Bản đồ Viêt Nam bằng thủy tinh do các sinh viên Việt nam ở Paris tặng năm 1952. Các phòng ở tầng trệt, gồm cả phòng làm việc.
 
 
 
 

Các phòng ở tầng trệt, gồm cả phòng làm việc.
   
   
  

Résidence du Gouverneur Général Dinh Toàn Quyền
Construit par Paul Veysseyre, en 1937. Aujourd'hui, résidence pour le gouvernement. Photo interdite !
Xây cất bỡi Paul Veysseyre vào năm 1937. Ngày nay là công thự của chính phủ. Cấm không được chụp hình!

  

Le Golf de Dalat - Sân cù Dalat

Xây dựng bởi và cho Cựu Hoàng trong những năm 1920. Mở cửa lại vào năm 1994. Hồ được vây quanh bằng một dãi  đất cấm không đuợc xây cất.
 
   

L'institut Pasteur-Viện Pasteur


 

Architecte Charles Christian, 1935
Kiến trúc sư Charles Christian.
 Từ năm 1931 đặc trách nghiên cứu về vi khuẩn học và cung ứng thuốc chủng ngừa cho thuộc địa, nhất là thuốc chủng đậu mùa.




L'église St Nicolas


Kiến thiết năm 1932. Trước kia chung quanh nhà thờ nầy là một nghĩa địa dành cho người Âu châu. Các cửa kính được sản xuất tại Grenoble, Pháp, tại nhà Balmet (1935 - 1949). Tên những người tặng có ghi lên trên.
    
  
  
 

La résidence de la famille de Nam Phuong, épouse de Bao Dai
Tư thất gia đình Hoàng Hậu Nam Phương
Tư thất của Bà Nguyễn Hữu Thi Lan. Sau nầy là bảo tàng viện các sắc tộc thiểu số. Cha của Hoàng hậu là một điền chủ giàu trong vùng Gò Công. Hoàng hậu nhiều lần đoạt chức hoa hậu trước khi làm vợ Cựu Hoàng Bảo Đại.
  
 
Cheminées et mobilier d'origine-

 
   


Notre Dame du Lang Bian et le Couvent des Oiseaux
Tu Viện Couvent des Oiseaux
Là một chi nhánh của Couvent des oiseaux của Verneuil sông Seine, trường nầy dành cho những nữ sinh gia đình giàu có. Trường đã đào tạo những nữ sinh gia đình tốt trong xã hội Việt Nam trước khi bị đóng cửa vào năm 1975.

Trong những năm thập niên 40, Dalat tiếp nhận giới trẻ từ hai thế giới, Âu châu và Việt Nam. Giai cấp trưởng giả sát cánh với nhau nhưng vẫn đối đầu nhau trong những cuộc tranh tài tại sân vận động thành phố.

Ngày nay, chĩ còn 4 nữ tu trong các toà nhà tu. Vườn tược được cho mướn để trồng hoa hồng. Các tòa nhà khác thì bị trưng dụng và dùng làm Trường sư phạm dành cho các sắc tộc thiểu số. Các nữ tu đã từ nghiệp vào năm 1995, vì họ không có thể làm việc tại chỗ được nữa từ sau 1975. Tu viện được thành lập vào năm 1935 tại Dalat. Khu dất do Hoàng Hậu Nam Phưong cho, và các con gái của bà đã theo học tại đây. Từ 12 mẫu tây, nay chĩ còn 2 mẫu. Từ thời hoàng kim, trường đã đón nhận 300 nữ sinh, nội và ngoại trú. Người ta học may vá và thủ công ờ đây... Chương trình giảng huấn được dạy bằng tiếng Pháp cho đến năm 1970, và sau đó bằng tiếng Việt.

  

 
   

Le mur de la honte, version locale !


 

Les étudiantes d'un coté, les sœurs de l'autres.  
Le couvent du Domaine de Marie-Tu viện Domaine de Marie 

Trơ trọi trên một ngọn đồi vế phía tây bắc, tu viện được thành lập từ những năm cuối thập niên 1920 (khi các nữ tu Dòng chúa Cứu thế đên Việt Nam vào năm 1928). Bấy giờ đó chĩ là một tu viện dành cho những người mới đi tu. 23 nữ tu Dòng Saint Vincent de Paul sống ở đây cùng nhiều thiếu nữ và trẻ em bị điếc. Viện chăm sóc 300 trẻ em. Một môi trường tuyệt vời truyền bá tiếng Pháp. Ngày nay chĩ còn 3 mẫu tây dành cho các nữ tu. Trước kia họ có 22 mẫu, kể cả một viện mồ côi và mộ trường nội trú.          
   
  















Bà Decoux, nhủ danh là Suzanne Humbert, vợ của Đô Đốc Jean Decoux, Toàn Quyền Đông Dương từ năm 1940 đến 1945 được chôn tại đây. Là một ân nhân lớn của tu viện, bà đã tữ nạn xe hơi ngày 6 tháng Giêng năm 1944 khi lên thăm vợ chồng Cựu Hoàng Bảo Đại.


La chapelle

Lycee Yersin Đằng sau ngôi trường nhỏ là ngôi trường lớn Grand Lycée Yersin thành lập năm 1935, với sự chứng kiến của Bác Sỹ tài ba Alexandre Yersin. 600 học sinh Pháp và Việt theo học và nội trú tại đây.

 


 
   
    
   

Tuilerie de l'indochine. C'est du vrai !   

Một tòa nhà ngạo nghể được xây thêm năm 1940, tòan bằng gạch và đường cong. Kiến trúc sư là Paul Moncet. Với tháp chuông cao có thể nhìn thấy từ xa...

  
   

