Tam Đảo - Hòn ngọc Đông Dương
Dấu chân Online 12
Có lẽ không còn mấy ai nhớ rằng, người
Pháp đã dùng cụm từ “hòn ngọc Đông Dương” để chỉ Tam Đảo thời cực thịnh.
Nhã hiệu này đã chìm lấp theo thời gian, trong mây núi, cỏ hoang, dưới
bước chân hàng triệu lượt người qua lại. Đây là trạm nghỉ trên núi cao
nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, một khu nghỉ mát lý tưởng đối với các
quan chức người Âu và gia đình của họ, nhất là vào những ngày nắng
nóng. Trong suốt 15 năm, chính quyền thuộc địa đã chi vào đây khoảng
50.000 franc mỗi năm để biến nơi này thành nơi sa hoa tráng lệ bậc nhất
Đông Dương.
Trạm khí hậu Tam Đảo quay hướng chính Bắc, lụp xụp nằm mục trong gió
sương, phía sau mảnh vườn quan trắc 10×10m phẳng gần như tuyệt đối. Khó
mà nhìn thấy trạm nhỏ này, thường lẫn trong mầu xanh ẩm ướt của sương
núi và cây rừng, nếu không có hai cột máy đo gió trắng toát nhô lên, khe
khẽ quay. Một con chó, một con gà mái ấp, một con gà chọi và bốn con gà
thịt – thành viên mới được mua về, quanh quẩn kiếm ăn trong vườn su su
rậm rịt bò lan trên các cọc nứa.
Quả cầu pha lê to cỡ trái bưởi đo nhật quang ký sáng một cách kỳ lạ giữa
mảnh vườn quan trắc này, trong một ngày Tam Đảo thưa mây.
Trên lan can khách sạn xây trên nền biệt thự Pháp cổ, nhà phê bình văn
học Phạm Xuân Nguyên râu tóc muối tiêu, đúng hơn là muối nhiều hơn tiêu,
hỏi: “Bác sĩ hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans, rồi sau này
là bác sĩ Étienne Tardif, nhà thám hiểm – bác sĩ A. Yersin đã tìm ra
cao nguyên Lang Biang. Ai tìm ra Tam Đảo?”
Tam Đảo thời Trần Mạt thuộc huyện Dương, đến thời thuộc Minh vẫn gọi là
huyện Dương thuộc phủ Tuyên Hóa, đời Lê Quang Thuận đặt là huyện Tam
Dương, thuộc phủ Đoan Hùng trấn Sơn Tây. Dãy núi chúng tôi đang đứng đây
gọi là Tam Đảo, vì khoảng giữa có ba ngọn núi cao vút như ba hòn đảo
nổi giữa biển mây: ngọn Thiên Thị bên phải 1375m, ngọn Thạch Bàn bên
trái cao 1358m, giữa là đỉnh Phù Nghĩa cao 1210m.
“An Nam chí nguyện” (nhà Minh – thế kỷ XV) chép: “Núi Tam Đảo phủ Tuyên
Quang ở địa phận huyện Tam Dương có 3 ngọn nổi lên sừng sững cao vút đến
tận trời, cùng với Tản Viên, hai ngọn núi đứng xứng đôi nhau là danh
sơn của Giao Chỉ”. “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn chép: “Núi Tam Đảo
ở địa phận 2 xã Lan Đình và Sơn Đình huyện Tam Dương”.
Một tài liệu do huyện ủy Tam Đảo cung cấp cho hay, dãy Tam Đảo đã được
người Pháp phát hiện hồi đầu thế kỷ. Trong một báo cáo của những nhà
điều tra rừng gửi toàn quyền Đông Dương năm 1904 đã mô tả: “Tất cả những
điều kiện cần thiết cho một Viện điều dưỡng trên núi đều hội tụ đầy đủ ở
khu Suối Bạc. Trước hết là nước lành, tiếp đến là khí hậu mát mẻ. Trong
những ngày trời nóng, nhiệt độ ở đây thường thấp hơn Hà Nội 10 độ.”
