Dự án Thủy điện Đồng Nai 6 và 6A:
Chủ đầu tư công bố Báo cáo đánh giá tác động môi trường
08:45 |14/11/2012NangluongVietnam - Trên công luận đang rộ lên thông tin trái chiều về việc xây dựng nhà máy thủy điện Đồng Nai 6 và 6A, theo các nhà khoa học, điều đó không có gì lạ, vì khi con người tác động vào tự nhiên đều có 2 mặt được và mất. Nhiệm vụ của những người ra quyết định là phải biết lắng nghe phản biện xã hội, tôn trọng các các ý kiến đa chiều, cân nhắc thận trọng để có quyết định hợp lý nhất. Tôn trọng ý kiến đề xuất của các chuyên gia, nhà khoa học và bạn đọc, Tòa soạn NangluongVietnam đưa vấn đề này ra tranh luận, với mong muốn có thêm những ý kiến phản biện khách quan, đa chiều, mang tính xây dựng cao và hài hòa các lợi ích: “năng lượng - môi trường” để các tổ chức xã hội, nghề nghiệp liên quan tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong thời gian tới.
Cùng đóng góp ý kiến để dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A đạt được các mục tiêu: Năng lượng - Môi trường
Ý kiến góp ý, phản biện xin gửi tới: toasoan@nangluongvietnam.vn hoặc comments ở cuối bài viết này.
Dưới đây là tổng hợp các ý kiến:
Báo cáo tóm tắt đánh giá tác động môi trường các dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6 A
I. Tổng quan các Dự án:
1. Căn cứ pháp lý và xuất xứ của các dự án:
Bậc thang thủy điện Đồng Nai 6 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quy hoạch bậc thang thủy điện sông
Đồng Nai tại Công văn số 1483/CP-CN ngày 19/11/2002 với công suất 180
MW, sản lượng điện bình quân năm 773,6 triệu kWh, chiều cao đập lớn nhất
98 m, hồ chứa có dung tích toàn bộ 683 triệu m3, diện tích
ngập hồ chứa là 1.954 ha, trong đó có 732 ha diện tích đất thuộc Vườn
Quốc gia Cát Tiên và 1.222 ha diện tích đất thuộc rừng phòng hộ của hai
tỉnh Đăk Nông và Bình Phước; có 33 hộ dân (165 khẩu) phải tái định cư và
03 công trình phải di dời (01 trường học, 01 trạm y tế và 01 trạm kiểm
lâm).
Từ tháng 5/2007, được sự đồng ý của Thủ
tướng Chính phủ, UBND các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông và Bình Phước, Công ty
Cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai (Tập đoàn ĐLGL) đã nghiên cứu và hợp
đồng với Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1 (PECC1) khảo sát, lập
Báo cáo đầu tư, Báo cáo đánh giá tác động môi trường (giai đoạn Báo cáo
đầu tư) và tháng 8/2009 đã hợp đồng với Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng
Điện 4 (PECC4) lập Dự án đầu tư, hợp đồng với Viện Quy hoạch Thủy lợi
miền Nam và Viện Môi trường và Tài nguyên - Đại học Quốc gia thành phố
HCM lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các dự án này.
Trên cơ sở quy hoạch bậc thang thủy điện
sông Đồng Nai năm 2002, với mục đích nghiên cứu khai thác được tiềm năng
thủy điện đồng thời lại giảm thiểu tối đa diện tích chiếm đất, rừng và
ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường, sinh thái, Báo cáo đầu tư và Dự
án đầu tư đã nghiên cứu khảo sát, xem xét nhiều vị trí tuyến, kết quả đã
đề xuất chia bậc thang Thủy điện Đồng Nai 6 theo quy hoạch năm 2002
thành hai bậc thang: Thủy điện Đồng Nai 6 (ĐN6), công suất 135MW và Thủy
điện Đồng Nai 6A (ĐN6A), công suất 106 MW; tổng công suất hai Dự án là
241 MW; tổng sản lượng điện hằng năm là 929,16 triệu kWh (công suất tăng
thêm 61 MW, sản lượng điện hàng năm tăng thêm 155,56 triệu kWh so với
phương án quy hoạch năm 2002) nhưng giảm thiểu được diện tích chiếm đất
và ảnh hưởng tác động đến Vườn Quốc gia Cát Tiên. Tổng diện tích chiếm
đất của hai dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A theo đề xuất nêu trên chỉ còn
372,23 ha, giảm 1581,77 ha, trong đó diện tích chiếm đất thuộc khu Cát
Lộc Vườn Quốc gia Cát Tiên là 136,98 ha, giảm 595,02 ha, diện tích chiếm
đất rừng phòng hộ là 235,25 ha, giảm 986,77 ha so với phương án trong
quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2002.
2.Vị trí dự án nằm ở rìa phía bắc khu Cát Lộc, Vườn Quốc Gia Cát Tiên:
Các dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A nằm ở vị
trí trung lưu dòng chính sông Đồng Nai và là rìa phía Bắc của khu Cát
Lộc - Vườn Quốc Gia Cát Tiên. Hai Dự án này nằm kẹp giữa các bậc thang
thủy điện của dòng chính sông Đồng Nai gồm các thủy điện phía thượng lưu
là: Đơn Dương (Đa Nhim), Đại Ninh, Đồng Nai 2, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4
và Đồng Nai 5; phía hạ lưu là Đồng Nai 8 mà theo quy hoạch hiệu chỉnh do
Bộ Công thương phê duyệt năm 2009 được thay thế bằng 5 bậc thang thủy
điện nhỏ hơn (Tà lài, Phú Tân 1, Phú tân 2, Thanh Sơn, Ngọc Định) và
cuối cùng là thủy điện Trị An.
Các dự án này đều có nhà máy, đường giao
thông, các công trình phụ trợ nằm ngoài Vườn Quốc gia Cát Tiên. Dự án
thủy điện ĐN6 có vị trí đập, lòng hồ bờ phải và nhà máy nằm ở địa phận
hai xã Hưng Bình và Đăk Sin, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông; Dự án thủy
điện ĐN6A có vị trí đập, lòng hồ bờ phải và nhà máy thuộc địa phận xã
Đồng Nai, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước và xã Hưng Bình, huyện Đăk
Rlấp, tỉnh Đăk Nông; Lòng hồ bờ trái của hai Dự án này nằm ở địa phận
hai xã Phước Cát 2 và Đồng Nai Thượng, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng
thuộc phạm vi khu Cát Lộc, Vườn Quốc gia Cát Tiên. Đường giao thông đến
các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A được nâng cấp từ các đường liên xã hiện
có nằm trên địa phận các huyện Đăk Rlấp tỉnh Đăk Nông và huyện Bù Đăng
tỉnh Bình Phước.
Hai thủy điện ĐN6 và ĐN6A cách khu vực
Bàu Sấu và khu Nam Cát Tiên của Vườn Quốc gia Cát Tiên 30km qua trung
tâm huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Theo đường sông, khoảng cách từ thủy
điện ĐN6 và ĐN6A đến Bàu Sấu lần lượt là 60km và 50km.
Dư luận thường có sự nhầm lẫn các địa
danh Đồng Nai và rừng Nam Cát Tiên. Các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A có
liên quan đến tên Đồng Nai nhiều lần (như xã Đồng Nai Thượng huyện Cát
Tiên, tỉnh Lâm Đổng; xã Đồng Nai, huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước; rừng
phòng hộ Đồng Nai thuộc Công ty Cao su Phú Riềng tỉnh Bình Phước) nhưng
hoàn toàn không nằm trên địa phận tỉnh Đồng Nai. Còn khu rừng cấm Nam Cát Tiên
được người dân phía Nam biết đến nhiều (là khu Nam Cát Tiên của Vườn QG
Cát Tiên, nơi có Bàu Sấu) nằm ở huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai, cách Dự
án thủy điện ĐN6 và ĐN6A (nằm ở rìa phía bắc khu Cát Lộc) lần lượt là
50km và 60 km theo đường sông và còn cách qua một khu thị tứ là thị trấn
Đồng Nai, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Rừng cấm Nam Cát Tiên này khác với rừng phòng hộ Nam Cát Tiên (có thủy điện ĐN6 và ĐN6A) thuộc huyện Đăk Rlấp tỉnh Đăk Nông và hai khu rừng này cách nhau trên 70km.
3. Thủy điện ĐN6 và ĐN6A có hồ chứa nhỏ dạng dải hẹp theo sông, điều tiết ngày
Hệ thống bậc thang thủy điện trên dòng
chính sông Đồng Nai bao gồm: Hồ Đơn Dương - thủy điện Đa Nhim (vận hành
năm 1964), Đại Ninh (vận hành năm 2007), Đồng Nai 2 (vận hành cuối năm
2012), Đồng Nai 3 (vận hành năm 2011), Đồng Nai 4 (vận hành năm 2012),
Đồng Nai 5 (đang xây dựng, dự kiến vận hành năm 2015), Đồng Nai 6 và
Đồng Nai 6A (Dự án đầu tư), 5 bậc thủy điện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
thay thế cho Đồng Nai 8 (Quy hoạch), Trị An (vận hành năm 1986).
Có 2 hồ chuyển nước sang lưu vực khác là :
hồ Đa Nhim và Đại Ninh; các hồ còn lại đều trả nước về dòng chính sông
Đồng Nai, trong đó có 3 hồ có dung tích lớn, điều tiết năm và nhiều năm
là: Đồng Nai 2 (dung tích hữu ích 239,60 triệu m3), Đồng Nai 3 (dung tích hữu ích 863,3 triệu m3), Trị An (dung tích hữu ích 2,55 tỷ m3), các hồ còn lại bao gồm cả ĐN6 (dung tích hữu ích 15,51 triệu m3) và ĐN6A (dung tích hữu ích 9,67 triệu m3 ) đều có dung tích nhỏ và chỉ là hồ điều tiết ngày.
Do đặc điểm địa hình khu vực thủy điện ĐN6 và ĐN6A khá dốc, độ dốc hai bờ từ 25o đến 50o
nên các hồ chứa này nhỏ và có dạng dải hẹp dài dọc theo sông hiện hữu.
Khoảng cách từ mép sông hiện hữu (ranh giới Vườn quốc gia Cát Tiên) đến
mép hồ ở mực nước dâng bình thường về phía Vườn Quốc gia Cát Tiên bình
quân khoảng 53m, lớn nhất ở vị trí đập (ĐN6 là 112m và ĐN6A là 176m) và
nhỏ dần đến phạm vi lòng sông cũ về phía thượng lưu. Khu vực ngập thêm
của hồ chứa cũng là khu vực thường bị ngập tự nhiên về mùa lũ.
Các nhà máy thủy điện đặt ngay sau đập
(tương tự thủy điện Trị An), nước qua tua bin phát điện trả lại ngay
dòng sông nên không gây ra “đoạn sông chết”.
4. Các hạng mục công trình chính và phục vụ thi công đều nằm ngoài phạm vi Vườn Quốc gia Cát Tiên:
Các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A có nhà
máy, đường dây điện đấu nối lưới điện Quốc gia, đường giao thông phục vụ
thi công, vận hành, mỏ vật liệu, khu phụ trợ, lán trại thi công đều bố
trí ở phía bờ phải ngoài phạm vi Vườn Quốc gia Cát Tiên.
Tổng diện tích sử dụng đất của hai Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A là 372,23 ha. Trong đó :
- Diện tích sử dụng đất lâu dài (lòng hồ và công trình): 323,53 ha
- Diện tích sử dụng đất tạm thời (công trình tạm): 48,70 ha
(Diện tích sử dụng đất tạm thời chỉ được
sử dụng trong thời gian thi công và sẽ được san trả, trồng lại rừng sau
khi hoàn thành xây dựng công trình).
Theo phạm vi quản lý rừng, diện tích sử dụng đất hai dự án này như sau:
- Khu Cát Lộc -Vườn Quốc gia Cát Tiên là 136,98 ha. Trong đó:
+ Diện tích sử dụng đất lâu dài: 128,37 ha
+ Diện tích sử dụng đất tạm thời: 8,61 ha
- Rừng phòng hộ Nam Cát Tiên, rừng phòng hộ Đồng Nai và Lộc Bắc là 235,25 ha. Trong đó:
+ Diện tích chiếm đất lâu dài: 195,16 ha
+ Diện tích chiếm đất tạm thời: 40,09 ha
5. So sánh các dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A với các thủy điện khác
So sánh với các thủy điện tương đương khác được liệt kê trong bảng dưới đây:
Stt
|
Dự án
|
CS (MW)
|
Điện lượng (triệu kWh)
|
Dung tích toàn bộ hồ chứa (triệu m3)
|
Diện tích mặt hồ (km2)
|
Tỷ lệ diện tích mặt hồ/công suất (ha/MW)
|
Số hộ/số người phải tái định cư
|
Diện tích đất nông nghiệp bị ảnh hưởng (ha)
|
1
|
Tuyên Quang
|
342
|
1329.00
|
2246
|
81.49
|
23.83
|
4230 / 20633
|
1557
|
2
|
Trung Sơn
|
260
|
1029.50
|
349
|
13.13
|
5.05
|
507 / 2520
|
311
|
3
|
Bản Vẽ
|
320
|
1084.20
|
1835
|
45.85
|
14.33
|
589 / 2945
|
4703
|
4
|
Quảng Trị
|
64
|
214.00
|
163
|
8.61
|
13.45
|
347 / 1972
|
162
|
5
|
A Vương
|
210
|
1178.00
|
344
|
9.09
|
4.33
|
380 / 1475
|
262
|
6
|
Sông Ba Hạ
|
220
|
825.00
|
350
|
54.66
|
24.85
|
462 / 2302
|
4310
|
7
|
Pleikrong
|
100
|
417.20
|
1048
|
53.28
|
53.28
|
1276 / 5851
|
2340
|
8
|
Ialy
|
720
|
3650.00
|
1037
|
64.50
|
8.96
|
1658 / 8475
|
645
|
9
|
Đại Ninh
|
300
|
1178.00
|
330
|
18.87
|
6.29
|
293 / 1562
|
2339
|
10
|
Đồng Nai 2
|
78
|
339.60
|
543
|
12.32
|
15.79
|
||
11
|
Đồng Nai 3
|
180
|
594.90
|
1424
|
56.00
|
31.11
|
||
12
|
Đồng Nai 4
|
340
|
1109.50
|
337
|
8.50
|
2.50
|
||
13
|
Đồng Nai 5
|
150
|
604.43
|
106
|
4.18
|
2.79
|
||
14
|
(Đồng Nai 6
|
135
|
519.83
|
64
|
3.30
|
2.44
|
0 / 0
|
0
|
15
|
Đồng Nai 6A
|
106
|
409.33
|
31
|
2.31
|
2.18
|
0 / 0
|
0
|
16
|
Hàm Thuận - Đa My
|
475
|
1555.00
|
695
|
34.40
|
7.24
|
||
17
|
Thác Mơ
|
150
|
610.00
|
1360
|
109.00
|
72.67
|
479 / 2395
|
1320
|
18
|
Trị An
|
400
|
1760.00
|
2765
|
323.40
|
80.85
|
3260 / 17823
|
5635
|
Trung bình
|
252.78
|
1022.64
|
20.66ha /MW
|
4.37hộ/22người/ MW
|
7.64ha/ MW
|
- Trong số các thủy điện trong bảng so
sánh nêu trên, thủy điện ĐN6 và ĐN6A có dung tích hồ chứa và diện tích
mặt hồ nhỏ nhất. Trung bình tỷ lệ diện tích mặt hồ trên 1 MW công suất
của các thủy điện trong bảng trên là là 20,66 ha/MW, cao nhất là Trị An
80,85 ha/MW, Thác Mơ là 72,67 ha/MW, Pleikrong là 53,28 ha/MW, Đồng Nai 3
là 31,11 ha/MW, thủy điện ĐN6 và ĐN6A có tỷ lệ này là thấp nhất tương
ứng chỉ là 2,18 ha/MW và 2,44 ha/MW (bao gồm cả diện tich lòng sông hiện
hữu), nhỏ hơn gần 10 lần tỷ lệ trung bình và nhỏ hơn 37 lần so với Trị
An. Dung tích hồ chứa các thủy điện ĐN6 và ĐN6A là 64 triệu m3 và 31 triệu m3 cũng rất nhỏ so với các thủy điện khác trên sông Đồng Nai như Đồng Nai 2 là 534 triệu m3, Đồng Nai 3 là 1,424 tỷ m3, Đồng Nai 4 là 337 triệu m3 , Đồng Nai 5 là 106 triệu m3 và Trị An là 2,765 tỷ m3.
So sánh này này cho thấy phương án thiết kế của các Dự án thủy điện
ĐN6 và ĐN6A đã chọn có quy mô hồ chứa và diện tích sử dụng đất là rất
nhỏ và nhỏ nhiều lần so với các thủy điện khác. Điều này đã giảm thiểu
tối đa được ảnh hưởng đến môi trường và đặt biệt là Vườn Quốc gia Cát
Tiên.
- Trong phạm vi chiếm đất của các Dự án
thủy điện ĐN6 và ĐN6A không có dân cư và đất nông nghiệp nên không phải
đền bù đối với đất nông nghiệp (chỉ hỗ trợ đền bù hoa màu cho 2,9 ha do
người dân xâm canh) và không phải thực hiện công tác di dân, tái định
cư. Ưu điểm này là hầu như không có ở các dự án thủy điện khác trên lãnh
thổ Việt Nam mà nếu phải thực hiện công tác di dân tái định cư sẽ gặp
rất nhiều khó khăn, phức tạp. Theo thống kê ở các dự án thủy điện trong
bảng trên cho thấy bình quân các dự án cần thực hiện di dân, tái định cư
cho 4,37 hộ/MW với 22 người/MW, diện tích đất nông nghiệp bị ảnh hưởng
bình quân là 7,64 ha/MW, diện tích đất rừng (và đất khác) bị ảnh hưởng
là 13 ha/MW. Việc phải thực hiện di dân, tái định cư cũng phải mất thêm
một diện tích qũy đất đáng kể. Ngoài ra việc không phải di dân, tái
định cư của các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A sẽ không làm xáo trộn cuộc
sống, văn hóa của người dân khu vực dự án.
