Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

KTS NGÔ VIẾT THỤ



KIẾN TRÚC SƯ NGÔ VIẾT THỤ(1926-2000)
KIẾN TRÚC DINH ĐỘC LẬP
Sơn Trung



I. TIỂU SỬ KIẾN TRÚC SƯ NGÔ VIẾT THỤ

Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926 tại tại làng Lang Xá, tỉnh Thừa Thiên-Huế, mất vào tháng 3 năm 2000 tại tư gia số 22 Trương Định Quận 3 Saigon. Ông học trung học Thuận Hóa tại Huế. Thuở ấu thơ, ông sống rất nghèo, phải ở với ông nội để học chữ Nho hết 3 năm. Lúc lưu lạc lên tận Đà Lạt, cậu học trò nghèo Ngô Viết Thụ có một tài năng toán học bẩm sinh đã may mắn gặp một thương gia rước về dạy kèm đám con cháu.


Năm 1948, ông thi đỗ vào lớp dự bị Trường Cao đẳng kỹ thuật Đà Lạt. Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc Đà Lạt. Ông được gia đình vợ giúp đỡ sang du học ở Pháp. năm 1950, ông thi đậu vào Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris.

Đoạt giải khôi nguyên năm 1955, ông đỗ đầu giải kiến trúc La Mã, được Hội Kiến trúc sư Pháp tặng huy chương vàng. Muốn tham dự cuộc thi này, thí sinh phải có quốc tịch Pháp; tuổi dưới 25, độc thân và phải có đạo Thiên Chúa. Mặc dù ông Ngô Viết Thụ không có quốc tịch Pháp; tuổi đã 28, đã có vợ con và lại là Phật tử nhưng nhờ vào tài năng ông đã lần lượt vượt qua 4 vòng của cuộc thi và có mặt trong số 10 người ở vòng cuối. Trong kỳ thi cuối cùng (100 ngày) thí sinh không được bước chân ra ngoài.


Bài thi " Ngôi thánh đường trên đảo Địa Trung Hải" của ông khiến ai cũng phải trầm trồ khen ngợi khi nhìn sơ đồ có ngôi thánh đường hình parabol trên mặt nước Địa Trung Hải như ẩn hiện dưới bầu trời. Kết quả khi bỏ phiếu của Ban giám khảo cuộc thi (28/29), ông đoạt giải nhất - giải La Mã (Premier Grand Prix de Rome); khi ấy ông 29 tuổi. Khi đoạt giải Khôi nguyên La Mã của Viện Hàn lâm Pháp, ông được cấp học bổng 3 năm nghiên cứu và sáng tác tại các khu biệt thự Medicis thuộc tài sản Pháp ở La Mã. Đồng thời, vinh dự rất lớn cho ông là khi có cuộc triển lãm trình bày các sơ đồ kiến trúc mang tên Ngô Viết Thụ đã được Tổng thống hai nước Pháp và Ý đến cắt băng khánh thành. (1)



KTS Ngô Viết Thụ thời trai trẻ (ảnh chụp năm 1951)


Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đêm giao thừa 1981
Vào đầu năm 1960, ngành qui hoạch trên toàn thế giới vẫn còn đang ở giai đoạn đầu phát triển, và tại VN lúc đó chỉ có ba người có cả hai văn bằng kiến trúc sư và văn bằng phát triển quốc gia tại nước ngoài là: KTS Huỳnh Kim Mãng (giáo sư trường cao đẳng kiến trúc Sài Gòn), KTS Lê Văn Lắm (giám đốc tổng nha kiến thiết đô thị) và KTS Ngô Viết Thụ.

Từ năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về VN làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền Ngô Đình Diệm rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc, dự án này không thực hiện được.


KTS Ngô Viết Thụ và con trai Ngô Viết Nam Sơn

Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F.A.I.A) cùng với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời của các quốc gia khác như: J.H. Van den Broek, Arne Jakobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Herman Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H, Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin…

Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật nhất là Đại Chủng Viện Đà Lạt (tức Giáo Hoàng Học Viện Pio X (1957), Dinh Độc Lập (1961-1966), Viện Đại học Huế (1961-1963), Viện Nguyên Tử Đà Lạt (1962-1965), Làng Đại Học Thủ Đức (1962), chợ Đà Lạt (1962) Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà Thờ Phủ Cam (1963), Trụ sở Việt Nam Hàng Không (1972), Trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975), Bệnh Viện Sông Bé (1985), Khách sạn Century Huế (1990)…

Ngoài ra, ông còn chứng tỏ khả năng của mình trong lãnh vực hội họa với bức tranh Thần Tốc và bộ tranh Sơn Hà Cẩm Tú, gồm 7 bức, mỗi bức dài 2m, rộng 1m. Ông cũng có tài chơi các loại nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Kìm và Sáo. Ông để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Sau 30.4.1975, ông bị bắt đi học tập cải tạo một năm. Ông chết tại Sài Gòn năm 2000.


Ngô Viết Nam Sơn, con trai của ông đã viết về người cha yêu quý của ông :
"Ngày Tết, gia đình chúng tôi thường được các nhân viên trong văn phòng hoặc các người thân và bạn bè biếu nhiều quà, nhưng chỉ những người nào hiểu cha tôi nhất thì mới biết là món quà mà ông trân quý nhất lại chỉ đơn giản là một cành hoa đào hoặc hoa mai thật tươi đẹp".(2)
Trong bài trên, ông cũng cho chúng ta thấy những họa phẩm của cha ông như những bức họa sau:

Tranh sơn dầu vẽ hoa ngày tết năm 1958 của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ -

Tranh sơn dầu vẽ hoa ngày tết 1972
của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ -



KTS Ngô Viết Nam Sơn, con trai KTS Ngô Viết Thụ


It ai biết Kiến Trúc sư Ngô Viết Thụ là một nhà nghiên cứu phong thủy (5).Ông cũng là một nghệ sĩ điêu khắc (tác phẩm điêu khắc kim loại đặt trước toà đô chánh, nay không còn), và sành sỏi các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.(1) .Người ta cũng đồn rằng ông là một thiền giả có hạng.