Non loin de l'entrée du lycée Yersin, cet imposant bâtiment a conservé sa vocation initiale : société de géographie
http://trchoa-archiblog.blogspot.com/2010_12_01_archive.html
----------------------------
Les villas coloniales
Les 1er chalets furent en bois. Très rapidement, ceux ci sont prohibés dans le centre et des surfaces minimales sont imposées de façon à ce que les édifices n'aient pas l'air perdu au milieu d'immenses terrains. Le style architectural n'est pas imposé. De fait, on voir fleurir des pavillons du pays Basque, de Savoie...
L'emplacement indiqué des villas n'est pas garanti ...
Commentaire sur le style architectural des villas, d'après Alain Y Léger : "Une partie des villas que l'on retrouve à Dalat sont dites à pignon cassé. On désigne ainsi les façades couvertes par des toits à deux pans dont l'angle supérieur est rabattu ou cassé. Lorsque cette cassure est fermée à la base, généralement par des planches, on dira plutôt « à croupes », ou à demi-croupes si l'on veut distinguer les petites cassures (comme ici) des volumineuses.
Les avants-toits sont soutenus soit par des poutres horizontales (corbeaux), soit, lorsqu'ils sont plus importants, par des poutrelles
obliques prenant appui sur la façade, dites aisseliers.
À ma connaissance, l'origine de ce style est germanique (forteresse de Königstein, 1589) — encore que les tableaux de Breugel l'ancien témoignent qu'on en trouve dès le milieu du XVIe siècle en Belgique — mais il s'est répandu dans toute l'Europe, à l'est comme à l'ouest. Chez nous, il était surtout fréquent en Alsace-
Lorraine et dans les zones de montagne. Après 1870-1871, certains Alsaciens-Lorrains l'ont reproduit dans la France de l'intérieur.
Mais il s'est aussi imposé en Grande-Bretagne et nous est revenu au XXe siècle par les côtes normandes. Voire par certains artisans qui avaient été prisonniers en Allemagne. Entre-les-deux guerres, s'est imposée une architecture synchrétique, mélangeant divers styles régionaux : toit landais asymétriques, éléments basques, faux colombages, pignons cassés, croupes, etc. Ces modèles ont été popularisés par des revues d'architecture mais aussi par copiage, retours chez eux de provinciaux ayant vécu à Paris, vacanciers impressionnés par les villas côtières, etc. Certaines entreprises proposaient, déjà, des modèles sur catalogues.
Notez que certaines de ces villas possèdent des bow windows (oriel en français) sur 1 voire 2 étages, ce qui semble dénoter une influence britannique. Mais les bow-windows étaient auparavant posés majoritairement au sol et c'est essentiellement à l'âge du béton qu'on s'est permis de les faire naître en hauteur. "

"A Dalat, il y a peu de créations originales. Toutefois, il y a deux exemplaires qui méritent une attention particulière.
Le premier (ci-dessous) est fort curieux car c'est une forme primitive du cottage à pignon cassé dont on trouve l'exemplaire original à Saint-Georges-de-Didonne, près de Royan (Chte-Maritime)

. L'architecte en était très fier et le plan a été publié
par une revue. Je dis primitive car c'est une forme qui fait perdre beaucoup d'espace et qu'on a dépassé par la suite, en allongeant une
des deux ailes, en multipliant les chiens assis sur la partie longue et en unifiant le tout par de faux colombages. De même, vous pouvez
constater qu'il y a un balcon rudimentaire en bois au-dessus d'une entrée en avancée alors que, par la suite, on a tout simplement
construit des bows windows avec toit terrasse."
"La seconde (ci-dessous), pour modeste qu'elle soit, est également intéressante car elle arbore une combinaison que je n'avais encore jamais remarquée entre sa rive à festons (en zinc ?) et un bandeau de même motif courant sur la façade au niveau du 1er étage."

Vers la rue Pasteur 
Carte contemporaine de Dalat
Centre ville
  
   
   

   
   
   
  Non loin de l'église saint Nicolas, bel exemple de restauration réussie Emplacement à préciser... 
   
Route du Sinh
Sur la route, une villa "La Biche au Bois". Son locataire, fonctionnaire forestier, découvre avec surprise le sens de cette phrase. Il est très heureux de vivre dans cette maison, qu'il partage avec 3 autres familles.    
Tran Phu
L'ancienne Poste ; aujourd'hui le bar restaurant branché "Larry's Bar" du Dalat Palace, rue Tran Phu. Repas à 48 USD sans les boissons en 2007...
Duong Yersin,       
Très belle maison, sur une colline au milieu des pins. Hôtel privé appartenant à un syndicat
Hai Thuong 
En face de l'hopital Hai Thuong, école maternelle (à l'entrée des districts 5 et 6). C'était autrefois la régie de la douane
 
 
Rue du 3 février 3 Thang 2
Avenue large, riche en nombreuses maisons spacieuses 
Secteur 4
   
Très belle maison "normande" cachée par les arbres 
Rue YAGOUT et Tran Binh Trong (district 5)
Bel ensemble de villas homogènes. Sans être les plus belles de Dalat, elles sont nombreuses dans ce quartier. 
  
  
   
  
Église des minorités ethniques, non loin des chutes de Cam ly, près du centre de passage du permis de conduire (au bout de Tran Binh Trong)
Dans le secteur 5
     Rue Phan Dinh Phung
Maison dont la facade est en bois ; c'est la seule maison de ce type rencontré à Dalat
Eglise rue Nguyen Van Troi
Jolie panorama du haut de cette colline, en centre ville
Secteur Quang Trung - Phan Chu Trinh - Secteur 9
    
  A proximité de l'intersection Tran Quy Cap
 
  
  
   
   
Au détour d'une rue dans le secteur 9
Secteur Rue Pasteur
Nombreuses maisons dans les rues du district 4 (Huynh Thuc Hang, Nguyen Viet Xuan...)   
 

 

Sœurs de Saint Paul de Chartres (emplacement à confirmer)
Secteur Tran Hung Dao
Les maisons dans les cadres de verdure les plus vastes. Certaines maisons sont actuellement en rénovations.
 
 
 
   A 75 ans d'écarts, le garage Saga et ce qu'il en reste (la facade)
Quartier 10
Bâtiments occupés autrefois par la communauté religieuse des Sœurs Franciscaines.
Actuellement, l'école est gérée par le gouvernement, tandis que les bâtiments conventuels sont abandonnés et squattés. La zone est très excentrée et particulièrement humide. Située à proximité d'une ancienne résidence de Bao Dai, le Dinh 1.
 
