KIẾN TRÚC SƯ NGÔ VIẾT THỤ(1926-2000)
VÀ KIẾN TRÚC DINH ĐỘC LẬP
Sơn Trung
I. TIỂU SỬ KIẾN TRÚC SƯ NGÔ VIẾT THỤ
Kiến
trúc sư Ngô Viết Thụ sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926 tại tại làng Lang
Xá, tỉnh Thừa Thiên-Huế, mất vào tháng 3 năm 2000 tại tư gia số 22
Trương Định Quận 3 Saigon. Ông học trung học Thuận Hóa tại Huế. Thuở
ấu thơ, ông sống rất nghèo, phải ở với ông nội để học chữ Nho hết 3
năm. Lúc lưu lạc lên tận Đà Lạt, cậu học trò nghèo Ngô Viết Thụ có một
tài năng toán học bẩm sinh đã may mắn gặp một thương gia rước về dạy
kèm đám con cháu.
Năm 1948, ông thi đỗ vào lớp dự bị Trường
Cao đẳng kỹ thuật Đà Lạt. Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm
1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc Đà Lạt. Ông được gia đình vợ
giúp đỡ sang du học ở Pháp. năm 1950, ông thi đậu vào Trường Quốc gia
Cao đẳng Mỹ thuật Paris.
Đoạt giải khôi nguyên năm 1955, ông
đỗ đầu giải kiến trúc La Mã, được Hội Kiến trúc sư Pháp tặng huy
chương vàng. Muốn tham dự cuộc thi này, thí sinh phải có quốc tịch
Pháp; tuổi dưới 25, độc thân và phải có đạo Thiên Chúa. Mặc dù ông Ngô
Viết Thụ không có quốc tịch Pháp; tuổi đã 28, đã có vợ con và lại là
Phật tử nhưng nhờ vào tài năng ông đã lần lượt vượt qua 4 vòng của
cuộc thi và có mặt trong số 10 người ở vòng cuối. Trong kỳ thi cuối
cùng (100 ngày) thí sinh không được bước chân ra ngoài.
Bài
thi " Ngôi thánh đường trên đảo Địa Trung Hải" của ông khiến ai cũng
phải trầm trồ khen ngợi khi nhìn sơ đồ có ngôi thánh đường hình parabol
trên mặt nước Địa Trung Hải như ẩn hiện dưới bầu trời. Kết quả khi bỏ
phiếu của Ban giám khảo cuộc thi (28/29), ông đoạt giải nhất - giải
La Mã (Premier Grand Prix de Rome); khi ấy ông 29 tuổi. Khi đoạt giải
Khôi nguyên La Mã của Viện Hàn lâm Pháp, ông được cấp học bổng 3 năm
nghiên cứu và sáng tác tại các khu biệt thự Medicis thuộc tài sản Pháp
ở La Mã. Đồng thời, vinh dự rất lớn cho ông là khi có cuộc triển lãm
trình bày các sơ đồ kiến trúc mang tên Ngô Viết Thụ đã được Tổng thống
hai nước Pháp và Ý đến cắt băng khánh thành. (1)
KTS Ngô Viết Thụ thời trai trẻ (ảnh chụp năm 1951)
|
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đêm giao thừa 1981 |
Vào
đầu năm 1960, ngành qui hoạch trên toàn thế giới vẫn còn đang ở giai
đoạn đầu phát triển, và tại VN lúc đó chỉ có ba người có cả hai văn
bằng kiến trúc sư và văn bằng phát triển quốc gia tại nước ngoài là:
KTS Huỳnh Kim Mãng (giáo sư trường cao đẳng kiến trúc Sài Gòn), KTS
Lê Văn Lắm (giám đốc tổng nha kiến thiết đô thị) và KTS Ngô Viết Thụ.
Từ
năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về VN làm việc theo lời mời của Tổng
thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu
của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền Ngô Đình Diệm
rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một
khu trung tâm hành chính mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc, dự án
này không thực hiện được.
KTS Ngô Viết Thụ và con trai Ngô Viết Nam Sơn
Năm
1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của
Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F.A.I.A) cùng với một số kiến trúc sư danh
tiếng cùng thời của các quốc gia khác như: J.H. Van den Broek, Arne
Jakobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams,
Herman Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H, Jerzy Hryniewiecki và John
B. Parkin…
Ông
đã thiết kế nhiều công trình xây dựng giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ
thuật. Nổi bật nhất là Đại Chủng Viện Đà Lạt (tức Giáo Hoàng Học Viện
Pio X (1957), Dinh Độc Lập (1961-1966), Viện Đại học Huế (1961-1963),
Viện Nguyên Tử Đà Lạt (1962-1965), Làng Đại Học Thủ Đức (1962), chợ
Đà Lạt (1962) Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà Thờ Phủ Cam
(1963), Trụ sở Việt Nam Hàng Không (1972), Trường Đại học Nông
nghiệp Thủ Đức (1975), Bệnh Viện Sông Bé (1985), Khách sạn Century
Huế (1990)…
Ngoài ra, ông còn chứng tỏ khả năng của mình trong
lãnh vực hội họa với bức tranh Thần Tốc và bộ tranh Sơn Hà Cẩm Tú,
gồm 7 bức, mỗi bức dài 2m, rộng 1m. Ông cũng có tài chơi các loại
nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Kìm và Sáo. Ông để lại hàng trăm bài thơ
và bài viết.
Sau 30.4.1975, ông bị bắt đi học tập cải tạo một năm. Ông chết tại Sài Gòn năm 2000.
Ngô Viết Nam Sơn, con trai của ông đã viết về người cha yêu quý của ông :
"Ngày
Tết, gia đình chúng tôi thường được các nhân viên trong văn phòng
hoặc các người thân và bạn bè biếu nhiều quà, nhưng chỉ những người
nào hiểu cha tôi nhất thì mới biết là món quà mà ông trân quý nhất lại
chỉ đơn giản là một cành hoa đào hoặc hoa mai thật tươi đẹp".(2)
Trong bài trên, ông cũng cho chúng ta thấy những họa phẩm của cha ông như những bức họa sau:
Tranh sơn dầu vẽ hoa ngày tết năm 1958 của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ -
Tranh sơn dầu vẽ hoa ngày tết 1972
của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ -
KTS Ngô Viết Nam Sơn, con trai KTS Ngô Viết Thụ
It
ai biết Kiến Trúc sư Ngô Viết Thụ là một nhà nghiên cứu phong thủy
(5).Ông cũng là một nghệ sĩ điêu khắc (tác phẩm điêu khắc kim loại đặt
trước toà đô chánh, nay không còn), và sành sỏi các loại nhạc cụ dân
tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có
tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.(1) .Người ta cũng đồn rằng
ông là một thiền giả có hạng.