II. VÀI NÉT VỀ MỘT SỐ CÔNG TRÌNH CỦA KIẾN TRỨC SƯ NGÔ VIẾT THỤ


1.Viện nguyên tử Đà Lạt

Viện Nghiên cứu hạt Nhân (Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử) Đà Lạt là công trình hiện đại do Mỹ viện trợ, được chọn lựa xây dựng trên một ngọn đồi rộng 21ha, nằm ở phía đông bắc trung tâm Đà Lạt. Công trình này được dư luận báo chí đương thời quan tâm giới thiệu rộng rãi cả trong và ngoài nước. Đồ án Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt được xây dựng từ năm 1961, do KTS Ngô Viết Thụ đảm nhận cùng các KTS phụ tá: KTS Nguyễn Mỹ Lộc, KTS Phạm Quỳnh Lân, KTS Vũ Tòng. Người Mỹ cung cấp một đồ án kiểu mẫu, theo đó lò nguyên tử sẽ đặt trong một toà nhà vuông nối tiếp là những khối chữ nhật dành cho các phòng vật lý và hoá học.



Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) (1962-1965)
2. Nhà thờ chánh tòa Phú Cam. Huế
Phủ Cam là một trong số ít họ đạo có lịch sử lâu đời nhất của Giáo phận Huế. Nơi đây, đã dựng ngôi nhà nguyện đầu tiên vào năm 1682 do Linh mục Piere Langlois, thuộc hội thừa sai Pais (MEP) đến xây dựng. Ngôi nhà nguyện này được làm bằng tranh ở xóm Đá (thuộc khu vực V, phường Phước Vĩnh bây giờ), đến năm 1805, được dời lên đồi Phước Quả (vị trí ngày nay).

Theo tập truyền, đây nguyên là nơi dành cho các ông hoàng lập Phủ, và để trồng Cam (orangerie), rồi những người có đạo ở Thuận Hoá quy tụ về sinh sống, lập ấp, khai sinh ra làng nón Phủ Cam ngày nay, và tên gọi Phủ Cam cũng do đó mà có. Sau nhiều lần xây dựng lại nhà thờ, đến năm Mậu Tuất (1898), Linh mục Allys cho xây dựng ngôi nhà thờ bằng gạch ngói to lớn theo kiểu kiến trúc “Gothique”, do chính ngài vẽ kiểu và đích thân theo dõi thi công.

Ngôi nhà thờ nầy được khánh thành ngày 27. 8. 1902, nhưng cũng chỉ tồn tại 61 năm. Đến đầu năm 1963, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Đức Cha Ngô Đình Thục đã cho triệt hạ ngôi nhà thờ này để xây dựng ngôi nhà thờ hiện nay, do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Tiến độ thi công ngôi nhà thờ nầy chậm và kéo dài (vì nhiều lý do), mãi đến ngày 01. 5. 1999, mới tiếp tục khởi công xây dựng hai tháp chuông. Và ngày 29. 6. 2000, sau gần 37 năm, nhà thờ chánh toà Phủ Cam mới được khánh thành, trở thành ngôi thánh đường rộng lớn vào bậc nhất tại thành phố Huế. Nhà thờ Phủ Cam toạ lạc trên một khu đất cao và thoáng, án ngữ cả một vùng với tổng diện tích khuôn viên là 10.804m2, thuộc phường Phước Vĩnh - thành phố Huế.
NTO - Nhà thờ chánh toà Phủ Cam - Thừa Thiên-Huế
Nhà thờ chánh toà Phủ Cam
NTO - Nhà thờ chánh toà Phủ Cam - Thừa Thiên-Huế
Mặt hông nhà thờ chánh toà Phủ Cam
3. Trường Đại Học Sư Phạm Huế và Trường trung học Kiểu mẫu Huế
Năm 1964, Đại học Sư phạm Huế có cơ ngơi mới rất khang trang: tòa nhà chữ Y ở hữu ngạn dòng Hương.
Bên cạnh, một tòa nhà chữ Y giống đúc là Trung học Kiểu mẫu Huế, cơ sở thực nghiệm lẫn thực hành của Đại học Sư phạm Huế.
Được thực hiện theo đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (khôi nguyên La Mã năm 1955, từng thiết kế nhiều công trình kiến trúc giá trị mà nổi bật có Dinh Độc Lập tại Sài Gòn), cả hai tòa nhà ba tầng nọ tọa lạc trong khuôn viên rộng 39.000m2, trước là Tòa Khâm sứ của Pháp.
Ngày 4-8-1964, nghị định 1352/GD/PC/NĐ được ban hành nhằm "thiết lập Trường trung học Kiểu mẫu Huế trực thuộc Trường đại học Sư phạm Huế". Ngày 20-9-1964, Trung học Kiểu mẫu Huế khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở. Năm sau, 1965, Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức mới khai giảng khóa đầu. Năm sau nữa, 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập. Trung học Kiểu mẫu Huế trở thành "trưởng tràng" trong hệ thống các trường Kiểu mẫu tại Việt Nam.
Thời đó, hầu hết học sinh các trường phổ thông phải tuân theo qui định về đồng phục: nam mặc áo trắng, quần xanh sẫm; nữ mặc áo dài trắng. Riêng học sinh Kiểu mẫu hơi đặc biệt: nam mặc áo xanh da trời, quần xanh sẫm; nữ mặc áo dài hoặc váy xanh da trời. Ấy là hình thức. Còn nội dung và phương pháp học hành, thi cử của học sinh Kiểu mẫu có gì khác lạ?
Trước tiên, về qui chế, Trường trung học Kiểu mẫu không do Ty Giáo dục quản lý như tất cả trường công lập, bán công và tư thục trên địa bàn, mà trực thuộc Đại học Sư phạm. Tuy nhiên, Trường trung học Kiểu mẫu vẫn giữ quyền tự trị nhất định: có ban giám hiệu độc lập và đội ngũ nhà giáo riêng đạt trình độ chuyên môn xuất sắc. Đường lối giảng dạy mà Trung học Kiểu mẫu chủ trương và áp dụng là chú trọng việc hướng dẫn từng cá nhân. Do đó, sĩ số mỗi lớp thường không quá 45 học sinh.
Yêu cầu đặt ra: trang bị cho học sinh một số kiến thức tổng quát tối thiểu và phổ thông để sau đủ khả năng theo đuổi bậc đại học, đồng thời cung cấp một số kiến thức thực dụng giúp học sinh hiểu biết để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp trong tương lai hoặc bất đắc dĩ thì có thể mưu sinh, nếu chẳng may không tiếp tục được việc học ở trường lớp. Cần lưu ý rằng nội dung chương trình giảng dạy của trường Kiểu mẫu thường xuyên được sửa đổi trên tinh thần linh động, uyển chuyển nhằm thích ứng kịp thời với những khám phá mới trong lĩnh vực khoa học giáo dục Việt Nam và thế giới.