 
Extérieur de Dalat








Sur la route du Lang Bian

Paysage vu du Lang Bian
Histoire de la Ville de Dalat -Revue Indochine - Sud Est Asiatique - 1954
"La reconnaissance du docteur Yersin commença lorsquele 21 juin 1893, venant de Nha Trang, le docteur Yersin déboucha de la forêt sur les vastes étendues du plateau et fut frappé par la beauté des sites et la douceur du climat. Sans doute pressentait-il alors l'avenir et le destin de cette région, car il se mit aussitôt à en étudier les conditions climatériques et à tracer les grandes lignes d'un vaste projet d'assainissement et d'action antipaludéenne. 
Quatre ans plus tard, en  juillet 1897, le président Doumer, alors gouverneur général de l'Indochine, avait l'intention d'établir dans la région montagneuse du sud du centre Vietnam un sanatorium comparable à ceux de l'Inde. En réponse à une lettre personnelle de M Doumer, le docteur Yersin lui indiqua le plateau de Lang Bian comme répondant le mieux à ses désirs. 
Le gouverneur général adopta les conclusions du docteur Yersin et commença à réaliser son projet. Successivement, deux missions, celle de Thouard et de Cunhac en 1897 et celle de Guynet et Cunhac en 1898, s'efforcèrent de déterminer et préciser les voies d'accès. De nombreuses autres missions complétèrent ces reconnaissances de la première heure. En 1898, une station météorologique et d'essais agricoles fut crée à Dankia, suivie bientôt d'un poste de la garde indochinoise. En mars 1899, M. Doumer vint lui-même reconnaître l'emplacement du futur Dalat. Accompagné du docteur Yersin, il parvint au plateau du Lang Bian par Phan Rang, Krongpha, Belle vue, Dran et l'Arbre Broyé. "
Le marché de Dalat, 1955, Revue Indochine, Sud Est Asiatique
"Quatre chalets en bois furent alors édifiés : ceux du gouverneur général, de la résidence et de la garde indochinoise. Un maire fut désigné. Une sala (le futur Hôtel du Lac) fut installée en 1907. Les grandes lignes de la ville furent tracées. Elles suivaient les pistes montagnardes établies sur les lignes de crêtes. 
Mais en 1902, après le départ de M Doumer, tous ces projets furent pratiquement abandonnés. Les crédits furent supprimés,  les constructions arrêtées. Seuls demeuraient encore sur place quelques agents, un maire, un  inspecteur de la garde indochinoise et un chef de la station agricole. Les difficultés d'accès apparurent insurmontables aux continuateurs de M. Doumer. 
La deuxième phase, qu'on pourrait appeler "l'éveil de Dalat", s'ouvrit en novembre 1915. Les circonstances étant devenues plus favorables, le gouverneur général Roume décida de donner  une nouvelle impulsion à l'œuvre abandonnée. Le réseau routier, considérablement développé, facilitait l'accès au Lang Bian. La Première Guerre mondiale empêchant les séjours en France, incitait les Européens d'Indochine à venir se reposer dans une région au climat salubre et vivifiant. 
Afin de favoriser le tourisme naissant, M. Roume décida, en 1916, d'installer  un grand hôtel à Dalat. Ses successeurs continuèrent le travail entamé, accordèrent des crédits et développèrent les routes. Le nombre de chalets augmenta très rapidement. A la fin de la guerre 14-18, on en comptait une dizaine. On commença en 1919 à aménager le lac. A partir de 1920, la route de Phan Rang à Dalat, passant par le col de Belle Vue et par Dran, devint praticable. La Poste actuelle, l'institution Nazareth, l'immeuble actuel du Trésor furent alors édifiés. Le Lang Bian Palace fut inauguré en 1922. Une première usine électrique fut installée en 1918 et l'usine des eaux en 1920. 
L'architecte Hébrard, à qui le gouverneur général Long avait confié la charge de dresser un plan d'aménagement de Dalat, termina le travail en 1923. Ce fut le début de la troisième phase, qui fit de Dalat une station d'altitude. 
Jusqu'en 1940, Dalat se développa progressivement. En 1933, une route directe reliant Saigon à Dalat, par le col de Blao, fut ouverte à la circulation ; les travaux du chemin de fer à crémaillère, commencés en 1920, furent achevés et le rail atteignit Dalat en 1933. La construction du Lycée Yersin, décidée en 1927, se poursuivra jusqu'en 1941. L'institution Notre Dame du Lang Bian et celle du Sacré Cœur furent édifiées, la première entre 1934 et 1936, la seconde en 1940. 
Au nord-ouest et au sud de la ville, la population vietnamienne, qui n'avait pas cessé d'augmenter, forma ses quartiers et passa de 1.500 habitants en 1932 à 13.000 en 1940. Cependant, l'équipement urbain de la cité se poursuivit par la création d'une nouvelle usine électrique en 1927 et le développement du service des eaux. Un plan d'extension fut établi en 1937. 
La quatrième phase, enfin, aboutit à l'organisation de la cité. Depuis 1940, Dalat connaît une grande prospérité. Une usine hydroélectrique est en construction  à Ankroet, sur le Dadung, pour parfaire l'alimentation en électricité de la ville qui s'agrandit de plus en plus. Le nombre de villas, qui était de 530 en 1940, s'éleva jusqu'à 1.000 à la fin de 1945. Parallèlement, la population s'accrut et dépassa 20.000 habitants à la fin de 1942
Mais la situation internationale ne permet pas la réalisation du plan d'urbanisme rendu exécutoire par l'arrêté du 27 avril 1943 et Dalat, comme tout le reste du Vietnam, eut à souffrir des tristes événements de 1946. 
Cependant, depuis le transfert des compétences et services au gouvernement du Vietnam, les autorités vietnamiennes prennent à cœur de poursuivre l'œuvre interrompue et s'efforcent de réaliser une cité modèle. Un nouveau plan d'urbanisme est à l'étude, visant à faire de Dalat une station d'altitude de premier ordre, tout en assurant son développement économique et social. 
A la fin de 1952, Dalat compte 25.041 âmes, dont 23.072 Vietnamiens et autochtones appartenant à la tribus des Lat, 1.217 Européens (non compris les militaires) et 752 Chinois. "

Sommaire
http://belleindochine.free.fr/Dalat.htm

VNAF PHOTOS section –vnafmamn.com
Back to "DALAT, LOST SHANGRILA"
DALAT: RELICS OF GOLDEN AGE
Dalat Guide
 

In 1897, Dr. Yersin discovered the Lang-Bian plateau and after Governor Paul Doumer paid the first visit, the Governor decided to create a sanitarium for all europeans. Then in April, 1899, a special mission called "Mission du Lang-Bian had been assigned to Captain Guynet for building a route from Lang-Bian to coastal area (port of Ninh Chu, near Phan Rang). However, the physician of the expedition, Dr. Tardif choose Dalat rather than Dankia (an area near Dalat, today known as Suoi Vang) as the developmen project for future sanitarium.

Unfortunately, for many different reasons, the project had been canceled. Until 1916 Governor Roume accepted a necessary fund for the development of the high land resort. The construction of the route for automobile was also an advantage that speeded up the project, especially the complete building of the "Grand Hotel" and a second one with more lodges and later private and official Villas. Thus, in 1931 Dalat has been established as a small village, nice and clean where the healthy life had been assured. More over, to get the better and convenient access to Lang-Bian plateau for everyone, The French colonial administration also started a parallel project (from 1903 till 132) of building a cog railway Tourcham - Dalat, which consisted of 84 km with 5 tunnels and 3 cog rack sections (chemin de fer a cremaillere). Winding through beautiful pine forest, green hills and spectacular passes, the rail way afterward became one of the two magnificent cog railways with Abt system in the world and as a heritage of the French Indochina era.