Không ảnh chụp Tam Đảo năm 1923. Các công
trình được quy hoạch giống một khu nghỉ mát ở châu Âu trong thung lũng
lòng chảo đường kính khoảng 2km.
Ở độ cao 1000m so với mặt biển
Phong cảnh Tam Đảo
Đến thập kỷ 30, 40 đã xuất hiện nhiều nhà bê tông cốt thép kết hợp với
tường gạch đá và được mở rộng về phía Đông Bắc (từ nhà máy giấy đến nhà
Joseph. Năm 1945 có khoảng 143 biệt thự lớn nhỏ, trong đó có dinh Toàn
quyền, nhà kiểm lâm, nhà lục lộ…
Các biệt thự không sát liền nhau mà được xây dựng men theo sườn núi;
càng xa trung tâm lòng chảo càng nhiều nhà cao tầng, hầu hết là của các
chủ người Pháp, chỉ có một vài nhà thuộc tầng lớp quan lại, thượng lưu
người Việt (Hồ Đắc Điềm, Phú Mỹ, Hồng Khê…). Mỗi biệt thự mỗi kiểu, mỗi
kiểu mỗi tên, tên rất kêu nhưng cũng rất thực: L’horizon (chân trời nhà
có tầm nhìn xa và rộng)… Belle vue (ngoạn mục)…
Khách sạn Métropole 5 tầng sừng sững ngay khi vừa tới khu nghỉ mát, có
phòng nhảy, có sân quần vợt… Dinh Toàn quyền đồ sộ nằm riêng trên một
mỏm núi phía Nam thung lũng. Đường vào dinh Toàn quyền đi qua hai nhà
của sĩ quan cao cấp quân đội Pháp. Có nhà thờ lớn xây bằng đá, tháp
chuông cao chót vót, có nhà 7 tầng trườn theo sườn núi, có nhà mái bằng,
có nhiều nhà mái ngói lợp màu nâu sẫm, có nhà lợp bằng mái đá đen mỏng.
Ban đêm, ánh điện lấp lánh rực sáng núi rừng.
Giữa lòng chảo là khu công viên – thể thao văn hóa: có bãi rộng, có bồn
hoa, ghế đá, sân chơi trẻ em… giống cỏ, giống hoa nhiều loại đưa từ Pháp
sang (chỉ trồng được ở nơi mát); vào hè, trăm hoa đua nở, trăm màu khoe
sắc; có bể bơi dành cho người lớn, có cả bể bơi dành cho trẻ con; có
sân quần vợt, có nhà bắn bia; xa và cao hơn về phía Đông bắc có sân bóng
đá… có các ki ốt (nhà lục lăng), ở những nơi có tầm nhìn rộng, gần
khách sạn Metropole và gần nhà Toàn quyền, phía trước ki ốt có bàn đá
hình cánh cung, mặt bàn vạch các mũi tên chỉ hướng và khoảng cách tới
các địa danh trung du đồng bằng…
Tam Đảo đúng là một nơi thần tiên non bồng, chẳng thế mà người Pháp đã
ví Tam Đảo là hòn ngọc của Đông Dương, hơn Đà Lạt, Sapa (Việt Nam), thậm
chí hơn Mông Tư (Vân Nam, Trung Quốc).
Trong số đó có những ngôi biệt thự nổi
tiếng như Dinh Toàn quyền (bìa phải ảnh), biệt thự Công sứ Henry
Wintrebert (ngôi nhà nhiều tầng bên trái) và biệt thự của gia đình
Millies Lacroix (bộ trưởng Bộ thuộc địa?).
Biệt thự của gia đình Millies Lacroix,
phía xa là Dinh thống sứ. Các ngôi biệt thự này toạ lạc ở những vị trí
rất đẹp, từ đây con cái các quan chức có thể dõi nhìn theo cha mẹ chúng
khi họ quay về Hà Nội khi kì nghỉ kết thúc.
