Thức
kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định
thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành
phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển
của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người
Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài
hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam.
Hình ảnh ban đầu
Kiến
trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không phải là những công trình
tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau
các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật
thời gian (đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời
nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn).
Người
ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về
kiến trúc các cung điện thời Lý-Trần, được xem là thời kỳ văn minh nhất
của Đại Việt và được sử sách khen ngợi là trước đó chưa hề có, sánh
ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa
thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu… có thể chứng minh được những
lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày nay cũng để
người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định trong
cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là “thức kiến trúc cổ Việt Nam”.
Phương đình Đền Đô ở Bắc Ninh
Khi
nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng nó là kiến trúc
Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc cổ Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến
trúc Trung-Nhật-Hàn (3 nước này khá tương đồng nhau). Kiến trúc cổ Việt
Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho
nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc gạch đá của các vùng
còn lại trên thế giới.
Nét đặc trưng
- Thức kiến trúc cổ Việt Nam: dốc mái thẳng
Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông:
- Dốc mái thẳng
- Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên
- Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới
Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau:
- Dốc mái võng xuống
- Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là con sơn chồng đấu)
- Cột thanh mảnh, tròn đều
Triền
mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc
mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông
nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công
trình. Trong khi kiến trúc Trung Hoa mái cong và chỉ hơi hếch ở góc mái.
Ngói lợp mái truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy
rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống. Trang
trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn
trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần
ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống. Tiếp theo là các
bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm, con sô, con náp, hay
lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để trống thông thoáng và có chạm yếm
trang trí gọi là vỉ ruồi.
- Trang trí mái lưỡng long chầu hổ phù
Đỡ
mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng
nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ đấu – củng rất nhiều chi tiết
như Trung Hoa.
Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa.
- Chi tiết giằng cột chuẩn
Sức
nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không
chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định
và vững vàng.
Trong thức kiến trúc cổ
Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công
trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn mầu sặc sỡ, kiến
trúc cổ Việt Nam thường để mộc mầu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có mầu nâu,
thích chạm trổ.
Trong thức kiến trúc
cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo
Thước Tầm, một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây
là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là
modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo
ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần
chân cột, sự thích hợp với người gia chủ.
- Thước Tầm
Căn
nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối
với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố
là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến
kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là “gian”. Vì nhà cũng là đặc trưng
cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung
thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam.
Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau:
- Tên gọi các cấu kiện bộ vì nhà và hệ mái
Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột:
- Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính
- Cột quân hay cột con: cột phụ nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính;
- Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước.
- Liên kết đầu cột
- Liên kết đầu cột
- Liên kết cột – kẻ nóc
- Liên kết chân cột
Xà
là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại
xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung.
Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết
được cả cột cái và cột quân, gồm:
- Xà lòng hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;
- Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.
Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau:
- Kẻ ngồi gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
- Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài conson qua cột hiên để đỡ phần chân mái.
- Chi tiết hiên
Bẩy
hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm conson nằm trong khung liên kết vào
cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền
kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn
mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy
hiên.
Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái).
Con rường
là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng
lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái,
càng các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng
lên câu đầu.
Con lợn
còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường
bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà
nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván
lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá
chiêng.
Rường cụt là
loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng
trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao
theo độ dốc mái.
Các loại xà nằm ngoài khung gồm có:
- Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái giữa các khung với nhau.
- Xà hạ hay xà đại liên kết các cột cái giữa các khung, tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái.
- Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên.
- Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn.
- Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn.
- Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung.
Thượng lương, còn gọi là đòn đô ông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái.
Các kết cấu mái:
- Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà.
- Dui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.
- Mè là
các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ
dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử
dụng hệ kết cấu hoành – dui – mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái
thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên.
- Gạch màn
là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng
thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi
trực tiếp trên lớp mè.