After April 1975, most affluent people of Dalat had gone, then the common Lang-Bian natives also fled when the Red scare became a real nightmare and life turned out to be so tough at an isolated resort, which once was a dream land. With the massive influx of new "pioneers" from the North, Dalat has changed its image and cultural ambience forever since private estates were confiscated; public lands seized at will and the pristine pine forest chopped down for whatever project or personal gain.

Today, foreign visitors can visit the salubrious weather resort and contemplate at some historic buildings, which due to official landmark have been recently restored and maintained; but if strolling deep into the old streets of the city, they will encounter the old ghosts of the forgotten past: The old villas neglected with lost time. And if you are interested in Architecture and have keen eyes, even in shabby and dilapidated condition those "Relics" still look elegant with the French colonial traits and they reminisce so much about the nostalgia of the golden era of Dalat that the old "Dalataires" now called "The Lost Shangrila."

(Most photos and part of the text translated from BelleIndochine)
OLD VILLAS OF DALAT
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa

Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa

Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa

When arriving in Dalat, most tourists would stay in 5 or 4 star hotels, dinned at classy restaurants, and visited the scenic landmarks where they could take a lot of beautiful pictures. With tight traveling schedules, many didn't have enough time to cover all points of interest, much less venturing into the heart of Dalat city. In case you may have missed, here are a few images of Dalat that exposed the real lives of local people.
DALAT'S REAL LIFE IMAGES
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa

DALAT LANDMARK & BUILDINGS: THEN & NOW
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Waterfall
Waterfall
Waterfall
Waterfall
Waterfall
Waterfall

Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa
Dalat Villa

More Courtney Utt's photos can be seen at this link: Dalat Then & Now Photos
Back to "DALAT, LOST SHANGRILA"
http://www.delcampe.net/list.php?language=E&x=0&y=0&searchString=dalat+&searchMode=all&searchTldCountry=net&cat=0&searchInDescription=N
----------------------------------------------------

Le Domaine de Marie, à Dalat

Le livre "Récits et lettres d'Indochine et du Vietnam 1927-1957, de Jean Le Pichon, paru aux éditions "les Indes Savantes" en 2009 offre un éclairage intéressant sur la naissance du "Domaine de Marie" de Dalat. Cette congrégation, qui fait partie de l'ordre des Filles de la Charité - Saint Vincent de Paul (http://www.filles-de-la-charite.org/fr/) est bien connue des touristes se rendant à Dalat, car c'est un lieu très accueillant. C'est également un formidable relais de la francophonie.  

Photo prise en 1948 (source caom)
Actuellement, le Domaine de Marie accueille un noviciat. 23 sœurs Saint Vincent de Paul y vivent (en 2007) ainsi que de nombreuses jeunes filles et enfants malentendants. Le financement de la structure est assuré notamment par une maternelle riche de 300 enfants. 
Des 22 hectares possédés en propre à l'origine, seuls 3 hectares sont encore aux sœurs aujourd'hui.    
Les photos contemporaines datent de 2007.        
Extrait du livre de Jean Le Pichon :
 "Elles étaient déjà en Indochine depuis de longues années, mais dispersées, surtout en Cochinchine, en de petites implantations provinciales nées des circonstances. Partout, les sœurs françaises  avaient été frappées des vocations religieuses qu'elles rencontraient parmi les filles vietnamiennes, si bien qu'en 1940, l'ordre se décida de répondre à cet appel. C'est ainsi que fut envoyé en Indochine une Visitatrice, sœur Durand, avec pleins pouvoirs, assistée de sœur Sirjacq qui devait être la future maîtresse des novices. C'est en août 1941, je crois, que le résident Patau me demanda de les piloter dans Dalat afin de rechercher les terrains qui pourraient convenir à leurs projets. Je les embarquai dans ma petite voiture à cheval, et  nous fîmes le tour de la ville. Rien de ce que je proposai ne convenait. Enfin, à la sortie du quartier annamite, une grande colline dénudée dominait le paysage avec, à ses pieds, une petite vallée couverte de pins. Le sœur Durand s'écria: "ça y est, c'est là !".
Dalat, en 1955 ; Au fond, on distingue le Domaine de Marie (Revue Indochine, 1955)
"Nous arpentâmes le terrain qui devait faire une quinzaine d'hectares. On planta l'église au sommet avec le cloître et le noviciat; la  maison d'éducation des métisses aurait sa place dans la vallée; le dispensaire et une école populaire au débouché de la ville; à mi hauteur, l'école d'infirmières. L'ensemble constituerait le "Domaine de Marie". Elle me demanda, en tant que notaire, d'établir l'acte d'acquisition au plus tôt et à moindre frais; ce qui fut possible, les terrains appartenant au domaine de  l'état. [...]
"A la fin du mois d'octobre 1941, les 30 premières novices arrivaient, venant des maisons de cochinchine. A la fin de novembre 1942, à l'inauguration de l'église, elles étaient 60 ! Entre temps, elles avaient reçu un aumônier, un père lazariste qui venait de passer 15 ans en Ethiopie : le père Bringer. [..] C'est avec lui et sœur Sirjacq qu'elle forma les premières générations de sœurs vietnamiennes qui, livrées à elles-mêmes, plus tard à l'heure de la persécution vietminh, ont témoigné avec tant de foi, d'intelligence et de courage, d'une remarquable adaptation aux circonstances et, en définitive, d'une vocation missionnaire qui s'est révélée sur le terrain."
Sœur Durand, religieuse hors du commun
"Une des raisons de l'extraordinaire réussite de sœur Durand était son ouverture aux problèmes du monde où elle voulait s'implanter. Son objectif : former des sœurs de la Charité vietnamiennes qui soient capables d'être dans leur propre milieu, au service des pauvres, présentes à toutes les formes de pauvreté rencontrées. A l'école de Saint Vincent, elles doivent être sans cesse à l'écoute des pauvres qu'elles trouveront sur leur chemin. [..]
Ainsi, ayant eu conscience des problèmes des enfants métis abandonnés à travers l'Indochine, elle envisagea de créer une maison d'éducation à Dalat qui les accueillerait et les assurerait une formation adaptée jusqu'à ce que les circonstances permissent de les envoyer en France où ils seraient confiés soit à des familles (adoptions ou parrainages), soit dispersés dans des pensionnats religieux qualifiés (Ursulines, Oiseaux, etc..).
"Ce projet reçu tout de suite l'appui de William Bazet, un métis devenu l'un des plus riches planteurs de Cochinchine et homme politique très influent dans le Conseil de l'Indochine. Il se chargea de la présentation des dossiers auprès des services administratifs compétents mais, sans plus attendre, elle entreprit les travaux. Cette audace reposait, certes, sur une grande confiance dans la Providence, mais précédée d'une rigoureuse analyse des besoins et de l'urgence, et de sa conviction que la meilleure solution est celle qu'elle apporte. Son initiative était alors le signe qui alertait et déclenchait toutes les bonnes volontés préoccupés de ce problème. On en parlait et on venait voir et, sans trop savoir comment, on se trouvait séduit et engagé dans l'action." 
Madame Graffeuil : une collaboratrice précieuse
"A cette époque, Mme Graffeuil vint habiter Dalat après la disparition de son mari, qui était Résident Supérieure en Annam. [..] Depuis le jour de la rencontre avec sœur Durand, Mme Graffeuil devint la plus précieuse et la plus puissante de ses collaboratrices dont l'efficacité fut immédiate. Car dès ce jour, Mme Graffeuil s'est engagée dans une action personnelle admirable qui envahira toute sa vie. Ayant participé dès le début avec sœur Durand et William Bazet à la création de l'œuvre, par la suite, en France, elle en sera l'âme, traçant et suivant pas à pas pour chacune de ses filles un chemin de bonheur. Et ce sont des milliers d'enfants qui ont ainsi été sauvés d'un enlisement en Indochine."
 