- Điển hình một dự án có quy mô tương tự
là thủy điện Trung Sơn 260MW trên sông Mã thuộc tỉnh Thanh Hóa hiện đã
được Chính phủ phê duyệt và chuẩn bị khởi công vào cuối năm nay 2012. Dự
án này đã được Ngân hàng thế giới (WB) chấp thuận cho vay mà một trong
yêu cầu nghiêm ngặt để được WB tài trợ là dự án phải ít tác động đến
môi trường. Dự án thủy điện Trung Sơn có diện tích sử dụng đất 1378 ha,
bình quân 5,3ha/MW, trong đó có ảnh hưởng 603 ha đất thuộc các khu bảo
tồn thiên nhiên Xuân Nha (Sơn La), khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu (Thanh
Hóa) và khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò (Hòa Bình). Dự án cũng
phải di dân tái định cư cho 527 hộ với 2520 người. So sánh với các dự án
thủy điện ĐN6 và ĐN6A (có 372 ha, trong đó có 137 ha rừng nghèo và lồ ô
thuộc khu Cát Lộc Vườn Quốc gia Cát Tiên, không có di dân tái định cư)
thì các tác động môi trường và xã hội của các thủy điện ĐN6 và ĐN6A ít
hơn rất nhiều.
- So sánh giá bán điện của một số dự án
thủy điện đang được xây dựng trong bảng dưới đây cho thấy các Dự án thủy
điện ĐN6 và ĐN6A có giá bán điện 4,4 US Cent là thấp hơn giá bán điện
của các thủy điện khác. So với nhiệt điện, giá bán điện của các Dự án
thủy điện ĐN6 và ĐN6A chỉ bằng khoảng 70% giá bán điện của nhiệt điện
than và khí (6-6,3 USCent) và bằng khoảng 22% giá nhiệt điện dầu FO/DO
(>20 USCent).
Stt
|
Dự án
|
CS (MW)
|
Điện lượng (triệu kWh)
|
Số giờ sử dụng CS lăp máy (giờ)
|
Giá bán điện (USCent/kWh)
|
Thời điểm tính
|
1
|
Đăk Mi 4
|
190
|
752.51
|
3982
|
4.5
|
2007
|
2
|
Sông Bung 4
|
156
|
514.10
|
3296
|
6.0
|
2008
|
3
|
Đồng Nai 2
|
78
|
339.60
|
4354
|
5.0
|
2009
|
4
|
-Đồng Nai 5
|
150
|
604.43
|
4030
|
5.0
|
2010
|
5
|
Thủy điện vừa và nhỏ (theo giá chi phí tránh được năm 2012)
|
<30
|
4.6 - 5.0
|
2012
|
||
6
|
Đồng Nai 6
|
135
|
519.83
|
3851
|
4.4
|
2012
|
7
|
Đồng Nai 6A
|
106
|
409.33
|
3862
|
4.4
|
2012
|
8
|
Nhiệt điện Công Thanh (chạy than)
|
600
|
6.2
|
2012
|
||
9
|
Nhiệt điện khí
|
6.0-6,3
|
2012
|
|||
10
|
Nhiệt điện dầu (FO/DO)
|
>20
|
2012
|
6. Các quy hoạch đã đạt được của hai Dự án này
Các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A đã được
hiệu chỉnh để giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng môi trường và Vườn Quốc
gia Cát Tiên. Đã được các Bộ và địa phương gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ
Tài nguyên và Môi trường, Bộ Quốc phòng và Bộ Công thương, UBND tỉnh Lâm
Đồng, UBND tỉnh Đăk Nông và UBND tỉnh Bình Phước, Tập đoàn Điện lực
Việt Nam, Vườn Quốc gia Cát Tiên có ý kiến góp ý, thẩm định, phê duyệt
và đưa vào 5 quy hoạch sau:
(1). Được điều chỉnh, bổ sung trong Quy
hoạch bậc thang Thủy điện sông Đồng Nai (đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt năm 2002) theo Công văn số 6163/VPCP-KTN ngày 08/9/2009 của Văn
phòng Chính phủ và Quyết định số 5117/QĐ-BCT ngày 14/10/2009 của Bộ Công
thương.
(2). Được đưa vào Quy hoạch Phát triển
Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 tại Quyết định
số 1208/QĐ-TTg ngày 21/07/2011 của Thủ tướng Chính phủ với lộ trình
thủy điện ĐN 6 đưa vào vận hành năm 2015 và thủy điện ĐN 6A đưa vào vận
hành năm 2016.
(3). Diện tích sử dụng đất thuộc phạm vi
Vườn Quốc gia Cát Tiên của hai Dự án này đã được đưa vào quy hoạch và
chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất lâm nghiệp của Vườn này sang xây
dựng công trình thủy điện trong Quy hoạch Bảo tồn và Phát triển bền vững
Vườn Quốc gia Cát Tiên giai đoạn 2010-2020 tại Quyết định số
1535/QĐ-BNN-TCLN ngày 11/07/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn.
(4). Được quy hoạch đấu nối vào đường dây
truyền tải điện Quốc gia 220 kV Đăk Nông - Phước Long – Bình Long theo
Quyết định số 1087/QĐ-BCT ngày 10/3/2011 của Bộ Công thương.
(5). Được UBND các tỉnh Lâm Đồng, Đăk
Nông và Bình Phước chấp thuận cho Tập đoàn ĐLGL xây dựng các thủy điện
ĐN6 và ĐN6A và cho phép chuyển đổi các phần diện tích sử dụng đất tương
ứng từ đất lâm nghiệp sang xây dựng các công trình thủy điện, đưa vào
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của các tỉnh.
Thủ tướng Chính phủ có văn bản số
45/TTg-KTN ngày 31/8/2011 gởi các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Bộ Tài nguyên Môi trường, UBND các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông và Bình
Phước yêu cầu luận chứng thêm các diện tích rừng và đất cần chuyển mục
đích sử dụng để thực hiện các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A để xem xét cho
việc chuyển đổi hay không; thẩm định và phê duyệt Báo cáo đánh giá tác
động môi trường.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
có công văn số 228/BNN-TCLN ngày 06/02/2012 Báo cáo Thủ tướng Chính phủ
và đánh giá là hai dự án này là có ảnh hưởng đến tài nguyên rừng, hoạt
động bảo vệ rừng tuy nhiên không đến mức làm thay đổi tiêu chí, mục
tiêu, nội dung xác lập Vườn Quốc gia Cát Tiên nhất là khu vực ngập nước
Bàu Sấu và khu rừng phòng hộ Nam Cát Tiên; kiến nghị chủ đầu tư hoàn
thiện Báo cáo đánh giá tác động môi trường để có căn cứ xem xét toàn
diện những tác động đến bảo tồn đa dạng sinh học của Vườn Quốc gia Cát
Tiên và môi trường khu vực. Nếu được phép xây dựng Chủ đầu tư phải đảm
bảo trồng lại rừng tương ứng diện tích chiếm đất, quản lý chặt chẽ việc
tận thu gỗ, lâm sản, không mở đường vận chuyển, thi công trong lâm phận
Vườn Quốc gia Cát Tiên.
II. Đánh giá tác động môi trường
Hồ sơ Báo cáo đánh giá tác động môi
trường các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A do Viện Môi trường và Tài nguyên -
Đại học Quốc gia thành phố HCM lập và đang trình Bộ Tài nguyên Môi
trường thẩm định, phê duyệt bao gồm:
- Báo cáo đánh giá tác động môi trường (báo cáo chính);
- Chuyên đề đa dạng sinh học;
- Chuyên đề tính toán thủy văn;
- Chuyên đề khảo sát, đánh giá kinh tế xã hội.
Đơn vị tư vấn đã tiến hành khảo sát thực
địa, đo đạc, thu thập dữ liệu và mẫu vật, tính toán phân tích các ảnh
hưởng, tác động đến môi trường, tài nguyên rừng, tài nguyên nguồn nước,
chế độ thủy văn sông Đồng Nai, đa dạng sinh học, công tác bảo tồn, hoạt
động sinh kế của người dân, nuôi trồng thủy sản, đặc trưng văn hóa của
dân cư bản địa; đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động xấu, phòng
ngừa và ứng phó sự cố môi trường; thiết lập chương trình quản lý giám
sát môi trường trong các giai đoạn:
- Khai hoang, san lấp chuẩn bị mặt bằng;
- Thi công xây dựng công trình;
- Vận hành công trình.
Đã tiến hành tham vấn cộng đồng với UBND
và UB Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 6 xã khu vực dự án gồm: Đồng Nai Thượng,
Phước Cát 2, Lộc Bắc huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng; Hưng Bình, Đăk Sin
huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông; Đồng Nai huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
Trực tiếp tổ chức điều tra, phỏng vấn và lấy ý kiến 137 hộ dân tại 14
thôn khu vực hai Dự án này. Kết quả 100% ý kiến đều đồng tình ủng hộ
việc xây dựng các Dự án thủy điện này.
1. Hiện trạng đất và rừng khu vực dự án:
Các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A có diện
tích sử dụng đất 372,23 ha, trong đó diện tích sử dụng lâu dài là 323,53
ha tương đương tỷ lệ 1,34 ha/MW là thấp nhất so với bình quân các dự án
thủy điện theo bảng liệt kê đã nêu bên trên là 20 ha/MW. Tập đoàn ĐLGL
cũng đã hợp đồng với các đơn vị tư vấn lâm nghiệp kiểm kê hiện trạng tài
nguyên rừng khu vực các Dự án này và đã được Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Chi cục Lâm nghiệp các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông và Bình
Phước chủ trì phúc tra, thẩm định và phê duyệt với sự tham dự và xác
nhận của các đơn vị chủ rừng là Vườn Quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), Ban
quản lý Rừng phòng hộ Nam Cát Tiên (Đăk Nông), Công ty Cao su Phú Riềng
(Bình Phước). Theo kết quả kiểm kê tài nguyên rừng, hiện trang diện tích
đất và rừng khu vực các dự án này có 4,32 ha (1,16%) là rừng giàu;
24,55 (6,60%) ha rừng trung bình; 299,71ha (80,52%) là rừng nghèo, rừng
hỗn giao, lồ ô, tre nứa; 23,68 ha (6,36%) đất có gỗ và không có gỗ tái
sinh, cây rừng phân tán; 14,31 ha (3,84%) là đất trống cây bụi; 5,66 ha
(1,52%) là ruộng rẫy, đường mòn, khe suối.
Trong tổng số diện tích sử dụng đất của
hai dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A có 60,68 ha để xây dựng công trình,
48,70 ha sử dụng tạm thời cho các hạng mục phụ trợ trong thời gian xây
dựng (sẽ được hoàn trả, trồng lại rừng sau khi hoàn thành xây dựng công
trình), 262,85 ha là phần đất bị ngập thêm khi công trình xây dựng hoàn
thành và đưa vào vận hành. Phần đất ngập nước hai bên bờ dọc theo đoạn
sông này của các thủy điện ĐN6 và ĐN6A (với biên độ dao động mực nước
trong phạm vi ±2,5m) sẽ hình thành một hệ sinh thái thủy vực mới, tăng
cường thêm độ ẩm, mực nước ngầm cho khu vực chung quanh tạo điều kiện
cho rừng khu vực này phát triển thêm. Việc chuyển đổi một phần nhỏ diện
tích đất với hiện trạng là rừng nghèo, lồ ô tại khu vực này và việc hình
thành một hệ sinh thái thủy vực mới sẽ tăng thêm sự phong phú cho các
hệ sinh thái hiện có tại khu vực này.
Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai được công
nhận là khu dự trữ thiên nhiên thế giới có 01 trong 03 vùng lõi là khu
ngập nước nội địa Trị An, được hình thành bởi đập thủy điện Trị An từ
năm 1986, có vị trí cách thành phố HCM 65km. Qua thời gian vận hành gần
30 năm, cùng với nhiệm vụ phát điện, hồ Trị An còn phát huy tác dụng đảm
bảo cung cấp nước sinh hoạt, nông nghiệp, đẩy mặn và điều tiết lũ cho
vùng hạ du gồm các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và thành phố HCM. Kết quả
tính toán thủy văn khi có thủy điện ĐN6 và ĐN6A cho thấy lưu lượng mùa
kiệt được gia tăng từ 1,30 m3/s đến 4,49 m3/s vào năm ít nước 90% (là
yếu tố tích cực) cho dòng chảy vào hồ Trị An.
2. Đánh giá khả năng ảnh hưởng đến chế độ dòng chảy hạ lưu và khu ngập nước Bàu Sấu
Chuyên đề tính toán thủy văn tư vấn đã
xác định nhu cầu sử dụng nước của lưu vực sông, tính toán cân bằng nước
so sánh giữa phương án chưa có thủy điện ĐN6 và ĐN6A (có hồ chứa của
các công trình thủy điện bậc thang đã vận hành và đang được xây dựng gồm
các hồ Đơn Dương, Đại Ninh, Đồng Nai 2, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Đồng
Nai 5) với phương án có thêm ĐN6 và ĐN6A; phạm vi tính toán đến tuyến
Đồng Nai 8 (bậc thang ngay phía trên hồ Trị An theo quy hoạch cũ); số
liệu thủy văn tính toán với các tần suất năm nhiều nước 10%, năm trung
bình nước 50%, năm ít nước 90%. Tính toán phương án vỡ một đập ĐN6A và
vỡ cả hai đập ĐN6 và ĐN6A, xác đinh phạm vi ngập, so sánh là tương đương
với các cơn lũ lịch sử năm 2000 và 2006.
Thông số bậc thang thủy điện trên dòng chính sông Đồng Nai (chưa kể 5 bậc thang tách ra từ Đồng Nai 8) như sau:
Stt
|
Tên công trình
|
Diện tích lưu vực hiện hữu (km2)
|
Lưu lượng bình quân năm (m3/s)
|
Tỷ lệ dung tích hữu ích trên tổng lượng nước đến
|
Dung tích toàn bộ (triệu m3)
|
1
|
Đa Nhim
|
775
|
22,60
|
21,93%
|
166,20
|
2
|
Đại Ninh
|
1 158
|
26,81
|
29,77%
|
319,80
|
3
|
Đồng Nai 2
|
1 860
|
56,60
|
13,42%
|
543,10
|
4
|
Đồng Nai 3
|
2 441
|
79,60
|
34,39%
|
1 423,60
|
5
|
Đồng Nai 4
|
2 590
|
84,85
|
0,62%
|
337,20
|
6
|
Đồng Nai 5
|
4 211
|
137,90
|
0,19%
|
106,33
|
7
|
Đồng Nai 6
|
4 323
|
156,00
|
0,32%
|
64,32
|
8
|
Đồng Nai 6A
|
4 677
|
164,00
|
0,19%
|
31,17
|
9
|
Trị An
|
15 400
|
475,00
|
17,00%
|
2 765,00
|
Với dung tích điều tiết các hồ chứa thủy
điện này chỉ bằng 0,32% (ĐN 6) và 0,19% (ĐN 6A) lượng dòng chảy năm,
nên các thủy điện ĐN6 và ĐN6A chỉ có khả năng điều tiết ngày. Qua các
kết qủa tính toán trong Dự án đầu tư và Báo cáo đánh giá tác động môi
trường cho thấy tác động đối với dòng chảy của hệ thống bậc thang thủy
điện trên dòng chính sông Đồng Nai là dòng chảy được gia tăng vào mùa
kiệt và giảm vào mùa lũ và do tác nhân chính là các hồ chứa có dung tích
lớn điều tiết năm và nhiều năm là Đồng Nai 2, Đồng Nai 3 và Trị An
(thực tế đã được chứng minh qua thời gian vận hành của hồ thủy điện Trị
An). Còn các hồ có dung tích nhỏ như Đồng Nai 4, Đồng Nai 5, Đồng Nai 6
và Đồng Nai 6A có góp phần tăng lưu lượng mùa kiệt (là yếu tố tích cực)
tuy nhiên rất nhỏ nên được xem là ảnh hưởng không đáng kể đến sự thay
đổi này. So sánh lưu lượng dòng chảy về hạ lưu khi chưa có ĐN6 và ĐN6A
(chỉ có các thủy điện bậc trên) và khi có ĐN6 và ĐN6A (cùng với các thủy
điện bậc trên) tại tuyến Đồng Nai 8 cho thấy lưu lượng mùa kiệt được
gia tăng từ 1,30 m3/s đến 4,49 m3/s
(vào năm ít nước 90%). Bên cạnh đó, các thủy điện ĐN6 và ĐN6A chỉ vận
hành xã lũ theo lưu lượng lũ về hồ và cũng không cắt lũ được. Theo quy
trình vận hành, khi vận hành xả lũ phải đảm bảo mực nước trước và sau lũ
ở mực nước dâng bình thường (là 224m của ĐN6 và 175m của ĐN6A). Điều
này có nghĩa là các thủy điện ĐN6 và ĐN6A không xả thêm lượng nước trong
dung tích chứa của hồ vào lưu lượng lũ xả xuống hạ lưu nên không thể
làm tăng thêm lũ.
Khu vực Bàu Sấu nằm ở hạ lưu suối Đắc Lua có diện tích lưu vực khoảng 290 km2
là một nhánh suối của sông Đồng Nai, nằm ở phía hạ lưu và cách các thủy
điện ĐN6 và ĐN6A lần lượt là 50km và 60km theo đường sông. Nguồn nước
Bàu Sấu được cung cấp bởi nước mưa tại chỗ và lượng nước từ thượng nguồn
suối Đăk Lua đổ về. Nước từ lưu vực suối Đăk Lua và Bàu Sấu chủ yếu
chảy ra sông Đồng Nai. Những năm nước lớn, số ngày có nước từ sông Đồng
Nai chảy vào suối Đăk Lua khoảng từ 5-10 ngày vào thời điểm có lũ lớn
và chỉ xảy ra trong thời gian ngắn, sau đó nước từ suối Đăk Lua với lưu
lượng lớn chảy lại ra sông Đồng Nai.