- Ngói mũi
hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp
chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có
lớp đất sét kẹp giữa.
- Chi tiết đỡ mái
Các chi tiết kiến trúc khác:
- Cửa bức bàn
- Con tiện
- Dạ tàu
- Đầu đao
- Cửa dân gian
Nhà Việt cổ có thể làm theo:
- Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc
-
Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi
chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các
hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính.
- Hình thức 8 mái chồng diêm.
- Modulor trong thức cổ Việt Nam
Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ:
- Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng
- Nhà 3 gian
- Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái
- Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái
- Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái
- Cơ sở tỷ lệ hài hoà giữa con người và kiến trúc
Một số hình ảnh tham khảo và so sánh
Hà Nội
- Chùa Một Cột
- Nghi môn Chùa Láng
- Văn Miếu Môn
- Tỷ lệ của Khuê Văn Các
- Mặt đứng Khuê Văn Các
- Chùa Kim Liên
Bắc Ninh
- Phối cảnh góc Đình Bảng
- Mặt đứng, mặt bên, mặt bằng Đình Bảng
- Tỷ lệ Đình Bảng
- Gác chuông chùa Bút Tháp
Thái Bình
- Chùa Keo
- Mặt cắt gác chuông Chùa Keo
Huế
- Mặt cắt Đoan Môn
- Triều Miếu ở kinh thành Huế
Theo: kientruc360
Theo: kientruc360
Văn Học và Nghệ Thuật - Kiến Trúc Phật Giáo
http://hauhtdk.multiply.com/journal/item/32?&show_interstitial=1&u=%2Fjournal%2Fitem
----------------------------------------------
Văn Học và Nghệ Thuật -
Kiến Trúc Phật Giáo
|
Viết bởi Nguyễn Huy Phách
|
Để có được một nền kiến trúc mang bản sắc riêng biệt là cả một quá
trình hàng trăm năm nối tiếp nhau từ đời này qua đời khác với bao thăng
trầm của lịch sử, với bao khắc nghiệt của vùng thiên nhiên nhiệt đới hết
sức phức tạp.
Bắc Ninh không có núi rừng trùng điệp, không có các tài nguyên thiên
nhiên phong phú. Nhưng Bắc Ninh có những con sông chở nặng phù sa, những
dải đồi thấp mang đầy những truyền thuyết say đắm lòng người. Những
công trình kiến trúc cổ nổi tiếng trong nước và hấp dẫn khách du lịch,
muôn nơi…
Là một vùng đất Việt cổ,
Bắc Ninh -miền quê “địa linh nhân kiệt”nơi từ nghìn xưa cho tới hôm nay
luôn là phên dậu phía Bắc của Kinh thành Thăng Long- Đông Đô - Hà Nội ,
nơi đầy ắp những di sản văn hoá tiêu biểu ở khắp các làng quê. Nằm
trong sự giao lưu hội nhập mạnh mẽ về kinh tế, văn hoá, tín ngưỡng và
tôn giáo, Bắc Ninh đã sản sinh ra những giá trị văn hoá vật thể và phi
vật thể hết sức phong phú, đa dạng.
Trải
qua những biến cố của thời gian, thăng trầm của lịch sử, trên dải đất
Bắc Ninh vẫn lưu giữ được hàng trăm ngôi đình, chùa, đền , miếu thành
quách và những ngôi nhà dân gian có giá trị nghệ thuật cao, mà không
phải địa phương nào cũng có được. Từ thành cổ Luy Lâu, thành cổ Bắc
Ninh, chùa Bút Tháp, chùa Dâu, Đình Diềm, đình Đình Bảng … tới Văn miếu
Bắc Ninh - nơi lưu giữ 1/3 các vị đại khoa Hán học cả nước. Thực ra khi
xây dựng như vậy, ông cha ta không hề nghĩ đến phải làm gì để giữ gìn
bản sắc địa phương, bản sắc dân tộc mà chỉ đơn giản là làm sao cho tiện
dụng , làm sao cho đẹp, cho phù hợp với cảnh quan khu đất, với khí hậu,
với phong tục tập quán của địa phương …Để
có được một nền kiến trúc mang bản sắc riêng biệt là cả một quá trình
hàng trăm năm nối tiếp nhau từ đời này qua đời khác với bao thăng trầm
của lịch sử, với bao khắc nghiệt của vùng thiên nhiên nhiệt đới hết sức
phức tạp.