L'amiral Decoux
"Naturellement, l'amiral Decoux désira connaître sœur Durand. La rencontre eut lieu sur le chantiers du Domaine de Marie. Ce fut le coup de foudre ! L'amiral, qui était accompagné de sa femme, fut subjugué par la personnalité de la sœur, par l'audace calculée de ses projets et de la sûreté de son jugement. D'emblée, il apporta  à l'œuvre des métis la totale collaboration des services sociaux de l'armée, mais en plus, il lui confia la fondation d'une école de monitrices d'éducation physique dans le cadre du vaste mouvement sport-jeunesse qu'il voulait promouvoir en Indochine."
Madame Decoux, née Suzanne Humbert, femme de l'Amiral Jean Decoux, gouverneur de l'Indochine de 1940 à 1945 est enterrée ici. Grande bienfaitrice du couvent, elle s'est tuée en voiture le 6 janvier 1944 en rendant visite au couple Bao Dai.
La vue depuis le Domaine de Marie, en 2007



  
   
   

 
   
   
   

 

Non loin de l'église saint Nicolas, bel exemple de restauration réussie
Emplacement à préciser... 
   

Route du Sinh





Sur la route, une villa "La Biche au Bois". Son locataire, fonctionnaire forestier, découvre avec surprise le sens de cette phrase. Il est très heureux de vivre dans cette maison, qu'il partage avec 3 autres familles.    
Tran Phu
L'ancienne Poste ; aujourd'hui le bar restaurant branché "Larry's Bar" du Dalat Palace, rue Tran Phu. Repas à 48 USD sans les boissons en 2007...
Rue Yersin,       








Très belle maison, sur une colline au milieu des pins. Hôtel privé appartenant à un syndicat
Rue Hai Thuong 
En face de l'hopital Hai Thuong, école maternelle (à l'entrée des districts 5 et 6). C'était autrefois la régie de la douane
 
 
Rue du 3 février 3 Thang 2
Avenue large, riche en nombreuses maisons spacieuses 
Secteur 9
   







Très belle maison "normande" cachée par les arbres 
Rue YAGOUT et Tran Binh Trong (district 5)
Bel ensemble de villas homogènes. Sans être les plus belles de Dalat, elles sont nombreuses dans ce quartier. 
  
  
 
  

Église des minorités ethniques, non loin des chutes de Cam ly, près du centre de passage du permis de conduire (au bout de Tran Binh Trong)
Dans le secteur 5
 
 

Rue Phan Dinh Phung
Maison dont la facade est en bois ; c'est la seule maison de ce type rencontré à Dalat
Eglise rue Nguyen Van Troi







Jolie panorama du haut de cette colline, en centre ville
Secteur Quang Trung - Phan Chu Trinh - Secteur 9
    
 

A proximité de l'intersection Tran Quy Cap
 

  

  
   
 
Au détour d'une rue dans le secteur 9
Secteur Rue Pasteur
Nombreuses maisons dans les rues du district 4 (Huynh Thuc Hang, Nguyen Viet Xuan...)
 
 

 

Sœurs de Saint Paul de Chartres (emplacement à confirmer)
Secteur Tran Hung Dao
Les maisons dans les cadres de verdure les plus vastes. Certaines maisons sont actuellement en rénovations.
 
 


 
  
A 75 ans d'écarts, le garage Saga et ce qu'il en reste (la facade)
Quartier 10
Bâtiments occupés autrefois par la communauté religieuse des Sœurs Franciscaines.
Actuellement, l'école est gérée par le gouvernement, tandis que les bâtiments conventuels sont abandonnés et squattés. La zone est très excentrée et particulièrement humide. Située à proximité d'une ancienne résidence de Bao Dai, le Dinh 1.
 
 