Trong Báo cáo đánh giá tác động môi
trường đã phân tích chế độ thủy văn sông Đồng Nai và suối Đăk Lua và đã
chứng minh các thủy điện ĐN6 và ĐN6A không ảnh hưởng đến chế độ thủy văn
suối Đăk Lua, Bàu Sấu và cũng hầu như không ảnh hưởng đến chế độ thủy
văn dòng chảy hạ du như đã nói trên. Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản
số 4921/VPCP-KTN ngày 04/7/2012 giao các Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ
Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng quy trình
vận hành liên hồ chứa thủy lợi, thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai
trong mùa lũ và mùa kiệt để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Kinh phí các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A
dự trù cho công tác giảm thiểu tác động, phục hồi môi trường, hỗ trợ
công tác bảo tồn, cộng đồng dân cư và bảo vệ rừng là 114,42 tỷ đồng
(ĐN6 là 57,16 tỷ đồng, ĐN6A là 57,26 tỷ đồng) gồm:
- Trồng và phục hồi rừng tương ứng diện tích chiếm đất;
- Hỗ trợ bảo tồn động vật hoang dã khu vực dự án;
- Thực hiện các công trình bảo vệ môi trường;
- Thu dọn sinh khối lòng hồ;
- Thực hiện chương trình giám sát môi trường;
- Hỗ trợ cộng đồng dân cư khu vực như nghề cá, xây dựng trường học, di dời mồ mả, thiệt hại hoa màu;
- Hỗ trợ tăng cường công tác bảo vệ rừng: Xây dựng thêm trạm kiểm lâm.
3. Vấn đề động đất và động đất kích thích
Cho đến nay ở Việt Nam và ngay cả trên
thế giới chưa có được những nghiên cứu thấu đáo về vấn đề động đất kích
thích. Việc xác định tiềm năng động đất kích thích hiện vẫn nhờ những số
liệu thống kê. Tổ chức UNESCO đã có thống kê về động đất kích thích xảy
ra trên nhiều hồ chứa lớn trên thế giới đã đi đến khuyến nghị về điều
kiện có thể phát sinh động đất kích thích là:
+ Cấu trúc địa chất vùng hồ chứa không ổn định, có các đứt gãy địa chất kiến tạo sinh chấn;
+ Chiều cao cột nước hồ chứa trên 90m;
+ Dung tích hồ lớn hon 1 tỷ m3 nước.
Tại Việt Nam đã xuất hiện các hiện tượng
động đất được công nhận là động đất kích thích tại khu vực hồ chứa lớn
sau khi tích nước như tại hồ chứa thủy điện Hòa Bình (có dung tích 9,87
tỷ m3, cột nước 105m), hồ chứa thủy điện Sông Tranh 2 (có dung tích 730 triệu m3,
côt nước 95 m). Cho đến nay các đợt động đất đã xuất hiện tại các khu
vực hồ chứa này có cấp độ động đất và gia tốc nền chưa vượt qúa cấp độ
động đất thiết kế và gia tốc nền thiết kế của công trình.
Các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A có dung tích hồ chứa là 64 triệu m3 ở ĐN6 và 31 triệu m3 ở ĐN6A nhỏ hơn nhiều lần trị số dung tích 1 tỷ m3,
có chiều cao cột nước ở ĐN6 là 48m chỉ bằng khoảng ½ và ở ĐN6A là 36m
nhỏ hơn ½ cột nước 90 m theo các trị số thống kê của UNESCO nêu trên.
Kết quả khảo sát địa chất khu vực phạm vi lòng hồ và tuyến đập các Dự án
thủy điện này cũng không có các đứt gãy địa chất sinh chấn cắt qua. Từ
các điểm nêu trên, cho thấy các thủy điện ĐN6 và ĐN6A không có khả năng
gây ra động đất kích thích. Ngoài ra tại khu vực này đã có các hồ chứa
thủy điện lớn đã tích nước và vận hành như Đồng Nai 3 (dung tích 1,424
tỷ m3, cột nước 115 m), Đồng Nai 4 ( dung tích 337 triệu m3, cột nước 120m), Trị An (dung tích 2,765 tỷ m3, cột nước 40m) cho đến nay chưa xuất hiện tượng động đất kích thích.
Trong giai đoạn Dự án đầu tư và Báo cáo
đánh giá tác động môi trường đã xem xét đến vấn đề động đất tại khu vực
công trình. Theo QCVN 02:2009/BXD Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam về số liệu
dùng trong xây dựng, TCXDVN 375:2006 Tiêu chuẩn Việt Nam về thiết kế
công trình chịu động đất, bản đồ kiến tạo và phân vùng động đất của
Viện Vật lý Địa cầu lập năm 2003 thì khu vực dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A
có phông động đất cấp Imax = 7 (MSK-64) và tham chiếu các trị số gia
tốc nền cực đại các khu vực lân cận đã kiến nghị trong giai đoạn dự án
đầu tư các thủy điện ĐN6 và ĐN6A nằm trong vùng phát sinh động đất Imax
= 7 (MSK-64), có gia tốc nền tương ứng trị số gia tốc nền cao nhất
trong khu vực công trình và lân cận theo các quy chuẩn xây dựng hiện
hành.
4. Các hiệu ích kinh tế xã hội của thủy điện ĐN6 và ĐN6A
Các Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A là hai Dự án thủy điện lớn, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, với các ưu điểm chính như sau:
- Tổng sản lượng điện hàng năm gần 1 tỷ
kWh, có thể cung cấp đủ lượng điện tiêu thụ cho 3 tỉnh Lâm Đồng, Đăk
Nông và Bình Phước từ nguồn năng lượng sạch, giá rẻ. Sản lượng điện này
tương đương với 540.000 tấn than đá hoặc 270.000 tấn dầu mỗi năm nếu sản
xuất bằng nhiệt điện, giảm được lượng phát thải khí nhà kính hàng năm
là 514.000 tấn khí CO2.
- Với diện tích sử dụng đất 372,23 ha,
trong đó diện tích chiếm đất lâu dài là 323,53 ha tương đương tỷ lệ 1,34
ha/MW là thấp nhất so với bình quân các dự án thủy điện khác trên lãnh
thổ Việt Nam là từ 10 đến 20 ha/MW.
- Phạm vi khu vực các Dự án không có dân
cư sinh sống và cũng không có đất nông nghiệp nên các Dự án này không
phải thực hiện công tác di dân, tái định cư, tái định canh. Điều này sẽ
không gây ra xáo trộn đời sống, văn hóa của dân cư đang sinh sống tại
khu vực.
- Các Dự án này kiểu thủy điện đập dâng,
hồ chứa nhỏ, nhà máy đặt ngay sau đập, sau khi phát điện nước được trả
lại ngay dòng sông nên không gây ra đoạn sông chết và hầu như không có
ảnh hưởng đến chế độ dòng chảy hạ du cũng như không ảnh hưởng đến Bàu
Sấu nằm ở Nam Cát Tiên.
- Kết quả phân tích hiệu ích kinh tế của
các Dự án này cho thấy dự án có hiệu qủa cao về kinh tế xã hội. Đóng góp
ngân sách cho nhà nước từ các khoản thuế tài nguyên, thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế VAT và phí dịch vụ rừng hàng năm là gần 350 tỷ đồng,
toàn bộ chu kỳ kinh tế 40 năm là gần 15.000 tỷ đồng và còn tiếp tục đóng
góp trong nhiều năm sau đó.
- Theo tiến độ thực hiện trong Dự án đầu
tư, thời gian xây dựng hai Dự án này là 4 năm, gồm 1 năm chuẩn bị và 3
năm xây dựng. Trong thời gian 3 năm xây dựng hai Dự án sẽ tạo ra việc
làm thường xuyên cho hơn 6.000 lao động. Sau khi Dự án hoàn thành tạo
ra việc làm thường xuyên, ổn định và lâu dài cho hàng ngàn lao động tại
hai nhà máy, cùng với việc trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, phát triển du
lịch sinh thái, nuôi trồng thủy sản.
- Hai Dự án này sẽ đóng góp phát triển cơ
sở hạ tầng cho khu vực như hệ thống đường giao thông, cung cấp điện,
trường học, trạm y tế, trạm kiểm lâm, gia tăng các hoạt động dịch vụ tạo
điều kiện nâng cao đời sống kinh tế xã hội, văn hóa, dân trí cho đồng
bào người kinh cũng như đồng bào dân tộc thiểu số như Châu Mạ, Stiêng,
K’Ho… tại khu vực công trình.
- Việc hình thành hồ chứa và các nhà máy
thủy điện sẽ tăng độ ẩm và mực nước ngầm tạo điều kiện cho rừng khu vực
chung quanh phát triển, hình thành nên một hệ sinh thái thủy vực mới,
góp phần tôn tạo cảnh quan thiên nhiên, cùng với các địa phương lân cận
và Vườn Quốc gia Cát Tiên sẽ phát triển du lịch sinh thái, góp phần phát
triển kinh tế xã hội của khu vực.
Công tác chuẩn bị và các thủ tục pháp lý
của hai Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A đã trải qua hơn 6 năm được nghiên
cứu và xem xét kỹ lưỡng. Tập đoàn ĐLGL đã thực hiện đúng theo các quy
định pháp luật. Thông tin dự án đã được cung cấp công khai minh bạch
trong các Hội thảo khoa học có sự tham dự của đại diện các cơ quan quản
lý Nhà nước, các nhà khoa học và các cơ quan thông tin , báo chí được
tổ chức tại Vườn Quốc gia Cát Tiên (tháng 7/2011), tại Hà Nội (tháng
9/2011) và tại Đồng Nai tháng (10/2011); các cuộc họp cúa Chính phủ, các
Bộ ngành TW và các địa phương Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai,
Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh và mới đây là buổi làm việc của
Đoàn Đại biểu Quốc Hội tỉnh Đồng Nai (tháng 10/2012) có sự tham dự của
đại diện Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND, UB Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tỉnh Đồng Nai, các sở ban ngành của tỉnh Đồng Nai, Chủ đầu tư và các cơ
quan truyền thông, báo đài. Buổi làm việc đã nhận được các ý kiến góp ý,
ủng hộ để Dự án được thực hiện với các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng
đến môi trường và Vườn Quốc gia Cát Tiên. Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi
trường Việt Nam cũng đã có văn bản gửi Quốc Hội và Chính phủ đề nghị
tiếp tục triển khai các Dự án này.
Tập đoàn ĐLGL kính mong Quý cơ quan quan
tâm, đánh giá, xem xét toàn diện các yếu tố hiệu quả, tác động môi
trường của dự án để trình các cấp thẩm quyền quyết định để phát triển
các dự án một cách hài hòa và bền vững.
Ý kiến của chủ đầu tư (Tập đoàn Đức Long Gia Lai)
Nằm trong chiến lược phát triển giai đoạn
2012 - 2020 của Tập đoàn Đức Long Gia Lai (ĐLGL Group) mà HĐQT đã phê
duyệt, khái thác và kinh doanh thủy điện là một trong những ngành nghề
được quan tâm hàng đầu. Tập đoàn ĐLGL đã, đang đầu tư một chuỗi lớn, nhỏ
hệ thống thủy điện tầm cỡ quốc gia, trong đó có Thủy điện Đồng Nai 6A
(ĐN6A) nằm trên địa bàn 3 tỉnh: Lâm Đồng, Đăk Nông và Bình Phước, được
Chính phủ, các bộ, ngành TW và UBND các tỉnh Đăk Nông, Lâm Đồng và Bình
Phước thống nhất chọn Tập đoàn ĐLGL làm chủ đầu tư.
Hai Dự án này, đã trải qua hơn 6 năm
chuẩn bị, được nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng và đảm bảo các thủ tục pháp
lý, thực hiện theo đúng các quy hoạch, tuân thủ theo các quy định pháp
luật và hướng dẫn của các cơ quan nhà nước.
Hiện nay, theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ (tại Văn bản số 45 TTg - KTN, ngày 31/8/2011 của Thủ tướng
Chính phủ), chủ đầu tư đã trình Bộ Tài nguyên & Môi trường thẩm định
và phê duyệt Báo cáo đánh giá tác dộng môi trưởng của hai Dự án Thủy
điện ĐN6, ĐN6A do Viện Môi trường và Tài nguyên Đại học Quốc gia thành
phố HCM lập.
Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn có
những ý kiến khác nhau giữa các nhà khoa học và dư luận xã hội về vấn đề
này, nhất là ảnh hưởng do tác động môi trường đối với hạ lưu sông Đồng
Nai, thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Chúng tôi theo dõi, lắng nghe ý kiến của
công luận và tiếp nhận thông tin từ phía các cơ quan thông tấn, báo chí
với thái độ hết sức cầu thị, trân trọng và mong rằng Chính phủ và các
bộ, ngành sẽ xem xét các ý kiến đó, trên cơ sở đánh giá hiệu ích kinh tế
- xã hội do các dự án mang lại so với tác động môi trường để giúp cho
Tập đòa ĐLGL hoàn chỉnh thủ tục pháp lý, triển khai thực hiện thành công
Dự án một cách hài hòa và bền vững.
Với trách nhiệm của chủ đầu tư, Tập đoàn ĐLGL chính thức công bố thông tin về hai dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A như sau:
I. Thủy điện ĐN6 và ĐN6A được
hình thành trên cơ sở Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia và được sử
đồng thuận cao của các bộ, ngành, địa phương có liên quan
Ngày 19.11.2002, Thủ tướng Chính phê
duyệt quy hoạch bậc thang thủy điện Đồng Nai 6 tại Công văn số
1483/CP-CN, với công suất 180 MW, sản lượng điện bình quân năm là 773,6
triệu kWh, chiều cao đập lớn nhất 98m, hồ chứa có dung tích toàn bô 683
triệu m3, diện tích ngập hồ chứa là 1.954 ha, trong đó có 732
ha diện tích đất thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên và 1.222 ha diện tích đất
thuộc rừng phòng hộ; có 33 hộ dân (165 khẩu) tái định cư và phải di dời
1 trường học, 1 trạm y tế và 1 trạm kiểm lâm.
Từ tháng 5/2007, được sử đồng ý của UBND
các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước và Thủ tướng Chính phủ, Tập đoàn
Đức Long Gia Lai (ĐLGL Group) đã nghiên cứu và hợp đồng với Công ty cổ
phần Tư vấn Xây dựng điện 1 (PECC1) khảo sát, lập báo cáo đầu tư, báo
cáo đánh giá tác động môi trường ( giai đoạn báo cáo đầu tư) và đến
tháng 8/2009 đã hợp đồng với Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng 4 (PECC4)
lập dự án đầu tư, hợp đồng với Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam, Viện
Môi trường và Tài nguyên (ĐH Quốc gia TP.HCM) lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường cho hai dự án này.
Trên cơ sở quy hoạch bậc thang thủy điện
sông Đồng Nai (năm 2002), với mực đích nghiên cứu khai thác được tiềm
năng thủy điện, đồng thời lại giảm thiểu tối đa diện tích chiếm đất,
rừng và tác động xấu đến môi trường, sinh thái, Báo cáo đầu tư và Dự án
đầu tư đã nghiên cứu khảo sát, xem xét nhều vị trí tuyến. Kết quả đã đề
xuất chia bậc thang thủy điện Đồng Nai 6 theo quy hoạch năm 2002 thành
hai bậc là Thủy điện Đồng Nai 6 (CS135 MW) và Thủy điện Đồng Nai 6A (CS
106 MW). Tổng công suất 2 bậc là 241 MW, tổng sản lượng điện hàng năm
gần 1 tỷ kWh (CS tăng thêm 61 MW, sản lượng điện hàng năm tăng thêm gần
160 triệu kWh) nhưng giảm thiểu được diện tích đất chiếm và ảnh hưởng
tác động đến Vườn Quốc gia Cát Tiên.
Cụ thể, tổng diện tích chiếm đất của hai
dự án này theo đề xuất nêu trên chỉ còn 372,23 ha (giảm 1581,77 ha),
trong đó diện tích chiếm đất thuộc khu Cát Lộc, Vườn Quốc gia Cát Tiên
là 136,98 ha (giảm 595,02 ha), diện tích đất chiếm rừng phòng hộ là
235,25 ha (giảm 986,77 ha so với phương án trong quy hoạch được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt năm 2002).
Các dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A đã được
hiệu chỉnh để giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng môi trường và Vườn Quốc
gia Cát Tiên, đã được các bộ, ngành liên quan cùng các địa phương thẩm
định, có kết luận thống nhất đưa các dự án này vào 5 quy hoạch như sau:
1. Quy hoạch bậc thang thủy điện sông
Đồng Nai đã được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt năm 2002 và được điều
chỉnh theo Văn bản số 6163/VPCP-KTN ngày 08/9/2009 của Văn phòng Chính
Phủ và Quyết định số 5117/QĐ - BCT ngày 14/10/2009 của Bộ Công Thương.
2. Quy hoạch phát triển Điện lực Quốc
gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến 2030, theo Quyết định số 1208/QĐ-TTg
ngày 21/07/2011 của Thủ tướng Chính phủ với lộ trình thủy điện ĐN6 đưa
vào vận hành năm 2015 và thủy điện ĐN6A đưa vào vận hành năm 2016.
3. Quy hoạch bảo tồn, phát triển bền
vững Vườn Quốc gia Cát Tiên giai đoạn 2010-2020 theo Quyết định số
1535/ QĐ-BNN-TCLN ngày 11/07/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn. Trong đó, diện tích sử dụng đất thuộc phạm vi Vườn Quốc gia chuyển
sang xây dựng công trình thủy điện.
4. Quy hoạch đầu nối vào đường dây
truyền tải điện quốc gia 220 kV Đăk Nông - Bình Phước - Bình Long theo
quyết định số 1087/QĐ- BCT ngày 10/3/2011 của Bộ Công Thương.
5. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020
của các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông và Bình Phước. Theo Đó, UBND các tỉnh
này chấp thuận cho Tập đoàn ĐLGL xây dựng các thủy điện ĐN6 và ĐN6A và
cho phép chuyển đổi các phần diện tích đất chiếm tương ứng từ đất lâm
nghiệp sang xây dựng các công trình thủy điện
Thông tin về hai dự án đã được cung cấp
công khai minh bạch trong hội thảo khoa học, các cuộc họp của Chính phủ,
các bộ, ngành TW và các địa phương: Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước,
Đồng Nai, Bình Dương, thành phố HCM và gần đây là buổi làm việc của Đoàn
ĐBQH tỉnh Đồng Nai (tháng 10/2012) có sự tham gia đại diện Tỉnh ủy,
HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh Đồng Nai, các cơ sở, ban ngành của tỉnh Đồng
Nai, chủ đầu tư đã nhận được các ý kiến góp ý, ủng hộ để Dự án được thực
hiện với các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường và Vườn Quốc
gia Cát Tiên.
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt
Nam cũng có văn bản gửi Quốc hội và Chính phủ đề nghị tiếp tục triển
khai Dự án. Đặc biệt, đã tiến hành tham vấn cộng đồng với UBND và
UBMTTQVN tại 6 xã, cùng với 137 hộ dân tại 14 thôn khu vực hai dự án
này và nhận được 100% ý kiến đề nghị xây Dự án
II. Ưu thế vượt trội và hiệu ích của Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A
1. Vị trí ở rìa khu Cát Lộc, cách xã Bàu Sấu và Nam Cát Tiên
- Dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A nằm ở vị
trí trung lưu dòng sông chính Đồng Nai và là rìa phía bắc của khu Cát
Lộc - Vườn Quốc gia Cát Tiên. Hai dự án này nằm kẹp giữ các bậc thang
thủy điện của dòng sông chính sông Đồng Nai, gồm các thủy điện phía
thượng lưu là: Đơn Dương, Đại Ninh, Đồng Nai 2, 3, 4 và 5, phía hạ lưu
là 5 bậc thủy điện được tách ra từ thủy điện Đồng Nai 8 theo quy hoạch
hiệu chỉnh được Bộ Công Thương phê duyệt năm 2009 (Tà Lài, Phú Tân 1 và
2, Thanh Sơn, Ngọc Định) và cuối cùng là Trị An.
- Các dự án này đều có nhà máy, đường
giao thông, các công trình phụ trợ nằm ngoài Vườn Quốc gia Cát Tiên. Dự
án thủy điện ĐN6 có vị trí đập, lòng hồ bờ phải và nhà máy nằm ở địa
phận 2 xã: Hưng Bình và Đắk Sin, H.Đắk R’lấp (Đắk Nông). Dự án thủy điện
ĐN6A có vị trí đập, lòng hồ bờ phải và nhà máy thuộc địa phận xã Đồng
Nai, H.Bù Đăng (Bình Phước) và xã Hưng Bình, H.Đắk R’lấp (Đắk Nông).
Lòng hồ bờ phải hai dự án này nằm ở địa phận 2 xã: Phước Cát 2 và Đồng
Cát Tiên. Thủy điện ĐN6 và ĐN6A cách khu vực Bàu Sấu và khu Nam Cát Tiên
30km qua thị trấn Đồng Nai, trung tâm của huyện Cát Tiên. Theo đường
sông, khoảng cách từ hai thủy điện này đến Bàu Sấu lần lượt là 60km và
50km.
2. Thủy điện ĐN6 và ĐN6A có công suất lớn nhưng dung tích hồ chứa và diện tích mặt hồ lại nhỏ
- Do địa hình hai bờ sông dốc và cột nước
không cao (ĐN6 là 48m và ĐN6A là 36m), các hồ chứa của ĐN6 và ĐN6A chỉ
là hồ điều tiết ngày, có dung tích và diện tích mặt hồ nhỏ nhất trong
các thủy điện bậc thang hệ thống sông Đồng Nai, như Đồng Nai 2 (78MW,
dung tích/diện tích - tỉ lệ mặt hồ là 543 triệu m3/1/.232ha - 15,79ha/MW), Đồng Nai 3 (180MW, dung tích/diện tích - tỉ lệ mặt hồ là 1,424 tỷ m3/5.600 ha - 31,11 ha/MW), Trị An (400MW, dung tích/diện tích mặt hồ 2,765 tỷm3/32,340 ha - 80,85 ha/MW), trong khi ĐN6 (135MW, dung tích/diện tích mặt hồ 64 triệu m3/ 330 ha/MW), ĐN6A (106MW, dung tích/diện tích mặt hồ 31 triệu m3/ 231 ha - 2,18 ha/MW), diện tích này bao gồm cả diện tích lòng sông hiện hữu.
Tương tự song sánh với các thủy điện khác
ở Việt Nam, trung bình tỷ lệ diện tích mặt hồ trên 1MW công suất của
các thủy điện là 20.66 ha/MW, thì thủy điện ĐN6 và ĐN6A là nhỏ hơn gần
10 lần tỷ lệ trung bình và nhỏ hơn 37 lần so với Trị An.
Mặt khác, với diện tích sử dụng đất
372,23 ha, trong đó diện tích chiếm đất lâu dài là 323,53ha tương đương
tỷ lệ 1,34 ha/MW là thấp nhất so với bình quân các dự án thủy điện khác
trên lãnh thổ Việt Nam là từ 10 đến 20 ha/MW.
- Trong số diện tích sử dụng đất của hai
dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A có khoảng 60 ha để xây dựng công trình, 49
ha sử dụng tạm thời cho các hạng mục hỗ trợ trong thời gian xây dựng (sẽ
được hoàn trả, trồng lại rừng sau khi hoàn thành xây dựng công trình),
263 ha là phần đất bị ngập thêm khi công trình xây dựng hoàn thành và
đưa vào vận hành. Phần đất ngập nước hai bên bờ dọc theo đoạn sông này
của các thủy điện ĐN6 và ĐN6A (với biên độ dao động mực nước trong phạm
vi _+2,5m) sẽ tăng cường độ ẩm, mức nước ngầm cho khu vực xung quanh
tạo điều kiện cho rừng khu vực này phát triển thêm. Việc chuyển đổi một
phần nhỏ diện tích đất với hiện trạng là rừng nghèo, lồ ô tại khu vực
này và việc hình thành một hệ sinh thái thủy vực mới sẽ tăng thêm sự
phong phú cho các hệ sinh thái hiện có tại khu vực này.
So sánh cho thấy phương án thiết kế của
dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A đã chọn có quy mô hồ chứa về diện tích chiếm
đất và dung tích hồ là rất nhỏ và nhỏ rất nhiều lần so với các thủy
điện quy mô tương đương khác. Điều này đã giảm thiểu được tối đa ảnh
hưởng đến môi trường và đặc biệt là Vườn quốc gia Cát Tiên
3. Không di dân tái địch cư
Theo thống kê ở các dự án thủy điện khác,
bình quân cần thực hiện di dân, tái định cư cho 4,37 hộ/MW với 22
người/MW, diện tích đất nông nghiệp bị ảnh hưởng bình quân là 7,64
ha/MW, diện tích đất rừng (và đất khác) bị ảnh hưởng là 13 ha/MW. Việc
phải thực hiện di dân, tái định cư cũng phải mất thêm một diện tích quỹ
đất đáng kể. Phạm vi chiếm đất của các dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A không
có dân cư và đất nông nghiệp nên không phải đền bù đối với đất nông
nghiệp (chỉ hỗ trợ đền bù hoa màu 2,9 ha do người dân) và không phải
thực hiện công tác di dân, tái định cư. Ưu điểm này là hầu như không có ở
các dự án thủy điện lớn khắc trên lãnh thổ Việt Nam, mà nếu phải thực
hiện công tác di dân, tái định cư của các dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A sẽ
không làm xáo trộn cuộc sống, văn hóa của người dân khu vực dự án
4. Cung cấp cho lưới điện Quốc gia gần 1 tỷ kWh giá rẻ, tương đương gần bằng điện tiêu thụ của 3 tỉnh
- Tổng sản lượng hàng năm gần 1 tỷ kWh,
cung cấp gần bằng lượng tiêu thụ của 3 tỉnh: Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình
Phước từ nguồn năng lượng sạch, giá rẻ. Sản lượng điện này tương đương
với 540.000 tấn than đá hoặc 270.000 tấn dầu mỗi năm, nếu sản xuất bằng
nhiệt điện, giảm được lượng phát thải khí nhà kính hàng năm là 514.000
tấn khí CO2.
- So sánh giá bán điện của một số dự án
thủy điện đang được xây dựng cho thấy, các thủy điện ĐN6 và ĐN6A có giá
trị bán điện 4,4 UScent/kWh, Sông Bung 4 là 6 UScent/kWh. So với nhiệt
điện, giá bán điện của các dự án thủy điện ĐN6 và ĐN6A chỉ bằng khoảng
70% giá bán điện của nhiệt điện than và khí (6 - 6,3 UScent/kWh) và bằng
khoảng 22% giá nhiệt điện dầu FO/DO (>20 UScent/kWh).
5. Các ảnh hưởng tác động đên môi trường là không lớn
- Các dự án này, kiểu thủy điện đập dâng,
hồ chứa rất nhỏ, nhà máy đặt ngay sau đập, sau khi phát điện, nước được
trả lại ngày dòng sông nên không gay ra đoạn sông chết và hầu như không
có ảnh hưởng hạn chế đến chế độ dòng chảy hạ lưu cũng như không ảnh
hưởng đến Bàu Sấu nằm ở Nam Cát Tiên.
- Ảnh hưởng dự án này có tác động điến
137 ha thuộc vùng rìa khu Cát Lộc phía bắc Vườn Quốc gia Cát Tiên. Tuy
nhiên, đây là vùng dọc bờ sông có độ dốc lớn, kết quả kiểm kê tài nguyên
rừng và điều tra khảo sát trong ĐTM cho thấy đây là khu vực rừng thứ
sinh nghèo, đã bị tác động, khai thác trong nhiều năm trước đó (trên 95%
điện tích là rừng nghèo, lồ ô, hỗn giao, đất trồng và đất bị xâm canh).
Các biện pháp giảm thiểu tác động của các dự án có tính khả thi cao đã
được đưa ra và được chủ đầu tư cam kết thực hiện, với kinh phí dự án dự
trù cho công tác giảm thiểu tác động, trồng rừng, phục hồi môi trường,
hỗ trợ công tác bảo tồn, cộng đồng dân cư và bảo vệ rừng gần 115 tỷ
đồng.
6. Các hiệu ích kinh tế - xã hội khác
- Kết quả phân tích hiệu ích kinh tế của
dự án cho thấy, dự án có hiệu quả cao về kinh tế - xã hội. Đóng góp ngân
sách cho nhà nước từ các khoản thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế VAT và phí dịch vụ rừng hàng năm gần 350 tỷ đồng, toàn bộ
chu kỳ kinh tế 40 năm là gần 15.000 tỷ đồng và còn tiếp tục đóng góp
trong nhiều năm sau đó.
- Theo tiến độ thực hiện trong Dự án đầu
tư, thời gian xây dựng hai dự án này là 4 năm, gồm 1 năm chuẩn bị và 3
năm xây dựng. Trong thời gian 3 năm xây dựng hai dự án sẽ tạo ra việc
làm thường xuyên cho hơn 6.000 lao động. Sau khi Dự án hoàn thành tạo ra
việc làm thường xuyên, ổn định và lâu dài cho hàng ngàn lao động tại
hai nhà máy, cùng với việc trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, phát triển du
lịch sinh thái, nuôi trồng thủy sản.
- Hai Dự án này sẽ đóng góp phát triển cơ
sở hạ tầng cho khu vực như hệ thống đường giao thông, cung cấp điện,
trường học, trạm y tế, trạm kiểm lâm, gia tăng các hoạt động dịch vụ tạo
điều kiện nâng cao đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, dân trí cho đồng
bào thiểu số như đồng bào Mạ, Châu Mạ, Stiêng… tại khu vực công trình.
- Việc hình thành hồ chứa và các nhà máy
thủy điện sẽ tăng độ ẩm và mực nước ngầm, tạo điều kiện cho rừng phát
triển, góp phần tôn tạo cảnh quan thiên nhiên, cùng với các địa phương
lân cận và Vườn Quốc gia Cát Tiên sẽ phát triển du lịch sinh thái, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực.
Bạn đọc: tinahang2208@gmail.com cho rằng: “Cần phải ủng hộ chủ đầu tư tâm huyết”
Đúng ra các nhà khoa học phải ủng hộ chủ
đầu tư mới đúng chứ? Hãy giúp đỡ họ để họ hoàn thành trách nhiệm đối với
mội trường. Nếu Việt Nam ta có những nhà đầu tư tâm huyến giống như chủ
đầu tư của Thủy điện Đồng Nai 6 và 6A thì đất nước ta phát triển biết
bao nhiêu. Tôi nghĩ họ đã mất quá nhiều công sức, thời gian mấy năm trời
để theo đuổi dự án.
Tôi thấy các nhà khoa học nên ủng hộ và
giúp đỡ chủ đầu tư để họ biến những tiêu cực thành tích cực, có như vậy
mới đúng nghĩ là nhà khoa học, nếu tôi là nhà khoa học tôi sẽ làm vậy!
Bạn đọc Thuy Hanh (thuyhanh0202@gmail.com): “Đồng ý xây dựng dự án Đồng Nai 6 và 6 A
Kính gửi TS Tô Văn Trường: Bác Tường ơi
Em thích nhất đoạn này của Bác dưới đây: Đứng trên góc độ người dân bình
thường, câu hỏi đặt ra là, nếu không có việc xây dựng thủy điện Đồng
Nai 6 và 6A thì rừng có được bảo vệ nghiêm ngặt như tên của nó không?
Vấn nạn khai thác gỗ lậu, săn bắn thú rừng trái phép diễn ra khắp nơi
như hiện nay liệu những khu rừng như Nam Cát Tiên còn tồn tại được bao
lâu? Như vậy thủ phạm làm mất rừng, suy giảm đa dạng sinh học ở đây là
ai? Chủ đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện? Hay những công ty xuất nhập
khẩu gỗ lâm sản hay hàng ngàn quán nhậu có thực đơn là thịt thú rừng.
(Vườn Quốc gia Cát Tiên đã xác nhận cá thể Tê giác 1 sừng cuối cùng đã
bị sát hại năm 2011)!
Em cũng tính mở quán nhậu tại VQGCT chắc
kiếm được nhiều tiền lắm. Các Bác khoa học ơi hãy ủng hộ ĐN6 và ĐN6a đi
nhé, Em rất ủng hộ dự án này, vì nếu dự án được duyệt thì từ nay Em
không phải nhìn thấy quán nhậu trước nhà Em họ giết thú rừng nữa, và Em
cũng không phải nhìn thấy cảnh buôn gỗ lậu từ VQGCT.
Em nghĩ các Bác Chính phủ công minh và các Bác ấy còn biết là lợi ích mang lại từ dự án này như thế nào.
Ý kiến nhận xét, phản biện đối với dự án
Thủy điện Đồng Nai 6 và 6A của Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam vừa có ý
kiến nhận xét, phản biện báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án
thủy điện 6& 6A.
1. MỞ ĐẦU Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam
(gọi tắt là VRN) được thành lập từ cuối năm 2005 là một diễn đàn của các
tổ chức phi chính phủ, nhà nghiên cứu, học giả, cán bộ công tác trong
một số cơ quan nhà nước, cộng đồng địa phương và những người có cùng mối
quan tâm đến việc bảo vệ sông ngòi và phát triển bền vững ở Việt Nam.
VRN hoạt động nhằm bảo vệ hệ sinh thái
sông và các lưu vực sông nhằm duy trì sự đa dạng sinh học cũng như nguồn
sống cho các cộng đồng ở các lưu vực sông thông qua các hoạt động chia
sẻ thông tin; nghiên cứu về các tác động xã hội và môi trường của các dự
án xây dựng đập và các dự án phát triển khác có liên quan đến sông
ngòi, tài nguyên nước ở Việt Nam và trong khu vực, đồng thời thực hiện
các hoạt động vận động chính sách liên quan tới lĩnh vực này.
Một trong những mục tiêu trọng tâm của
VRN là“thực hiện vai trò giám sát, phản biện độc lập và đóng góp chính
sách liên quan đến tài nguyên nước dựa vào hoạt động thực tiễn”.
Sông Đồng Nai là một trong lưu vực sông
lớn của Việt Nam. Nơi đây có một vị trí vô cùng quan trọng đối với đời
sống hàng chục triệu người dân cũng như đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội bền vững của những địa phương trong và lân cận lưu vực. Việc khai
thác một cách ồ ạt hàng chục nhà máy thủy điện trên dòng chính và dòng
nhánh sông Đồng Nai đã và đang gây nên những tác động mạnh mẽ tới môi
trường sinh thái dòng sông và trở thành tâm điểm chú ý của công chúng cả
nước.
Gần đây, Công ty Cổ phần Tập đoàn Đức
Long Gia Lai đã thuê các đơn vị tư vấn tiến hành đánh giá tác động môi
trường và chuẩn bị cho việc xây dựng 2 nhà máy thủy điện lớn trên dòng
chính sông Đồng Nai, là thủy điện Đồng Nai 6 và 6A (thủy điện ĐN6 &
6A) với tổ công suất lên đến 240 MW.
Hai nhà máy thủy điện này làm ngập một
diện tích rừng rất lớn, trong đó đặc biệt chiếm dụng trên 170 ha rừng
thuộc vườn quốc gia Cát Tiên. VRN với đội ngũ chuyên gia có chuyên môn
sâu về tài nguyên nước, đa dạng sinh học, thủy điện, sinh thái nhân văn,
văn hóa và xã hội học đã tham gia vào công tác phản biện việc xây dựng
thủy điện ĐN6 & 6A từ khi Báo cáo Đánh giá Tác động môi trường (ĐTM)
đầu tiên của dự án ĐN6 & 6A được thưc hiện năm 2011.