Tập tin:Cồn Hến.jpg
Trường Đại Học Sư Phạm Huế


4. Huong Giang Hotels
Ngay giữa trung tâm thành phố Huế, khách sạn Hương Giang nằm ở bờ Nam sông Hương, sát Đập Đá, bên kia là Vĩ Dạ. Ngôi nhà số 51 đường Lê Lợi phường Phú Hội thành phố Huế là tác phẩm của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ được xây dựng từ những năm đầu của thập niên 60 thế kỷ trước. Công trình khách sạn Hương Giang là toà nhà 04 tầng nguy nga đồ sộ in bóng xuống dòng sông Hương thơ mộng.

 

 5. Chợ Đà Lạt

Năm 1929, một ngôi chợ bằng gỗ, mái lợp tôle, có tên gọi là Chợ Cây được xây cất tại vị trí khu Hoà Bình hiện nay, thay cho khu họp chợ ở ấp Ánh Sáng. Chợ và khu vực chung quanh đã tạo nên một trung tâm rất sôi động của sinh hoạt thành phố lúc bấy giờ.


Năm 1937, một trận hoả hoạn lớn xảy ra, thiêu rụi chợ với hàng quán chung quanh. Sau đó, nhà cầm quyền đương thời cho xây dựng lại ngôi chợ mới bằng gạch khang trang, đáp ứng nhu cầu mua bán sinh hoạt cho hơn 6.500 người dân. Công tác này được nhà thầu SIDEC đảm nhận.

Tập tin:Chợ Đà Lạt (trước).jpg
Mặt tiền chợ Đà Lạt

Chợ Đà Lạt hoàn thành một thời được xem như là biểu tượng của thành phố cao nguyên. Ngay mặt tiền ngôi chợ, trên tường đầu hồi (fronton) có gắn nổi huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ người dân tộc, người nữ mang gùi, người nam tay cầm ngọn giáo nhắm vào một con cọp. Bên dưới có một câu cách ngôn bằng tiếng latin chiết tự khéo léo thành danh xưng Dalat: Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem có nghĩa là cho người này niềm vui, cho người khác sự mát mẻ. Họa báo Châu Á mới (L’ Asie nouvelle illustrée), số 56, xuất bản năm 1937 đã có bài viết về ngôi chợ: “Ngôi chợ này tuy kiến trúc giản dị, nhưng rất độc đáo”.



Toàn cảnh chợ Đà Lạt

Ngôi chợ đã trở thành biểu tượng của Đà Lạt, một hình ảnh quen thuộc trong ký ức của những người từng sống lâu năm ở đây. Sau năm 1954, Đà Lạt trở nên đông đúc với số dân hơn 53.000 người. Năm 1958, chính quyền Miền Nam đã cho chỉnh trang lại khu vực trung tâm thương mại. Vùng đất trống dưới thung lũng được tính toán xây dựng một ngôi chợ mới có 2 tầng và một sân thượng. Vào lúc đó, đây là một trong những ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam.


Bên trong chợ Đà Lạt

Công trình do KTS Nguyễn Duy Đức thiết kế, nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu đảm nhận thi công. Khi KTS Ngô Viết Thụ từ Pháp về, ông được mời tham gia đồ án chỉnh trang tổng thể khu vực thung lũng từ cầu Ông Đạo trở vô. Ông thiết kế bổ sung một cầu thang lớn nối từ khu Hòa bình vào tầng lầu của chợ, các dãy phố buôn bán và hệ thống đường giao thông bao quanh. Riêng về ngôi chợ cũ, cùng thời gian đó, được thiết kế cải tạo thành rạp hát Hòa Bình với các cửa hàng thương mại dịch vụ chung quanh. Đồ án thiết kế cải tạo do hai KTS Huỳnh Kim Mãng và Lâm Du Tốt thiết lập. Năm 1993, nhân kỷ niệm 100 năm Đà Lạt hình thành và phát triển, chợ Đà Lạt được chỉnh trang nâng cấp mở rộng như hiện nay.




Nhìn chung, nhiều nhà phê bình đã nhận định rằng các công trình của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ nhìn chung là độc đáo, có tính sáng tạo.
Nguyễn Hữu Thái, một kiến trúc sư nhận định:
Những công trình đầu tiên kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế và xây dựng trên quê hương ông ở Huế đã có tuổi thọ hơn 40 năm, song vẫn còn nguyên giá trị ban đầu, như công trình Viện Đại học Huế (1961- 1963); Khách sạn Hương Giang I (1962) - một điểm nhấn thị giác bên bờ sông Hương; Nhà thờ Phủ Cam (1963) - một công trình giàu tính biểu đạt, mặt đứng như một cuốn kinh thánh mở rộng, hình thức đường nét kiến trúc mới mẻ, hiện đại. (3)