II. VÀI NÉT VỀ MỘT SỐ CÔNG TRÌNH CỦA KIẾN TRỨC SƯ NGÔ VIẾT THỤ
1.Viện nguyên tử Đà Lạt
Viện
Nghiên cứu hạt Nhân (Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử)
Đà Lạt là công trình hiện đại do Mỹ viện trợ, được chọn lựa xây
dựng trên một ngọn đồi rộng 21ha, nằm ở phía đông bắc trung tâm
Đà Lạt. Công trình này được dư luận báo chí đương thời quan tâm
giới thiệu rộng rãi cả trong và ngoài nước. Đồ án
Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt được xây dựng từ năm 1961,
do KTS Ngô Viết Thụ đảm nhận cùng các KTS phụ tá: KTS Nguyễn
Mỹ Lộc, KTS Phạm Quỳnh Lân, KTS Vũ Tòng. Người Mỹ cung cấp một
đồ án kiểu mẫu, theo đó lò nguyên tử sẽ đặt trong một toà nhà
vuông nối tiếp là những khối chữ nhật dành cho các phòng vật lý
và hoá học.
Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) (1962-1965)
2. Nhà thờ chánh tòa Phú Cam. Huế
Phủ
Cam là một trong số ít họ đạo có lịch sử lâu đời nhất của Giáo phận
Huế. Nơi đây, đã dựng ngôi nhà nguyện đầu tiên vào năm 1682 do Linh
mục Piere Langlois, thuộc hội thừa sai Pais (MEP) đến xây dựng. Ngôi
nhà nguyện này được làm bằng tranh ở xóm Đá (thuộc khu vực V, phường
Phước Vĩnh bây giờ), đến năm 1805, được dời lên đồi Phước Quả (vị trí
ngày nay).
Theo tập truyền, đây nguyên là nơi dành cho các ông
hoàng lập Phủ, và để trồng Cam (orangerie), rồi những người có đạo ở
Thuận Hoá quy tụ về sinh sống, lập ấp, khai sinh ra làng nón Phủ Cam
ngày nay, và tên gọi Phủ Cam cũng do đó mà có. Sau nhiều lần xây
dựng lại nhà thờ, đến năm Mậu Tuất (1898), Linh mục Allys cho xây
dựng ngôi nhà thờ bằng gạch ngói to lớn theo kiểu kiến trúc
“Gothique”, do chính ngài vẽ kiểu và đích thân theo dõi thi công.
Ngôi
nhà thờ nầy được khánh thành ngày 27. 8. 1902, nhưng cũng chỉ tồn
tại 61 năm. Đến đầu năm 1963, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
Đức Cha Ngô Đình Thục đã cho triệt hạ ngôi nhà thờ này để xây dựng
ngôi nhà thờ hiện nay, do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Tiến độ
thi công ngôi nhà thờ nầy chậm và kéo dài (vì nhiều lý do), mãi đến
ngày 01. 5. 1999, mới tiếp tục khởi công xây dựng hai tháp chuông. Và
ngày 29. 6. 2000, sau gần 37 năm, nhà thờ chánh toà Phủ Cam mới được
khánh thành, trở thành ngôi thánh đường rộng lớn vào bậc nhất tại
thành phố Huế. Nhà thờ Phủ Cam toạ lạc trên một khu đất cao và thoáng,
án ngữ cả một vùng với tổng diện tích khuôn viên là 10.804m2, thuộc
phường Phước Vĩnh - thành phố Huế.
Nhà thờ chánh toà Phủ Cam
Mặt hông nhà thờ chánh toà Phủ Cam
3. Trường Đại Học Sư Phạm Huế và Trường trung học Kiểu mẫu Huế
Năm 1964, Đại học Sư phạm Huế có cơ ngơi mới rất khang trang: tòa nhà chữ Y ở hữu ngạn dòng Hương.
Bên cạnh, một tòa nhà chữ Y giống đúc là Trung học Kiểu mẫu Huế, cơ sở thực nghiệm lẫn thực hành của Đại học Sư phạm Huế.
Được
thực hiện theo đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (khôi nguyên La Mã
năm 1955, từng thiết kế nhiều công trình kiến trúc giá trị mà nổi bật
có Dinh Độc Lập tại Sài Gòn), cả hai tòa nhà ba tầng nọ tọa lạc trong
khuôn viên rộng 39.000m2, trước là Tòa Khâm sứ của Pháp.
Ngày
4-8-1964, nghị định 1352/GD/PC/NĐ được ban hành nhằm "thiết lập
Trường trung học Kiểu mẫu Huế trực thuộc Trường đại học Sư phạm Huế".
Ngày 20-9-1964, Trung học Kiểu mẫu Huế khai giảng niên khóa đầu tiên
gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng
Trần Kim Nở. Năm sau, 1965, Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức mới khai giảng
khóa đầu. Năm sau nữa, 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành
lập. Trung học Kiểu mẫu Huế trở thành "trưởng tràng" trong hệ thống
các trường Kiểu mẫu tại Việt Nam.
Thời
đó, hầu hết học sinh các trường phổ thông phải tuân theo qui định về
đồng phục: nam mặc áo trắng, quần xanh sẫm; nữ mặc áo dài trắng. Riêng
học sinh Kiểu mẫu hơi đặc biệt: nam mặc áo xanh da trời, quần xanh
sẫm; nữ mặc áo dài hoặc váy xanh da trời. Ấy là hình thức. Còn nội
dung và phương pháp học hành, thi cử của học sinh Kiểu mẫu có gì khác
lạ?
Trước
tiên, về qui chế, Trường trung học Kiểu mẫu không do Ty Giáo dục quản
lý như tất cả trường công lập, bán công và tư thục trên địa bàn, mà
trực thuộc Đại học Sư phạm. Tuy nhiên, Trường trung học Kiểu mẫu vẫn
giữ quyền tự trị nhất định: có ban giám hiệu độc lập và đội ngũ nhà
giáo riêng đạt trình độ chuyên môn xuất sắc. Đường lối giảng dạy mà
Trung học Kiểu mẫu chủ trương và áp dụng là chú trọng việc hướng dẫn
từng cá nhân. Do đó, sĩ số mỗi lớp thường không quá 45 học sinh.
Yêu
cầu đặt ra: trang bị cho học sinh một số kiến thức tổng quát tối
thiểu và phổ thông để sau đủ khả năng theo đuổi bậc đại học, đồng thời
cung cấp một số kiến thức thực dụng giúp học sinh hiểu biết để lựa
chọn nghề nghiệp phù hợp trong tương lai hoặc bất đắc dĩ thì có thể
mưu sinh, nếu chẳng may không tiếp tục được việc học ở trường lớp. Cần
lưu ý rằng nội dung chương trình giảng dạy của trường Kiểu mẫu thường
xuyên được sửa đổi trên tinh thần linh động, uyển chuyển nhằm thích
ứng kịp thời với những khám phá mới trong lĩnh vực khoa học giáo dục
Việt Nam và thế giới.
