Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

DALAT QUY HOACH

HÃY CỨU LẤY DALAT
by I Love Đà Lạt on Sunday, May 13, 2012 at 6:44am ·
https://www.facebook.com/notes/i-love-%C4%91%C3%A0-l%E1%BA%A1t/h%C3%A3y-c%E1%BB%A9u-l%E1%BA%A5y-dalat/405339819505937#

Không biết Dalat đã in sâu vào ký ức tôi tự bao giờ! Chỉ biết là từ rất lâu trước khi được tận mắt nhìn thấy thành phố cao nguyên đầy mộng mơ nầy. Ngay từ thập niên 1950-1960 lần đầu tôi “nhìn” thấy Dalat qua những tấm ảnh trắng đen của ba tôi mang về sau những lần lưu diễn hoặc qua các tờ lịch treo tường. Chỉ nhìn thấy hình ảnh thôi, nhưng với trí óc trẻ thơ nhiều mơ mộng, trong đầu tôi khi ấy vẽ ra nhiều khung cảnh huyền ảo về miền đất nên thơ nầy. Mãi đến đầu thập niên 1970, khi bước chân vào Đại học tôi mới có dịp diện kiến Dalat, nàng tiên trong mộng, lầu đầu tiên trong đời.

Cảm giác của tôi lúc ấy khi nhớ lại thật bồi hồi xúc động và nôn nao khó tả. Từ đèo B’lao trở đi, cảnh vật hoàn toàn thay đổi khác lạ đối với một người chỉ sống ở đồng bằng như tôi. Từ lâu tôi vẫn có một thứ cảm tình kỳ lạ đối với cây thông, một sự yêu thích đến mức khó tin. Chỉ cần xuất hiện vài dòng chữ trong thơ văn bắt gặp đó đây, chẳng hạn đồi thông, rừng thông, thông reo…đều gợn lên trong lòng tôi một nỗi xao xuyến nhẹ nhàng…

Vậy là tôi đã gặp được thông! Hình ảnh cây thông đầu tiên tôi nhìn thấy là tại khu vực trường Trung học Nông-Lâm-Súc Bảo Lộc. Và từ đó trở đi đến Dalat, tôi không hề rời mắt khỏi khung cửa sổ xe đò để không bỏ lỡ bất cứ hình ảnh nào về Dalat của lần hạnh ngộ đầu tiên. Dalat lần đầu tiên tôi gặp, hoàn toàn không giống những gì tôi đã từng tưởng tượng ra. Dalat vẫn đẹp như tôi nghĩ, nhưng là một vẻ đẹp não nùng hơn, bàng bạc như sương khói! Dalat, một thành phố trong mơ! Dalat là một thành phố lung linh, huyền ảo!

Hành nghề kiến trúc, tuổi ngoại ngũ tuần, nhiều năm nay tôi cố gắng giữ thông lệ mỗi năm một lần cùng gia đình đến với Dalat để cùng tìm lại không khí và khung trời kỷ niệm ngày xưa. Tuy nhiên, mỗi lần gặp lại Dalat là thêm một lần buồn tiếc! Dalat đã quá nhiều thay đổi! Những người bạn cũ hoặc bất cứ ai đã từng sinh trưởng, đã từng sống lâu, đã từng yêu quí Dalat trước đây như tôi, đều có chung nhận định Dalat đã thay đổi đến mức kinh ngạc, theo chiều hướng xấu, càng lúc càng tệ hại. Thời gian vốn dĩ tàn phá dung nhan con người, nhưng cũng có sức tàn phá thiên nhiên đến thế nầy sao!

Đã rất nhiều lần tôi có ý định viết về Dalat trước khi quá trễ (nay thì đã trễ thật rồi: 2012!). Trước đây cũng đã có rất nhiều ý kiến về vấn đề nầy trên tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng tất cả đều rơi vào quên lãng.