Con trai ông, KTS Ngô Viết Nam Sơn viết về cha mình như sau:
Thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ thể hiện quan niệm kiến trúc Việt Nam hiện đại, không sao chép các chi tiết của kiến trúc cổ điển, nhưng vẫn hài hòa và mang bản sắc văn hóa dân tộc, hoàn toàn đi theo hướng khác với các đóng góp thiết kế dinh của các KTS danh tiếng cùng thời, trong đó đa số hoặc theo xu hướng kiến trúc cổ điển Pháp hoặc mang nặng ảnh hưởng kiến trúc tôn giáo và cung đình. Ngoài ra, Dinh Thống Nhất đánh dấu sự khởi đầu cho phong cách kiến trúc mang dấu ấn riêng của KTS Ngô Viết Thụ sau này trong các công trình Đại học Nông nghiệp Thủ Đức, Trụ sở Hàng không Việt Nam, Tổ hợp Khách sạn Hương Giang I và II... Trong các tác phẩm của ông, các yếu tố mỹ thuật và kỹ thuật luôn mang tính đổi mới và sáng tạo, nhưng điều quan trọng hơn, mỗi tác phẩm đều ẩn tàng một bản sắc độc đáo và triết lý sâu sắc. Trong công trình Dinh Thống Nhất, ông áp dụng khoa chiết tự vào thiết kế mặt đứng để nhắc nhở những ai chủ trì tại đó phải có tài đức của một nhà lãnh đạo (chữ Vương, và chữ Tam - tượng trưng cho Nhân, Minh, và Võ đức), giữ vững chủ quyền đất nước (chữ Chủ), đảm bảo tự do ngôn luận của người dân (chữ Khẩu), trung với quốc dân (chữ Trung), và làm sao cho đất nước ngày càng hưng thịnh (chữ Hưng)...(4)


III. SƠ LƯỢC VỀ KIẾN TRÚC VIỆT NAM

Wikipedia nhận định về Kiến trúc đời Lý :
-"Đẹp và công phu-Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)
-Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai quật-Trang trí rất tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ - đá - gạch - đất nung
-Quy hoạch thống nhất và cân xứng" (5).


Theo thiển kiến, Việt Nam it có những công trình vĩ đại như các nước thế giới. Ngay cả Kampuchia có Đế Thiên Đế Thích rất tráng lệ. Có lẽ nước ta nghèo, chiến tranh liên miên, các vua chúa không dám làm những công trình to lớn vì không dám bóc lột, cưỡng bách nhân dân đóng góp.


Lại nữa, bọn ngoại quốc đã phá hoại các công trình cũ, và cướp đoạt vàng bạc châu của triều đình và nhân dân ta. Đời Trần, Chế Bồng Nga đã nhiều lần vào đốt Thăng Long. Đời Trần mạt, quân Minh xâm chiếm nước ta đã phá chuông đồng tượng Phật, để đúc khí giới, đã phá tháp Báo Thiên để lấy gỗ, và gạch ngói. Đến đời Nguyễn, quân Pháp phá đồn Kỳ Hòa, thành Gia định và cung điện nhà Lê. Sau 1945, Việt Minh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, đốt nhà phá cầu và phá chùa chiền... .. Không thể nói là Việt Nam thiếu nhân tài vì Nguyễn An là người Việt đã xây thành Bắc Kinh.
Chúng ta có những công trình nhỏ nhưng cũng rất độc đáo như chùa Một Cột, chùa Thiên Mụ, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa.. .

Dẫu sao đi nữa, so sánh với ngoại quốc, nước ta it có những công trình vĩ đại và tân kỳ. Thời sau này cũng vậy. Ta tự hào về vương cung thánh đường, dinh Norodom, Tòa đô chính Sai gòn nhưng những cái đó sao bằng nhà thờ Đức Bà Pháp và các nhà thờ ở Montreal , và những lâu đài ở Ấn Độ, Mỹ, Anh, Pháp...
Ngô Viết Nam Sơn thuyết trình tại một hội nghị quốc tế với sự chủ tọa danh dự của Thủ tướng Singapore như sau:

* Nhiều nhà chuyên môn nhận xét kiến trúc Việt Nam hiện nay "mất trật tự và thiếu bản sắc". Anh nghĩ gì về nhận xét ấy và có lời khuyên nào với anh em KTS trẻ trước nền kiến trúc nước nhà? -

(1) Đằng sau mỗi cái "tôi" của những căn phố mới nhấp nhô vô trật tự và đủ thứ kiểu Tây, Tàu, Nhật, và Ta là những bằng chứng cho khát vọng sáng tạo và vươn lên của người dân Việt, nhưng chỉ đáng tiếc là họ chưa có tinh thần đoàn kết vì cái đẹp chung và được sự hướng dẫn đúng lúc đúng chỗ của nhà chuyên môn.
(2) Đằng sau những vụ "xé rào" và vi phạm luật lệ xây dựng là những bức xúc về nhu cầu phát triển và cải thiện đời sống của người dân trong một nền kinh tế năng động tăng trưởng không ngừng, trong đó chính quyền và cả những nhà quy hoạch kiến trúc chưa nhìn thấy trước được mọi tình huống xảy ra để có sẵn các phương án giải quyết cho người dân trước khi ban hành luật.

(3) Đằng sau nỗi buồn tụt hậu của một nước chậm phát triển là sự thừa hưởng kho tàng to lớn di sản văn hóa về quy hoạch và kiến trúc chưa kịp bị quá trình đô thị hóa xóa mất, như đã từng xảy ra ở Singapore, và đồng thời, là lợi điểm của "người đi sau" qua việc tiếp thu các bài học kinh nghiệm đắt giá trong phát triển đô thị của các nước láng giềng, nhất là từ Trung Quốc. (6)
(Nguyễn Anh Tài. Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)


KTS Ngô Viết Nam Sơn đã về Việt Nam và trả lời phỏn g vấn:
Cha ông ta đã từng có một nền kiến trúc đáng tự hào. Mỗi triều đại phong kiến đều có những dấu ấn riêng. Gần nhất với chúng ta là giai đoạn trước 1975. Hồi đó, Việt Nam đã có một số thành tựu về bản sắc chẳng hạn như Dinh Độc lập, Thư viện Quốc gia ở trong Nam và Hội trường Ba Đình ở ngoài Bắc. Hội trường Ba Đình là công trình kiến trúc có sự tìm tòi, sáng tạo, dù trong điều kiện hạn chế về tài chính, tiếc là đã bị đập bỏ. Còn chúng ta hiện nay, nói một cách sòng phẳng, chưa có một công trình kiến trúc tiêu biểu mang âm hưởng văn hóa thời đại.(7)


IV. LỊCH SỬ DINH ĐỘC LẬP

Nói đến dinh Độc Lập, chúng ta phải nói đến quá khứ và hiện tại.