Bắc Ninh không
có núi rừng trùng điệp, không có các tài nguyên thiên nhiên phong phú.
Nhưng Bắc Ninh có những con sông chở nặng phù sa, những dải đồi thấp
mang đầy những truyền thuyết say đắm lòng người. Những công trình kiến
trúc cổ nổi tiếng trong nước và hấp dẫn khách du lịch, đậm đà sắc thái
dân tộc với những bộ khung sườn bằng gỗ quí đã tồn tại qua bao thế kỷ
tới bây giờ, đấy là chưa kể đến bao loại đá quí cùng nhiều loại vật liệu
không nung khác, mà cho đến ngày nay trong kiến trúc dân gian ở nhiều
vùng, vẫn còn thừa kế truyền thống tiếp tục khai thác và sử dụng: tre
Lương Tài, Quế Võ ; lim Sơn Động; gốm Thổ Hà, Phù Lãng; đá Bất Lự, Phật
Tích… vừa kinh tế lại vừa có giá trị thẩm mỹ riêng biệt.
Chùa Bút Tháp
Khí
hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm ướt, mưa gió lũ lụt thất thường đã tác động
rõ rệt tới các công trình kiến trúc cổ truyền Việt Nam trong đó có các
công trình kiến trúc cổ của Bắc Ninh.
“Không thể tìm hiểu chính
xác được các không gian kiến trúc cổ truyền ấy nếu chúng ta không bắt
đầu phanh phui từ những điều kiện thiên nhiên của đất nước , đến các yêu
cầu về nơi ăn ở của con người. Thiên nhiên Việt nam là một vùng trời
đất nhiệt đới với tất cả những ưu đãi lớn lao và những tai ương quái ác,
ưu đãi và tai ương cứ trộn lẫn với nhau, cứ nối tiếp nhau từ đời này
sang đời khác ! Và chính là nếp nhà cổ truyền của dân tộc Việt nam đã
được cất dựng nên ngay giữa vùng thiên nhiên nhiệt đới hết sức phức tạp
ấy ” (Từ những mái nhà tranh cổ truyền - KTS Nguyễn Cao Luyện)
Trong
hoàn cảnh thiên nhiên nói trên, không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã
tạo dựng những công trình kiến trúc không phải kiểu “kiến trúc đóng” như
ở các nước châu Âu mà là những “kiến trúc mở”, yêu cầu thông thoáng ,
ngăn chặn tia nắng bức xạ mặt trời , song cũng có thể chống mưa bão, gây
cho con người cảm giác dịu mát , gần gũi .
Triết
lý sống của người Việt nam nói chung và Bắc Ninh nói riêng là lối sống
hài hoà với thiên nhiên , nương nhờ và thuận theo thiên nhiên . Vì thế,
từ nếp nhà ở dân gian hay công trình kiến trúc cổ Bắc Ninh thường có bố
cục thoáng đạt, hoà lẫn trong bóng mát cây xanh hay soi bóng bên hồ nước
để tạo nên một cân bằng sinh thái khoa học. Trong kiến trúc cổ của ta,
đình là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi mặt: hành chính, tôn
giáo ,văn hoá, tinh thần , tình cảm, niềm tin của dân làng, là kiến trúc
gỗ lớn nhất, ngôi đình phải là tiêu biểu cho nền văn hoá mang đậm
truyền thống nông nghiệp lúa nước, vì vậy thế đất và hướng đình của các
làng ven sông luôn làm cũng quay mặt ra bờ lõm của khúc sông, bên bồi
của đất, bao giờ đình làng cũng ở vào vị trí đẹp, có tầm nhìn mở rộng,
phóng khoáng, thường là ở trung tâm của làng. Còn đối với các ngôi chùa,
khi xây dựng người xưa quan tâm trước hết là phải tìm được cảnh đẹp. Đó
là núi, đồi ở giữa đồng bằng, như viên ngọc quý đặt trên tấm thảm, lấy
cảnh quan tự nhiên làm cái nền cho kiến trúc, cùng trải ra như không
giới hạn. Núi đồi lại gần với sông ngòi hay hồ ao, có cao trên, thấp
dưới với nhiều tầng sinh thái khác nhau.