Khu vui chơi trẻ em
nằm bên dòng suối Thác bạc. Có thể đoán được dòng chảy của con suối nhờ
hệ thực vật phông phú mọc hai bên và con đường chạy chéo bức ảnh. Ở khu
vực chính giữa có một cây cầu nhỏ kiểu Nhật. Cách đó vài chục mét là khu
hồ bơi với những hàng chắn ngang mầu trắng.
Cảnh quan nơi đây
được tô điểm bởi những cây cầu với kiến trúc tuyệt đẹp. Cây cầu nhỏ này
dẫn vào khu biệt thự của gia đình Millies Lacroix. Từ đây có thể thấy
rõ bãi đậu xe phía trước khách sạn.
Bên cạnh khu nghỉ mát nguy nga tráng lệ cũng hình thành đồng thời “làng
An Nam” – cái tên đau khổ, đầy khinh miệt của người dân nô lệ. Đây là
một khu định cư người lao động, làm thuê. Pháp dồn dân ta vào một nơi,
không được ở chung trong khu nghỉ mát.
Lúc đầu, làng ở cách khu nghỉ mát chỉ vào trăm mét, bên sườn núi chênh
vênh (trước đền Mẫu hiện nay). Sau hai lần hỏa hoạn là hai lần người
Pháp có cớ để đẩy dân ta đi xa hơn, đến khu 2 hiện nay (cách trung tâm
lòng chảo 1 – 2 km). Đất rừng mênh mông nhưng chúng chỉ phân cho mỗi hộ
hai, ba chục mét vuông. Cả làng nhà tranh vách đất, liền sát nhau, mái
nhà dưới là sân nhà trên, hỏa hoạn xảy ra thì thật khủng khiếp, gió thổi
lửa cháy một nơi thành cháy nhiều nơi, chỉ lo cứu người, lo cho người
già, trẻ con. Gió bão ở trên núi cao thì cũng thật ghê gớm, thổi bay cả
một mái ngói.
Phía bắc làng An Nam là trại lính Pháp hình thành vào năm 1939 – 1940.
Để đối phó với nhưng diễn biến có thể xảy ra ở Đông Dương trong Thế
chiến thứ hai, Pháp đã chuẩn bị xây ở Tam Đảo hai pháo đài, một ở điểm
cao trên hướng Đông Bắc một ở phía Tây Nam thị trấn. Ở đây là những tên
lê dương mà phụ nữ trẻ em phát khiếp khi thấy chúng, nhất là khi chúng
say rượu, con gái không dám vào rừng kiếm củi. Chúng chốt ở cửa ngõ Tam
Đảo này đến một đại đội. Lính lê dương cũng chỉ được đi lại từ làng An
Nam trở xuống, không được lên khu lòng chảo, nơi nghỉ mát của giới
thượng lưu
Đầu những năm 1940, Pháp còn phát hiện về phía Tây và cách chừng 12km
còn một nơi nữa mà chúng gọi là Tam Đảo 2, cũng có thể lập thành khu
nghỉ mát. Tam Đảo 2 rộng hơn Tam Đảo 1, cũng đẹp và cũng có nguồn nước
sạch và đã bắt đầu phá đá làm đường.
Năm 1948, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” bảo đảm đường giao
thông huyết mạch giữa chiến khu Việt Bắc và cả nước, người Tam Đảo đã
phá toàn bộ các biệt thự, trừ nhà thờ, nhưng đến sau năm 1954 lại phá
tháp chuông.