Tôi sợ mình tiếp tục là hạt cát trong sa mạc, chỉ là kẻ múa rìu qua mắt thợ và mọi ý kiến chẳng được ai ghé mắt tới. Tuy nhiên “thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Ngay sau Tết nguyên đán Đinh Hợi vừa qua (2007), tôi một mình một ba lô trở lại Dalat và chứng kiến bao đổi thay đáng buồn. Được sự khuyến khích của vài người bạn tâm huyết với Dalat và qua hàng loạt bài báo kêu cứu về Dalat hiện nay, thôi thúc tôi phải lên tiếng với công luận với chút hy vọng mong manh: phải làm gì đó cho Dalat, dù chỉ là gióng lên tiếng chuông muộn màng…


I. DALAT MỘT CHÚT HOÀI NIỆM.




Dalat của thập niên 70 không như bây giờ. Đó là một thị xã miền cao nguyên êm đềm, lặng lẽ, nên thơ, đẹp huyền hoặc, đầy nét mộng mơ, quyến rũ.

Dalat không giống bất cứ thành phố nào của Việt Nam. Nói về Dalat người ta âu yếm dùng mọi mỹ từ thân thương nhất để gọi tên thành phố nhỏ bé nầy: thành phố sương mù, thành phố hoa đào, thành phố mộng mơ, thành phố cao nguyên…và sau nầy là miền đất lạnh, thành phố buồn, thành phố mưa bay (theo tên các bản nhạc nổi tiếng về Dalat).

Ôi!... Đà Lạt là thơ…
Bài thơ mến yêu reo muôn đời,
Dệt bằng tiếng gió ngàn reo
Qua đồi thông hay bên… bờ suối!
Ôi, Đà Lạt là mơ!...(1)




Nói Dalat hoàn toàn không giống bất cứ thành phố nào khác của VN quả không ngoa. Dalat là sự phối hợp tuyệt vời giữa cảnh sắc, địa hình thiên nhiên, khí hậu mát mẻ trong lành của cao nguyên, kiến trúc hài hòa và con người thanh lịch.



1. Vào thập niên 70’ Dalat chỉ khoảng 80.000 dân.


Một thành phố thanh lịch tuyệt vời, một thành phố dường như chỉ có trong mơ, cho dù cuộc chiến đang hồi khốc liệt. Cảnh vật Dalat khi ấy, tôi còn nhớ như mới hôm qua, còn nguyên vẻ hoang sơ của núi rừng cao nguyên. Thông mọc khắp nơi: thông trên núi, thông trong rừng, thông tràn ra phố thị, thông chen chúc lẫn vào trong các biệt thự, dinh thự (như dinh Thị trưởng chìm khuất trong rặng thông: nhìn từ xa, đồi thị trưởng được viền bằng hàng thông xanh thẩm).

Còn hoa?



Dalat là xứ sở của muôn hoa. Hoa mọc khắp nơi. Hoa trồng trong các dinh thự, tu viện, nhà thờ, chùa chiền, trường học. Hoa trồng trong công viên. Hoa hiện diện trong các biệt thự, nhà ở. Hoa không trồng, hoa dại cũng tràn ngập các lối đi, vệ đường, ven hồ…như hoa qùy, pissenlit (bồ công anh), églantine (hoa hồng dại), glaïeul, forget-me-not, pensée, gueule-du-loup…

Ngày xưa đi du lịch Dalat là mơ ước của nhiều người, tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng đến được (2). Chỉ có giới thượng lưu, khá giả, trí thức mới có điều kiện thực hiện ước mơ nầy thường xuyên; giới trung lưu, công chức thường thường bậc trung, mấy ai dám nghĩ đến. Còn đi theo tours do các cơ quan quen tổ chức “đại trà” như hiện nay thì hầu như không có vì tình hình kinh tế thời chiến lúc ấy.