Trường Đại Học Sư Phạm Huế
4. Huong Giang Hotels
Ngay
giữa trung tâm thành phố Huế, khách sạn Hương Giang nằm ở bờ Nam sông
Hương, sát Đập Đá, bên kia là Vĩ Dạ. Ngôi nhà số 51 đường Lê Lợi
phường Phú Hội thành phố Huế là tác phẩm của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
được xây dựng từ những năm đầu của thập niên 60 thế kỷ trước. Công
trình khách sạn Hương Giang là toà nhà 04 tầng nguy nga đồ sộ in bóng
xuống dòng sông Hương thơ mộng.
5. Chợ Đà Lạt
Năm
1929, một ngôi chợ bằng gỗ, mái lợp tôle, có tên gọi là Chợ Cây
được xây cất tại vị trí khu Hoà Bình hiện nay, thay cho khu
họp chợ ở ấp Ánh Sáng. Chợ và khu vực chung quanh đã tạo nên một
trung tâm rất sôi động của sinh hoạt thành phố lúc bấy giờ.
Năm
1937, một trận hoả hoạn lớn xảy ra, thiêu rụi chợ với hàng quán
chung quanh. Sau đó, nhà cầm quyền đương thời cho xây dựng lại
ngôi chợ mới bằng gạch khang trang, đáp ứng nhu cầu mua bán sinh
hoạt cho hơn 6.500 người dân. Công tác này được nhà thầu SIDEC
đảm nhận.
Mặt tiền chợ Đà Lạt
Chợ
Đà Lạt hoàn thành một thời được xem như là biểu tượng của thành
phố cao nguyên. Ngay mặt tiền ngôi chợ, trên tường đầu hồi
(fronton) có gắn nổi huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi
thanh niên nam nữ người dân tộc, người nữ mang gùi, người nam
tay cầm ngọn giáo nhắm vào một con cọp. Bên dưới có một câu cách
ngôn bằng tiếng latin chiết tự khéo léo thành danh xưng Dalat:
Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem có nghĩa là cho người này
niềm vui, cho người khác sự mát mẻ. Họa báo Châu Á mới (L’ Asie
nouvelle illustrée), số 56, xuất bản năm 1937 đã có bài viết về
ngôi chợ: “Ngôi chợ này tuy kiến trúc giản dị, nhưng rất độc đáo”.
Toàn cảnh chợ Đà Lạt
Ngôi
chợ đã trở thành biểu tượng của Đà Lạt, một hình ảnh quen thuộc
trong ký ức của những người từng sống lâu năm ở đây.
Sau năm 1954, Đà Lạt trở nên đông đúc với số dân hơn 53.000
người. Năm 1958, chính quyền Miền Nam đã cho chỉnh trang lại khu
vực trung tâm thương mại. Vùng đất trống dưới thung lũng được tính
toán xây dựng một ngôi chợ mới có 2 tầng và một sân thượng. Vào
lúc đó, đây là một trong những ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam.
Bên trong chợ Đà Lạt
Công
trình do KTS Nguyễn Duy Đức thiết kế, nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu
đảm nhận thi công. Khi KTS Ngô Viết Thụ từ Pháp về, ông
được mời tham gia đồ án chỉnh trang tổng thể khu vực thung lũng
từ cầu Ông Đạo trở vô. Ông thiết kế bổ sung một cầu thang lớn nối
từ khu Hòa bình vào tầng lầu của chợ, các dãy phố buôn bán và hệ
thống đường giao thông bao quanh. Riêng về ngôi
chợ cũ, cùng thời gian đó, được thiết kế cải tạo thành rạp hát
Hòa Bình với các cửa hàng thương mại dịch vụ chung quanh. Đồ án
thiết kế cải tạo do hai KTS Huỳnh Kim Mãng và Lâm Du Tốt thiết lập.
Năm 1993, nhân kỷ niệm 100 năm Đà Lạt hình thành và phát
triển, chợ Đà Lạt được chỉnh trang nâng cấp mở rộng như hiện nay.
Nhìn chung, nhiều nhà phê bình đã nhận định rằng các công trình
của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ nhìn chung là độc đáo, có tính sáng tạo.
Nguyễn Hữu Thái, một kiến trúc sư nhận định:
Những
công trình đầu tiên kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế và xây dựng
trên quê hương ông ở Huế đã có tuổi thọ hơn 40 năm, song vẫn còn nguyên
giá trị ban đầu, như công trình Viện Đại học Huế (1961- 1963); Khách
sạn Hương Giang I (1962) - một điểm nhấn thị giác bên bờ sông Hương;
Nhà thờ Phủ Cam (1963) - một công trình giàu tính biểu đạt, mặt đứng
như một cuốn kinh thánh mở rộng, hình thức đường nét kiến trúc mới mẻ,
hiện đại. (3)
Con trai ông, KTS Ngô Viết Nam Sơn viết về cha mình như sau:
Thiết
kế của KTS Ngô Viết Thụ thể hiện quan niệm kiến trúc Việt Nam hiện
đại, không sao chép các chi tiết của kiến trúc cổ điển, nhưng vẫn hài
hòa và mang bản sắc văn hóa dân tộc, hoàn toàn đi theo hướng khác với
các đóng góp thiết kế dinh của các KTS danh tiếng cùng thời, trong đó
đa số hoặc theo xu hướng kiến trúc cổ điển Pháp hoặc mang nặng ảnh
hưởng kiến trúc tôn giáo và cung đình. Ngoài ra, Dinh Thống Nhất đánh
dấu sự khởi đầu cho phong cách kiến trúc mang dấu ấn riêng của KTS Ngô
Viết Thụ sau này trong các công trình Đại học Nông nghiệp Thủ Đức,
Trụ sở Hàng không Việt Nam, Tổ hợp Khách sạn Hương Giang I và II...
Trong các tác phẩm của ông, các yếu tố mỹ thuật và kỹ thuật luôn mang
tính đổi mới và sáng tạo, nhưng điều quan trọng hơn, mỗi tác phẩm đều
ẩn tàng một bản sắc độc đáo và triết lý sâu sắc. Trong công trình Dinh
Thống Nhất, ông áp dụng khoa chiết tự vào thiết kế mặt đứng để nhắc
nhở những ai chủ trì tại đó phải có tài đức của một nhà lãnh đạo (chữ
Vương, và chữ Tam - tượng trưng cho Nhân, Minh, và Võ đức), giữ vững
chủ quyền đất nước (chữ Chủ), đảm bảo tự do ngôn luận của người dân
(chữ Khẩu), trung với quốc dân (chữ Trung), và làm sao cho đất nước
ngày càng hưng thịnh (chữ Hưng)...(4)
III. SƠ LƯỢC VỀ KIẾN TRÚC VIỆT NAM
Wikipedia nhận định về Kiến trúc đời Lý :
-"Đẹp và công phu-Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)
-Quy
mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai
quật-Trang trí rất tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ - đá
- gạch - đất nung
-Quy hoạch thống nhất và cân xứng" (5).