Ông Nguyễn Duy Hoạt, Chủ tịch thị trấn Tam Đảo kể: phá
những khu biệt thự tuyệt đẹp ấy bằng búa tạ và xà beng. Dân đục hàng
loạt các lỗ đối diện nhau trên tường các biệt thự, rồi luồn thân gỗ lớn
vào. Sau đó nổi lửa. Hầu hết các công trình ở đây đều thuộc diện nguy
nga đồ sộ, các biệt thự đại đa số đều xây bằng đá, kiên cố hết mức,
tường tầng một khách sạn Metropole dày 1,2m nhưng thảy đều không chịu
được lửa lớn, trở thành đống đá vụn mà không cần đến một quả mìn, một
lạng thuốc nổ nào. Phá hoại cũng đầy sáng tạo.
Hình như, thoáng có tiếng thở dài trong lời kể ấy.
(DCOL chuyển thể từ ghi chép của Việt Thường - Hoàng Hằng)
Nhìn lại toàn cảnh
Tam Đảo với những công trình không còn tồn tại. Thật khó có thể tưởng
tượng những gì xây dựng ròng rã 40 năm có thể bị huỷ hoại trong một vài
ngày bằng phương tiện hết sức thủ công. (Ảnh chụp khoảng 1931)
Ban đầu nó chỉ có 16 phòng. Đó là khách sạn đầu tiên tại Tam Đảo.
Chùm bưu ảnh về khu nghỉ mát Tam Đảo
Những "cỗ máy người" cho các quan thầy ở Tam Đảo
Sau nhiều năm liên tục làm phu, làm thợ, đi buôn… họ ở lại đất này. Dân số Tam Đảo năm 1941 khoảng 1.000 người - năm cao nhất 1943 có xấp xỉ 6.000 người. Tất cả là những cỗ máy người phục vụ cho các quan thầy thượng lưu trên Tam Đảo.
Họ chia làm hai nhóm. Một bộ phận chuyên về “gác nhà”. Mỗi chủ biệt thự phải thuê người trông nom, nơi ở của họ là nhà bếp, nhà để xe, cá biệt có gia đình được ở ngay tầng một của biệt thự - khoảng 1/3 người gác các nhà nghỉ của các công sở Pháp là lính như các ông Ngũ Văn, Ngũ Tuyên, Ngũ Cát Tô hoặc nhân viên bậc thấp của chính quyền Pháp, số còn lại từ thợ thuyền chuyển sang gác nhà. Một bộ phận lớn còn lại chuyên làm thợ: mộc, nề, tạp dịch, sửa chữa đồ gỗ, đồ mây, ống nước… buôn thúng bán mẹt, trồng rau, chăn nuôi ở “làng An Nam”.
Mức sống của người gác nhà có nhỉnh hơn mức sống thợ thuyền ở “làng An Nam” một chút vì có lương tháng. Khi thôi không gác nhà có người lại chuyển xuống sống chen chúc trong “làng An Nam”…
Người gác nhà lỡ để mất mát gì thì bị chủ nhà hành hạ đủ tội, và cho lục soát cả làng An Nam. Lính khố xanh được phép bắn bia qua làng - lính đứng ở đầu dốc lối xuống của làng, bia lưng chừng núi cắt đường vào đền Đức Thánh Trần - những ngày này cả làng không dám ra khỏi nhà, biết đâu đạn lạc, biết đâu đạn rơi dọc đường.
Nhà pha (tiếng dân ta gọi người tù) bị đầy đọa quanh năm để phục vụ cho những ngày phè phỡn của quan thầy: dọn cây cỏ hai bên đường, cả những đoạn vách đá thẳng đứng, manh áo mỏng sao chống được rét; miếng cơm hẩm cá mắm sao đủ sức lao động khổ sai. Có người đi nghỉ khi chơi trên đầu Thác Bạc đã ngã chết, xác nằm lơ lửng ở khe đá giữa thác, chúng lại bắt nhà pha lấy xác lên. Theo ông Nguyễn Hữu Chuân, đã có người tù chọn cái chết để thoát cảnh trần gian cực nhọc: khi ngồi ở lề đường bên vách núi thẳng đứng đã ngả người cho lăn xuống thung lũng Thác Bạc. Tự tuyệt một kiếp người.