Yếu tố tiên quyết làm nên một Dalat độc đáo chính là khí hậu. Không khí Dalat mát lạnh quanh năm. Do đó bất cứ tấm ảnh kỷ niệm nào của du khách đến Dalat đem về cũng khoe ra áo len, áo khoác…Thuở tôi còn ở Dalat, có lúc nhiệt độ buổi sáng xuống tới 4 độ C. Những tưởng khí hậu Dalat là món quà thiên nhiên ưu ái vĩnh viễn trao cho Dalat! Thế nhưng thiên nhiên ban tặng có điều kiện, nghĩa là phải biết quí trọng và nâng niu gìn giữ…

Cảnh vật Dalat ngày ấy hoàn toàn thuộc về thiên nhiên, hoang sơ, tĩnh lặng, không có sự can thiệp thô bạo của bàn tay con người, cũng như không có sự khai thác cạn kiệt, bất chấp hậu quả, để mang lại lợi nhuận cao nhất như cách làm hiện nay. Khi ấy hồ Than thở (Lac des Soupirs thời Pháp) vẫn còn xanh mượt đồi thông bao quanh. Rừng Tùng Nguyên, nơi thường tổ chức các trại huấn luyện hướng đạo sinh (boy-scout) kề bên vẫn còn nguyên khung cảnh núi rừng của “đồi thông hai mộ”, thâm u, tĩnh mịch (ngay cả 2 ngôi mộ nầy ngày nay cũng bị làm giả, sơn phết lòe loẹt và thiên tình sử của người nằm dưới hai ngôi mộ kia cũng bị làm giả luôn, chế biến thêm để móc hầu bao du khách).



Nước hồ xanh trong, tiếng thông rì rào trong gió càng gợi thêm bầu khí u hoài. Như đã nói, Dalat lúc bấy giờ rất vắng người, làm tên hồ càng hòa hợp với khung cảnh của nó. Hồ Đa Thiện (Khu DL Thung lũng tình yêu ngày nay) khởi đầu được hình thành bằng cách xây một con đập chận dòng suối nhỏ. Dòng chảy bị ngăn, ứ lại thành hồ, nhấn chìm những cây thông hiện hữu đang sống trong lưu vực hồ. Loài cây quân tử nầy cho thấy sức mạnh bền bĩ đáng nễ. Chúng sống rất dai, mãi vài năm sau mới chết, vô tình biến hồ Đa Thiện thành một khung cảnh ngoạn mục: giữa cảnh trời xanh bao la, rừng núi xanh, những rặng thông cành lá xanh rì ngạo nghễ vươn mình lên khỏi mặt nước xanh biếc…



Ngày ấy, những hồ Mê Linh, Vạn Kiếp chưa bị hóa kiếp. Thác Cam Ly vẫn còn là dòng thác nổi tiếng chào đón du khách ngay tại trung tâm thị xã, như một câu thơ ghi trên tấm bưu ảnh vẫn ghi đậm trong trí tôi mãi đến hôm nay:

Đà Lạt có thác Cam Ly,
Có hồ Than thở muốn đi không về.

Xa hơn, thác Datanla ầm ì đổ xuống từ vách đá cao, hung hãn, hoang dã. Muốn đến được chân thác, du khách chỉ có cách… bò. Thác Prenn hiền hòa dưới chân đèo, ngay cửa ngõ Dalat. Đi xa hơn nữa, thác Liên Khương và thác Gougah cuồn cuộn chảy, tung bọt trắng xóa gần giống thác Pongour chứ không khô khốc hoang tàn như bây giờ! Thác Pongour, ngọn thác hùng vĩ, hoang dại nhất cao nguyên Lâm Viên, cách trung tâm Dalat khoảng 50km – ngày ấy khó đến được vì lý do an ninh. Một trong những khung cảnh đẹp tuyệt vời còn y nét trinh nguyên của Dalat, nơi bác sĩ Yersin khi mới tìm ra Dalat, định đặt làm trung tâm cho vùng đất cao nguyên vừa khám phá, đó là vùng Dankia, là suối Vàng và đập Ankroët. Vào thập niên 70, rất ít ai dám đặt chân đến đây vì điều kiện an ninh, trừ người Thượng và một vài bạn trẻ thích phiêu lưu mạo hiểm. Tuy nhiên khi đã đến được suối Vàng và đi sâu vào cánh rừng thông non ven hồ Dankia, nhìn thấy chân dãy Langbian mướt một màu xanh phía bên kia hồ nước mênh mông, gợn sóng lăn tăn, với tiền cảnh là những cành thông vi vu muôn đời trong nắng sớm, ta mới cảm nhận được một phần nào cảnh thần tiên trong mộng!