Theo
thiển kiến, Việt Nam it có những công trình vĩ đại như các nước thế
giới. Ngay cả Kampuchia có Đế Thiên Đế Thích rất tráng lệ. Có lẽ nước ta
nghèo, chiến tranh liên miên, các vua chúa không dám làm những công
trình to lớn vì không dám bóc lột, cưỡng bách nhân dân đóng góp.
Lại
nữa, bọn ngoại quốc đã phá hoại các công trình cũ, và cướp đoạt vàng
bạc châu của triều đình và nhân dân ta. Đời Trần, Chế Bồng Nga đã nhiều
lần vào đốt Thăng Long. Đời Trần mạt, quân Minh xâm chiếm nước ta đã
phá chuông đồng tượng Phật, để đúc khí giới, đã phá tháp Báo Thiên để
lấy gỗ, và gạch ngói. Đến đời Nguyễn, quân Pháp phá đồn Kỳ Hòa, thành
Gia định và cung điện nhà Lê. Sau 1945, Việt Minh ra lệnh tiêu thổ
kháng chiến, đốt nhà phá cầu và phá chùa chiền... .. Không thể nói là
Việt Nam thiếu nhân tài vì Nguyễn An là người Việt đã xây thành Bắc
Kinh.
Chúng ta có những công trình nhỏ nhưng cũng rất độc đáo như chùa Một Cột, chùa Thiên Mụ, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa.. .
Dẫu
sao đi nữa, so sánh với ngoại quốc, nước ta it có những công trình vĩ
đại và tân kỳ. Thời sau này cũng vậy. Ta tự hào về vương cung thánh
đường, dinh Norodom, Tòa đô chính Sai gòn nhưng những cái đó sao bằng
nhà thờ Đức Bà Pháp và các nhà thờ ở Montreal , và những lâu đài ở Ấn
Độ, Mỹ, Anh, Pháp...
Ngô Viết Nam Sơn thuyết trình tại một hội nghị quốc tế với sự chủ tọa danh dự của Thủ tướng Singapore như sau:
*
Nhiều nhà chuyên môn nhận xét kiến trúc Việt Nam hiện nay "mất trật
tự và thiếu bản sắc". Anh nghĩ gì về nhận xét ấy và có lời khuyên nào
với anh em KTS trẻ trước nền kiến trúc nước nhà? -
(1) Đằng
sau mỗi cái "tôi" của những căn phố mới nhấp nhô vô trật tự và đủ thứ
kiểu Tây, Tàu, Nhật, và Ta là những bằng chứng cho khát vọng sáng
tạo và vươn lên của người dân Việt, nhưng chỉ đáng tiếc là họ chưa có
tinh thần đoàn kết vì cái đẹp chung và được sự hướng dẫn đúng lúc
đúng chỗ của nhà chuyên môn.
(2) Đằng sau những vụ "xé rào" và vi
phạm luật lệ xây dựng là những bức xúc về nhu cầu phát triển và cải
thiện đời sống của người dân trong một nền kinh tế năng động tăng
trưởng không ngừng, trong đó chính quyền và cả những nhà quy hoạch
kiến trúc chưa nhìn thấy trước được mọi tình huống xảy ra để có sẵn
các phương án giải quyết cho người dân trước khi ban hành luật.
(3)
Đằng sau nỗi buồn tụt hậu của một nước chậm phát triển là sự thừa
hưởng kho tàng to lớn di sản văn hóa về quy hoạch và kiến trúc chưa kịp
bị quá trình đô thị hóa xóa mất, như đã từng xảy ra ở Singapore, và
đồng thời, là lợi điểm của "người đi sau" qua việc tiếp thu các bài
học kinh nghiệm đắt giá trong phát triển đô thị của các nước láng
giềng, nhất là từ Trung Quốc. (6)
(Nguyễn Anh Tài. Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)
KTS Ngô Viết Nam Sơn đã về Việt Nam và trả lời phỏn g vấn:
Cha
ông ta đã từng có một nền kiến trúc đáng tự hào. Mỗi triều đại phong
kiến đều có những dấu ấn riêng. Gần nhất với chúng ta là giai đoạn
trước 1975. Hồi đó, Việt Nam đã có một số thành tựu về bản sắc chẳng hạn
như Dinh Độc lập, Thư viện Quốc gia ở trong Nam và Hội trường Ba Đình
ở ngoài Bắc. Hội trường Ba Đình là công trình kiến trúc có sự tìm
tòi, sáng tạo, dù trong điều kiện hạn chế về tài chính, tiếc là đã bị
đập bỏ. Còn chúng ta hiện nay, nói một cách sòng phẳng, chưa có một
công trình kiến trúc tiêu biểu mang âm hưởng văn hóa thời đại.(7)
IV. LỊCH SỬ DINH ĐỘC LẬP
Nói đến dinh Độc Lập, chúng ta phải nói đến quá khứ và hiện tại.
1. DINH NORODOM
Năm
1858, Pháp tấn công Đà Nẵng ,năm 1867, Pháp chiếm xong lục tỉnh Nam
kỳ (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) thì
chúng đã nghĩ đến việc đặt nền thống trị lâu dài, cho nên chúng đã xây
dựng các cơ quan hành chánh. Ngày 23 tháng 2 năm 1868, ông Thống đốc
Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng
Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ được dựng
bằng gỗ vào năm 1863. Dinh mới được xây dựng theo theo đồ án do kiến
trúc sư Hermite phác thảo (người phác thảo đồ án Tòa thị sảnh
Hongkong).
Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình
vuông rộng mỗi góc 50 cm, có lỗ bên trong chứa những đồng tiền hiện
hành thuở ấy bằng vàng, bạc, đồng có chạm hình Napoleon đệ tam. Công
trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh
thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800
người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ.(8)
Phấn
lớn vật tư xây dựng dinh được chở từ Pháp sang. Do chiến tranh
Pháp-Phổ 1870 nên công trình này kéo dài đến 1873 mới xong. Sau khi xây
dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom và đại lộ trước dinh
cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia
lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904).
Từ 1871 đến 1887, dinh
được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi
là dinh Thống đốc.Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương
(Gouverneur-général de l'Indochine Française) đã sử dụng dinh thự này
làm nơi ở và làm việc nên dinh gọi là dinh Toàn quyền. Nơi ở và làm việc
của các Thống đốc chuyển sang một dinh thự gần đó. Ngày 9 tháng 3 năm
1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của
chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại
trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom lại là cơ
quan đầu não của Pháp tại Việt Nam.
Sau năm 1954, người Pháp rút
khỏi Việt Nam. Ngày 7 tháng 9 năm 1954 Dinh Norodom được bàn giao
giữa đại diện Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc gia Việt
Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi
là Dinh Tổng Thống. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai viên phi công
thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, lái 2
máy bay AD6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của dinh. Do
không thể khôi phục lại, ông Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một
dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc
sư Ngô Viết Thụ.