1. DINH NORODOM

Năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng ,năm 1867, Pháp chiếm xong lục tỉnh Nam kỳ (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) thì chúng đã nghĩ đến việc đặt nền thống trị lâu dài, cho nên chúng đã xây dựng các cơ quan hành chánh. Ngày 23 tháng 2 năm 1868, ông Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ được dựng bằng gỗ vào năm 1863. Dinh mới được xây dựng theo theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác thảo (người phác thảo đồ án Tòa thị sảnh Hongkong).

Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình vuông rộng mỗi góc 50 cm, có lỗ bên trong chứa những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng vàng, bạc, đồng có chạm hình Napoleon đệ tam. Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ.(8)






















Phấn lớn vật tư xây dựng dinh được chở từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp-Phổ 1870 nên công trình này kéo dài đến 1873 mới xong. Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904).

Từ 1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi là dinh Thống đốc.Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương (Gouverneur-général de l'Indochine Française) đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc nên dinh gọi là dinh Toàn quyền. Nơi ở và làm việc của các Thống đốc chuyển sang một dinh thự gần đó. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom lại là cơ quan đầu não của Pháp tại Việt Nam.

Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. Ngày 7 tháng 9 năm 1954 Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng Thống. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai viên phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, lái 2 máy bay AD6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của dinh. Do không thể khôi phục lại, ông Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.

2. Dinh Độc Lập:
Dinh được xây dựng trên diện tích 4.500 m², diện tích sử dụng 20.000 m², gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của Dinh được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc của Tổng Thống và của Phó Tổng Thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến, v.v... chưa kể các phần khác như hồ sen bán nguyệt hai bên thềm đi vào chánh điện, bao lơn, hành lang...




Dinh Độc Lập trong thập niên 70.jpg


Dinh cao 26m, tọa lạc trong khuôn viên rộng 12 ha rợp bóng cây. Bên ngoài hàng rào phía trước và phía sau Dinh là 2 công viên cây xanh. Giữa những năm 1960, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên trong Dinh hiện đại: điều hòa không khí, phòng chống cháy, thông tin liên lạc, nhà kho. Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Mặt tiền của Dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc phỏng theo phong cách các bức mành tại các ngôi nhà Việt và họa tiết các ngôi chùa cổ tại Việt Nam. Các phòng của Dinh được trang trí nhiều tác phẩm non sông cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu.




Dinh Độc Lập


Bia kỷ niệm ngày khánh thành Dinh Độc Lập Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng dở dang thì ông Ngô Đình Diệm bị giết ngày 2 tháng 11 năm 1963. Do vậy, ngày khánh thành dinh, 31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi lễ là ông Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia.
Theo đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng 45.000 m2 (rộng 21 gian 85m, sâu 19 gian 80m). Diện tích mặt sàn sử dụng khoảng 20.000m2, gồm ba tầng chính, hai gác lửng, một sân thượng (có sân bay trực thăng) và một tầng nền. Tổng số các phòng trong toàn dinh là 95 phòng, không kể các khu vực vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí cho các công việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu 1, lầu 2.

Đặc biệt ở phòng trình quốc thư có bức "Bình Ngô đại cáo" (của Nguyễn Trãi viết trong thời giúp Lê Lợi chống giặc Minh), một bức tranh sơn mài lớn gồm 40 bức tranh sơn mài nhỏ ghép lại, tả cảnh sinh hoạt của nhân dân Việt Nam dưới thời Lê của họa sĩ Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra còn bức tranh "Giang Sơn Cẩm Tú" của KTS Ngô Viết Thụ; bức "Khuê Văn Các" ,Vua Trần Nhân Tông của họa sĩ Thái Văn Ngôn.

KTS. Ngô Viết Thụ cho biết: phí tổn xây dựng Dinh Độc Lập tốn khoảng 150.000 lượng vàng và mỗi quân nhân, nhân viên chính quyền thời ấy phải đóng góp mỗi người một ngày lương. Một vài số liệu về vật liệu đã sử dụng: bê-tông cốt sắt độ 12.000m3, gỗ quí 200m3, kính làm các cửa 2.000m2, đá rửa và đá mài 20.000m2....(9)

.Dinh Độc Lập(Ngày Xưa - 1960')

Ngày 30-4-75., cộng sản chiếm Dinh Độc Lập và đổi tên thành Hội trường Thống Nhất, và trở thành nơi du lịch, mở cửa cho khách tham quan, nhưng tình trạng xuống cấp và thiếu văn hóa xảy ra kể từ đó.Tình trạng này không riêng gì dinh Độc Lập. Trước 1975, một số cơ sở Pháp tại miền Nam giao cho Việt Nam chỉ trong năm bữa nửa tháng là đã sa sút, biến dạng thảm thương!