Dalat quả là một báu vật, là món quà quí giá thiên nhiên ưu ái ban tặng cho người dân Việt. Cũng có thể do hồng phúc của trời đất dành cho những kẻ yêu nhau, mà tất cả những gì hay đẹp của Dalat đều được người đời liên hệ đến Tình yêu.



Nầy nhé, khu rừng thơ mộng nhất của Dalat khi xưa được gọi là rừng Ái Ân (Forêt d’Amour), khu vực hồ Đa Thiện là thung lũng Tình Yêu (Vallée d’Amour), con đường Cộng Hòa nhỏ bé dẫn lên Dinh Thị trưởng ngày xưa, con đường thơ mộng tuyệt vời, vắng lặng, viền hai hàng thông già cao lớn, âm u, được các đôi tình nhân gọi là con đường Tình Ái (Sentier d’Amour)…


2. Còn con người Dalat thì sao?

(3)

Với những dòng trên đây, hẳn nhiều người, nhất là các bạn trẻ cho đó là những lời tán dương quá “cường điệu” ! Tuy nhiên người đọc dễ dàng kiểm chứng điều đó qua hình ảnh, tài liệu xưa (ngày nay không thiếu trên internet), nhất là qua những người lớn tuổi đã từng sống và yêu quí thị xã cao nguyên nầy…Những người Dalat của lần gặp gỡ đầu tiên đã gây cho tôi ấn tượng sâu xa khó tả! Một chàng trai lặng lẽ ngồi một mình trên bậc cấp nhà thờ chính tòa (thật hiếm thấy ở Sài Gòn). Những đôi uyên ương dìu nhau từng bước nhỏ bên hồ. Các em học sinh tan trường từng nhóm đi về vui tươi, nhưng không quá ồn ào. Nầy cụ già mặc áo veste, foulard choàng cổ chống canne chầm chậm bước. Không có gì vội vã! Tất cả đều thanh bình, lặng lẽ. Người Dalat như vậy đó!

Người Dalat ngày ấy hình như e ngại sự lớn tiếng! Họ trao đổi với nhau khẽ khàng, dù khi mặc cả mua bán, kể cả khi … ăn nhậu. Giới buôn bán hầu như không có tật nói thách. Ấn tượng đầu tiên của tôi về cách ăn mặc của người Dalat không thể nào quên. Nam phụ lão ấu, hầu như ai cũng đội bonnet (mũ len trùm đầu, có ngù tròn trên chóp nón – ngày nay không còn thấy ai sử dụng), áo len bên trong, khoác ngoài là blouson, veste, manteau (dài ngang trên gối) hoặc pardessus (dài quá gối). Một vài người quàng foulard. Điều đặc biệt trong trang phục người Dalat là tất cả đều mang giày (ngay cả dân Sàigòn lúc ấy mang giày cũng không nhiều lắm). Đàn ông lớn tuổi thường mặc veston, thắt cravate chĩnh tề. Nữ sinh trường ta mặc áo dài trắng khoác áo len màu xanh đen, hoặc áo dài xanh khoác áo len đen tùy theo mùa. Thuở ấy với khí hậu ấy, cảnh trí ấy, con người ấy, với môi trường sống và thiên nhiên ấy của Dalat, đôi khi tôi cứ nghĩ mình đang sống tại một thành phố Châu Âu nào đó, chứ không phải trên đất nước nhiệt đới, chiến tranh tàn khốc nầy. Một ngạc nhiên lớn, một đặc biệt của Dalat lúc đó là má các cô gái Dalat thường đỏ au. Hiện tượng đáng yêu nầy đã đi ngay vào thơ ca ( Má hồng Dalat, Dalat má đỏ môi hồng…).