Bể bơi người Việt tuyệt đối không được sử dụng. Người Pháp sống đế vương trong các biệt thự đầy đủ tiện nghi, có bồi bếp, phục dịch từ ăn uống, giặt giũ, quét tước lau chùi nhà cửa... Mùa hè, bà con ở chân núi làng Mấu, làng Mạ… mỗi ngày đến vài chục người gánh gồng đủ mọi thứ lên bán như gạo, gà vịt, cá tươi, rau dưa, hoa quả… Cách một ngày một phiên chợ, thực phẩm ê chề, thịt lợn, thịt bò phải giữ nguyên tim, gan, óc để bác sĩ khám rồi mới bán.
Dân ta thì sống quá khổ - có gia đình đẻ 11 lần mà chỉ nuôi sống được 3, trẻ con mới 13, 14 tuổi đã phải đi đập đá, phụ hồ. Chỉ được phép đun nấu bằng lau sậy, củi khô; nhà nào mà chặt củi tươi là bị phạt.
Một số nhà chăn nuôi đã đấu thầu mua nước gạo của khách sạn Metropole, hay của trại lính Tây. Cơm thừa canh cặn của trại lính Tây được lén bán lại cho dân.
Đỉnh điểm về phân biệt tầng lớp có thể thấy chính ở đất này. Và không phải ai khác, chính người nô lệ Tam Đảo đã nổi dậy làm chủ số phận mình, thiêu đốt các biệt thự như trong một câu thơ làm chứng: “Đang đổ sụp một nguy nga man rợ/ Đang tan bay một xán lạn phù hoa…”
Việt Thường (Ghi chép)
Những "nô lệ" đã làm nên "hòn ngọc Đông Dương"
(TT&VH) - Làm nên giá trị của
"hòn ngọc Đông Dương" như "nhã hiệu" dành cho Tam Đảo, phải chăng là
những ông chủ người Pháp, những vị quan lớn đã có những biệt thự xa hoa
trên lòng chảo này? Họ có đội đá, vác gạch lên đỉnh núi chăng? Không,
chính những người phu phen thời đó đã vắt kiệt sức mình cho Tam Đảo mỹ
lệ, và họ bị chính quyền thực dân đối xử như những nô lệ.
Trên 100 biệt thự được xây bằng công sức người Việt
Cựu Chủ tịch kiêm Bí thư Thị trấn Tam Đảo Nguyễn Thị Duyên, trong một
bài viết ngày 7/11/1987 cho rằng, nơi này được Pháp chọn làm nơi nghỉ
mát từ 1902 - 1905, việc xây dựng ròng rã từ 1905 đến 1941 thì cơ bản
xong. Tổng cộng có 123 biệt thự (ít hơn con số thống kê của huyện Tam
Dương là 143 biệt thự), một nhà tù, hai trại binh và một hệ thống nhà
dịch vụ, trong đó có khách sạn 5 tầng Metropole. Hàng năm có hàng nghìn
gia đình người Pháp lên nghỉ mát. Họ là những nhà tư sản, những quan cai
trị cỡ
bự như toàn quyền Đông Dương Catroux, Decoux, Thống sứ Bắc Kỳ Delsal,
Chánh sứ Vĩnh Yên Removille… sống xa hoa trong những biệt thự lộng lẫy
do chính tay những người lao động bản xứ Tam Đảo xây nên.
Đường lên trạm nghỉ mát vòng vèo trên núi
Phong cảnh Tam Đảo, về hướng Thác Bạc
Thác Bạc
Cho đến tận năm 1912
bên cạnh những căn nhà nghỉ của Công sứ Vĩnh Yên và của Phủ Thống sứ, ở
Tam Đảo hầu như chỉ có nhà ở của lính gác chính, đồn lính khố xanh, một
hoặc hai ngôi nhà nghỉ và hai hoặc ba hầm trú ẩn
Vật liệu xây dựng nhà nghỉ gồm đá khai thác tại chỗ, mái kết cấu gỗ và trần toóc xi
Năm 1913 khách sạn Thác Bạc (Hôtel - Restaurant de la Cascade d’Argent) được xây dựng.