Những
ngôi chùa hoặc đình dù lợi dụng thiên nhiên hay cải tạo thiên nhiên thì
dường như đều đã điểm đúng địa huyệt và hội tụ được thiên khí, tạo ra
bộ mặt văn hoá làng quê bừng sáng .
Chùa Dâu (Ảnh: Phạm Quyên)
Kiến
trúc Bắc Ninh không tìm sự đồ sộ về chiều cao rộng trong không gian,
nhưng được nhân đôi mình lên khi được soi bóng trên mặt nước . Nước là
yếu tố đặc trưng của kiến trúc truyền thống Việt nam và Bắc Ninh. Xuất
phát từ nền văn minh lúa nước, người ta tin rằng nước là khởi đầu của
mọi nguồn hạnh phúc. Nước ở chỗ trũng, ở phía thấp nên mang yếu tố âm ,
còn công trình kiến trúc được xây dựng nổi lên được xem như yếu tố dương
. Quần thể kiến trúc hợp thành một cặp âm dương hoà hợp thể hiện ước
vọng cho mọi loài sinh sôi phát triển. Ngay đối với thuyết phong thuỷ,
gạt đi những bí hiểm mà thầy địa lý thêu dệt, một công trình kiến trúc
dù lớn hay nhỏ cũng phải ăn nhập với thiên nhiên, có trước có sau, có gò
bãi cao, có ngòi dài hồ rộng, có cảnh trí hai bên cân đối với ” bụi
chuối đằng sau,bụi cau đằng trước”. (Trong thuyết phong thuỷ khái niệm
chu tước, huyền vũ, thanh long, bạch hổ thực chất là tạo được khu đất và
ngôi nhà của mình sao cho phía trước sáng sủa, có tầm nhìn rộng, phía
sau kín đáo, được bảo vệ, hai bên tự do, linh động hỗ trợ). Vì vậy ta
không lạ gì khi thấy những đền, miếu thường được đặt trong những khung
cảnh êm đềm , quyến rũ.
Hành lang chùa Bút Tháp (Ảnh: Phạm Quyên) Cây
xanh cũng là người bạn đồng hành không bao giờ xa nhau được của kiến
trúc Bắc Ninh. ở đâu có những tán lá xanh xum xuê bốn mùa râm mát, là
chắc chắn ở đấy có một chiếc quán nghỉ hay một ngôi đền cổ! ở các công
trình kiến trúc cổ bao giờ cũng có một ngoại cảnh đẹp với nhiều cây cao
bóng cả gợi không khí trú ngụ của Thần Thánh. ở đấy, nếu cây đa vươn cao
xoè tán rộng quanh năm xanh tốt với những chùm rễ phụ buông rủ như
truyền sinh khí của trời cho đất mẹ, thì những cây gạo vào dịp cuối xuân
đầu hè nở hoa đỏ rực cứ như bát hương khổng lồ nơi cửa Phật, nhà Thánh.