Extérieur de Dalat
Sur la route du Lang Bian

Paysage vu du Lang Bian

Histoire de la Ville de Dalat -Revue Indochine - Sud Est Asiatique - 1954
"Le reconnaissance du Docteur Yersin commença, lorsque le 21 juin 1893, venant de Nha Trang, le docteur Yersin déboucha de la foret sur les vastes étendues du plateau et fut frappé par la beauté des sites et la douceur du climat. Sans doute pressentait il alors l'avenir et le destin de cette région, car il se mit aussitôt à en étudier les conditions climatériques et à tracer les grandes lignes d'un vaste projet d'assainissement et d'action antipaludéenne.
4 ans plus tard, en  juillet 1897, le Président Doumer, alors gouverneur général de l'Indochine, avait l'intention d'établir dans la région montagneuse du sud du centre Vietnam un sanatorium comparable à ceux de l'inde. En réponse à une lettre personnelle de M Doumer, le docteur Yersin lui indiqua le plateau de lang bian comme répondant le mieux à ses désirs.
Le gouverneur général adopta les conclusions du docteur Yersin et commença à réaliser son projet. Successivement, deux missions, celle de Thouard et de Cunhac en 1897 et celle de Guynet et Cunhax en 1898, s'efforcèrent de déterminer et préciser les voies d'accès. De nombreuses autres missions complétèrent ces reconnaissances de la première heure. En 1898, une station météorologique et d'essais agricoles fut crée à Dankia, suivie bientôt d'un poste de la Garde indochinoise. En mars 1899, M. Doumer vint lui même reconnaître l'emplacement du futur Dalat. Accompagné du Docteur Yersin, il parvint au plateau du Lang Bian par Phan Rng, Krongpha, Belle vue, Dran et l'arbre Broyé.
4 chalets en bois furent alors édifiés: ceux du gouverneur général, de la résidence et de la garde indochinoise. Un maire fut désigné. Une sala (le futur Hôtel du Lac) fut installée en 1907. Les grandes lignes de la ville furent tracés. Elles suivaient les pistes montagnardes établies sur les lignes de crêtes.
Mais en 1902, après le départ de M Doumer, tous ces projets furent pratiquement abandonnés,. Les crédits furent supprimés,  les constructions arrêtés. Seuls demeuraient encore sur place quelques agents, un maire, un  inspecteur de la Garde indochinoise et un chef de la station agricole. Les difficultés d'accès apparurent insurmontables aux continuateurs de M Doumer.
La 2eme phase, qu'on pourrait appeler "l'éveil de Dalat" s'ouvrit en novembre 1915. Les circonstances étant devenues plus favorables, le gouverneur général Roume décida de donner  une nouvelle impulsion à l'œuvre abandonnée. Le réseau routier, considérablement développé, facilitait l'accès au lang bian. La première guerre mondiale empêchant les séjours en France, incitait les européen d'Indochine à venir se reposer dans une région au climat salubre et vivifiant.
Afin de favoriser le tourisme naissant, M Roume décida, en 1916, d'installer  un grand hôtel à Dalat. Ses successeurs continuèrent le travail entamé, accordèrent des crédits et développèrent les routes. Le nombre de chalets augmenta très rapidement. A la fin de la guerre 14-18, on en comptait une dizaine. On commença en 1919 à aménager le lac. A partir de 1920, la route de Phan Rang à Dalat, passant par le col de Belle Vue, et par Dran, devint praticable. La Poste actuelle, l'institution Nazareth, l'immeuble actuel du Trésor furent alors édifiés. Le Lang Bian Palace fut inauguré en 1922. Une première usine électrique fut installée ne 1918 et l'usine des eaux en 1920.
L'architecte Hebrard, à qui le gouverneur général Long avait confié la charge de dresser un plan d'aménagement de Dalat, termina le travail en 1923. Ce fut le début de la 3eme phase, qui fit de Dalat une station d'altitude.
Jusqu'en 1940, Dalat se développa progressivement. En 1933, une route directe reliant Saigon à Dalat, par le col de Blao, fut ouverte à la circulation ; les travaux du chemin de fer crémaillère, commencé en 1920, furent achevés et le rail atteignit Dalat en 1933. La construction du Lycée Yersin, décidée en 1927, se poursuivra jusqu'en 1941. L'institution Notre Dame du Lang Bian et celle du Sacré Cœur furent édifiés, la 1ere entre 1934 et 1936, la seconde en 1940.
Au nord ouest et au sud de la ville, la population vietnamienne, qui n'avait pas cessé d'augmenter, forma ses quartiers et passa de 1500 habitants en 1932 à 13.000 en 1940. Cependant, l'équipement urbain de la cité se poursuivit par la création d'une nouvelle usine électrique en 1927 et le développement du service des eaux. Un plan d'extension fut établi en 1937.
La quatrième phase, enfin, aboutit à l'organisation de la cité. Depuis 1940, Dalat connaît une grande prospérité. Une usine hydroélectrique est en construction  à Ankroet, sur le Dadung, pour parfaire l'alimentation en électricité de la ville qui s'agrandit de plus en p lus. Le nombre de villas, qui était de 530 en 1940, s'éleva jusqu'à 1000 ç ka fun de 1945. Parallèlement, la population s'accrut et dépassa 20.000 habitants à la fin de 1942.
Mais la situation internationale ne permet pas la réalisation du plan d'urbanis,e rendu exécutoire par l'arrêté du 27 avril 1943 et Dalat, comme tout le reste du Vietnam, eut a souffrir des tristes évènement de 1946.
Cependant, depuis le transfert des compétences et services au gouvernement du Vietnam, les autorités vietnamiennes prennent à cœur de poursuivre l'œuvre interrompue et s'efforcent de réaliser une cité modèle. Un nouveau plan d'urbanisme est à l'étude, visant à faire de Dalt une station d'altitude de premier ordre, tout en assurant son développement économique et social.
A la fin de 1952, Dalat compte 25.041 âmes, dont 23.072 Vietnamiens et autochtones appartenant à la tribus des Lat, 1217 européens (non compris les militaires) et 752 Chinois. "
Sommaire
LA CLEF-DES-CHAMPS
(Saint-Georges-de-Didonne)
in Chassebœuf (Frédéric), Villas de la côte de Beauté,
Patrimoines et médias, Prahecq, octobre 2006, 336 p.
"Ostensiblement tournée vers les terres et non vers la mer, La Clef des Champs fut élevée dans les premières années du XXe
siècle. Située à deux pas de l'église de Saint-Georges-de-Didonne, la villa voisinait, lors de sa construction, avec les prairies et les
terres cultivées en bordure du village. De nos jours, l'urbanisation galopante fait paraître son nom quelque peu insolite.
Deux signatures qui ont été gravées à proximité de la porte d'entrée apprennent que la villa fut élevée par l'entrepreneur
René Bariteau* (1874-1972), un homme très actif à Saint-Georges dans les premières années du XXe siècle, et selon les plans de
l'architecte Georges Vaucheret* (1867-1957), originaire de Lyon. Ce dernier, qui a laissé de nombreuses œuvres sur la Côte de Beauté, en particulier à Saint-Georges-de-Didonne où il semble avoir résidé un temps, devait considérer La Clef des Champs comme l'une de ses plus belles réalisations, puisqu'elle fit l'objet d'une notice dans Villas et Cottages du bord de l'Océan, un recueil publié par Charles Massin, en 1926. Contrairement aux autres villas de Georges Vaucheret, qui sont le plus souvent dépourvues de soubassement et se déclinent à partir de volumes simples conjugués à des formes angulaires, La Clef des Champs est surélevée et multiplie les décrochements à partir d'un plan qui additionne carrés et rectangles sans ordre apparent. Il s'agit là d'une architecture que l'on peut qualifier d'organique avant la lettre et d'une conception à la fois exceptionnelle et inattendue. Les pièces principales forment un noyau central auquel sont accolés, çà et là, différentes structures légères, parfois en surplomb comme le cabinet de toilette à pans de bois qui domine le perron d'entrée, renfermant des pièces secondaires. Il en résulte une architecture difficilement classable parmi les grands types de villas qui se sont répandus dans les stations balnéaires, au début du XXe siècle. La Clef des Champs figure incontestablement parmi les réalisations les plus originales du début de la carrière de Georges Vaucheret, et c'est sans doute à ce titre qu'elle fut publiée en 1926 dans le recueil de Charles Massin."
Retour à "Dalat"
http://belleindochine.free.fr/sommaire.htm
  Đến Deauville ( Pháp ) và nghĩ về Đà Lạt !