Năm 1913 khách sạn Thác Bạc (Hôtel - Restaurant de la Cascade d’Argent) được xây dựng.
Ban đầu nó chỉ có 16 phòng. Đó là khách sạn đầu tiên tại Tam Đảo.
Tam Đảo thay đổi nhanh chóng. Khách sạn Thác Bạc được xây dựng lại thành một toà nhà 5 tầng.
Hướng chụp từ làng Tây
Khách sạn này nguyên
là một chi nhánh của Compagnie Francaise hotelière thành lập từ năm
1875. Công ty này sở hữu khách sạn Métropole Hanoi, khách sạn Thác Bạc
(Hôtel de la cascade d’argent) ở Tam Đảo, khách sạn Lớn (Grand Hotel) ở
Sapa, khách sạn Ba thống chế (Hôtel des trois maréchanx) ở Lạng Sơn.
Việc
quy hoạch các biệt thự nơi đây đã đạt đến trình độ nghệ thuật đến nỗi
người ta lan truyền rằng nơi đây có 100 biệt thự, và chúng được bố trí
khéo đến nỗi nếu đứng ở cửa bất kỳ biệt thự nào cũng có thể nhìn thấy 99
biệt thự còn lại xung quanh.
Theo ký ức của ông Nguyễn Hữu Chuân - người Tam Đảo, quá trình hình
thành hòn ngọc Đông Dương này là quá trình tập trung và định cư người
lao động, người làm thuê làm mướn, vì vậy cư dân Tam Đảo không có lịch
sử lâu đời như những làng quê Việt khác, chỉ tròm trèm 100 năm. Và nửa
thời gian đó - dưới thời thuộc Pháp - là nô lệ. Sau khi những người Dao
bỏ đi, tất cả người Việt lên Tam Đảo đều là những nông dân phải rời bỏ
quê cha đất tổ, tha phương cầu thực với hai bàn tay trắng, lao động để
kiếm
sống, hầu hết là người ở các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thái
Bình, Hưng Yên…
Từ dân phu làm đường và khai thác vật liệu làm đường của người dân Tam
Đảo tương lai bám dần vào hai bên đường để tiến
vào lòng chảo. Di tích còn lại là đền thờ ở chân suối (km 13), đền Cậu
(km 14), nơi ở là cái cốt cát xăng (km 19), Hương Canh (km 21), họ sống
chui rúc trong các lán tranh tre ven đường và gửi gắm nỗi thống khổ của
mình vào các đền chùa miếu mạo.
Phải kể đến từ những người lam lũ nhất như phá núi, làm đường, khênh
kiệu, vận chuyển bằng khuân vác từ đồng bằng lên cao trên 900 mét. Để có
được hòn ngọc Tam Đảo này và vận hành nó, người Nam ta đã đổ không biết
bao mồ hôi xương máu và nước mắt.
Pháp đã huy động phu phen của tỉnh Vĩnh Yên lên phá đá mở đường. Quan
huyện Hương Canh phải đích thân xua dân làm đoạn đường từ km 20 đến km
24. Tại km 21, nơi có lán trại hồi đó, bây giờ còn cây gạo mà dân ta vẫn
gọi là cây gạo Hương Canh. Quan thực dân thời gian đầu lên Tam Đảo bằng
cách ngồi ghế song loan, phu phen mỗi chuyến 6 người, thay đổi vai,
khiêng lặc lè từ km 13 lên lòng chảo
Chỉ riêng chuyện làm sân vận động năm 1943, quan giục lính, lính ép dân -
người lao động làm việc trong những ngày rét cắt ruột, có lúc nhiệt độ
xuống tới 3 - 4 độ C, vừa cực nhọc vừa ăn uống kham khổ, roi vọt đánh
đập, đói rét đã làm 23 người chết.