Với
nhà ở, người ta cũng theo nguyên tắc phong thuỷ nhưng điều kiện thường
eo hẹp hơn, chẳng hạn nhà được một hướng tốt cũng là đủ, hướng tốt là
hướng nam hoặc đông nam, tránh hướng tây nóng, bắc lạnh. Một ngôi nhà mà
được “địa trạch” ăn mạch với địa thế, người ta mới tin tưởng cuộc sống
yên vui để “an cư mà lạc nghiệp “
Kiến trúc mái của chùa Bút Tháp (Ảnh: Phạm Quyên) Hầu
hết các công trình kiến trúc cổ ở Bắc Ninh thường không vươn cao mà hoà
hợp với thiên nhiên, nhất là các ngôi chùa cổ ta dễ nhận thấy mặt bằng
trải rộng, không phát triển theo chiều cao mà lan toả theo chiều rộng
như hoà tan cùng thiên nhiên và con ngươì. Đứng truớc các công trình
kiến trúc cổ Bắc Ninh, ta thấy tự nhiên có cái không khí êm đềm, tĩnh
mịch để chúng ta sống với cảm xúc êm dịu của đời sống nội tâm thầm lặng
vv…
Bước vào bất kỳ một ngôi
chùa nào ta cũng đều dễ cảm nhận được rằng: sau cái thâm thấp của mái
chùa, qua cái u tĩnh phảng phất mùi hương trầm của nội thất, trùng điệp
những cột gỗ tròn to với hệ xà, kèo chau chuốt của hoa văn cách điệu,
như cố tình tạo nên sự tiếp nối của thiên nhiên vào trong công trình:
thiên nhiên còn tiếp tục, còn”sinh hoạt”, còn “sống” trong lòng kiến
trúc giữa bầu không khí tâm linh. Gỗ sống, Ta sống, Phật sống- tất cả là
một, một là tất cả .Cái siêu thoát trong thức kiến trúc được thể hiện
khá rõ qua bố cục không gian, nội thất công trình.
Trong
kiến trúc cổ , phần mái nhà (tượng trưng cho Trời - ngôi Thiên trong
thuyết Tam Tài ) được ông cha ta đặc biệt chú ý. Chiếc mái đình sà thấp
xuống, bất ngờ uốn cong vút, thanh thoát ở bốn đầu đao , ngoài việc gợi
nhớ hình ảnh con thuyền - cuộc sống của con người nơi sông nước, còn có
tác dụng tạo cảm giác bay bổng cho toàn bộ kiến trúc vốn thấp , phát
triển theo tuyến dài hơn là chiều cao và bớt đi vẻ nặng nề của kết cấu
gỗ .Vì thế, chiếc mái nhà kiểu Việt từ lâu đã coi như của cội, của
nguồn, tất nhiên nước nào cũng dùng mái dốc, song mái dốc của ta thoai
thoải, nó gần gũi, thanh thoát hơn nhiều. Mái nhà Việt Nam dốc thẳng,
mái nhà Trung Quốc, Nhật Bản lại hơi cong lõm, còn với kiểu mái Mansart
của Pháp với mặt mái có độ dốc gần dựng đứng. Chiều cao mái Việt Nam
thường sấp xỉ bằng 2/3 chiều cao toàn công trình, dựa trên hàng cột to
khoẻ gây cảm giác nhẹ nhõm, vừa trang trọng ,vừa gần gũi cởi mở. Còn mái
Trung Quốc thường có tỷ lệ độ dày mái tương đương độ cao thân nhà là ẵ.
Độ vươn xa của mái hiên Việt Nam ít hơn so với Trung Quốc và Nhật,
trong khi mái Mansart ở Pháp lại không vươn ra khỏi tường (kiểu mái
Mansart lợp đá màu đen, người Pháp đã bỏ từ lâu, nay lại chen chúc về xứ
ta lợp thành tôn xanh, tôn đỏ hoặc ốp gạch men rải rác xuất hiện ở khắp
mặt phố. Thật trăn trở khi Giáo sư Trần Văn Khê đã nhận xét: Nhạc cổ
truyền dân tộc Việt nam và phương Đông có lịch sử ngàn năm, nhiều cái
hay, cái đẹp… Nhạc Rock -Pop như người khách từ phương xa đến, ta tiếp
đón họ lịch thiệp, nhưng không thể đưa họ chễm chệ trên bàn thờ để con
em chúng ta vái lạy !)