Lần đầu tiên đặt chân đến Paris, chúng tôi đã có ngay cảm giác gần gũi vì thành phố này có nhiều điểm giống Sài Gòn. Cậu hướng dẫn viên người Pháp nghe vậy đã lịch sự “sửa lưng”: “Nói chính xác là Sài Gòn giống Paris, bởi nhiều công trình nổi tiếng ở Hòn ngọc Viễn Đông đều do các bậc tiền bối của chúng tôi xây dựng”.

Cảm giác ấy một lần nữa lại đến khi đứng trước những ngôi nhà cổ ở Deauville, bỗng thấy hình như có nét thân quen và trong một thoáng cứ tưởng mình đang dạo chơi phố xá Đà Lạt.

Là một thị trấn du lịch nằm trong vùng hành chính Basse-Normandie với khoảng 5.000 cư dân, Deauville nổi tiếng thế giới về mô hình thành phố nghỉ dưỡng kết hợp hài hòa giữa đời sống hiện đại đầy tiện nghi xa hoa trong một địa phương giàu tính lịch sử với các di sản kiến trúc.

Đô thị du lịch đậm tính nhân văn

Nhà kiến trúc colombage ở Deauville được bảo tồn nghiêm ngặt

Anh bạn nhà báo Trần Công Sung xa xứ từ 40 năm qua tình nguyện làm hướng dẫn viên đưa chúng tôi đi thăm Deauville, chỉ cách Paris hai giờ chạy xe. Thị trấn xinh đẹp ven biển này tuy nhỏ bé nhưng tập hợp mọi phương tiện đủ để thỏa mãn nhu cầu thụ hưởng đời sống trưởng giả giàu tính nhân văn.

Deauville có nhiều khách sạn cùng sòng bạc sang trọng, các trường đua ngựa danh tiếng, bến cảng neo đầy du thuyền đắt tiền, với không ít giáo đường cổ kính cùng các lễ hội truyền thống và nhiều sự kiện văn hóa diễn ra quanh năm.

Nơi đây còn thu hút du khách nhờ vào yếu tố là một trong những bãi biển hiếm hoi có thể tắm được ở vùng Normandie. Như các bậc phong lưu phô trương sự phú quý bằng “gấm lót đàng, vàng lót ngõ”, ngay từ năm 1930 Deauville đã không tiếc tiền nhập ván gỗ azobe từ châu Phi lót cả con đường dọc theo bãi tắm, để quý thiên kim tiểu thơ và vương tôn công tử có thể bách bộ dạo chơi mà khỏi sợ cát biển lấm những đôi chân ngà ngọc.

Ngày nay, dài theo con đường lát ván sạch tinh tươm ấy là dãy phòng khang trang phía trước có lan can xinh xắn. Những bảng gỗ dựng trên các lan can đập vào mắt du khách tên tuổi hàng loạt ngôi sao điện ảnh thế giới như Charlton Heston, Arnold Schwarzenegger, Elizabeth Taylor, Tom Cruise, Sylvester Stallone, Al Pacino...

Đây chính là một ý tưởng thường được lấy làm ví dụ điển hình trong việc marketing. Chẳng là, từ 1975 Deauville bắt đầu tổ chức Liên hoan phim Mỹ hàng năm. Để được rình rang phải nghĩ ra cách thu hút cho được nhiều “sao” đến đây. Thế là một sáng kiến được đưa ra: thành phố sẽ lưu danh miễn phí các diễn viên nổi tiếng khi họ tới tham dự festival.


Chợ phiên, diễn ra hàng tuần từ năm 1866

Được lưu danh ở nước Pháp thanh lịch ư? Còn gì bằng! Thế là các ngôi sao thượng thặng lần lượt đến, ào ạt đến, tạo cơ hội cho Deauville thu hút thêm nhiều du khách vào những dịp liên hoan phim.

Từ năm 1999, Deauville lại tổ chức thêm Liên hoan phim châu Á. Việt Nam từng góp mặt tại Deauville Asia Festival với Mùa ổi của đạo diễn Đặng Nhật Minh, Mê Thảo thời vang bóng của đạo diễn Việt Linh, Hạt mưa rơi bao lâu của đạo diễn Đoàn Minh Phượng, nhưng chỉ tham gia trong chương trình toàn cảnh chứ không tranh giải Bông sen vàng.

Đắt đỏ nhưng không dễ tiêu tiền

Quảng trường Morny, nơi hội tụ tám con đường chính

ến Deauville rồi mới thấy muốn tiêu tiền ở một trong những đô thị đắt đỏ nhất nước Pháp chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Định vào sòng bạc thử thời vận ư? Không thoải mái như Las Vegas của Mỹ, các casino ở đây quy định khách muốn vào… chung tiền phải ăn mặc complet chỉnh tề, có nghĩa là dân du lịch bụi với áo pull quần soọc như chúng tôi bị… cấm cửa!

Tiếp tục lững thững bách bộ qua một cửa tiệm nhỏ xinh, định mua chiếc khăn quàng cổ đơn giản để kỷ niệm, nhưng lúc nhìn thấy bảng giá thì thất kinh: 80 euro, vị chi gần hai triệu đồng Việt Nam. Vừa cầm bộ quần áo trẻ con lên đã vội vã buông tay như bị bỏng, khi nhìn thấy cái giá cao ngất ngưởng trên 200 euro!

Deauville có một trường đua ngựa lớn, nhưng chúng tôi đến đây không đúng mùa tranh giải Deauville Polo Cup, bắt đầu vào tháng 8 hàng năm. Một trong các hoạt động thu hút du khách ở Deauville là những cuộc triển lãm và bán ngựa đua rặt nòi, lôi cuốn khách mua khắp nơi trên thế giới đến tham gia đấu giá mà nhiều nhất là những tỉ phú Ả Rập. Tất nhiên dân du lịch bụi Việt Nam chẳng có tham vọng tranh hơn thua với các đại gia này rồi.

Thế là, yên tâm với túi tiền chưa sứt mẻ, chúng tôi ghé vào một quán nước có bày bàn ghế ở vỉa hè, thú vị quan sát những cư dân hồn hậu địa phương đang nhàn tản ngồi nhâm nhi cà phê, tán gẫu hay đọc báo mà cảm giác như đang ngồi ở góc phố nào đó của Đà Lạt.

Cùng vạch xuất phát

Nhìn lại quá khứ hình thành của Deauville và Đà Lạt, dễ dàng thấy có những điểm tương đồng


Tòa thị chính xinh đẹp trên trăm tuổi đời

Thế kỷ XIX, Deauville chỉ là một làng chài nhỏ với vỏn vẹn 104 cư dân. Năm 1859, ba người gồm công tước Morny vốn là anh em cùng mẹ khác cha với Napoleon III, viên chức nhà băng Armand Donon và bác sĩ Joseph Olliffe đã mua vùng đất đầm lầy ven biển với giá 800.000 franc, rồi lên phương án xây dựng một khu nghỉ mát cao cấp, mà trong vòng mười năm sau đã trở thành điểm đến ưa chuộng của tầng lớp quý tộc không chỉ Paris mà cả châu Âu.