Chùm bưu ảnh về khu nghỉ mát Tam Đảo
Sau nhiều năm liên tục làm phu, làm thợ, đi buôn… họ ở lại đất này. Dân số Tam Đảo năm 1941 khoảng 1.000 người - năm cao nhất 1943 có xấp xỉ 6.000 người. Tất cả là những cỗ máy người phục vụ cho các quan thầy thượng lưu trên Tam Đảo.
Họ chia làm hai nhóm. Một bộ phận chuyên về “gác nhà”. Mỗi chủ biệt thự phải thuê người trông nom, nơi ở của họ là nhà bếp, nhà để xe, cá biệt có gia đình được ở ngay tầng một của biệt thự - khoảng 1/3 người gác các nhà nghỉ của các công sở Pháp là lính như các ông Ngũ Văn, Ngũ Tuyên, Ngũ Cát Tô hoặc nhân viên bậc thấp của chính quyền Pháp, số còn lại từ thợ thuyền chuyển sang gác nhà. Một bộ phận lớn còn lại chuyên làm thợ: mộc, nề, tạp dịch, sửa chữa đồ gỗ, đồ mây, ống nước… buôn thúng bán mẹt, trồng rau, chăn nuôi ở “làng An Nam”.
Mức sống của người gác nhà có nhỉnh hơn mức sống thợ thuyền ở “làng An Nam” một chút vì có lương tháng. Khi thôi không gác nhà có người lại chuyển xuống sống chen chúc trong “làng An Nam”…
Người gác nhà lỡ để mất mát gì thì bị chủ nhà hành hạ đủ tội, và cho lục soát cả làng An Nam. Lính khố xanh được phép bắn bia qua làng - lính đứng ở đầu dốc lối xuống của làng, bia lưng chừng núi cắt đường vào đền Đức Thánh Trần - những ngày này cả làng không dám ra khỏi nhà, biết đâu đạn lạc, biết đâu đạn rơi dọc đường.
Nhà pha (tiếng dân ta gọi người tù) bị đầy đọa quanh năm để phục vụ cho những ngày phè phỡn của quan thầy: dọn cây cỏ hai bên đường, cả những đoạn vách đá thẳng đứng, manh áo mỏng sao chống được rét; miếng cơm hẩm cá mắm sao đủ sức lao động khổ sai. Có người đi nghỉ khi chơi trên đầu Thác Bạc đã ngã chết, xác nằm lơ lửng ở khe đá giữa thác, chúng lại bắt nhà pha lấy xác lên. Theo ông Nguyễn Hữu Chuân, đã có người tù chọn cái chết để thoát cảnh trần gian cực nhọc: khi ngồi ở lề đường bên vách núi thẳng đứng đã ngả người cho lăn xuống thung lũng Thác Bạc. Tự tuyệt một kiếp người.
Bể bơi người Việt tuyệt đối không được sử dụng. Người Pháp sống đế vương trong các biệt thự đầy đủ tiện nghi, có bồi bếp, phục dịch từ ăn uống, giặt giũ, quét tước lau chùi nhà cửa... Mùa hè, bà con ở chân núi làng Mấu, làng Mạ… mỗi ngày đến vài chục người gánh gồng đủ mọi thứ lên bán như gạo, gà vịt, cá tươi, rau dưa, hoa quả… Cách một ngày một phiên chợ, thực phẩm ê chề, thịt lợn, thịt bò phải giữ nguyên tim, gan, óc để bác sĩ khám rồi mới bán.
Dân ta thì sống quá khổ - có gia đình đẻ 11 lần mà chỉ nuôi sống được 3, trẻ con mới 13, 14 tuổi đã phải đi đập đá, phụ hồ. Chỉ được phép đun nấu bằng lau sậy, củi khô; nhà nào mà chặt củi tươi là bị phạt.