Chính các yếu tố thiên nhiên địa lý và khí
hậu ấy đã tác động quan trọng tới những giải pháp kiến trúc, hình thành
phong cách và sắc thái riêng biệt, tạo nên môi trường và không gian
kiến trúc sinh hoạt, làm việc thích hợp cho dân tộc mình.
Một góc mái đình làng Đình Bảng (Ảnh: Phạm Quyên)
Kiến
trúc hình thành phong cách riêng của mình không thể tách rời cơ sở kinh
tế xã hội của đất nước và địa phương xây dựng nó. Với nền kinh tế tự
cung, tự cấp, nông nghiệp, với cách làm ăn lạc hậu chậm phát triển, nên
trước kia trong kiến trúc nhà ở dân gian nói chung đều đơn sơ bé nhỏ,
trừ những cung đình, dinh thự và những công trình tôn giáo được huy động
tập trung tiền của của dân là có qui mô đáng kể, tồn tại lâu dài. Điều
kiện kinh tế, vật tư và nhân lực khác nhau nẩy sinh hình thức và loại
hình kiến trúc cũng khác nhau. Tôn ti trật tự và luật lệ phong kiến hà
khắc của Luật Hồng Đức ( thời Lê ), luật Gia Long ( thời Nguyễn ) vv…
hạn chế bố cục, trang trí, và phần nào kìm hãm sức sáng tạo nghệ thuật
của quần chúng. Mỗi bậc thềm, mỗi cấp nâng cao của nền có tác dụng nhấn
mạnh địa vị, như việc nhà dân không được làm nền hai cấp, cung điện nhà
vua lấy số ba, chín hay tám mươi mốt làm số bậc.Vua Minh Mạng
(1820-1840) cũng đã đưa ra những câu huấn điều :
"Dân phường mà giáp đường quan
Không được làm gác trông ngang ra đường
Có cần làm chỗ chứa hàng
Chiều cao không được cao bằng kiệu quan"
Dân
ta có nếp sống, lối nghĩ và tâm tư tình cảm riêng biệt, những giải pháp
kiến trúc trong bố cục công trình và tổng thể thường giản dị, mộc mạc
và nhẹ nhàng, thanh nhã ; những hình thức nặng nề loè loẹt, rườm rà phô
trương không tồn tại hoặc chỉ là số ít trong kiến trúc cổ truyền của ta.
Cách
dùng màu trong kiến trúc cổ của ta cũng vậy, phần lớn là mầu sắc tự
nhiên, đối lập hẳn với kiến trúc cổ Trung Quốc lại là nền kiến trúc của
màu sắc. Người Trung Quốc rất ưa dùng nhiều mầu trong các công trình
kiến trúc cổ của mình. Màu sắc tự nhiên là nền tảng của hệ thống màu sắc
trong kiến trúc cổ Bắc Ninh. Bằng việc sử dụng những màu tìm thấy ở vật
liệu thiên nhiên, những nhà kiến trúc xưa thường thu được hiệu quả cao:
ngoài 3 màu nguyên chất: vàng, đỏ, then ( thiếp vàng , sơn ta mài son,
then ) còn lại phần lớn là màu sắc tự nhiên: màu nâu nhạt của gỗ, nâu đỏ
của vách gạch trầm và gạch lát nền, xám của ngói nung và sự truyền cảm
gây ra bởi màu sắc không rõ rệt của gỗ mộc và vật liệu tự nhiên khác,
luôn là đơn giản và tao nhã !