2. Dinh Độc Lập:
Dinh
được xây dựng trên diện tích 4.500 m², diện tích sử dụng 20.000 m²,
gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một
sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của
Dinh được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng
bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm
việc của Tổng Thống và của Phó Tổng Thống, phòng trình ủy nhiệm thư,
phòng đại yến, v.v... chưa kể các phần khác như hồ sen bán nguyệt hai
bên thềm đi vào chánh điện, bao lơn, hành lang...
Dinh
cao 26m, tọa lạc trong khuôn viên rộng 12 ha rợp bóng cây. Bên ngoài
hàng rào phía trước và phía sau Dinh là 2 công viên cây xanh. Giữa
những năm 1960, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi
phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên
trong Dinh hiện đại: điều hòa không khí, phòng chống cháy, thông tin
liên lạc, nhà kho. Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo.
Mặt tiền của Dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc phỏng theo
phong cách các bức mành tại các ngôi nhà Việt và họa tiết các ngôi
chùa cổ tại Việt Nam. Các phòng của Dinh được trang trí nhiều tác phẩm
non sông cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu.
Dinh Độc Lập
Bia
kỷ niệm ngày khánh thành Dinh Độc Lập Dinh Độc Lập mới được khởi
công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng, gia
đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia
Long (nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng
dở dang thì ông Ngô Đình Diệm bị giết ngày 2 tháng 11 năm 1963. Do
vậy, ngày khánh thành dinh, 31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi
lễ là ông Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia.
Theo
đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng 45.000 m2 (rộng 21 gian 85m,
sâu 19 gian 80m). Diện tích mặt sàn sử dụng khoảng 20.000m2, gồm ba
tầng chính, hai gác lửng, một sân thượng (có sân bay trực thăng) và
một tầng nền. Tổng số các phòng trong toàn dinh là 95 phòng, không kể
các khu vực vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí
cho các công việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu 1,
lầu 2.
Đặc biệt ở phòng trình quốc thư có bức "Bình Ngô đại
cáo" (của Nguyễn Trãi viết trong thời giúp Lê Lợi chống giặc Minh),
một bức tranh sơn mài lớn gồm 40 bức tranh sơn mài nhỏ ghép lại, tả
cảnh sinh hoạt của nhân dân Việt Nam dưới thời Lê của họa sĩ Nguyễn
Văn Minh. Ngoài ra còn bức tranh "Giang Sơn Cẩm Tú" của KTS Ngô Viết
Thụ; bức "Khuê Văn Các" ,Vua Trần Nhân Tông của họa sĩ Thái Văn Ngôn.
KTS.
Ngô Viết Thụ cho biết: phí tổn xây dựng Dinh Độc Lập tốn khoảng
150.000 lượng vàng và mỗi quân nhân, nhân viên chính quyền thời ấy
phải đóng góp mỗi người một ngày lương. Một vài số liệu về vật liệu
đã sử dụng: bê-tông cốt sắt độ 12.000m3, gỗ quí 200m3, kính làm các
cửa 2.000m2, đá rửa và đá mài 20.000m2....(9)
.
Ngày
30-4-75., cộng sản chiếm Dinh Độc Lập và đổi tên thành Hội trường
Thống Nhất, và trở thành nơi du lịch, mở cửa cho khách tham quan, nhưng
tình trạng xuống cấp và thiếu văn hóa xảy ra kể từ đó.Tình trạng này
không riêng gì dinh Độc Lập. Trước 1975, một số cơ sở Pháp tại miền Nam
giao cho Việt Nam chỉ trong năm bữa nửa tháng là đã sa sút, biến dạng
thảm thương!
V.CẤU TRÚC DINH ĐỘC LẬP
Phòng họp nội các
Phòng đại yến
Phòng tiếp khách ngoại quốc
Phòng trình quốc thư
Phòng tiếp khách của Phó Tổng thống
Phòng ngủ của Tổng Thống
.
Bàn đọc sách của Tổng thống
Tranh Khuê văn các
Tạp chí Di Tích Văn Hóa đã giải thích khá rõ ràng về cấu truc và ý nghĩa cấu trúc của dinh Độc Lập"
Khi
thiết kế Dinh Ðộc lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý
nghĩa văn hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội
thất cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý
cổ truyền, nghi lễ Phương đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư
Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại
với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện của Dinh
làm thành hình chữ CÁT
吉,
có nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình
quốc thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU
口 để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU
口 có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG 中 như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên.
Mặt
trước của dinh thự toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái
hiên lối vào chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành
hình chữ HƯNG (興) ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi. Vẻ đẹp
kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình
dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được
biến cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện Cố đô Huế không chỉ làm
tăng vẻ đẹp của Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời. Ði
vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay
sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu chính
đại quang minh làm gốc.
Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình
oval có đường kính 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo ra một cảm giác
êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng. Chạy dài theo
suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ
thả hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các
ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.Dinh có diện tích 120.000m2
(300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính đó là: Ðường Nam Kỳ
Khởi Nghĩa ở phía Ðông Bắc (mặt chính của Dinh)
Ðường
Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh)Ðường Nguyễn Thị
Minh Khai ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh)Ðường Nguyễn Du ở phía Ðông
Nam (phía bên phải Dinh) Dinh có 04 khu nhà: Khu nhà chính hình chữ T
diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung tâm của
khu đất. Ðây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn.
Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác lửng, 1 sân thượng, 1 tầng nền và 1
tầng hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi
phòng có 1 chức năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù hợp với
mục đích sử dụng của mỗi phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục
được sử dụng một số phòng, còn lại để phục vụ du khách tham quan.
Khu
nhà 2 tầng diện tích 8m x 20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ
sở làm việc của Ðảng Dân chủ. Sau năm 1975 là nơi làm việc của Ban
giám đốc Hội trường Thống Nhất.
Khu 04 nhà 2 tầng phía góc
đường Nguyễn Du - Huyền Trân Công Chúa trước 1975 là khu nhà ở của tiểu
đoàn bảo vệ Dinh Ðộc lập. Sau 1975 là nơi ở của Ðại đội 1 trung đoàn
cảnh vệ 180. Hiện nay khu này đã được cải tạo thành khu nhà khách
của Văn phòng Chính phủ.
Khu nhà trệt phía góc đường Huyền
Trân Công Chúa - Nguyễn Thị Minh Khai, trước 1975 là khu sinh hoạt
của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho Nguyễn Văn Thiệu, của bộ
phận chăm sóc vườn cây. Hiện đã được cải tạo thành khu nhà nghỉ trưa
và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên Hội trường Thống Nhất.