Cũng vào khoảng thời điểm ấy, ở Việt Nam, vào ngày 21/6/1893 bác sĩ Alexandre John Emile Yersin trên đường thám hiểm đã khám phá vùng cao nguyên Lang Biang hoang sơ tuyệt đẹp. Theo lời đề nghị của ông, viên toàn quyền Pháp Paul Doumer đã quyết định xây dựng nơi đây thành một trung tâm nghỉ mát với tư tưởng chủ đạo là tôn trọng thiên nhiên và duy trì vẻ đẹp của cảnh quan. Đà Lạt hầu như là đô thị duy nhất của nước ta được xây dựng theo ý tưởng và quy hoạch nhất quán ngay từ đầu để làm nơi nghỉ dưỡng.

Tầm nhìn xa của nhà quy hoạch và sáng tạo tinh tế của các kiến trúc sư Pháp thời đó đã biến vùng rừng núi hoang dã, chỉ sau mấy thập niên, thành nơi hội tụ một “bộ sưu tập” nhiều phong cách tiêu biểu của kiến trúc Pháp cuối thế kỷ XIX như kiến trúc Anglo - Normand, kiến trúc miền cao nguyên trung phần Pháp, miền núi Alpes và phía Nam, kiến trúc miền Pyrénées và Basque.

Hai di sản kiến trúc: điểm giống nhau…

Thật ra, không chỉ bầu không khí yên tĩnh và tiết trời se lạnh của Deauville làm gợi nhớ Đà Lạt, mà chủ yếu chính là cái hồn thể hiện qua kiến trúc. Hầu hết nhà cổ ở đây xây cất theo kiến trúc colombage đặc thù của vùng Normandie, nóc nhà với mái xéo cao, mặt tiền có kết cấu gồm khung sườn bằng gỗ được xây chèn gạch. Màu gỗ nâu xen kẽ với màu vôi của tường hình thành nét trang trí thật đặc sắc, đẹp như tranh vẽ trong chuyện cổ tích. Một trong những ngôi nhà tiêu biểu là Tòa thị chính, được xây dựng vào năm 1881 cho đến nay vẫn giữ nguyên kiến trúc thuở ban đầu.

Đà Lạt của chúng ta cũng có khá nhiều biệt thự mang kiến trúc colombage vùng Normandie, cho thấy những người Pháp tha phương đã mang chút hồn nhà sang đất Việt hầu vơi nỗi nhớ cố hương. Cho tới năm 1949, toàn thành phố có trên 1.000 biệt thự, dinh thự hoàn thiện về mặt thẩm mỹ và hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật, hài hòa với cảnh quan tạo thành một diện mạo riêng cho Đà Lạt.


Villa kiến trúc colombage ở Đà Lạt

Với giá trị kiến trúc được giới chuyên môn trong lẫn ngoài nước thừa nhận, các nhà khoa học, kiến trúc sư và chuyên gia về đô thị đã cùng kiến nghị Chính phủ công nhận thành phố này là “Đô thị di sản”. Điều trớ trêu, yêu cầu trên được đưa ra tại một hội nghị bàn về việc… cứu nguy cho sự rách nát hình hài của Đà Lạt.

Còn Deauville thì từ năm 1860 đến 1920 đã hình thành một tổng thể hơn 550 căn nhà gồm biệt thự hoặc nhà vườn cùng chung kiểu dáng địa phương đặc thù thành nơi lý tưởng cho du lịch thư giãn qua đó nhanh chóng phát triển về kinh tế.

Với sự tăng tốc mạnh mẽ của ngành du lịch biển và để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của du khách, Deauville luôn phải tự cải tiến với hệ thống lưu trú đa dạng cùng các công trình giải trí hoành tráng. Chính từ đó dấy lên sự lo lắng phải giữ gìn tổng thể kiến trúc đô thị hơn trăm tuổi đời và Hội đồng thị chính Deauville đã kêu gọi sự bảo trợ của chính phủ trung ương cũng như sự đóng góp của cộng đồng doanh nhân địa phương cùng chung tay bảo vệ giá trị di sản này.

Và khác nhau

Từ năm 2003, Deauville được đưa vào danh mục “Khu di sản kiến trúc và phong cảnh ngoại ô” (ZPPAUP - Zone de Protection du Patrimoine Architectural, Urbain et Paysager), nghĩa là chính thức nằm trong chương trình bảo tồn di sản nghiêm ngặt của Chính phủ Pháp. Nhờ vậy cho tới nay không ít căn nhà cổ tuy đã thay đổi nhiều đời chủ nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc và cảnh quan, chỉ được phép sửa sang tu bổ những chỗ bị hư hại.

Còn Đà Lạt của Việt Nam? Hàng chục năm qua, môi trường và cảnh quan nơi đây đã không ngừng xuống cấp, mà cho tới nay các đơn vị hữu quan vẫn chưa tìm ra thuốc đặc trị để cứu chữa. Điều này cho thấy chúng ta chưa có thái độ ứng xử đúng mực đối với di sản của quá khứ. Rồi đây, có khi thế hệ mai sau sẽ chỉ còn biết đến một Đà Lạt từng là “kho tàng kiến trúc - cảnh quan” trong… phim ảnh hay trong sách vở!

Đến với Deauville vào một ngày hè đẹp trời, tiếc thay ý nghĩ ấy đã làm cho khách từ phương xa tới đây bỗng thấy chạnh lòng nước non!

(Theo Doanh nhân Sài Gòn)
KT MY
http://www.architecturaldesigns.com/french-country-house-plans.asp
--------------
 
Đà Lạt và Người Xưa-Minh Ngộ - Nguyễn Thái Hai
Phần 1

Phần 2

Phần 3

Phần 4 
Xin giới thiệu những bài viết về Đà Lạt cùa một Kỹ Sư Công Chánh:


http://aihuucongchanh.com/baiviet/Dalatquetoi.html.

Vì khuôn khổ bài viết có giới hạn những ai
muốn xem thêm nhiều hình cũ xưa của Dalat xin
Link: http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=6885
--------------------------------------------------------------------------
Đà Lạt và Người Xưa
Minh Ngộ - Nguyễn Thái Hai
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
http://aihuucongchanh.com/baiviet/Dalatquetoi.html

Andy at 08/01/2010 07:59 am comment
to ko biet lam sao add blog cua cau, hic hic



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.