Phong cách người Dalat còn thể hiện rất rõ ở nét văn hóa và kiến thức của họ. Có lẽ được sống trong một bầu khí đậm chất trí thức và thanh lịch, phảng phất dáng dấp Tây phương, nên thái độ ứng xử của người Dalat nhẹ nhàng, từ tốn, ít lời nhưng khúc chiết và nhiều tri thức.



Những ngày đầu mới đến Dalat, tôi và một người bạn ra phố. Đang trò chuyện tương đắc với một người bán hoa kiểng tại một kiosque đầu dốc Khu Hòa bình, ông ta chợt quay vào trong lấy ra một quyển sách dạng livre de poche tựa đề “Mémoires de guerre” của Général De Gaulle (đây là hồi ký chiến tranh nhưng có tính chất văn học, rất kén người đọc) và “quảng cáo”: quyển nầy đọc được lắm!...Ngạc nhiên chưa! Chúng tôi tròn mắt, chưa hết ngạc nhiên thì nghe nổ một tràng tiếng Pháp giòn tan phía sau lưng: “Salut! Vous êtes bien portant?” Chúng tôi quay lại theo hướng nhìn của cậu thanh niên vừa nổ là một ông Tây lớn tuổi ra vẻ giáo sư bước tới…Cả hai tay bắt mặt mừng một cách thân tình.

Mô tả tường tận về Dalat với những dẫn chứng đầy đủ thì trong phạm vi bài viết ngắn nầy chắc chắn không thể nào đáp ứng được, tôi chỉ xin được khái quát đôi nét để người đọc hình dung được phần nào khung cảnh Dalat năm xưa.


3. Hiện nay tại VN, hầu hết các bài viết đều cho rằng Dalat là Tiểu Paris (Little Paris).


Tôi không nghĩ vậy. Paris dù sao cũng là thủ đô nước Pháp thuộc vùng đồng bằng với lâu đài, dinh thự nguy nga chen chúc, đường sá mạng ô cờ thẳng tắp, mật độ xây dựng dày đặc, không đồi núi trùng điệp, thiếu vắng cây xanh…Tiểu Paris dành cho Saigon có lẽ đúng hơn! Tôi nghĩ Dalat giống một thành phố miền núi của Thụy sĩ hoặc Bắc Âu hơn với các biệt thự mang dáng dấp các châlet, bungalow theo kiến trúc vùng Savoie, Normandie, Bretagne hoặc Pays-Pasque…với đồi cao lũng sâu và rừng thông ngút ngàn.

Đalat ngày ấy hiếm có công trình kiến trúc nào vượt quá ba tầng. Nhà ở của người dân tại khu trung tâm thường chỉ đến hai tầng. Các công trình ba tầng trở lên thường chỉ có ở các khách sạn như Palace, Dalat (nay là Dalat-Novotel) và các tu viện như dòng Chúa cứu thế, Giáo hoàng học viện Piô X. Các công trình nầy dù vô tình hay hữu ý đều hòa nhập vào khung cảnh thiên nhiên, chiều cao không hề vượt khỏi ngọn thông, không tham vọng phô trương áp chế thiên nhiên. Chính vì vậy, các công trình tuy do bàn tay con người tạo ra lại hòa hợp khéo léo với thiên nhiên, nương theo cảnh sắc, uốn mình theo thiên nhiên, chứ không tìm cách hủy hoại hay cải tạo nó một cách cưỡng bức như cách làm hiện nay (đổ đất, san bằng để tạo nên một cao trình đồng nhất cho cả khu đất xây dựng công trình).