Ngoài
các khu nhà trên, ở góc trái Dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai
còn có một nhà bát giác đuờng kính 4m, xây trên một gò đất cao, chung
quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi hóng mát, thư
giãn. Xen giữa 04 khu nhà trên là những bãi cỏ xanh mướt, vườn cây cổ
thụ, những chậu cây kiểng quí và 04 sân tenis phía sau khu nhà
chính. ( 10)
VI.VÀI Ý KIẾN VỀ NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC DINH ĐỘC LẬP
Hoàng Thạch trong bài" Dinh Độc Lập Việt Nam Cộng Hòa" viết:
"Năm
1982, Hội Kiến trúc Liên-sô được KTS Ngô Viết Thụ mời sang quan sát
đã ca ngợi công trình tuyệt mỹ Dinh Độc Lập, một kiến trúc phối hợp
nghệ thuật Đông-Tây toàn hảo, một biểu tượng của ngành kiến chúc dân
tộc Việt Nam. Ba tấm hiên bằng bê-tông cốt thép ở mặt chính Dinh được
coi là biểu tượng đạo lý của TT. Ngô Đình Diệm với ba gạch ngang của
Quốc kỳ hình quẻ Ly.( 11)
Trên báo Tuổi Trẻ, KTS Nguyễn Hữu Thái viết về Dinh Độc Lập như sau:
"Vào
giữa những năm 1960, dinh Độc Lập là một công trình xây dựng có qui
mô lớn nhất ở miền Nam, hiện đại vào bậc nhất châu Á và kinh phí xây
dựng khá tốn kém (tương đương trên 150.000 lượng vàng) cũng như mang
tính công nghệ cao. Trang thiết bị trong dinh có thể nói là hiện đại
nhất lúc bấy giờ, đủ để phục vụ thường xuyên hàng trăm người làm việc
cũng như tổ chức lễ lạc qui tụ cả nghìn người.
Các hệ thống
điều hòa nhiệt độ, thang máy, thông tin liên lạc, nhà bếp và kho bãi có
công suất phục vụ tương đương một khách sạn 5 sao loại lớn. Đặc biệt,
tổng hành dinh ngầm dưới mặt đất là một khối hầm bằng bêtông dày, bọc
thép chịu đựng được bom lớn và đạn pháo kích, đáp ứng mục tiêu phòng
thủ quân sự hiện đại nhất. Ngày nay vào tham quan dinh, ta vẫn
còn nhìn thấy hầu như nguyên vẹn nội thất tại nơi ở và làm việc của
một nguyên thủ quốc gia. Vẫn còn đó 4.000 ngọn đèn các loại, hàng chục
tác phẩm mỹ thuật quí, thảm, rèm, bàn ghế, vật dụng hạng nhất...
Khách tham quan sẽ choáng ngợp trước những bức tranh sơn dầu, sơn mài
kích cỡ thật lớn, nhiều khi chiếm trọn cả một mảng tường.
Đặc
biệt là trong phòng trình quốc thư nằm ở vị trí trung tâm lầu nghi lễ
tầng 2, các vật dụng từ bàn ghế đến tranh trang trí đều bằng chất liệu
sơn mài truyền thống. Xen giữa các đường nét kiến trúc hiện đại
bằng bêtông và sắt thép là những môtíp trang trí gợi nhớ các họa tiết
cổ truyền trong nhà cửa, đền chùa, cung điện VN. Từ bức rèm hoa đá đồ
sộ ngoài mặt tiền, gồm các tấm lam đứng mang hình lóng trúc nhắc nhớ
cửa “bàn khoa” cung điện xứ Huế, cho đến những phù điêu, tượng đắp
nổi, chạm trổ trên gỗ, thép uốn, tay nắm con triện, tay vịn cầu
thang... nhất nhất đều mang dáng Việt." ( 12)
Phương Dung trong Tạp Chí Pháp Luật viết:
"Khi
thiết kế, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho
công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện
bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ
phương Đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết
hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền
thống phương Đông. Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ
"Cát", có nghĩa là tốt lành, may mắn.
Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh
còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc
thanh tao bao xung quanh tầng hai. Đi vào bên trong Dinh, tất cả các
đường nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng. Sân trước của Dinh là
một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh của thảm cỏ tạo ra
một cảm giác êm dịu, sảng khoái ngay khi bước qua cổng. Chạy dài theo
suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ thả
hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi
đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam." (13)
Tạp Chí Vietgle viết:
"Tại
đây ông là tác giả nhiều đồ án xây dựng, kiến trúc đồ sộ, trong đó có
Dinh Độc lập, bây giờ là dinh Thống Nhất, Đại học sư phạm Huế, Trung
tâm nguyên tử Đà Lạt... Các bản thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
thể hiện quan niệm kiến trúc Việt Nam hiện đại, không sao chép các
chi tiết của kiến trúc cổ điển, nhưng vẫn hài hòa và mang bản sắc văn
hóa dân tộc, hoàn toàn đi theo hướng khác với các đóng góp thiết kế
dinh của các kiến trúc sư danh tiếng cùng thời, trong đó đa số hoặc
theo xu hướng kiến trúc cổ điển Pháp hoặc mang nặng ảnh hưởng kiến
trúc tôn giáo và cung đình.
Trong các tác phẩm của ông, các yếu
tố mỹ thuật và kỹ thuật luôn mang tính đổi mới và sáng tạo, nhưng
điều quan trọng hơn, mỗi tác phẩm đều ẩn tàng một bản sắc độc đáo và
triết lý sâu sắc. Đặc biệt, trong công trình Dinh Thống Nhất, ông áp
dụng khoa chiết tự vào thiết kế mặt đứng: chữ Vương (王) và chữ Tam (三)
- tượng trưng cho Nhân, Minh, và Võ đức - để nhắc nhở những ai chủ
trì tại đó phải có tài đức của một nhà lãnh đạo, chữ Chủ (主) - giữ
vững chủ quyền đất nước, chữ Khẩu (口) - đảm bảo tự do ngôn luận của
người dân, chữ Trung (中) - trung với quốc dân, và chữ Hưng (興) - làm
sao cho đất nước ngày càng hưng thịnh, tổng thể khối kiến trúc Dinh
thống nhất có hình chữ Cát (吉) có nghĩa là tốt lành.....Trong công
trình Trung tâm Nguyên tử Đà Lạt, ông thay đổi thiết kế khối hình
vuông thô kệch ban đầu của Mỹ bằng cơ cấu mang hình tượng Lò Bát quái
để nhắc nhở việc sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hoà bình." (
14 )
Nói chung, những lời viết hầu hết là khen ngợi KTS
Ngô Viết Thụ. Tất cả đều đồng ca một giọng điệu, có lẽ họ theo bản giới
thiệu Dinh Độc lập của Công Ty Du Lịch Nhà Nước. Quả vậy, nhìn qua
những công trình của KTS Ngô Viết Thụ ta thấy một nét tao nhã, đầy sáng
tạo. Nếu so sánh dinh Norodom và dinh Độc Lập thì dinh Norodom tối tăm,
nặng nề còn dinh Độc lập thì sáng sủa, nhẹ nhàng. Chúng ta phải công
nhận rằng KTS Ngô Viết Thụ là người chân tài. Tuy nhiên, nhân vô thập
toàn, trong cái đẹp , cái tốt cũng có những điều mà một vài kẻ bình phẩm
này nọ.