V.CẤU TRÚC DINH ĐỘC LẬP

Tập tin:HCMC Reunification Palace - Cabinet Meeting Room.JPG

Phòng họp nội các

Tập tin:HCMC Reunification Palace-Banquet Room.jpg
Phòng đại yến

Tập tin:UnificationHall.JPG


Phòng tiếp khách ngoại quốc


Phòng trình quốc thư


Tập tin:Reunification Palace - Vice-Presidents reception room 1.JPG
Phòng tiếp khách của Phó Tổng thống


Phòng ngủ của Tổng Thống

 

.
Bàn đọc sách của Tổng thống

Dạo chơi Dinh Độc Lập
Dạo chơi Dinh Độc Lập

Sân vườn trên tầng 2, phía sau phòng trình quốc thư
và là khu sinh hoạt của gia đình Tổng thống


Dạo chơi Dinh Độc Lập
Bàn ăn món Tây.
Dạo chơi Dinh Độc Lập
Bàn ăn món Việt.

Dạo chơi Dinh Độc Lập

Phòng giải trí



Lầu thượng là Tứ phương vô sự





Rèm đá trắng mặt tiền





Hành lang chạy dọc, thẳng, rộng và đầy hoa nắng.

Tranh Vua Trần Nhân Tông cho áo




Tranh Khuê văn các

Ngô Viết Thụ (19262000), là một kiến trúc sư Việt Nam. Ông đã đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955, là tác giả công trình kiến trúc hiện đại như Dinh Độc LậpViện Hạt nhân Đà LạtNhà thờ chính tòa Phủ Cam...

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926, tại làng Lang Xá, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường Cao đẳng Kiến trúc tại Đà Lạt. Ông bà có tám người con, trong đó có một người con, TS. Ngô Viết Nam Sơn cũng là một kiến trúc sư và đô thị gia tốt nghiệp tại Mỹ (Đại học Berkeley và Đại học Washington) và hiện đang làm công tác tư vấn thiết kế và giảng dạy tại Việt Nam, Á Châu, và Bắc Mỹ.

Hoạt động ở Âu châu[sửa | sửa mã nguồn]

Trong giai đoạn 1950-1955, ông là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Mỹ thuật Quốc gia Paris. Năm 1955, ông nhận giải nhất Giải thưởng lớn Rôma về kiến trúc, thường được gọi là khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G.. Trong thời gian 1955-1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của viện hàn lâm Pháp tại Roma để làm nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc. Các triển lãm kiến trúc, quy hoạch, và hội họa hàng năm của ông và các bạn khôi nguyên La mã trong suốt ba năm, đều được danh dự có tổng thống Pháp và Ý đến cắt băng khánh thành.

Hoạt động thời Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng đồng ở Dinh Độc Lập, một trong những công trình kiến trúc quy mô nhất của Ngô Viết Thụ
Từ năm 1960, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về Việt Nam Cộng Hòa làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền và dư luận lúc ấy rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính quốc gia mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc và kinh phí eo hẹp, dự án này không thực hiện được.
Ông mở văn phòng tư vấn kiến trúc và chỉnh trang lãnh thổ tại 104 Nguyễn Du và số 8 Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Ông thiết kế nhiều đồ án quy hoạch có giá trị khác như Quy hoạch Làng Đại học Thủ Đức (1962), Quy hoạch cảnh quan Công trường Mê Linh (với điêu khắc của điêu khắc sư Nguyễn Văn Thế,1961), Quy hoạch Hội chợ Quốc tế và thiết kế kiến trúc khu nhà triển lãm chính của Việt Nam tại Thủ Đức (hoàn tất thiết kế nhưng không xây dựng do thời cuộc, 1963), đồ án quy hoạch cho khoảng chừng 30 đô thị, tỉnh lỵ, và thị xã mới tại miền Nam Việt Nam (trong đó có Quảng TínVị ThanhCheo Reo).
Ông là thành viên Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ 1955 và thành viên Kiến trúc sư Đoàn Việt Nam từ năm 1958. Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.) đồng lúc với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như J.H. Van den BroekArne JacobsenSteen Eiler RasmussenHector MestreAmancio WilliamsHernan Larrain-ErrazurizEmilio Duhart H.Jerzy Hryniewiecki vàJohn B. Parkin. Sau năm 1975, Ông là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam, và cũng là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư TP HCM các nhiệm kỳ I, II, III, và IV. Ông là thành viên tổ chuyên gia tư vấn kiến trúc cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong thời gian đương nhiệm của ông Kiệt.
Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng lưu dấu ấn đầy giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật là Dinh Độc Lập (1961-1966)[1]Viện Đại học Huế (1961-1963), Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) (1962-1965), Khu công nghiệp An Hòa Nông Sơn, Nhà máy dệt Phong Phú, Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962),Nhà thờ chính tòa Phủ Cam (1963), Xây dựng mở rộng Khu Hội Nghị Quốc tế tầng trên cùng của Khách sạn Majestic, Thương xá Tam Đa (Crystal Palace), trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975).
Ngoài ra ông còn là tác giả của các công trình Tòa Đại sứ của Việt Nam tại Anh (1959), Biệt thự góc Nguyễn Thị Minh Khai và Phạm Ngọc Thạch (trước là tư gia của ông bà Ưng Thi, nay là Tòa Lãnh Sự Trung Quốc), Chung cư Pháp góc đường Điện Biên Phủ và Trần Quốc Thảo, Tháp Tiêu Năng Khu cửa ngõ vào Trung Tâm TP HCM từ đường Điện Biên Phủ, Trung Tâm Innotech (1975), Quần thể Việt Nam Quốc Tự (chỉ xây dựng được khoảng 1/8 vì lý do thời cuộc), Quy hoạch Kiến trúc Khu Thánh địa La Vang (với điêu khắc của điêu khắc sư Nguyễn Văn Thế), và Câu Lạc Bộ Thủy Thủ Quảng Ninh.
Đáng tiếc là một số công trình quan trọng của ông đã bị thay đổi thiết kế nguyên bản vì lý do kinh phí hay lý do khác, do đó chỉ giữ được phần nào quy mô chứ không còn thể hiện đúng phong cách thiết kế của ông, như Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long (1963), Trụ sở Hàng không Việt Nam (1972), Nhà thờ Bảo Lộc (1995).
Ông cộng tác với nhiều KTS khác trong các công trình trường Đại học Y khoa Sài Gòn (trưởng nhóm KTS Việt Nam, cộng tác với nhóm KTS Mỹ CRS từ Texas), Cung Nghệ thuật Quốc tế tại Paris (cộng tác với các KTS Oliver Clément Cacoub và Paul Tournon), và Chợ Đà Lạt (chỉnh sửa lại mặt tiền và tổng thể thiết kế trước đó của KTS Nguyễn Duy Đức, bổ sung thêm thiết kế cầu nổi, khách sạn, và các khu phố lầu bao quanh chợ, quy hoạch mới tổng thể Chợ với công viên và đại lộ chính đi vào chợ, 1958-1962).