Chỉ có ba công trình duy nhất vươn cao khỏi ngọn thông được nhìn thấy từ xa là tháp chuông nhà thờ chính tòa Dalat,  tháp chuông Lycée Yersin và tháp chuông Trường ĐHĐL, tạo nên một điểm nhấn kiến trúc (landmark) cần thiết, duyên dáng và sống động.

a. Do tính chất nông nghiệp (chuyên canh rau, hoa), nên nhà cửa của cư dân Dalat khi ấy phân tán rải rác trong các thôn ấp như Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Đa Thiện, Sào Nam, Tây Hồ, Du Sinh, Thái Phiên, Chi Lăng…Nhà cửa của họ hầu hết thường bằng  gỗ, có khi để nguyên cả lớp vỏ ngoài, mái ngói (sau nầy là mái tôle). Những ngôi nhà nầy thường được dựng trên sườn đồi (theo đường đồng mức) hoặc trên một mặt bằng dưới thung lũng, giữa khu vườn của họ (hoặc riêng rẻ, hoặc quần cư theo từng nhóm nhỏ). Những ngôi nhà tuy đơn sơ bé nhỏ, nhưng hòa quyện hợp lý với khung cảnh thiên nhiên (những luống vườn bậc thang đất đỏ, màu sắc rực rỡ của hoa, màu xanh mơn mởn của rau cải, của đồi thông) tạo nên bức tranh muôn màu, một nét đặc trưng rất Dalat.



Tại trung tâm thị xã, nhà ở kết hợp thương mại tập trung chung quanh Khu Hòa Bình. Nhà ở của thị dân chủ yếu bám theo các trục đường khu Bùi thị Xuân, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hải Thượng, Võ Tánh, Khu nhà chung, Khu nhà bò…và ấp Ánh Sáng, một khu dân cư ngay lối vào chợ.

b. Kiến trúc tiêu biểu của Dalat chính là biệt thự. Đây là hình thức kiến trúc cao cấp được nghiên cứu thiết kế đúng mực với kiểu dáng hài hòa, độc đáo, không hề lập lại, được bố trí hợp lý theo một ý đồ quy hoạch được tính toán hết sức chặt chẽ. Các biệt thự nầy nằm rải rác khắp nơi, nhưng tập trung nhiều nhất tại khu vực Trần Hưng Đạo, Hùng Vương, Yersin (Trần Phú) và Lê Lai…




























c. Ngoài ra Dalat còn sở hữu một hình thức kiến trúc độc đáo khác, đó là công trình tôn giáo, nhà thờ, tu viện (4). Các công trình kiến trúc nầy thường tọa lạc trên một đỉnh đồi thấp và với thiết kế mỗi nhà một vẻ của mình, đã đóng góp vào cảnh sắc chung của Dalat những nét chấm phá hết sức quan trọng. Ta có thể kể đến các công trình tiêu biểu như Domaine de Marie (dòng Vincent de Paul), Couvent des Oiseaux (Notre Dame de Langbian), dòng Dominicaines, dòng Franciscaines, Providence, nhà thờ chính tòa, nhà thờ Cam Ly, Linh Sơn tự, Lăng Nguyễn Hữu Hào…Nhưng các kiến trúc thành công nhất theo trường phái hiện đại phải kể đến Giáo hoàng học viện Piô X và dòng Chúa Cứu thế, tuy được thiết kế, xây dựng theo xu thế hiện đại nhưng không hề phá hỏng cảnh quan kiến trúc chung của Dalat..



d. Các công trình công cộng khác góp phần vào vẻ đẹp toàn bích của Dalat như: khách sạn Palace vừa là một tác phẩm có giá trị kiến trúc, vừa chiếm một vị trí rất quan trọng trong bố cục tổng thể của thành phố, tạo nên một góc nhìn (view) rất đẹp từ khách sạn nhìn về phía Langbian và trung tâm thị xã cũng như từ các hướng xa xa nhìn lại nó. Lycée Yersin với khối dáng kiến trúc cong nổi tiếng không những trong nước mà còn nước ngoài biết đến (5).