Cái tao nhã của Dinh Độc Lập cũng là cái yếu của dinh
Độc Lập, và một số lớn kiến trúc Việt Nam mong manh như cô gái Việt Nam,
nó không có vẻ bề thế, dày dặn, vĩ đại của kiến trúc Pháp. Nếu không
tính diện tích to lớn của dinh Độc Lập mà xét về nét kiến trúc thì
Dinh này thua Kiến trúc của tòa Thánh Cao Đài, của nhà chú Hỏa ở Saì
gòn và nhà của công tử Bạch ở Bạc Liêu.
Một miếng đất rộng như
thế, và là một cơ quan quyền lực cả nước mà khiêm tốn như thế quả là "
hòn núi đẻ ra chuột nhắt"! Nhìn qua phòng tiếp tân, phòng làm việc của
Tổng Thống thì thấy quá nhỏ như là những phòng trong cung thất vua
chúa Đại Hàn qua phim ảnh. Dinh Độc Lập thật ra chỉ là khách sạn hay
nhà hàng hạng trung ở Âu Mỹ! Có thể ngân sách eo hẹp, phải làm cấp tốc
nên KTS NGô Viết Thụ đành " liệu cơm gắp mắm"? Hay là do truyền thống
và đầu óc bé nhỏ của người Việt Nam?
Cái đình bát quái ở phía
trái đàng sau dinh quả là một kiến trúc cô đơn , lạc lỏng và vô dụng vì
tổng thống và quan khách không ai ra ngồi đó.
Điều vô cùng quan
trọng là xưa nay người ta cho rằng dinh Norodom quá hung hiểm bởi vì
đại lộ Norodom (Thống Nhất) đâm thẳng vào dinh. Đây là một điểm tối kị
trong phong thủy. Bởi vậy mà Nhật thắng Pháp, và Pháp phải bỏ Việt
Nam mà về! Rồi Ngô Đình Diệm bị thả bom, bị giết. Nhưng các kiến trúc
Âu Mỹ đều có đại lộ đâm thẳng vào như thế mà người ta vẫn cường thịnh!
Và người ta cũng nói rằng các thương gia Trung quốc ghét các đại lộ đâm
vào nhà nhưng các cơ sở thương mại của họ lại chọn "cách cuộc" này!
Không
phải chỉ dân ta mới tin phong thủy, tin dị đoan. Chính người Tây
phương cũng mê tín, di đoan. Họ sợ con số 13, họ tin rằng ném một vài
xu vào hồ nước thì mọi ước nguyện sẽ thành tựu. Khi vào nhà mới, người
Âu Mỹ cũng có tục ném tiền vào khắp các nơi trong nhà để cầu tài. Tiền
cổ chừng nào thì có giá trị phong thủy chừng ấy.
Xét Dinh Độc
Lập, ta thấy đang trước có rừng cây là Sở Thú, đàng sau có rừng cây là
vườn Tao Đàn. Số nhà của Dinh Norodom là 135, cộng là 9 nút.Người ta
đặt viên đá đầu tiên, trong đó có nhét tiền cổ bằng vàng, bạc có hình
Napoléon.
Kiến trúc cổ Việt Nam kiêng đường đâm thẳng vào nhà,
người ta thường làm cái bình phong án ngữ. Pháp không làm bình phong
nhưng làm thảm cỏ và vườn hoa khiến cho người ta phải đi rẽ qua hai bên
cũng giống như Á Đông ta. Đàng trước mặt tiền, người Pháp cũng làm hồ
phun nước để ngăn ác khí từ ngoài đâm vào. KTS NGô VIết Thụ cũng dùng
bãi cỏ và bồn nước như thế.
KTS NGô Viết Thụ cũng áp dụng vài
cách thức Đông lẫn Tây. Người ta khen KTS Ngô Viết Thụ thông thạo chữ
Hán, biết áp dụng chiết tự vào trong kiến trúc. Điều này thì cũng đúng
với văn hóa Đông phương trong đó có văn hóa Việt Nam. Người ta đặt tên
cho con là Thông, Minh, Hùng Dũng, là mong con tài giỏi, dũng cảm nhưng
con cái của họ có thông minh, dũng cảm hay không lại là vấn đề khác.
Người
ta đặt tên tỉnh là Hòa Bình, Kiến An cũng là mong bình an nhưng tỉnh
có an ninh hay không lại là chuyện khác. Ngày tết người ta bày mâm ngũ
quả là mong được ngũ phúc, được kết quả trong đời nhưng không phải
trong năm nhà nào cũng được hạnh phúc. Thành thử những chữ Hưng, Trung
trong dinh Độc Lập cũng nằm trong chiều hướng đó.
Vì ham mê
chiết tự, KTS Ngô Viết Thụ làm cho cái mặt tiền sinh ra rườm rà, không
có tính thống nhất. Về chữ Trung, nếu là trung với vua , với nước thì
phải có chữ Tâm 忠 , còn không có chữ tâm thì trung 中 là chính giữa,
cũng có nghĩa là trúng ( trúng dao, trúng đạn, trúng kế...). Than ôi!
nhìn xa, cái cột cờ chính là mũi giáo đâm vào miệng口
hay trái tim của dinh Độc Lập. Đây là điểm mà phong thủy hết sức cấm
kị, tuyệt đối tránh những vật nhọn ở gần hay ở xa chĩa vào mình, đâm
vào mình.
Chữ cát吉
là tốt, nhưng đồng âm với chữ cát 割 là chia cắt, là tổn hại . Về phong
thủy, người ta kiêng kiểu đất thót hậu, nghĩa là đàng sau thót lại
kiểu đầu voi đuôi chuột. Cái nhà tốt, đất tốt là phải vuông vích ( hình
vuông hay chữ nhật) , hay nở hậu, nghĩa là mong được lâu dài, về sau
được tốt đẹp. Kiểu nhà xây theo chữ cát là thót hậu và thót ở giữa nghĩa
là trung vận và hậu vận đều kém.
Cùng với tấm rèm đá trắng này
ông còn dùng hai bên những trang trí tượng hình quẻ Ly 離 là phương
Nam , là hỏa. Trong 1945, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, người ta
tạo ra cờ quẻ Ly. Ly là phương Nam, là sáng láng, rực rỡ, văn minh.
Ý
mong mỏi nước Nam ta rực rỡ, thịnh vượng nhưng các cụ quên mất Ly
cũng có nghĩa là chia rẽ, và hỏa cũng có ý nghĩa là chiến tranh ( binh
hỏa). Nhất là cái vạch đứt đôi của quẻ ly ☲ ở chính giữa rỗng là
điềm đại hung, đại kị. cho nên liền đó các cụ sửa vạch đứt đổi thành
vạch liền hóa thành quẻ càn ☰ ( cờ quốc gia là cờ quẻ càn chứ
không phải quẻ Ly nữa) nhưng càn hay ly thì cũng là những vạch riêng
rẽ báo trước thảm họa chia ly, phân hóa : đất nước chia đôi, chia
ba, kẻ theo Nga, người theo Tàu, người theo Pháp, kẻ theo Mỹ.Điềm đã
ứng nghiệm lập tức sau 1945!