VRN đã tiến hành phân tích báo cáo ĐTM
lần một, tổ chức nghiên cứu thực địa và cùng phối hợp với Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo với các bên liên quan
và chủ đầu tư tại Vườn Quốc gia Cát Tiên tháng 8 năm 2011.
VRN đã nêu ra những vấn đề liên quan đến
phát triển không bền vững thủy điện trên lưu vực sông Đồng Nai trong đó
có việc xâm hại đến vườn Quốc gia Cát tiên của thủy điện ĐN6 & 6A
nếu được xây dựng.
VRN đã chỉ ra những sai sót và tắc trách
trong Báo cáo ĐTM lần 1 của 2 dự án thủy điện ĐN6 & 6A và gửi kiến
nghị tới Quốc hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương và chủ
đầu tư (xem phụ lục 1,2). Với những phát hiện của VRN và các bên liên
quan khác, các cơ quan quản lý nhà nước đã yêu cầu Chủ đầu tư dự án -
Công ty cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai phải tiến hành lập lại các Báo
cáo ĐTM cho thủy điện ĐN 6&6A.
Mới đây các báo cáo ĐTM này đã được hoàn
thiện và đang chờ thẩm định bởi Hội đồng thẩm định thành lập bởi Bộ Tài
nguyên và Môi trường. Các chuyên gia VRN đã nghiên cứu một cách thận
trọng 2 báo cáo này và nhận thấy báo cáo ĐTM mới (2012) cho 2 dự án thủy
điện ĐN 6&6A còn có rất nhiều điểm nghi ngại cần phải được làm rõ.
Dưới đây là những ý kiến nhận xét, góp ý,
phản biện của VRN gửi đến Hội đồng thẩm định và các cơ quan hữu quan để
xem xét. Chúng tôi tin tưởng rằng những ý kiến xác đáng, khách quan và
có thiện chí của các nhà khoa học và các tổ chức độc lập như VRN sẽ được
Hội đồng thẩm định và các cơ quan liên quan lắng nghe và cân nhắc sử
dụng để đưa ra những quyết định sáng suốt, công tâm.
2. CÁC Ý KIẾN PHẢN BIỆN CỦA VRN
2.1. NHẬN XÉT CHUNG VỀ BÁO CÁO ĐTM-ĐN6 VÀ
ĐN 6A - 2 báo cáo được thực hiện theo Điều 17, Nghị định 29/2011/NĐ-CP,
ngày 18/4/2011: Nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường: hồ sơ
thẩm định, phê duyệt các báo cáo đánh giá tác động môi trường. Nội dung
trình bày trong báo cáo là chi tiết. Đặc biệt là các phần mô tả dự án và
điều kiện tự nhiên, môi trường, kinh tế xã hội khu vực dự án chiếm gần ½
báo cáo.
Nhiều thông tin trong phần mô tả quá chi
tiết, không hợp lý và không giúp hỗ trợ cho phần ĐTM. Phần đánh giá tác
động đến tính đa dạng sinh học (động, thực vật) là chi tiết và đầy đủ
cho thấy rằng khu vực xây dựng dự án thủy điện ĐN6 & ĐN 6A có mức độ
da dạng sinh học cao. Tác động của 2 thủy điện đến tính đa dạng sinh
học và môi trường, sinh thái trong khu vực ở cả 3 giai đoạn (chuẩn bị,
giải phóng mặt bằng, thi công và vận hành) là lớn. (Chương 3 Báo cáo ĐTM
ĐN6 & 6A). Bảng 3-65 Ma trận đánh giá tác động tổng hợp môi trường
của Dự án (trang 250) cho thấy các tác động đến môi trường sinh thái là
rất lớn và tiêu cực. - Phần các biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu tác
động xấu và ứng phó sự cố môi trường dường như rất chi tiết nhưng nhiều
biện pháp là mang tính lý thuyết - không chủ đầu tư nào thực hiện được. -
Báo cáo ĐTM về cơ bản đã khẳng định các tác động tiêu cực của hai dự án
thủy điện đối với môi trường mặc dù chưa toàn diện và đầy đủ.
Tuy nhiên, chúng tôi hoàn toàn không đồng
ý với các kết luận của nhóm tư vấn ĐTM đưa ra. Báo cáo còn bỏ ngỏ một
số vấn đề lớn và còn nhiều điểm gây nghi ngại.
VRN đưa ra những điểm cần xem xét trong các phần dưới đây.
2.2. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ XÂY DỰNG DỰ ÁN
2.2.1. Thủy điện ĐN6 & 6A chưa được
Quốc hội Việt Nam thông qua chủ trương đầu tư. Dự án thủy điện ĐN6 làm
ngập vĩnh viễn diện tích tổng cộng (ở MNDBT) là 171.36 ha, trong đó diện
tích thuộc vườn quốc gia Cát Tiên là: thuộc rừng phòng hộ Nam Cát Tiên
là 77,9 ha; bờ trái thuộc VQG Cát Tiên là 77,63 ha và rừng phòng hộ Lộc
Bắc huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng là 0.09ha. (trang 20 Báo cáo 1).
Dự án ĐN 6A làm ngập vĩnh viễn diện tích
184,61 ha trong đó chiếm dụng diện tích thuộc vườn quốc gia Cát Tiên là
50,55 ha (trang xiv, Báo cáo 2). Theo Nghị quyết Quốc Hội số
49/2010/QH12 ngày 19/6/2010, Điều 3: Tiêu chí về dự án, công trình quan
trọng quốc gia đầu tư tại Việt Nam phải trình Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư, mục b) Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển
mục đích sử dụng đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ
cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 hécta (ha)
trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 hécta (ha) trở lên; rừng phòng hộ
chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng lấn biển, bảo vệ môi trường từ 500
hécta (ha) trở lên; rừng sản xuất từ 1000 hécta (ha) trở lên.
Như vậy cả thủy điện ĐN6 và 6A đều có
diện tích chiếm dụng vườn Quốc gia trên 50 ha. Đây là những dự án cần
phải được Quốc hội Việt Nam thông qua chủ trương đầu tư.
Tuy nhiên Báo cáo ĐTM đã không hề nêu căn
cứ pháp lý quan trọng này. Báo cáo ĐN6 còn nêu ở mục Cơ quan phê duyệt
dự án đầu tư (trang 1 Báo cáo và trang 2 Báo cáo 2): Dự án thủy điện
Đồng Nai 6/6 A là dự án mới, thuộc công trình cấp II, dự án nhóm A, do
đơn vị tư nhân Công ty Cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai làm chủ đầu tư.
Chủ đầu tư phê duyệt dự án đầu tư và quyết định đầu tư trên cơ sở kết
quả thẩm định và phê duyệt thiết kế cơ sở của Bộ Công Thương.
Đề nghị của VRN: Trước khi tiến hành các
bước tiếp theo như thiết kế khả thi, chủ đầu tư phải xúc tiến các bước
trình các cơ quan nhà nước liên quan để có tờ trình Quốc hội Việt Nam
xin chủ trương đầu tư.
2.2.2. Vi phạm Luật Đa dạng sinh học Theo
Luật Đa dạng Sinh học Số 20/2008/QH12, tại Điều 7 đã ghi rõ những hành
vi bị nghiêm cấm về đa dạng sinh học (ĐDSH), trong đó có việc xây dựng
công trình, nhà ở trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn, trừ
công trình phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh.
Hai thủy điện ĐN6 & 6A không phải là
công trình phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh nên việc xây dựng 2 công
trình này vi phạm điều 7 Luật Đa dạng Sinh học. Cũng trong Luật ĐDSH,
Điều 11: Công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng
sinh học của cả nước.
Tại mục 2 ghi rõ việc tổ chức thực hiện
quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước được quy định
như sau: mục (d) Trong quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch, trường hợp
có sự khác nhau giữa quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả
nước với quy hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, quy hoạch ngành, lĩnh vực, trừ quy hoạch quốc phòng, an ninh thì
ưu tiên thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học.
VRN cho rằng: Việc quy hoạch xây dựng
thủy điện là thuộc quy hoạch ngành, do đó phải ưu tiên quy hoạch bảo tồn
đa dạng sinh học. Ở đây, Vườn quốc gia Cát Tiên là quy hoạch bảo tồn
ĐDSH (đã có) của cả nước! Như vậy, việc Bộ NN&PTNT điều chỉnh đất
của VQG để làm thủy điện là vi phạm điều 11 luật ĐDSH.
2. 3. VRN NGHI NGẠI DIỆN TÍCH RỪNG BỊ MẤT
SẼ CAO HƠN Theo báo cáo ĐTM dự án Đồng Nai 6A sẽ làm mất “174,6 ha rừng
(107,5 diện tích lòng hồ và 44,67 ha diện tích công trình và 22,43 ha
diện tích cấp đất tạm thời)”[1].
Còn dự án Đồng Nai 6 thì “tổng diện tích
cấp đất cho công trình là 197,63 ha” [2]. Con số này được tính toán dựa
vào diện tích bị ngập nước, phần đất rừng bị chiếm do xây dựng công
trình và phần diện tích sử dụng cho việc thi công. Điều này hoàn toàn
không đúng, đặc biệt là phần tóm tắt có đoạn “Khi thủy điện Đồng Nai 6A
đi vào hoạt động thì mực nước sẽ dâng lên cao làm ngập khu vực rừng
trước đây không ngập, điều này tạo cho cây rừng tiếp xúc với mực và mặt
nước gần hơn do đó cây cối trong những vùng lân cận của vùng ngập sẽ có
điều kiện sinh trưởng và phát triển tốt hơn so với trước đây (ở xa mặt
nước)”[3].
Bất kỳ người am hiểu về hệ sinh thái rừng
thường khó có kiểu lập luận như vậy. Ở các khu rừng không ngập nước
thường xuyên, cây rừng đã tồn tại hàng chục năm trời trong điều kiện khô
hạn vào mùa nắng và chỉ nhận nguồn nước trời vào mùa mưa, kết cấu thổ
nhưỡng ở khu vực này là cứng chắc nhưng thoáng khí. Khi chuyển sang điều
kiện ngập nước do hồ chứa thì nền đất sẽ chuyển qua trạng thái bão hoà
khiến kết cấu của nó chuyển sang mềm nhão, bời rời, dễ sạt lở và rửa
trôi. Điều kiện đất úng ngập sẽ làm rễ cây rừng bị ngộp vì thiếu thoáng
khí và cây rừng dễ dàng bị chết đi, đổ nhào và tình trạng xói mòn chung
quanh hồ gia tăng nhanh chóng. Khi đó diện tích đất rừng bị mất đi sẽ
nhiều hơn theo năm tháng chứ không đơn thuần là phần đất mặt bị ngập
nước.
Kinh nghiệm ở hồ chứa thuỷ điện Nam Ngum ở
phía Bắc Vientaine (Lào), diện tích rừng xung quanh hồ chứa bị mất thực
tế cao hơn 20 - 30% so với diện tích rừng bị ngập nước, còn ở thuỷ điện
Kulakhani, phần đất rừng chung quanh hồ chứa mất nhiều hơn 60 - 70 %
diện tích mặt nước hồ.
Ngoài ra, trong thi công thường diện tích
rừng thường bị tàn phá nhiều hơn so với dự tính trong các báo cáo ĐTM.
Điều nghi ngại này là hoàn toàn có cơ sở, chưa kể đến các công trình
thuỷ điện hiện nay ở Việt Nam đều là những nơi mà lâm tặc, thú tặc dễ
dàng tiếp cận để tiếp tục huỷ diệt những mảng rừng còn sót lại khiến
công việc bảo tồn khó khăn. Hồ chứa nước chính là nơi vừa thuận lợi cất
giấu cây rừng bị chặt trộm vừa là nơi thuận lợi cho việc vận chuyển gỗ
lậu từ rừng đến nơi tiêu thụ.
Như vậy, cần phải xem lại việc tính toán
diện tích rừng mất đi theo báo cáo và diện tích rừng thật sự mất đi do
cây rừng chung quanh hồ bị chết theo quá trình tích nước gây lầy hoá và
xói mòn, cộng thêm quá trình thi công sẽ có nhiều cây rừng bị bức tử
ngoài phạm vi thiết kế do công nhân của dự án hoặc do lâm tặc lợi dụng
để cố tình chặt trộm. Diện tích rừng thực tế bị mất cao hơn báo cáo sẽ
làm gia tăng nghi ngại các số liệu tính toán thiệt hại trong báo cáo
không còn tin cậy.
Phần rừng chung quanh hồ thuỷ điện Nam
Ngum bị chết do đất úng ngập. Cây rừng ở hồ thuỷ điện Nam Ngum bị chết
do hiện tượng lầy hoá và sạt lở. Phần rừng quanh hồ thuỷ điện Kulekhani
(Nepal) bị chết do đất úng ngập và sạt lở. Khi thi công công trình thuỷ
điện Đồng Nai 3, nhiều cánh rừng đã bị phá.
2.4. VRN NGHI NGẠI CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN
TÀI NGUYÊN RỪNG ĐỀ XUẤT TRONG ĐTM Báo cáo có nêu: “Việc bảo tồn thực vật
rừng sẽ được chủ dự án thực hiện bằng cách trồng cây tại khu vực cấp
đất tạm thời và làm giàu thêm các loài sống trong rừng. Đối với diện
tích rừng bị mất do tích nước của hồ chứa sẽ được thực hiện trồng lại ở
vị trí khác, khu vực trồng lại rừng này sẽ do Ban quản lý vườn Quốc Gia
Cát Tiên và UBND 3 tỉnh quyết định.
Quá trình này thực hiện sau khi khai
hoang năm đầu tiên và có báo cáo kèm theo phần đất được giao, xác định
khu vực nào cần trồng rừng, khu vực nào cần bổ sung loài cho phong phú
thêm, các loài sẽ sử dụng, phương pháp trồng và kế hoạch thực hiện chi
tiết”. [5] Đối với động vật rừng, báo cáo cho rằng: “Thực hiện di dời
các cá thể loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo
vệ bị mất nơi sinh sống tự nhiên, bị lạc, bị thương, bị bệnh vào phân
khu phục hồi và bảo vệ nghiêm ngặt của VQG Cát Tiên.
Những loài thực vật đặc hữu, thuộc danh
mục loài nguy cấp, quý, hiếm trong khu vực xây dựng dự án mà tại các khu
vực khác của VQG không có thì BQL VQG Cát Tiên sẽ thực hiện thu thập
cây con và nguồn gen đến phân khu phục hồi sinh thái của VQG để ươm
trồng và nhân giống cây trồng".6].
Tuy nhiên, trong các phần còn lại của báo
cáo, người đọc không thấy có luận cứ nào cho thấy đã có vị trí diện
tích đất dự trữ cho việc trồng lại rừng, phương thức trồng đúng loại
rừng bị mất, không thấy có bản cam kết của Ban quản lý vườn Quốc Gia Cát
Tiên và UBND 3 tỉnh là chắc chắn có hơn 372,23 ha đất trống dành riêng
cho Tập đoàn Đức Long Gia Lai thực hiện chương trình trồng lại rừng.
Ngoài ra, chuyện di dời các cá thể (chim, thú, cá, …) bị nguy cấp gần
như không tưởng, việc thu thập gen và cây giống cũng không phải đơn giản
như báo cáo đã nêu. Việc trồng cây tại khu vực cấp đất tạm thời không
thể nào “làm giàu thêm loài sống trong rừng”, nếu không ngăn ngừa khả
năng đưa các loài cây trồng ngoại lai làm hỏng hệ sinh thái đặc hữu của
Vườn Cát Tiên.
Đến nay, ở Việt Nam, chưa có công trình
thuỷ điện nào đã thực hiện đúng cam kết trồng lại đủ số diện tích rừng
đã bị phá. Nhiều cánh rừng chung quanh đập thuỷ điện Sông Tranh 2 đã bị
“cạo trọc”, và vẫn còn trơ trọi sau nhiều năm kể từ khi khai hoang. Hình
5: Thuỷ điện Sông Tranh 2 ở Quảng Nam.
2.5. VRN NGHI NGẠI VỀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN ĐA
DẠNG SINH HỌC Theo báo cáo, “tại khu vực dự kiến xây dựng công trình
thủy điện Đồng Nai 6 và 6A, kết quả ghi nhận có 38 loài gồm 11 loài ếch
nhái thuộc 4 họ ếch nhái và 27 loài bò sát thuộc 13 họ bò sát được ghi
nhận qua phỏng vấn, quan sát ngoài thiên nhiên hay hình ảnh chụp được
(Phụ lục 11 và 12 - Báo cáo chuyên đề Đa dạng sinh học).
Trong đó có 1 loài ếch mày gai mắt đỏ
được ghi trong sách Đỏ Thế giới ở mức độ chưa đủ dữ liệu và 9 loài bò
sát được ghi nhận trong Sách Đỏ Thế giới (2011) và Sách Danh lục Đỏ Việt
Nam (2007)”[7], và “đã ghi nhận được khu vực dự án có 208 loài, thuộc
167 chi, 75 họ, 45 bộ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch là ngành
Dương xỉ (Polypodiophyta), ngành Hạt trần (Pinophyta) và ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta).
Trong đó, ngành Dương xỉ có 11 loài thuộc
9 chi của 5 họ là họ Nguyệt xỉ (Adiantaceae), họ Mộc xỉ
(Dryopteridaceae), họ Ráng tây sơn (Gleicheniaceae), họ Ráng đa túc
(Polypodiaceae) và họ Bòng bong (Schizeaceae); ngành Hạt trần có 4 loài
thuộc 1 chi của 1 họ là họ Gấm (Gnetaceae) và ngành Ngọc lan có 183
loài, 157 chi của 69 họ thuộc 42 bộ”[8].