Con
người xứ ta sống bình dị, thật thà, ngay thẳng và kiến trúc cổ Bắc Ninh
đều dựa trên những đường nét ngay thẳng, mà điều đó thể hiện rõ nhất
qua việc tổ hợp mặt bằng. Phần lớn trong kiến trúc cổ Bắc Ninh là bố cục
cân xứng hài hoà trong một quần thể kiến trúc thường đăng đối theo một
trục dọc hoặc qui tụ vào một điểm.
Bác
Hồ đã có lần khuyên các kiến trúc sư: ” Các chú làm kiến trúc nên làm
cho ngang ngay, sổ thẳng“. Chính cái ngang ngay, sổ thẳng ấy người xưa
đã biết vận dụng khéo léo để đạt tới sự thống nhất và biến hoá, cân bằng
và ổn định, tỷ lệ và tầm thước …
Bố
cục mặt bằng các ngôi chùa cổ phần lớn là chữ Đinh, chữ Công hay nội
Công ngoại Quốc. Thông thường trước cổng chùa là một cổng lớn: Cổng tam
quan ( vừa hiểu là cổng có ba cửa, vừa hiểu là ba nơi quan sát theo giáo
lý Phật học là không quan, giả quan và trung quan ), khu trung tâm của
chùa thông thường gồm ba ngôi nhà nối tiếp nhau: Tiền đường, Thiêu
hương, Thượng điện. Ngoài ra có thể có dẫy hành lang ở trong cùng thường
là nơi đặt bàn thờ và điêu khắc tượng các vị La Hán, các vị hoà thượng
hoặc phối hợp cùng hành lang hai bên làm nơi tạm trú cho khách thập
phương , chuẩn bị cỗ chay ngày lễ hội vv…, có khi kết thúc khu chùa là
một dãy nhà Tổ. Kiến trúc hết sức quan trọng nữa của chùa là Tháp. Tháp
được xây dựng nhằm ghi lại những dấu tích của nhà Phật.
Kiến
trúc đình làng lại đơn giản hơn, có thể chỉ là một nếp nhà 5-7 gian
“thông xuồng”, bốn mái kiểu chữ Nhất và quy mô hơn, phức tạp hơn với
những dạng bố cục mặt bằng: chữ Đinh, chữ Nhị, chữ Công, chữ Môn vv…và
không gian phát triển cả phía sau, phía trước với hai bên: hậu cung,
tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu vv…song không gian chủ yếu nhất vẫn là
toà Đại Đình (Đại bái), ngoài ra còn các công trình phụ sân, tam
quan…tuỳ theo công sức đóng góp và kinh tế giầu nghèo của địa phương
làng xã mà công trình có quy mô to, nhỏ, trang trí phong phú, tinh xảo
hay khiêm tốn, mộc mạc .
Với
ngôi nhà ở người Việt thường có ba gian hoặc năm gian bố trí theo hình
chữ Nhất vuông góc với nhà phụ, nhìn ra hiên và sân trước nhà. Nhà được
chia thành hai phần, hai gian đầu hồi dùng làm chỗ ngủ cho đàn bà, con
gái, kết hợp với để đồ quý hay của cải, ba gian nhà ngoài dùng làm nơi
thờ cúng tổ tiên, nơi ở của đàn ông, nơi sinh hoạt gia đình và giao tiếp
láng giềng. Nơi thờ cúng được đặt ở gian giữa của ngôi nhà .
Việc
bố trí đơn giản và hợp lý phổ biến như vậy là một đặc trưng trong cách
nhìn thực tiễn của phong cách kiến trúc cổ Việt Nam, và chính là giải
pháp thiết kế hợp lý nhất có thể chấp nhận được khi kết cấu gỗ là rường
cột chính của công trình .