Ga Dalat với hệ mái đầy sáng tạo trong bố cục tạo hình, đầy mỹ thuật, được xem là kiến trúc nhà ga đẹp nhất Đông-Nam-Á (6). Ngoài ra ga Dalat đã từng sở hữu đầu máy xe lửa hơi nước và đường rail có răng cưa (cog railway) độc đáo hiếm có nơi nào trên thế giới đã bị tháo gỡ toàn bộ… (cầu xe lửa D’ran tự dưng bị tháo ra bán sắt vụn, còn đầu máy xe lửa bán lại cho Thụy sĩ và nước này đã phục chế lại thành xe lửa đón khách du lịch!!!)…









Viện Đại học Dalat biết hòa hợp kiến trúc của của Trường L’École des Enfants de troupe (Thiếu sinh quân Pháp) xưa với ngôi nhà nguyện mới Năng Tĩnh trên đỉnh đồi, mà tháp chuông khối tam giác vươn cao lên nền trời xanh với hai lỗ tam giác cân ở mỗi cạnh. Hàng năm khoảng mùa gió từ tháng 9 đến tháng 11, gió phản xạ và khuếch tán khi luồn lách qua những lỗ trống nầy tạo nên những tiếng hú tiếng rít lạ thường. Do hiện tượng nầy mà đồi Năng Tĩnh được đám sinh viên gọi đùa là đỉnh gió hú (nhại theo tác phẩm Wuthering Heights của Emily Brontë). Rồi còn Trung tâm nguyên tử lực với kiến trúc hiện đại, đầy tính biểu tượng, nhưng không hề phá vỡ cảnh quan kiến trúc chung…

e. Hệ thống giáo dục của Dalat thời ấy (7) quá đa dạng và rộng khắp. Nào trường công – trường tư, trường Tây – trường Ta, trường dòng, trường nội trú – ngoại trú, trường kỹ thuật, trường quân sự (Võ bị quốc gia, Chiến tranh chính trị, Chỉ huy và tham mưu, Cảnh sát dã chiến…). (Viện Đại học Dalat của HĐGMVN với Phân khoa Chính trị Kinh doanh thu hút sinh viên toàn quốc từ vĩ tuyến 17 trở xuống và Phân khoa Thần học của GHHV, phân khoa Thần học duy nhất của VN được công nhận Văn bằng QG).

Dalat có tham vọng trở thành Trung tâm Văn hóa – Giáo dục của cả nước (4) và nghe đâu chính quyền lúc ấy muốn biến Dalat trở thành Trung tâm Văn hóa – Giáo dục của Đông – Nam – Á. Dù là trường nào đi nữa, với không khí học tập của mình, môi trường sống đầy nhân văn, kỷ luật nghiêm ngặt của các trường nhất là các trường dòng, với đường nét kiến trúc độc đáo đầy cá tính, Dalat đã thực sự đóng góp cho bản thân và cả nước một phong cảnh tuyệt vời và một thành phố du lịch, nghỉ mát, giáo dục lý tưởng.

Lần đầu tiên đặt chân lên xứ hoa đào, tôi hoàn toàn là kẻ ngoại đạo đối với bộ môn kiến trúc – quy hoạch; cái nhìn của tôi đối với Dalat lúc bấy giờ hoàn toàn hồn nhiên do cảm xúc và sự ngưỡng mộ tự nhiên mang lại. Với tôi, Dalat khi ấy là một thành phố huyền ảo lung linh, mát lạnh với gam màu trầm buồn, một màu xanh xám diệu vợi và mờ mờ nhân ảnh trong sương khói… Hình ảnh đó của Dalat in sâu vào tim óc tôi mãi mãi không thể nào quên được.