Chữ Ly và rèm đá trắng cùng ở mặt
tiền làm cho mặt tiền mất vẻ thống nhất, không được cái đồng bộ như
tòa Đại sứ Mỹ ở Saigon và trường đại học Y Khoa Saigon. .Hơn nữa nhìn
kỹ thì không phải là quẻ ly hay quẻ Càn mà là quẻ Khôn. Sáu ô mỗi
bên lầu hai là sáu vạch của quẻ Khôn ☷, ( càn tam liên, khôn lục
đoạn). Một vạch đứt đã xấu mà ba vạch đứt hóa ra sáu khúc lại vô
cùng hùng hiểm. Đó là nói về hình tượng. Còn ý nghĩa quẻ khôn cũng
xấu. Quẻ Khôn là cực âm, cực suy tàn. thì cũng rất bất lợi. Nhất là
quẻ Khôn nằm nghiêng nghĩa là đất sụp đổ thì lại vô cùng hung hiểm, là
điềm báo trước cơ nguy vong gia thất quốc!
Mặt tiền, KTS NGô
Viết Thụ đã dùng bức rèm đá hình cây trúc theo điển " Tiết trực Tâm Hư"
của nhà Nho ca tụng khí tiết cương trực của người quân tử. Đây chính là
điều mà Ông Diệm ưa thích, quốc huy thời ông Diệm chính là cành trúc.
Tấm rèm đá này ở giữa cũng có mục đích che chắn hung khí từ đại lộ Thống Nhất xông vào.
| |
Tuy
ý nghĩa trong tâm Tổng Thống Ngô Đình Diệm và KTS Ngô Viết Thụ là tốt
đẹp như thế song lúc thể hiện lại biến thái. Nhìn thật kỹ với đầu óc độc
lập, ta sẽ thấy những đốt trúc trắng này trông xa lại là hình xương
ống chân, ống tay. Cái mà người ta gọi là rèm lại chính là một số
xương ống tay, ống chân treo trên dinh Độc Lập. Nhân lực không thắng
thiên định. Đây là một điềm báo trước cái chết của gia đình ông Diệm và
nhân dân miền Nam trước cuộc xâm lăng cộng sản gây tang tóc và xương
máu. Nói chung, về Mỹ thuật và thuật phong thủy, dinh Độc lập có nhiều
điểm xấu.
Tần Thủy
Hoàng mong muốn trường thọ, muốn trường trị bách thế nhưng số trời đã
định, không thể cải mệnh trời. Đức Phật nói vạn vật vô thường, không
chế độ nào tồn tại mãi mãi. Đạt Ma sư tổ, Trương Tam Phong võ nghệ
tuyệt luân rồi cũng chết cho nên phong thủy, y học hay kiến trúc cũng
chỉ là tạm thời, là hạt bụi trong vũ trụ mênh mông. Mọi ước mong, tham
vọng rồi cũng thành tro bụi trước cảnh tang điền thương hải của cuộc đời
và số phận!
Sơn Trung
Ngày 19-8-2011
____
Tài liệu:
(1). Ngô Viết Thụ. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(2). Ngô Viết Nam Sơn. Mùa Xuân của cha tôi. Ngô Viết Thụ. Thứ Sáu, 04/02/2011
http://tuoitre.vn/Tet-Viet-2011/423458/Mua-xuan-cua-cha-toi---Ngo-Viet-Thu.html
(3).Nguyễn Hữu Thái. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ - Người cả đời tận tụy với nghề Kiến trúc.
http://kienviet.net/bai-viet/chi-tiet/kien-truc-su-ngo-viet-thu-nguoi-ca-doi-tan-tuy-voi-nghe-kien-truc
(4). Hà Giang.KTS Ngô Viết Thụ trong ký ức người con trai.
http://www.cand.com.vn/vi-VN/nguoinoitieng/2009/6/115448.cand
(5). Nghệ thuật Việt Nam thời Lý.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1%BB%87_thu%E1%BA%ADt_Vi%E1%BB%87t_Nam_th%E1%BB%9Di_L%C3%BD.
(6).Nguyễn Anh Tài. Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)
http://www.diendankientruc.com/vbb/archive/index.php?t-4543.html(7).Thượng Tùng.TS.KTS Ngô Viết Nam Sơn: Tư duy đúng thì xã hội sẽ tiến rất nhanh. Hội quy hoạch phát triển đô thị.
http://mag.ashui.com/index.php/congdong/kientrucsu/42-kientrucsu/3071-ts-kts-ngo-viet-nam-son-tu-duy-dung-thi-xa-hoi-se-tien-rat-nhanh.html
(8). Dinh Norodom. Wikipedia.
(9). Đinh Thanh Hải. Ngô Viết Thu.
.
http://my.opera.com/%C4%90inh%20Thanh%20H%E1%BA%A3i/blog/show.dml/3841467
(10). Di tích Văn Hóa. Dinh Độc Lập
http://www.dinhdoclap.gov.vn/default.aspx?tabid=240&Itemid=382
(11). Hoàng Thạch. Dinh Độc Lập của Việt Nam Cộng Hòa .
http://danchua.eu/2303.0.html?&tx_ttnews[tt_news]=4969&cHash=97f25aea71
(12). Nguyễn Hữu Thái. Dinh Độc Lập.
http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/167220/40-nam-dinh-Doc-Lap.html
(13). Phương Dung. Dinh Độc Lập. Tạp Chí Pháp Luật .
http://phapluattp.vn/20100419113224302p0c1013/dinh-doc-lap-noi-luu-nhieu-dau-an-cua-lich-su.htm
(14). KTS Ngô Viết Thụ.
http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?key=Ng%C3%B4+Vi%E1%BA%BFt+Th%E1%BB%A5&type=A0
Ngoài ra ông còn là tác giả của các công trình Tòa Đại sứ của Việt Nam tại Anh (1959), Biệt thự góc Nguyễn Thị Minh Khai và Phạm Ngọc Thạch (trước là tư gia của ông bà Ưng Thi, nay là Tòa Lãnh Sự Trung Quốc), Chung cư Pháp góc đường Điện Biên Phủ và Trần Quốc Thảo, Tháp Tiêu Năng Khu cửa ngõ vào Trung Tâm TP HCM từ đường Điện Biên Phủ, Trung Tâm Innotech (1975), Quần thể Việt Nam Quốc Tự (chỉ xây dựng được khoảng 1/8 vì lý do thời cuộc), Quy hoạch Kiến trúc Khu Thánh địa La Vang (với điêu khắc của điêu khắc sư Nguyễn Văn Thế), và Câu Lạc Bộ Thủy Thủ Quảng Ninh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.