Hoạt động sau năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]

Sau năm 1975 Ngô Viết Thụ ở lại Việt Nam và thiết kế Ty Thủy lợi Đắc Lắc (1976), Bệnh viện Sông Bé 500 Giường (1985), Khách sạn Century Huế (1990), phác thảo chùa Trúc Lâm Đà Lạt (sau này do một nhóm KTS Lâm Đồng tiếp tục thực hiện phần khai triển chi tiết và thi công). Trên quy mô rộng hơn, ông cộng tác trong Quy hoạch Tổng Mặt Bằng của Hà Nội (đến năm 2000), và Quy hoạch Hải Phòng. Ông là thành viên ban giám khảo quốc tế trong cuộc thi thiết kế quy hoạch Nam Sài Gòn (1993).

Đóng góp nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Bức tranh Sơn hà cẩm tú thái bình thảo mộc của Ngô Viết Thụ trưng bày tại Dinh Độc Lập, Tp. Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, ông còn chứng tỏ năng lực xuất sắc của mình trong lĩnh vực hội họa với các bức tranh nổi tiếng Thần tốcHội chợBến Thuyền, và bộ tranh Sơn hà cẩm tú. Bộ tranh này và được treo trong Dinh Độc Lập, gồm có 7 bức, mỗi bức dài 2 m và rộng 1 m. Ông tổ chức nhiều triển lãm cá nhân về quy hoạch, kiến trúc, điêu khắc, và hội họa, trong đó có triển lãm tại Tòa Đô chính (1960), tại Nhà Triển lãm Công viên Tao Đàn (1963) và tại Viện Kiến trúc Phi Luật Tân ở Manila (1963), triển lãm lưu động tại Viện Smithsonian và một số thành phố khác tại châu Âu (hàn lâm viện Pháp tại Rome và Paris 1956, 1957, 1958) và tại Mỹ (1963).
Ông cũng là một nghệ sĩ điêu khắc (tác phẩm điêu khắc kim loại đặt trước toà đô chánh, nay không còn), và sành sỏi các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệtđàn tranhđàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Ông qua đời năm ngày 9 tháng 3 năm 2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh do tai biến mạch máu não.

Một số công trình:


  • Hội trường Thống Nhất
  •  
  • Trường ĐHSP Huế nhìn từ trên cao, hai tòa nhà chữ Y là giảng đường.
  •  

  • -----------------------







  • Cuộc hồi hương của một Khôi nguyên La Mã: Hào quang Grand Prix de Rome
    08/11/2023 07:05 GMT+7

    Năm 1955, giới làm kiến trúc trong nước, đặc biệt tại miền Nam, phấn chấn trước thông tin một kiến trúc sư VN du học tại Pháp đoạt giải thưởng kiến trúc danh giá bậc nhất thế giới. Tài năng được vinh danh lúc ấy là Ngô Viết Thụ, với Grand Prix de Rome.

    Mượn cách đặt tên cho người đăng quang trong thi cử tam trường thời phong kiến, báo chí trong nước lúc bấy giờ gọi đây là giải Khôi nguyên La Mã, hay Đệ nhất giải La Mã.

    Một tương lai xán lạn mở ra trên đường công danh của một kiến trúc sư (KTS) trẻ tại châu Âu. Nhưng 4 năm sau đó, Ngô Viết Thụ lại đứng trước một chọn lựa mang tính bước ngoặt cuộc đời.

    Ghi tên mình vào giải Rome


    00:00
    00:13 / 03:03
    Copy video url
    Play / Pause
    Mute / Unmute
    Report a problem
    Language
    Share
    Vidverto Player
    QUẢNG CÁO
    Xách va li lên đường du học, Ngô Viết Thụ lúc bấy giờ đã có vợ và một con gái đầu lòng. Nhạc phụ của ông, cụ Võ Quang Tiềm, sở hữu hiệu buôn nổi tiếng và nhiều nhà cửa ở phố chợ trung tâm khu Hòa Bình, Đà Lạt. Do đó, chàng sinh viên kiến trúc cũng yên tâm phần nào chuyện cơm áo gạo tiền cho vợ con, chỉ chuyên tâm học hành nghiên cứu.

    Cuộc hồi hương của một Khôi nguyên La Mã: Hào quang Grand Prix de Rome - Ảnh 1.

    Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ được bạn bè công kênh ăn mừng giải Khôi nguyên La Mã

    Tư liệu

    Trong thời gian chồng đi du học, bà Võ Thị Cơ một tay nuôi con, một tay phụ buôn bán trong gia đình. Cô tiểu thư năm xưa mà chàng sinh viên kiến trúc nghèo gốc Huế làm quen trên vỉa hè Đà Lạt bây giờ là người vợ tháo vát, tảo tần, không chỉ đủ sức gồng gánh việc nhà mà còn gửi thêm tiền cho chồng có khoản chi tiêu, chuyên tâm đèn sách.

    Trải qua 5 năm học kiến trúc tại Trường Cao đẳng quốc gia Mỹ thuật (École Nationale Supérieure des Beaux-Arts) tại Paris, Ngô Viết Thụ được đào tạo trong cái nôi làm nên nhiều tên tuổi KTS và quy hoạch sư nổi tiếng Đông Dương nói riêng và thế giới nói chung. Giới làm nghề gọi các KTS, nghệ sĩ ra nghề từ trường này là phái Beaux-Arts, coi như nắm trong tay mảnh bằng uy tín để hòa nhập vào các môi trường nghề trên toàn cầu.