Với những liệt kê như trên, mặc dù chưa
hoàn toàn đầy đủ vì còn thiếu những phát hiện mới - ví dụ như loài trà
Camellia longii là một loài mới, có hoa rất đẹp, chuẩn bị được công bố
khoa học - thì không thể nói khu vực dự án là nghèo nàn về đa dạng sinh
học được nếu chỉ đơn thuần đánh giá theo kiểu kinh tế lâm nghiệp. Tính
đa dạng sinh học là một khái niệm rất rộng không chỉ đơn thuần là việc
liệt kê, đếm số loài mà còn phải xem xét các tác động phụ thuộc qua lại
trong một môi trường sống, chuỗi thức ăn nhất định.
Theo quan điểm của VRN, khu vực dự án khó
có thể chấp nhận đây là nơi nghèo về rừng, nghèo về đa dạng sinh học
được. Loài Camellia longii mới được phát hiện trong khu vực dự kiến làm
thuỷ điện.
Việc hình thành một hồ chứa nước lớn và
kéo dài trên một đoạn sông sẽ làm thay đổi đáng kể môi trường sống các
loài động và thực vật đặc hữu ở đây, đặc biệt là các loài nguy cấp, cắt
đứt đường di chuyển, trốn chạy của những loài có nguy cơ bị săn bắt,
thay đổi đặc điểm kiếm ăn và tạo nguy cơ làm gia tăng quần thể của những
loài không mong đợi như hồ chứa sẽ làm gia tăng số lượng và diện tích
của quần thể cây Mai Dương, các loài tảo độc, các sinh vật đáy sẽ thay
đổi đặc điểm do sự thay đổi áp suất và nhiệt độ ở đáy sông nay thành hồ
chứa. Các cây hoang dã (dương xỉ, nấm, rêu, địa y, …) và các sinh vậy
nhỏ (bò sát, giun, kiến, …) sống ẩn dưới các tầng cây lớn, kể cả các cây
dưới tán tre trúc sẽ bị chết đi do bị ngập nước và sự gia tăng thời
gian và cường độ ánh sáng phản chiếu từ mặt thoáng hồ chứa.
Các sự mất mát này sẽ là vĩnh viễn cho
một số loài và làm giảm đi tính đa dạng sinh học. Không thể đơn thuần là
chuyện di dời các loài sinh vật đặc hữu này đi nơi khác giống như việc
di dời các cây cảnh trong một khu vườn. Bởi vì Loài đặc hữu là loài sinh
vật chỉ tồn tại, phát triển trong phạm vi phân bố hẹp và giới hạn trong
một vùng lãnh thổ nhất định của Việt Nam mà không được ghi nhận là có ở
nơi khác trên thế giới.
VRN không tán thành đề xuất di chuyển các loài đặc hữu bởi vì làm như vậy là phản khoa học.
VRN khẳng định cho đến nay, chưa ai thành
công trong việc di chuyển loài đặc hữu, bởi vì chúng chỉ tồn tại và
phát triển ở một nơi đặc biệt nào đó.
Tổng cục Môi trường thuộc Bộ Tài
nguyên và Môi trường Việt Nam đã cung cấp các thông tin về từng vấn đề
đang được dư luận quan tâm:
Về dư luận cho rằng, Hội đồng thẩm
định cần mời tất cả các tỉnh liên quan đến dự án thủy điện Đồng Nai 6
&6A cùng tham dự (thay vì lấy ý kiến bằng văn bản), cần có chuyên
gia sinh học, sinh thái học hoặc có chuyên môn sâu về đánh giá trữ lượng
thủy sản, thậm chí nên có một hội đồng khoa học độc lập để nghiên cứu
lại việc đánh giá tác động đến môi trường tự nhiên của dự án một cách
đầy đủ, nghiêm túc, khoa học, đưa ra các kết luận xác đáng, giúp nhà
nước có quyết định đúng, chuẩn dựa trên lợi ích quốc gia; Cục thẩm định
và Đánh giá tác động môi trường cho biết:
Hội đồng thẩm định ĐTM dự án thủy điện
Đồng Nai 6 & 6A hiện nay do Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định
(số 1344, ngày 21/8/2012) dựa trên Nghị định 25/2008/NĐ-CP của Chính phủ
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ TN&MT và
căn cứ Nghị định 29/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi
trường.
Hội đồng thẩm định gồm 16 người, trong đó
có 11 chuyên gia khoa học, do PGS.TS Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường làm chủ tịch. Đây là Hội đồng thẩm định độc lập,
theo qui định của pháp luật. Theo qui chế, tỷ lệ chuyên gia tại các Hội
đồng thẩm định tối tiểu từ 50% trở lên. Đối với 2 dự án này, do tính đặc
thù, tỷ lệ các chuyên gia chiếm 80%, trong đó các Ủy viên phản biện là
TS Phạm Khang, Tổng thư ký Hội Đánh giá tác động Môi trường Việt Nam,
PGS.TS Vũ Văn Tuấn, chuyên gia Thủy văn - Môi trường.
Hội đồng có đại diện được cử từ các Bộ,
ngành, địa phương có đất nằm trong dự án như Lâm Đồng, Bình Phước và Đắc
Nông. Cũng theo luật qui định, các địa phương hạ lưu chịu ảnh hưởng có
thể lấy ý kiến bằng văn bản nếu thấy cần thiết.
Trong quá trình thẩm định, các ủy viên
Hội đồng có quyền đánh giá độc lập theo đánh giá riêng dựa trên kinh
nghiệm và trình độ chuyên môn của các chuyên gia, không chịu tác động
của bất cứ ai, bất cứ “bên” nào, kể cả Chủ tịch Hội đồng thẩm định. Trên
thực tế đã từng có nhiều trường hợp, toàn bộ thành viên hội đồng thẩm
định bỏ phiếu tán thành, chỉ Chủ tịch hội đồng phản đối hoặc ngược lại.
Bản chất của đánh giá tác động môi trường
là công khai các nội dung liên quan đến tác động của dự án. Theo Luật
Bảo vệ môi trường 2005, bản báo cáo ĐTM tóm tắt đã được công khai lấy ý
kiến tham vấn cộng đồng đối với các địa phương thuộc khu vực dự án và
sau khi được phê duyệt, Chủ dự án có trách nhiệm niêm yết công khai kết
trên cơ sở chương trình quản lý môi trường đã được đề xuất trong báo cáo
ĐTM. Đặc biệt, ngay sau khi tiến hành khảo sát hiện trường, đã công
khai báo cáo khảo sát.
Cho đến hiện nay không có ý kiến nào đưa
ra trên công luận nằm ngoài ý kiến đã ghi trong biên bản. Riêng đối với
ý kiến cho rằng ĐTM cần phải đánh giá tâm linh, chúng tôi thấy rằng
trong ĐTM, theo luật định, phần đánh giá tác động xã hội chỉ đề cập tới
hiện trạng dân tộc, tập quán, di tích lịch sử, có bao gồm cả văn hóa tâm
linh của cộng đồng. Đối với các ý kiến không tán thành, Hội đồng lắng
nghe, không né tránh, nhưng hội đồng chưa nhận được những ý kiến nào
mang tính thực tiễn và khoa học liên quan đến đánh giá ĐTM của hai dự
án.
Đối với ý kiến cần đánh giá lại một
cách toàn diện, hài hòa giữa các lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường
của dự án, theo Cục Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường:
ĐTM hiện nay của dự án thủy điện 6 &
6A là ĐTM đầu tiên thực hiện 3 chuyên đề về dòng chảy thủy văn, đa dạng
sinh học và tác động xã hội.
Phải nói rằng, sau khi tiến hành làm lại
ĐTM, chủ đầu tư đã có nhiều nỗ lực trong vấn đề này. Việc tính toán 3
chuyên đề này cho thấy, chủ đầu tư đã có những nỗ lực nhất định trong
quá trình thực hiện ĐTM liên quan đến các vấn đề về môi trường, văn hóa,
xã hội đã và đang được các nhà khoa học và dư luận quan tâm, lo lắng,
thể hiện trách nhiệm trước cộng đồng và xã hội.
Những vấn đề đánh đổi giữa lợi ích kinh
tế và tổn thất về môi trường cũng đã được thể hiện tương đối rõ ràng
trong báo cáo ĐTM. Trong quy hoạch bậc thang thủy điện sông Đồng Nai,
việc thay đổi từ một bậc thang thủy điện Đồng Nai 6 với loại hình thủy
điện hồ chứa thành thủy điện đập dâng với 2 bậc thang Đồng Nai 6 và 6A
đã thể hiện sự giảm thiểu tác động của thủy điện đến môi trường, đa dạng
sinh học và các tác động về xã hội, văn hóa, lịch sử…
Tuy nhiên, do tính chất nhạy cảm của 2 dự
án này, Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện cũng đã mời đơn vị tư vấn độc
lập thẩm định và đánh giá lại chuyên đề thủy văn dòng chảy để làm rõ các
tác động của 2 dự án đến các tỉnh hạ du và đa dạng sinh học của khu vực
Bầu Sấu.
Đối với các ý kiến thách thức khi
triển khai dự án 6 &6A, bao gồm việc có đặt ĐTM hai dự án này trong
mối liên hệ tổng thể với các thủy điện trên sông Đồng Nai, có nên làm
ĐMC cho cả hệ thống thủy điện trên lưu vực hoặc thực hiện ĐTM tổng thể
cho cả lưu vực; và ảnh hưởng của dự án với việc Vườn Quốc gia đang trong
quá trình để cử khu di sản thiên nhiên thế giới, di chỉ văn hóa Óc Eo,
hệ tri thức bản địa người Mạ dọc sông Đồng Nai, Cục Thẩm định và Đánh
giá tác động môi trường cho biết:
Theo quy định, việc đánh giá ĐMC thuộc
thẩm quyền của cơ quan lập quy hoạch hệ thống bậc thang thủy điện lưu
vực sông Đồng Nai và đánh giá môi trường tổng hợp thuộc phụ thuộc vào
các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và là trách nhiệm của cơ
quan quản lý môi trường; không thuộc trách nhiệm của chủ dự án.
ĐTM là công cụ khoa học mang tính dự báo,
tiên lượng những tác động môi trường về cả mặt tích cực, tiêu cực có
thể xảy ra, từ đó đưa ra những biện pháp nhằm ứng phó, thích nghi, giảm
thiểu, loại trừ các tác động tiêu cực.
Theo báo cáo số 1741/BNN-TCLN ngày 20
tháng 6 năm 2011 về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch Vườn quốc gia
Cát Tiên của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì 2 dự án sẽ
chuyển đổi 137 ha Vườn Quốc gia Cát Tiên, đây chủ yếu là diện tích thuộc
vùng đệm (phân khu phục hồi) nhưng lại nằm trong vùng lõi của Vườn.
Trên thực tế, tại dự án thủy điện Đồng Nai 6 chỉ chiếm 1,9 ha vùng lõi
Vườn quốc gia Cát Tiên trên tổng thể 73.000 ha của Vườn. Vì thế, những
dự báo về tác động môi trường tự nhiên và giải pháp đưa ra phải khách
quan, hiện thực và 2 dự án này sẽ không gây nhiều tác động đến thảm
phủ, đa dạng sinh học của Vườn Quốc gia nếu có những biện pháp giám sát
và quản lý nghiêm túc quá trình thi công.
Riêng đối với vấn đề văn hóa bản địa của
người Mạ (thuộc văn hóa Sa huỳnh chứ không phải văn hóa Óc eo vốn là nên
văn hóa thuộc Đồng bằng sông Cửu Long), ĐTM đề cập tới cho thấy người
Mạ có nhiều nhất ở Lâm Đồng (31.869 người, chiếm 77% tổng số người Mạ),
thứ 2 là ĐăkNông (6.456 người ); Đồng Nai đứng thứ 3 (2.436 người) và ít
nhất là Bình Dương (432 người). Dự án nằm cách xã Đồng Nai Thượng 5
km, không có các hoạt động mở đường thi công nên tác động của dự án đến
văn hóa của dân tộc Mạ là không đáng kể. Mặt khác, xã Đồng Nai Thượng
với khoảng 1.500 nhân khẩu là một bộ phận nhỏ của cộng đồng người Mạ
suốt chiều dọc sông Đồng Nai nhưng hiện đã có sự lai tạp do đồng bào các
dân tộc khác (kinh, nùng, tày… di cư từ các tỉnh Bình Phước, Đắk Nông
sang và từ phía bắc vào) ít nhiều cũng đã làm mai một các hệ tri thức
bản địa của dân tộc Mạ. Các di chỉ khảo cổ cũng không có tài liệu nào
ghi nhận được trong khu vực này.
Về ý kiến phản đối xây dựng 2 dự án
của UBND tỉnh Đồng Nai dựa trên kết quả hội thảo khoa học về tác động
môi trường của 2 dự án đối với vùng hạ lưu trên địa bàn tỉnh (3 tác động
tích cực, 6 tác động tiêu cực), Cục Thẩm định và Đánh giá tác động môi
trường cho rằng:
Việc này như đã nói ở phần trên, các tỉnh
hạ lưu căn cứ vào các đánh giá tác động của 2 dự án, đề xuất phòng
ngừa, giảm thiểu có liên quan đến các tác động của 2 dự án đối với địa
phương mình để đưa ra các ý kiến trong phạm vi chức năng, quyền hạn do
địa phương mình quản lý, không nên có các ý kiến đối với các vấn đề
thuộc phạm vi quản lý theo thẩm quyền và trách nhiệm của UBND các tỉnh
khác.
Về ý kiến Vườn Quốc gia Cát Tiên là
1/9 Vườn quốc gia, Khu bảo tồn trong cả nước có nhiều thủy điện nhất
(6/51) và có tới 7.227,5ha rừng đặc dụng bị chặt để xây dựng 29 nhà máy
thủy điện với tổng công suất 4.521,2 MW, cho thấy việc lấy đất từ Vườn
quốc gia, khu bảo tồn đang là chuyện thường hàng ngày; khiến dư luận
quan tâm nhiều về sự bất ổn trong văn bản pháp luật:
Nội dung này cần xem lại các quy hoạch
của các Bộ, ngành đã được triển khai thực hiện. Ở đây có sự chồng chéo
giữa các quy hoạch của các ngành. Thực chất quy hoạch bậc thang thủy
điện lưu vực sông Đồng Nai được lập, phê duyệt trước quy hoạch Vườn Quốc
gia Cát Tiên và rừng phòng hộ Nam Cát Tiên. Mặt khác, việc quy hoạch
Vườn Quốc gia Cát Tiên và rừng phòng hộ Nam Cát Tiên có nhiều điểm bất
hợp lý thiếu tính khả thi như đã nói về vùng đệm nằm trong vùng lõi và
các diện tích quy hoạch rừng phòng hộ hiện lại là rừng sản xuất được các
doanh nghiệp và cá nhân quản lý rất khó để chuyển đổi như quy hoạch đề
ra. Cục Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường cho rằng đây là vấn đề
thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn.
Báo cáo ĐTM của hai dự án thủy điện 6
&6A chỉ là một trong những căn cứ liên quan đến đánh giá các tác
động về môi trường - kinh tế - xã hội cũng như xem xét các biện pháp
giảm thiểu phòng ngừa các tác động đó được cơ quan thẩm định đánh giá
làm cơ sở để cơ quan có thẩm quyền đồng ý về chủ trương đầu tư và cho
phép đầu tư 2 dự án nêu trên (thẩm quyền này có thể thuộc quốc hội,
Chính phủ phụ thuộc vào các quy định của pháp luật hiện hành).
(Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường)
Nhóm Yêu quý & Bảo vệ RQG Cát Tiên: "Khu Dữ trữ Sinh Quyển Thế giới Đồng Nai nói không với Thủy điện Đồng Nai 6 và 6A"
HÌNH. BẢN ĐỒ PHÂN VÙNG KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN ĐỒNG NAI ĐỀ XUẤT
KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN ĐỒNG NAI là khu mở
rộng từ Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới Cát Tiên (Khu DTSQ Cát Tiên) được
UNESCO công nhận vào ngày 10/11/2001, với tổng diện tích 728.756 ha,
nằm trên địa bàn các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước và Đắc Lắc. Qua
thời gian xây dựng, củng cố từ 2004 đến 2008, Khu Bảo tồn Thiên nhiên -
Văn hoá Đồng Nai hình thành trên phạm vi rộng lớn với tổng diện tích
100.300 ha, trên cơ sở sáp nhập 05 đơn vị gồm 03 Lâm trường là Mã Đà,
Hiếu Liêm, Vĩnh An cùng Trung tâm quản lý di tích Chiến khu Đ và Trung
tâm Thủy sản Đồng Nai.
Để tạo một dãy hành lang liền mạch mang
tính tổng thể, toàn vẹn để bảo vệ - phát triển rừng, bảo tồn đa dạng
sinh học cho Đồng Nai nói riêng và Đông Nam Bộ nói chung với rất nhiều
loài động - thực vật quí hiếm đang bị đe doạ tuyệt chủng cùng các hệ
sinh thái đa dạng gồm rừng, đất ngập nước và đồng cỏ, UBND Tỉnh Đồng Nai
đã chủ trương xây dựng hồ sơ thành lập Khu Dự trữ Sinh quyển Đồng Nai
(Khu DTSQ Đồng Nai) và đã được UNESCO/MAB phê chuẩn tại Hội nghị Đại hội
đồng Mạng lưới các khu DTSQ thế giới vào ngày 29/6/2011; Khu Dự trữ
Sinh quyển Thế giới Đồng Nai (sau đây viết tắt là Khu DTSQ Đồng Nai) có
03 vùng lõi gồm Vườn Quốc Gia Cát Tiên, Khu Bảo tồn Thiên nhiên - Văn
hóa Đồng Nai và Khu Bảo tồn vùng nước nội địa hồ Trị An. Khu DTSQ Đồng
Nai thuộc tiểu vùng bảo tồn sinh thái khẩn cấp (khu vực SA5 - lưu vực
sông Đồng Nai - WWF, 2001) nằm trong hệ sinh thái Trường Sơn, một trong
200 vùng sinh thái quan trọng thế giới được xác định trong “Global 200
Ecoregions”, là Vùng Chim Đặc hữu Đông Nam Á (Asian Endemic Birds Area -
FFI, 2003).