Khác
với một số truyền thống kiến trúc khác, trong kiến trúc gỗ cổ truyền
Việt Nam hầu như ít có cấu kiện thừa, ít có cấu kiện chỉ thuần tuý mang
tính chất trang trí. Các đề tài trang trí được thể hiện ngay trên các
cấu kiện kỹ thuật, chịu lực. Ngay với các cấu kiện nhỏ, thứ yếu cũng
vậy. Một chiếc đấu được chạm hình đài sen, một chiếc cánh gà được chạm
lộng, hay chạm kênh bong hình rồng một cách cầu kỳ, mới nhìn tưởng như
được làm thêm cho đẹp. Thực chất đó vẫn là những chi tiết tham gia chịu
lực. Các cấu kiện cũng ít khi chỉ là những thân gỗ tự nhiên mà thường
được gia công, tạo hình cách điệu. Rường, kẻ được uốn mềm thành hình
lưng thú, hình cổ ngỗng..Cột thì “đầu cán cân, chân quân cờ”. ở đây ,
nghệ thuật điêu khắc được kết hợp chặt chẽ với nghệ thuật kiến trúc đến
mức điêu luyện. ở các bộ phận kết cấu công trình từ nền đến mái đều mang
dấu vết rất sinh động của hoa lá, vân mây, tứ linh, bát bảo. Có thể
tách riêng một câu đầu uốn cong, một cánh cửa bức bàn, tự nó đã là tác
phẩm điêu khắc. Và tứ trụ, bồn cây, bình phong, rồng đá bên thềm, lan
can bên hồ nước, với trạm trổ trên gỗ, đắp trát trên gạch, đục đẽo trên
đá, sản phẩm đậm nét điêu khắc, giá trị nghệ thuật của công trình kiến
trúc được nâng cao lên nhiều .
Kiến
trúc cổ truyền Bắc Ninh có kích thước tương xứng với tầm vóc con người
sử dụng nó, nên nó rất gần gũi, mộc mạc và bình dị , từ bản thân các cấu
kiện, các bộ phận tới toàn thể hình khối công trình. Các kích thước
cao, thấp, dài, rộng…của lan can, thành bậc, ngưỡng cửa vv…rất phù hợp
với yêu cầu sử dụng và tầm thước người Việt Nam. Ngoài ra, khoảng cách
xa gần từ con người tới các bộ phận kiến trúc cũng được xử lý thoả đáng:
kích thước những hoạ tiết, trang trí trên bờ nóc, diềm mái…do khoảng
cách xa con người- thường được khái quát và phóng đại; ngược lại ở những
bộ phận gần tầm mắt lại được thiết kế chi tiết cẩn thận, nuột nà hơn
không chỉ ở kiến trúc cung đình, tôn giáo , mà cả ở một số ngôi nhà dân
gian điển hình .
Với
hoàn cảnh kinh tế xã hội thời phong kiến trên nền tảng một nước nông
nghiệp lạc hậu, những công trình kiến trúc nghệ thuật được xây dựng trải
qua nhiều thế kỷ còn tới ngày nay ở Bắc Ninh tuy không nhiều, song vẫn
là những dấu tích ghi lại chặng đường lao động nghệ thuật đầy sáng tạo
của ông cha ta .
Chúng ta
vừa trân trọng bảo tồn những di sản kiến trúc còn lưu lại làm giầu đẹp
kho tàng văn hoá dân tôc; chúng ta vừa phải kế thừa, khai thác những
tinh hoa văn hoá và kiến trúc truyền thống đó, nhằm phát triển nền kiến
trúc Bắc Ninh mang đậm bản sắc dân tộc, ngang tầm thời đại, song vẫn
phải là ngôi nhà Việt như nó đã từng là, nhân bản với con người, dung dị
với thiên nhiên, chân thực và bền vững.KTS. Nguyễn Huy Phách
http://daitangkinhvietnam.org/van-hoc-va-nghe-thuat/kien-truc-phat-giao/1307-tim-v-kin-truc-ci-ngun.html |
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.