    Cuộc hồi hương của một Khôi nguyên La Mã: Hào quang Grand Prix de Rome - Ảnh 2.

    KTS Ngô Viết Thụ và vợ, bà Võ Thị Cơ

    TƯ LIỆU GIA ĐÌNH

    Vào thời điểm đó, sinh viên năm cuối nổi trội từ các ngành mỹ thuật, điêu khắc, chạm trổ, kiến trúc và âm nhạc của Beaux-Arts thường nuôi tham vọng lấy giải Prix de Rome. Là một giải thưởng danh giá, được lập ra năm 1663, các cuộc thi mở đường đến Prix de Rome kể từ năm 1804 thu hút nhiều nhân tài dưới 35 tuổi trong các lĩnh vực tham gia.

    Giải Grand Prix de Rome kiến trúc được chú ý và có uy tín cao, vì phát hiện ra nhiều KTS tài năng, có ảnh hưởng. Trong một bài khảo luận của Ngô Viết Nam Sơn (cuốn Nhận diện đô thị Việt Nam đương đại, Phanbook & NXB Dân Trí, 2023), có một liệt kê đáng chú ý: "Trong số những KTS Pháp nổi tiếng thế giới từng đoạt giải này, có Charles Garnier (1848), Tony Garnier (1899), Henri Prost (1902), Léon Jausseley (1903), Bernard Zehrfuss (1939), Olivier-Clément Cacoub (1953)…".

    Trong giới KTS có công trình quy hoạch và kiến trúc trước đó tại VN, có KTS Ernest Hébrard người Pháp, nổi tiếng với các bản quy hoạch Đà Lạt, Sài Gòn, Hà Nội năm 1931, từng thắng giải Khôi nguyên La Mã (1904) và KTS Henri Cerutti-Maori chính là người lập bản quy hoạch Hà Nội năm 1942 đoạt hạng ba, giải La Mã (1922).

    Một bước tiến chuyên môn

    Đường đến với giải thưởng Khôi nguyên La Mã của Ngô Viết Thụ trải qua 3 vòng thi: Vòng 1, thiết kế kiến trúc cảnh quan đường dẫn vào một cao tốc. Đây là đồ án cho phép người thi thiết kế nhanh trong 12 giờ. Ngô Viết Thụ được miễn vòng này do trước đó ông đã đoạt huy chương thiết kế Paul Bigot cho đồ án bảo tàng mỹ thuật của một nhà sưu tập và huy chương Achille - Leclerc cho bản đồ án Une Réserve (hai giải thưởng này đều của Viện Hàn lâm mỹ thuật Pháp). Vòng 1 thường chọn 60 trên hàng trăm người tham gia để vào vòng 2.

    Vòng 2 với đề ra là thiết kế một nhà máy sản xuất gốm sứ quốc gia, từ vòng 2 sẽ rút gọn danh sách còn 10 người vào vòng 3. Vòng 3 có đề ra là thiết kế một quần thể thánh đường trên đảo của một thủ đô, gồm phác thảo đồ án trong 6 ngày và hoàn thiện bản vẽ theo ý tưởng đã phác thảo trên bản vẽ 3,5 x 7 m trong 100 ngày.

    Trong vòng 3, cũng như các ứng viên khác, Ngô Viết Thụ phải làm việc một mình trong phòng riêng, cắt hết mọi kết nối lẫn hỗ trợ chuyên môn bên ngoài.

    Cuộc hồi hương của một Khôi nguyên La Mã: Hào quang Grand Prix de Rome - Ảnh 3.

    Một trang nhật ký bằng thơ của Ngô Viết Thụ trong thời gian nhận giải thưởng Khôi nguyên La Mã.

    TƯ LIỆU GIA ĐÌNH

    Chàng trai gốc Huế đến từ VN đã có một bản đồ án chinh phục 28/29 thành viên chuyên môn cực kỳ khó tính đến từ Viện Hàn lâm mỹ thuật Pháp và KTS từng đoạt giải Grand Prix de Rome.

    Giải Rome danh giá là bước đệm để Ngô Viết Thụ có một tương lai xán lạn tại cái nôi kiến trúc châu Âu. Ông được công nhận là một tài năng mới trong lĩnh vực tinh hoa kiến trúc tại Pháp; được đặc cách không phải làm luận án tốt nghiệp; được Hiệp hội KTS Pháp trao tặng huy chương vàng kiến trúc SADG và mời làm việc; được bố trí chỗ ở tại villa Medicis của Viện Hàn lâm Pháp tại Rome để nghiên cứu các đồ án quy mô lớn, hằng năm báo cáo kết quả tại Viện Hàn lâm Pháp; được ưu tiên giao những dự án quan trọng trong vai KTS trưởng các công trình quốc gia Pháp.

    Các cuộc triển lãm trong 3 năm liền của Ngô Viết Thụ tại Rome đều có tổng thống và các chính khách tới dự.

    Nhìn lại trường phái Beaux Art mà phụ thân của mình từng theo đuổi và ghi dấu ấn, KTS Ngô Viết Nam Sơn trong cuốn sách nói trên đã cho rằng, vào thời kỳ đó, chương trình trong hệ thống Trường Cao đẳng Mỹ thuật Kiến trúc của Pháp chưa coi trọng đào tạo về quy hoạch và tư duy đa ngành. Cho nên, sớm ý thức về việc phải bổ sung kiến thức quy hoạch, KTS Ngô Viết Thụ cùng hai bạn học đã lấy thêm văn bằng về quy hoạch tại Viện Quy hoạch đô thị ở Paris và Bruxelles (Bỉ).

    Dường như vị KTS trẻ đã nhìn thấy con đường tương lai của mình chỉ có kiến trúc thôi thì chưa đủ, mà sẽ cần rất nhiều về chuyên môn quy hoạch. (còn tiếp) 




  • Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét

    Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.