Đây là phức hợp của nhiều Di sản, Di tích
đặc biệt, nhiều cảnh quan văn hóa và tự nhiên quý giá, độc nhất mà
không một nơi đâu trên thế giới có được, là khu vực lý tưởng cho các
hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu văn hóa, lịch sử và du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng, chi trả dịch vụ môi trường, tận hưởng các dịch vụ
sinh thái, kinh tế xanh, giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính do
rừng và thiên nhiên nơi đây mang lại.
Vì thế, Khu Dữ trữ Sinh Quyển Thế giới Đồng Nai cần phải nói không với Thủy điện Đồng Nai 6 và 6A!
GS.TSKH Lê Huy Bá, Viện trưởng
Viện Khoa học môi trường, Đại học Nguyễn Tất Thành (TP. HCM): “Bốn câu
hỏi gửi tới các cơ quan liên quan trách nhiệm”
1. Đã tính toán khả năng động đất như
thế nào? Cơ sở khoa học nào bảo đảm rằng các đứt gãy sụt lún này trong
tương lai không có động đất?
2. Tại sao lại cho phép 2 tram 6 và 6A quá gần nhau như vậy, cơ sở khoa học?
3. Tại sao hầu hết các nước trên thế
giới đều ngưng phát triển thủy điện vì cái "lợi bất cập hại" về tài
nguyên - môi trường, hệ sinh thái tự nhiên và môi trường nhân văn mà
Việt Nam vẫn làm?
4. Khi cho phép xây dựng 6 và 6A đã
tính toán "khả năng chịu tải" của hệ sinh thái lưu vực và khả năng chịu
tải môi trường lưu vực chưa? Kết quả ra sao?
Nhóm Save CATTIEN National Park:
Tổng hợp nhanh các câu hỏi của cử tri tỉnh Đồng Nai gửi gắm đến Quốc
hội để chất vấn 5 bộ trưởng liên quan trách nhiệm đến việc xây dựng hai
Thủy điện Đồng Nai 6 và 6A xâm hại Vườn Quốc gia Cát Tiên:
1. Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng: Thưa
Bộ trưởng, trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, Bộ trưởng có trả lời là nhất
quyết sẽ cho rà soát và rút khỏi quy hoạch những thủy điện xâm hại đến
rừng đặc dụng, vậy tại sao Bộ trưởng không thực hiện lời hứa này đối với
Thủy điện 6 Và 6A?
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn: Căn cứ vào đâu, luận chứng kinh tế khoa học kĩ thuật nào, báo cáo
khả thi nào mà Bộ đã có Công văn số 228/BNN-TCLN ngày 06 tháng 02 năm
2012 trình Thủ tướng rằng: hai thủy điện ĐN6 + 6A được xây dựng sẽ không
ảnh hưởng lớn đến các nội dung và tiêu chí xác lập VQGCT?
3. Bộ Tài nguyên Môi trường: Việc lấy
chiếm hơn 50 héc ta rừng đặc dụng là vi phạm điều 7 của Luật Đa dạng
sinh học và phải trình Quốc hội thông qua, nếu là công trình an ninh -
quốc phòng. Vậy vấn đề này Bộ đã xem xét và tham mưu chính phủ như thế
nào?
Nếu xét thấy hai DTMs thực hiện chưa
đạt yêu cầu, chưa thể hiện được ảnh hưởng cộng hưởng của việc nổ mìn,
thi công và khai thác đá cũng như việc sẽ phá thêm rừng để mở ít nhất là
30km - 40km đường mới và phát tuyến thi công đường dây tải điện,… những
việc sẽ làm nguy hại nghiêm trọng đến an toàn của nhiều loài quý hiếm
đặc hữu và mất mát những gen gi truyền quý? Vậy Bộ có thực hiện trách
nhiệm của mình bằng cách không thông qua DTMs lần này không?
4. Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch:
Bộ đã công nhận di chỉ Óc Eo ở khu Dự trữ sinh quyển Đồng Nai là Di tích
quốc gia đặc biệt. Hiện nay Bộ có chủ trương tiếp tục khai quật các di
tích còn lại ở lòng đất để hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di
sản Văn hóa Thế giới. Vậy việc xây dựng hai thủy điện Đồng Nai 6 sẽ có
thể chôn vùi và làm mất đi những cơ hội tiềm năng cho việc phát hiện và
công nhận các di tích mới nhất là những di tích, di sản của người Mạ cổ
dọc sông Đồng Nai, vậy Bộ trưởng có nhận xét và ý kiến gì về vấn đề này?
5. Bộ Ngoại giao: Việc thi công xây
dựng hai thủy điện Đồng Nai 6 tại rừng đặc dụng - vùng lõi Khu Dự trữ
sinh quyển thế giới, Khu Ramsar quốc tế và đang chuẩn bị chờ thẩm định
để được UNESCO công nhận là Di sản thế giới là vi phạm vào các Công ước
và cam kết quốc tế của chính phủ Việt Nam: Công ước Đa dạng sinh học,
Công ước Ramsar, Công ước bảo vệ di sản. Vậy Bộ sẽ ý kiến định hướng như
thế nào về việc xây dựng dự án vi phạm cam kết quốc tế này?
Bạn đọc Thanh Nguyen (email: thanhrns@yahoo.com.au): "Nhà khoa học phải khách quan"
Tôi theo dõi nhiều các nhà báo và các
nhà khoa học viết về dự án Đồng Nai 6 và 6A, tôi thấy hầu như các nhà
báo và nhà khoa học chỉ nói về những mặt tiêu cực của dự án, không đề
cập đến các mặt tích cự của nó, nếu có đề cập đến các mặt tích cực thì
rất ít và không đáng kể, không nêu ra hết lợi ích kinh tế của nó. Như
vậy là không công bằng cho nhà đầu tư.
Tôi cũng chỉ là một người dân bình
thường, nhưng tôi thấy dự án này mang lại rất nhiều lợi ích quốc gia,
lợi ích của dự án lớn hơn rất nhiều, dự án nào thì cũng ảnh hưởng đến
môi trường nhưng từ những ảnh hưởng đó mình khắp phục tốt thì sẽ cải
thiện hơn nhiều, nên các nhà khoa học và bạn đọc nên công tâm và hướng
cho nhà đầu tư nếu thực hiện dự án thì phải cải tạo tốt về môi trường
thì sẽ được nhiều người ủng hộ.
Tôi thấy ở Việt Nam con người với nhau
nếu người này không ăn được thì đạp cho đổ người kia như vậy làm sao xã
hội phát triển lành mạnh được nếu cứ có suy nghĩ ích kỉ đó.
Tôi hy vọng Chính phủ Việt Nam nên công tâm và thấy rằng mấy ông nhà báo vì lợi nhuận của nhuận bút mà nói không đúng sự thật.
Tôi thấy Viện Tài nguyên và Môi Trường DHQG TPHCM họ đang làm một việc công tâm, để công bằng cho nhà đầu tư và xã hội Việt Nam.
Nhóm Save CATTIEN: "Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD) phải xem xét lại từ công tác
quy hoạch, không thể đá "quả bóng" sang Bộ Tài nguyên Môi trường
(MONRE)?"
Nhóm chúng tôi đã có một vài tài liệu
của dự án, theo con đường phi chính thức. Thư điện tử của ông Nguyễn
Huỳnh Thuật là thành viên Nhóm chúng tôi ngày 13/09/2012 gửi Ông Nguyễn
Vũ Trung đề nghị công khai Báo cáo ĐTM, và thư của GS.TS Nguyễn Trường
Tiến gửi Tập đoàn Đức Long Gia Lai ngày 05/09/2012, đề nghị cung cấp
thông tin của dự án đầu tư, vẫn chưa nhận được hồi âm.
Nhóm chúng tôi cần có tài liệu chính
thức của dự án, và thời gian để đưa ra các nhận xét về các khía cạnh
khác nhau của dự án thủy điện ĐN 6 và ĐN 6A, ví dụ như kiểm nghiệm đánh
giá lại mô hình toán cho hai đập ĐN 6 và ĐN 6A; và kết quả phân tích sẽ
được tiếp tục gửi đến một số thành viên của Hội đồng thẩm định.
Các chuyên gia am hiểu sâu về mô hình
thủy văn, mô hình thủy lực cũng sẽ kiểm nghiệm theo góc nhìn của mình để
có đối chứng càng tăng thêm giá trị của phản biện.
Theo ý kiến của Nhóm chúng tôi, trong
giai đoạn trước mắt chưa nên họp Hội đồng thẩm định đánh giá ĐTM (để
tiếp tục lắng nghe phân tích các ý kiến đa chiều, thu thập bổ sung phân
tích các luận cứ pháp lý, các thông tin, tư liệu cần thiết).
Chúng tôi có thể tiếp tục viết thư riêng
gửi một số vị lãnh đạo có trách nhiệm về quan điểm xử lý dự án ĐN 6 và
6A. Các thư này, với các luận chứng, và dẫn chứng về bài toán "trade
off" đánh đổi, sẽ đề nghị phải thận trọng trước khi quyết định về dự án
ĐN6 và 6A. Thậm chí có những công việc đề nghị Bộ NNPTNT phải xem xét
lại từ công tác quy hoạch, không thể đá "quả bóng" sang Bộ TNMT.
Chúng tôi giữ quan điểm rằng, cần mời bổ
sung một số thành viên tham gia trong Hội đồng Thẩm định (kể cả những
người có ý kiến khác biệt). Ba (03) tỉnh thành phía hạ lưu (Đồng Nai,
Bình Dương, TP.HCM) về nguyên tắc người ta có thể chỉ xin ý kiến bằng
văn bản, nhưng đối với dự án nhạy cảm, chúng tôi cho rằng nên mời tham
gia trực tiếp Hội đồng vẫn tốt hơn.
Mặc dù chỉ dựa trên các tài liệu dự án
chưa đầy đủ và không chính thức về mặt danh nghĩa, nhưng các ý kiến nhận
xét của Nhóm Save CATTIEN sẽ cố gắng tiếp tục cập nhật, phân tích, lập
luận chắc chắn trên cơ sở khoa học, lời lẽ ôn hòa, xây dựng trên tinh
thần đối thoại, không đối đầu để thuyết phục những người có trách nhiệm.
Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu các vấn
đề, hoặc đơn giản chỉ là các câu hỏi, về các khía cạnh liên quan thể
hiện trong một số hình vẽ dưới đây.
Câu hỏi 1: Các phương án tuyến đập thủy
điện Đồng Nai 6 & 6A đã phải là cuối cùng chưa? Điều chỉnh Quy hoạch
thế nào? Sự phối kết hợp và "đá bóng" giữa bốn (04) Bộ: Bộ NN&PTNN
(MARD), Bộ TNMT (MONRE), Bộ Công thương (MOIT), Bộ VH-TT-DL (CINET) đã
đến hồi kết chưa, và đã/sẽ tham mưu tốt cho Thủ tướng chưa/không?
Câu hỏi 2: Tại sao chỉ có sơ đồ tổng mặt bằng xây dựng cho thủy điện Đồng Nai 6 mà không có sơ đồ tương tự cho thủy điện Đồng Nai 6A?
Câu hỏi 3: Hình này thể hiện sơ đồ vị
trí thủy điện Đồng Nai 6A so với VQG Cát Tiên. Độ chính xác của khoảng
cách 25km - 30km? Phải chăng, Chủ đầu tư & Tư vấn muốn nói rằng,
khoảng cách đó là an toàn cho Cát Lộc, Cát Tiên và Bàu Sấu?
Câu hỏi 4: Hình này thể hiện Vị trí
chiếm đất của dự án thủy điện Đồng Nai 6&6A trong VQG Cát Tiên. Bản
thân chữ trong, và những chữ "bảo vệ nghiêm ngặt", "phục hồi sinh
thái"..., là có hàm nghĩa rằng, cứ làm thủy điện vô tư?
Câu hỏi 5: Vị trí khu vực cấp đất xây dựng công trình của dự án thủy điện Đồng Nai 6, giáp và vắt ngang ranh giới VQG Cát Tiên?
Câu hỏi 6: Bản đồ ngập lũ thượng lưu sông Đồng Nai từ bậc thang thủy điện Đồng Nai 5 đến Hồ Trị An cho mô phỏng vỡ đập ĐN 6 bằng phần mềm MIKE 11. Các thông số đầu vào/Input data cho phần mềm được lựa chọn thế nào?
GS.TSKH Lê Huy Bá, Viện trưởng
Viện Khoa học môi trường, Đại học Nguyễn Tất Thành (TP. HCM): “Đánh giá
tác động môi trường còn sơ sài”
Bản báo cáo đánh giá tác động môi trường
Dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A do Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại
học Quốc gia TP. HCM thực hiện (do chủ đầu tư - Tập đoàn Đức Long Gia
Lai thuê) còn quá sơ sài.
Báo cáo chưa tính đến việc các con đập
xây dựng ở các thác nước thuỷ điện 6, 6A đều nằm trên những đứt gãy, sụt
lún sâu. Khi có một sức nặng của 31 triệu m3 nước đè lên đáy hồ, nguy
cơ xảy ra động đất tự nhiên do đứt gãy và động đất là có.
Báo cáo cũng chưa tính được khả năng
chịu tải của hệ sinh thái tiểu lưu vực 6 và 6A, chưa cân đối với khả
năng chịu tải của hệ sinh thái toàn bộ lưu vực sông Đồng Nai để từ đó
xét xem hệ sinh thái này còn có sức chịu tải (sức chứa) nữa không, nếu
còn thì còn bao nhiêu, khi vỡ đập với độ cao 800m, chúng ta sẽ lường
trước được cái gì sẽ xảy ra cho hệ sinh thái và dân cư đô thị ở hạ lưu
Thủ Dầu Một, TP.HCM? Trong lúc toàn vùng cao nguyên Việt Nam (Tây
Nguyên) có đến trên 300 thuỷ điện lớn nhỏ thì liệu sông Đồng Nai có đổi
dòng không, vì khi sông đổi dòng chảy, tai hoạ sẽ vô cùng lớn lao.
Đánh giá tác động môi trường là phải
lường được mọi vấn đề có thể xảy ra, nhưng ở đây báo cáo vẫn chưa làm
được. Ngoài ra, báo cáo không nêu ra được kết luận rõ ràng: ảnh hưởng gì
đến tài nguyên thiên nhiên, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi
trường nhân văn và ở mức độ nào... để từ đấy khuyến cáo người ra quyết
định có nên cho làm thuỷ điện 6, 6A không?
Khi tôi đọc hành văn của tác giả, tôi
thấy báo cáo không giấu được chủ ý “cố gắng để chủ đầu tư thắng”. Việc
để chủ đầu tư trả tiền cho đơn vị làm đánh giá tác động môi trường như ở
Việt Nam chúng ta chẳng khác gì đẩy đơn vị lập đánh giá vào thế “ăn cơm
chúa múa tối ngày”. Tôi đề nghị Cục Thẩm định và đánh giá tác động môi
trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường nên có một buổi hội thảo mở về vấn
đề thuỷ điện 6 và 6A và tránh kiểu: ai ủng hộ thì mời phản biện, ai
không ủng hộ thì lơ đi!
TS Tô Văn Trường: "Nhiều vấn đề chưa được làm rõ"
Khách quan nhận xét, đánh giá tác động
môi trường (ĐTM) dự án ĐN 6 và 6 A của Viện Môi trường và Tài nguyên -
Đại học Quốc gia TP HCM thực hiện lần này tốt hơn rất nhiều so với báo
cáo lần trước. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều tồn tại cần làm rõ về phương
pháp luận ĐTM, tính khả thi của việc điều tiết nước về phía hạ lưu, các
thông tin chi tiết về hiện trạng rừng và mức độ đa dạng sinh học, văn
hóa bản địa tại khu vực dự án vv…
Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình
đánh giá tác động là: Đánh giá tác động môi trường, đánh giá tác động xã
hội, đánh giá tác động sức khỏe và đánh giá tác động kinh tế.
Dưới góc độ khoa học, mỗi loại hình đánh
giá tác động phải đáp ứng 3 tiêu chí của khoa học là đối tượng nghiên
cứu, phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu.
Dưới góc độ môi trường, 4 loại hình đánh
giá tác động này được coi là công cụ mang tính phòng ngừa rất hữu hiệu
trong công tác bảo vệ môi trường.
Trong đánh giá tác động môi trường, tiêu
chuẩn môi trường và quy chuẩn môi trường là các căn cứ, chuẩn mực để so
sánh, đánh giá và xác định mức độ của các tác động môi trường. Độ tin
cậy, chính xác của đánh giá tác động môi trường phụ thuộc vào phương
pháp dự báo, thông tin số liệu đầu vào và kinh nghiệm tay nghề của người
thực hiện. Khó khăn cho những người thực hiện ĐTM là độ tin cậy và rất
hạn chế về lượng thông tin có tính hệ thống, đồng bộ. Cách tốt nhất đối
với ĐTM là phải “lồng ghép” trong dự báo, đánh giá tác động của hệ thống
các dự án trong cùng một vùng.
Đối với tác động môi trường của dự án
thủy điện Đồng Nai 6 và 6A cần xem xét và đánh giá cẩn trọng đối với các
vấn đề về mất vĩnh viễn diện tích rừng, suy giảm đa dạng sinh học, rủi
ro và sự cố môi trường.
Dự án thủy điện 6A lựa chọn phương án
mực nước dâng 175m, và đánh giá là giảm diện tích rừng bị mất vĩnh viển
so với phương án dâng 177 m là khoảng 15 ha, trong đó, chỉ có 2 ha thuộc
khu bảo vệ nghiêm ngặt của Nam Cát Tiên.
Như vậy với phương án này, diện tích khu
bảo vệ nghiêm ngặt bị ngập là 25 ha, trên tổng số 107 ha đất rừng bị
ngập. Đối với Đồng Nai 6, lựa chọn phương án mực nước dâng 224 m thì
diện tích chiếm đất vĩnh viễn là 171,36 ha (155,35 ha diện tích lòng hồ
và 16,01 ha diện tích công trình chính) trong đó có 77, 36 ha thuộc rừng
Quốc gia Nam Cát Tiên.