Một số nhà chăn nuôi đã đấu thầu mua nước gạo của khách sạn Metropole, hay của trại lính Tây. Cơm thừa canh cặn của trại lính Tây được lén bán lại cho dân.
Đỉnh điểm về phân biệt tầng lớp có thể thấy chính ở đất này. Và không phải ai khác, chính người nô lệ Tam Đảo đã nổi dậy làm chủ số phận mình, thiêu đốt các biệt thự như trong một câu thơ làm chứng: “Đang đổ sụp một nguy nga man rợ/ Đang tan bay một xán lạn phù hoa…”
Việt Thường (Ghi chép)
phế tích Tam Đảo
Tiếc nuối hòn ngọc bị đập nát, những người Pháp trở lại đây tìm những dấu xưa, chắp ghép lại những mảnh vỡ quá khứ. Ảnh trên trang belleindochine.free.fr
Dòng chữ trên tấm bia đá: "Tại đây, ngày 16-7-1945 nhân dân khu nghỉ mát Tam Đảodưới sự chỉ huy của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (đơn vị Phạm Hồng Thái) đã phối hợp với binh sĩ yêu nước và người tù nơi đây tiêu diệt đồn binh địch. Khu nghỉ mát Tam Đảo hoàn toàn được giải phóng' -
Nhưng sau khu nghỉ nghỉ mát được mệnh danh là "Hòn Ngọc Đông Dương" bị huỷ diệt hoàn toàn theo chủ chương tiêu thổ kháng chiến. Cái còn lại đến ngày nay chỉ là những gì thiên nhiên ban tặng.
Sau khi bị huỷ diệt Hòn ngọc Đông Dương chìm dần vào quên lãng. Người dân chỉ biết nơi này có những khu nhà nghỉ bằng gỗ mới dựng lên để các nguyên thủ quốc gia, các lãnh đạo cao cấp, chuyên gia các nước XHCN đến nghỉ dưỡng.
Những năm gần đây người ta mới cố gắng đánh thức tiềm năng du lịch của Tam Đảo. Du khách tới đây không nhiều người biết về quá khú vàng son của khu nghỉ mát này
Những ngôi biệt thự mới rập khuôn đến từng chi tiết, nhàm chán không thể nào so sánh được với những gì đã trở thành phế tích dưới lòng thung lũng này
Người ta trồng su su - loại rau đặc sản của Tam Đảo khắp nơi, trên nền những biệt thự cổ
Dấu vết những đổ nát có thể thấy ở khắp nơi trong thung lũng
Những kiến trúc Pháp lộng lẫy xưa chỉ còn lại phần nền móng
Những cây cầu này thoát khỏi sự huỷ diệt vì người ta còn dùng nó để vượt suối
Hãy bấm vào đây để nhận ra cây cầu này trong bức ảnh xưa làm ta choáng váng bởi những gì từng có nơi đây
Dấu tích của khu bể bơi dành cho trẻ em. Bấm vào đây
Nhà thờ đá Tam Đảo, xây dựng năm 1937, là công trình duy nhất được bảo toàn.
Tuy nhiên, từ năm 1954, nhà thờ bị chính quyền quản lý và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Sau hơn nửa thế kỉ sử dụng sai mục đích, nhà thờ Tam Đảo đã xuống cấp nặng nề, nhiều hạng mục công trình hư hỏng, vỡ nát.
Sau nhiều lần đối thoại qua lại, ngày 8.8.2008, nhà thờ đã được trả lại cho giáo phận Bắc Ninh.
Admin có thể cho chúng tôi xin đầy đủ những bức ảnh cổ về Tam Đảo mà ko gắn logo được không ạ?
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóacung cấp chuông gọi phục vụ tại khu nghỉ mátchất lượng giá cả tốt nhất, liên hệ Minh Thành : 0933800688
Xóa