Tuy nhiên, trong báo cáo chưa tính đến
diện tích đất dùng cho tuyến truyền tải điện, bao gồm cả hành lang an
toàn, các phương án truyền tải chưa được nêu ra, mặc dù hành lang an
toàn theo quy định là không lớn, nhưng lại kéo dài và như vậy diện tích
đất và rừng bị mất là con số không nhỏ.
Nếu đứng trên quan điểm của các nhà bảo
tồn đa dạng sinh học, căn cứ theo luật đa dạng sinh học thì rõ ràng cả 2
dự án đều vi phạm vào khu bảo tồn thuộc vườn Quốc gia Cát Tiên. Toàn bộ
quá trình từ giai đoạn chuẩn bị, xây dựng và vận hành đều gây tác động
vĩnh viễn đến việc mất tổng số gần 300 ha đất rừng trong đó 25 ha thuộc
khu bảo vệ nghiêm ngặt và 77 ha rừng phòng hộ.
Cũng theo đánh giá của báo cáo ĐTM, thì
vườn quốc gia Cát Tiên là một trong những khu vực hiếm hoi ở Đông Nam Bộ
có tính đa dạng sinh học cao, tồn tại nhiều loại động thực vật có tính
bản địa, có giá trị kinh tế, và cần được bảo tồn vì có nguy cơ tuyệt
chủng, thuộc những loài nằm trong sách đỏ Việt Nam.
Theo các chuyên gia đa dạng sinh học
nhiều năm gắn bó với rừng Cát Tiên phản ánh hiện trạng rừng Cát Tiên
ngoài rừng nghèo kiệt và tre nứa thuần loại còn các hệ sinh thái như
rừng kín thường xanh cây nửa lá rụng, rừng hỗn giao cây gỗ và tre nứa,
rừng ngập nước ven suối và sông. Nhiều loại thực vật quý hiếm và đặc hữu
có nguy cơ tuyệt chủng được tìm thấy như cẩm lai, gỗ đỏ, gỗ mật, trắc
và động vật như chà và chân đen, vượn đen má vàng, culi nhỏ, sóc đen lớn
vv…
Để cập nhật các số liệu xác thực, rất
cần nhóm chuyên gia độc lập tiến hành khảo sát thực địa để minh chứng,
cung cấp cho Bộ Tài nguyên & Môi trường và Hội đồng thẩm định đánh
giá tác động môi trường.
Đứng trên góc độ người dân bình thường,
câu hỏi đặt ra là, nếu không có việc xây dựng thủy điện Đồng Nai 6 và 6A
thì rừng có được bảo vệ nghiêm ngặt như tên của nó không? Vấn nạn khai
thác gỗ lậu, săn bắn thú rừng trái phép diễn ra khắp nơi như hiện nay
liệu những khu rừng như Nam Cát Tiên còn tồn tại được bao lâu? Như vậy
thủ phạm làm mất rừng, suy giảm đa dạng sinh học ở đây là ai? Chủ đầu tư
xây dựng nhà máy thủy điện? hay những công ty xuất nhập khẩu gỗ lâm sản
hay hàng ngàn quán nhậu có thực đơn là thịt thú rừng. (Vườn Quốc gia
Cát Tiên đã xác nhận cá thể Tê giác 1 sừng cuối cùng đã bị sát hại năm
2011)!.
Đứng trên quan điểm quản lý môi trường
là sự cân nhắc giữa bài toán được và mất, cái được về mặt kinh tế của 2
dự án này theo tính toán kinh tế là đã rõ, những cái thiệt hại về môi
trường nhiều khi không tính được bằng tiền, vậy quan điểm của các nhà
quán lý như thế nào? Các cam kết của chủ đầu tư cần cụ thể hóa kế hoach
trồng và phục hồi rừng, (trong khi rừng đều đã có chủ là giao cho dân),
cũng như cam kết hỗ trợ phát triển sinh kế và đảm bảo an sinh xã hội cho
cộng đồng địa phương.
Ngoài việc lấy ý kiến của chính quyền,
Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và người dân, chủ đầu tư cần thảo
luận, có sự đồng thuận của chủ rừng, vườn Quốc gia Cát Tiên, cơ quan
quản lý môi trường của các địa phương Đồng Nai, Bình Phước, Lâm Đồng vv…
Trong báo cáo đề cập đến rất nhiều loại
rủi ro và sự cố, tuy nhiên những rủi ro, hoặc lỗi kỹ thuật trong các
khâu thiết kế, thi công chưa được đề cập tới.
Lấy ví dụ trường hợp nổ do công nhân
khoan tại hầm thủy diện Nam Pong, Nghệ An, hay rò rỉ, thấm thân đập thủy
điện sông Tranh 2. Đối với rủi ro do vỡ đồng thời 2 đập ĐN 6 và 6A, thì
mức độ, diện tích ngập ở phía hạ lưu được tính toán tương đương với
trường hợp lũ năm 2000 và 2006.
Do vậy báo cáo phải có sự cam kết của
chủ đầu tư về việc xây dựng kế hoạch trong đó có các biện pháp ứng phó
bao gồm cả phương tiện dự phòng trong trường hợp sự cố xẩy ra.
Các chuyên gia môi trường thường quan
ngại điểm yếu nhất của quy trình “Đánh giá tác động môi trường” của ta
hiện nay là khâu hậu kiểm!
Công trình thuỷ điện Đồng Nai 6A nằm
trong khu vực bị rải chất độc hoá học trong chiến tranh. Chất độc hoá
học tồn tại rất bền vững trong đất, nên nếu có sẽ làm ảnh hưởng sức khoẻ
người dân và động vật trong vùng dự án cũng như chất lượng nước hồ. Chủ
dự án nên tìm hiểu chi tiết và thuê cơ quan chuyên môn tiến hành thăm
dò chất độc hoá học mặc dù hiện chưa có báo cáo về chất độc hoá học khu
vực này.
Thủ tướng Chính phủ có văn bản số
45/TTg-KTN ngày 31/8/2011 gởi các Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông
thôn, Bộ Tài nguyên & Môi trường, UBND các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông,
Bình Phước yêu cầu luận chứng thêm các diện tích rừng và đất cần chuyển
mục đích sử dụng để thực hiện các dự án thủy điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai
6A để xem xét cho việc chuyển đổi hay không; Thẩm định và phê duyệt Báo
cáo đánh giá tác động môi trường.
Rừng là bộ phận kết cấu hạ tầng sinh
thái của đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà người ta nhận xét, không có
thủy điện vẫn có giải pháp khác thay thế, còn khi mất rừng là mất tất
cả! Cuối tháng 9 năm nay, đoàn chuyên gia của thế giới sẽ bắt đầu đến
Việt Nam xem xét, đánh giá hồ sơ di sản thế giới của rừng Cát Tiên bởi
vậy báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án thủy điện Đồng Nai 6
và 6 A cần được tiếp tục bổ sung làm rõ các vấn đề còn tồn tại.
Hội đồng thẩm định đánh giá tác động môi
trường bao gồm nhiều nhà quản lý và khoa học của các ngành ở trung ương
và địa phương. Do tính chất nhạy cảm và phức tạp của dự án thủy điện ĐN
6 và 6A, nên thực hiện theo cơ chế “thẩm định mở”, có nghĩa là mời cả
đại diện của các tổ chức phản biện không tán thành hoặc có ý kiến băn
khoăn về dự án như Mạng lưới sông ngòi, Nhóm yêu quý bảo vệ rừng Cát
Tiên cùng tham dự. Thẩm định mở, tôn trọng ý kiến đa chiều, chính là
“lối ra” hợp lý nhất cho dự án thủy điện ĐN 6 và 6A.
Chuyên gia môi trường quốc tế Nguyễn Bích Thái Nguyên: "Phục hồi" Vườn Quốc gia
Đứng trên quan điểm sinh thái học và bảo
tồn Vườn Quốc gia thì không thể yêu cầu ”trồng và phục hồi rừng” được.
Nguyên tắc bảo tồn Vườn Quốc gia là “không lấy gì từ trong mang ra
ngoài, không mang gì từ ngoài vào trong”. Khi đã phá hoại Vườn QG thì đã
vi phạm vế 1, còn trồng rừng thì vi phạm vế 2.
Làm thế nào có thể ”trồng và phục hồi
rừng” với hàng trăm hoặc hàng nghìn chủng loại nấm, địa y, dương xỉ, cây
thân thảo, dây leo, cây nhỡ, cây to...? Hay là chỉ trồng vài chủng loài
cây? Lại còn nhắm đến cây kinh tế? Hoặc là cây du nhập có sức tăng
trưởng nhanh để nhanh phủ xanh, nhanh báo cáo thành tích?
Tóm lại, đã mất hệ sinh thái Vườn QG là
xem như mất hẳn, không mong gì “phục hồi” được. Đó là cái mất 100%. Hãy
xem cái được sẽ bù lại 100% đó hay không.
Việc khác: tôi đọc thấy ý kiến là 1 đoàn
đông bị cho là cưỡi ngựa xem hoa, không đi sâu đi xa đủ để khảo sát
hiện trạng hệ sinh thái. Mấy ông bà đó đâu có đủ trang bị, sức lực mà đi
khảo sát cho có bài bản nghiêm túc!? Và có đủ kiến thức về phương pháp
khảo sát các hệ sinh thái khác nhau? Còn phải đo đếm mật độ, tỷ lệ phân
bố chủng loài... Có chuyên gia về chim không? về côn trùng? về nấm? về
thủy sinh? Rồi thì làm sao quan sát được thú hoang dã khi chỉ đi 1 đoạn
nhanh chóng? Người ta lặn lội hàng tuần nơi rừng sâu, bãi lầy, ven
suối... thì mới mong quan sát và ghi chép quần thể, chủng loài... thú
hoang dã.
Cái phản biện là ở chỗ đó: anh nào, đoàn
nào đã đi sâu và xa đến đâu, thấy những gì, đo đếm những gì, chụp ảnh
được những gì... thì cần được mời phát biểu.
Xin mời các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và bạn đọc cùng góp ý, tranh luận.
Xin mời các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và bạn đọc cùng góp ý, tranh luận.
VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN ĐÀ LẠT
Từ thành phố Hồ Chí Minh đi ngược lên phía Bắc khoảng 160km, du khách sẽ bắt gặp ngay vườn quốc gia Cát Tiên, một trong 6 khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận của Việt Nam.
Vài nét về vườn quốc gia Cát Tiên
Vườn quốc gia Cát Tiên là một khu bảo tồn thiên nhiên với diện tích 71.920ha nằm trải rộng trên địa bàn của 5 huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu( Đồng Nai), Cát Tiên, Bảo Lộc( Lâm Đồng) và Bù Đăng( Bình Phước). Vườn quốc gia Cát Tiên mang đặc thù là rừng đất thấp ẩm ướt nhiệt đới, là một khu du lịch sinh thái lí tưởng của miền Đông Nam Bộ, là một vùng đất còn giữ nguyên đặc tính nguyên sơ , tự nhiên của nó. Vườn quốc gia Cát Tiên được chia thành 3 khu vực: Cát Lộc, Nam Cát Tiên và Tây Cát Tiên. Khu vực Cát Lộc nằm phía trên địa bàn Cát Tiên và Bảo Lộc. Khu vực này thường được dùng để bảo tồn các loài tê giác do ở khu vực này có loài tê giác Java sinh sống chính nhờ loài tê giác đã làm khu bảo tồn này được cộng đồng thế giới quan tâm. Tuy nhiên, ngày 25 tháng 11 năm 2011 Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên và Quỹ Bảo tồn Tê giác Quốc tế công bố loài tê giác Java đã chính thức tuyệt chủng tại Việt Nam. Phần phía trên địa bàn Tân Phú và Vĩnh Cửu thường được gọi là khu vực Nam Cát Tiên. Một điểm thu hút khác của nơi đây đó là sự tồn tại của đàn bò tót khổng lồ nặng trên hàng tạ, với số lượng khoảng 70-80 con, hiện cũng đang có nguy cơ tuyệt chủng cao do bị săn bắn trộm và mất chỗ ở vì rừng bị chặt phá. Khu vực này có khoảng chục vùng đất ngập nước như Bàu Sấu (rộng 5-7 hecta thuộc huyện Tân Phú), Bàu Chim (50-100 hecta), Bàu Cá, Bàu Đắc Lớ, Trảng Cò,... Bàu Sấu còn là tên gọi chung cho toàn bộ các vùng đất ngập nước khoảng 137,60 km² (trong đó 1,5 km² ngập nước thường xuyên, 53,6 km² ngập nước theo mùa, và phần còn lại có độ cao tuyệt đối không quá 125 m) ở Nam Cát Tiên. Bàu Sấu từng được mệnh danh là vùng đầm lầy nguyên thủy có số lượng cá sấu nhiều đáng kể và rất hiền. Không những thế, thử nghiệm dạng sinh học gần đây nhất (2004) là việc thả 38 con cá sấu gốc Thái Lan vào hồ Bầu Sấu ở giữa rừng làm đa dạng thêm số lượng dồi dào của cá sấu tại đây. Ngày 4 tháng 8 năm 2005, Ban Thư ký Công ước Ramsar công nhận Hệ đất ngập nước Bàu Sấu là Khu Ramsar thứ 1.499 của thế giới và thứ 2 của Việt Nam với tổng diện tích là 13.759 ha (trong đó có 5.360 ha đất ngập nước theo mùa, 151ha đất ngập nước quanh năm). Phần trên địa bàn Bù Đăng thường được gọi là Tây Cát Tiên.
Hệ động thực vật đang dạng bất nhất Việt Nam tại Cát Tiên
Vườn quốc gia Cát Tiên là một khu dự trữ sinh quyển với sự đa dạng sinh học vô cùng lớn và giá trị đối với thiên nhiên Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Khoảng 50% diện tích của Cát Tiên là rừng cây xanh, 40% là rừng tre, 10% là nông trại. Cho đến nay, các nghiên cứu đã ghi nhận được ở Cát Tiên có 113 loài thú, thuộc 38 họ và 12 bộ. Trong đó, có tới 43 loài thú đang bị đe doạ tuyệt chủng trong nước và trên toàn cầu với 38 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007) như tê giác Java một sừng, đã được Sách Đỏ Việt Nam xếp vào hạng cao nhất – E, nhưng vẫn kém hơn so với hạng cực kì nguy cấp của Sách đỏ IUNC. Ngoài ra, vườn quốc gia Cát Tiên còn có chà vá chân đen, hoẵng Nam Bộ, voi châu Á, bò tót, gấu chó, gấu ngựa, trâu rừng, hổ, báo hoa mai, báo gấm, nai... Các loài chim tồn tại ở rừng Cát Tiên cũng vô cùng phong phú và đa dạng với 351 loài thuộc 64 họ của 18 bộ. Trong đó có 17 loài quí hiếm đã được phát hiện và có tên trong sách đỏ Việt Nam như hạc cổ trắng, công, già đẫy java, quắm cánh xanh, ngan cánh trắng, gà so cổ hung, gà tiền mặt vàng, chích chạch má xám, đại bàng đen, vịt trời cánh trắng, chim mỏ sừng lớn... Về nhóm bò sát và lưỡng cư, vườn quốc gia Cát Tiên có 109 loài bò sát thuộc 17 họ và phân họ, 4 bộ, trong đó có 18 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam như: cá sấu Xiêm,trăn gấm, trăn đen...
Các loài lưỡng cư có 41 loài thuộc 6 họ, 2 bộ trong đó có 3 loài được ghi tên trong sách đỏ Việt Nam như cóc mắt chân dài , cóc rừng, chàng andecson. Về nhóm côn trùng, hiện nay đã ghi nhận được tại vườn quốc gia Cát Tiên 756 loài thuộc 68 họ, 10 bộ . Riêng các loài bướm đã xác định được 450 loài, chiếm hơn 50% tổng số loài bướm được ghi nhận ở Việt Nam. Các loài quý hiếm có 2 loài là bướm phượng (Sách Đỏ Việt Nam năm 2007) và bướm phượng cánh sau vàng, bướm phượng cánh kiếm. Nhóm cá nước ngọt gồm 159 loài, 29 bộ, 9 họ. Trong đó, có 1 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 và Sách Đỏ IUCN 2008. Vườn quốc gia Cát Tiên có luồng hệ thực vật phong phú, đa dạng với các kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới với thành phần các loài cây gỗ, chủ yếu thuộc các họ sao dầu (Dipterocarpaceae) và họ đậu (Fabaceae). Hiện nay, tại vườn quốc gia Cát Tiên đã xác định được 1.610 loài thuộc 724 chi, 162 họ và phụ họ, 75 bộ thực vật bậc cao có mạch. Có thể kể tên một số loài cây quý hiếm có tên trong sách đỏ như: gõ đỏ, gõ mật, cẩm lai Bà Rịa, cẩm lai nam, cẩm lai vú, giáng hương... Vườn quốc gia Cát Tiên không chỉ làm một khu dự trữ sinh quyển lớn của thế giới, một báu vật của thiên nhiên Việt Nam , nơi lưu trữ đa dạng sinh học cho Việt Nam mà còn là một khu du lịch sinh thái tuyệt vời, đầy thú vị cho khách du lịch. Nơi đây thật sự là một nơi lí tưởng và đầy hấp dẫn các nhà nghiên cứu, khám phá những bí ẩn về thế giới thiên nhiên và hệ sinh thái, đồng thời là nơi học tập thực tế và ý nghĩa nhất cho những ai ham muốn tìm hiểu về thiên nhiên, muốn tham quan du lịch. Vườn quốc gia Cát Tiên tuyệt đối không làm du khách thất vọng, đảm bảo mang đến cho du khách những cảnh quan tuyệt đẹp nhất về thiên nhiên cũng như nên văn hóa lịch sử một thời còn tồn tại nơi hoang sơ này.
Hoa Da Lat
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.