Các dinh thự, trụ sở chính quyền và các công trình quan trọng khác hầu hết tập trung theo đường Yersin (để nhớ đến người có công khám phá Dalat, ngày nay đổi lại là đường Trần Phú). Biệt thự, kiến trúc đặc trưng của Dalat phân bố khắp nơi, lẩn khuất trong rừng thông và tập trung nhiều nhất tại khu vực các con đường Trần Hưng Đạo, Hùng Vương, Lê Lai. Các biệt thự nầy được thiết kế rất độc đáo, không hề trùng lặp và bám vào địa hình, địa thế khu đất xây dựng, phù hợp với môi trường chung quanh, hòa nhập vào khung cảnh thiên nhiên nơi nó tọa lạc.

Khu thương mại được bố trí về một phía (Bắc-Tây-Bắc hồ Xuân Hương) gồm chợ mới, khu Hòa bình và các khu phụ cận. Hồ Xuân Hương chiếm vị trí trung tâm điểm nhìn của khung cảnh Dalat. Toàn cảnh khu vực rộng lớn phía Bắc hồ Xuân Hương gần như hoàn toàn trống trải để tầm nhìn bao quát đến tận đỉnh Langbian. Các công trình xây dựng được duy trì ở mức độ hạn chế tối đa, chỉ có vài ngôi biệt thự đầu bờ hồ, tòa Giám mục. Xa hơn là Giáo hoàng học viện, trường Bùi Thị Xuân và Viện Đại học. Còn lại chỉ là những không gian mở như đồi cù (golf), vườn hoa Bích Câu.

Các công trình kiến trúc khu vực nầy hòa lẫn vào khung cảnh thiên nhiên, không che khuất tầm nhìn từ khu Trung tâm. Các công trình tu viện, trường học được bố trí phân tán khắp nơi, hòa hợp công năng với địa hình chung quanh. Nhìn chung, kiến trúc và cảnh quan (landscape) Dalat có sự hòa điệu nhịp nhàng, được sắp đặt theo một trật tự có chủ định ngay từ đầu, đã tạo nên một toàn cảnh (panoramic view) thân thiện, thoải mái và đầy ấn tượng cho bất cứ ai có dịp hạnh ngộ.

Đó là cái nhìn thuở ban đầu sơ ngộ, còn Dalat đã được quy hoạch như thế nào và việc áp dụng vào thực tế ra sao?



II. QUY HOẠCH ĐÔ THỊ DALAT (Urban Planning)

Chúng ta đều biết những yếu tố chính hình thành nên Dalat. Đó là:
- Khí hậu;
- Cao độ - địa hình;
- Rừng thông;
- Mặt nước.

Dalat quả đúng là viên trân châu mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho quê hương. Thật hiếm có một đô thị bé nhỏ nào như Dalat mà hội tụ đủ những điều kiện về danh lam thắng cảnh để nghỉ ngơi, du lịch, khám phá (bao nhiêu thác ghềnh, hồ suối, rừng núi, thung lũng…ngay trong một không gian nhỏ bé nội vi thành phố. Theo website của Bộ Xây dựng có đến 60 khu du lịch sinh thái!). Ngoài ra Dalat còn sở hữu một bộ sưu tập phong phú về động vật và thực vật, là xứ sở của các loài hoa và rau quả ôn đới…Tuy nhiên Dalat có cả tính chất đô thị rõ nét (gồm cả mạng lưới kỹ thuật hạ tầng (infrastructure) không những đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cư dân địa phương mà cho cả khách du lịch toàn quốc vào lúc cao điểm (peak time).

Màu sắc chủ đạo của Dalat chắc ai ai trong chúng ta cũng đều nhận ra ngay, đó chính là gam màu xanh: màu xanh của núi rừng, của thông, của hồ nước kết hợp với màu xanh của bầu trời.

Dalat là trường hợp đặc biệt trong lịch sử phát triển đô thị nước ta. Chưa từng có thành phố nào khi mới bắt đầu xây dựng đã xác định rõ tính chất thành phố và được xây dựng theo một quan niệm Quy hoạch hoàn chỉnh như Dalat. Tính chất của Dalat là thành phố du lịch nghỉ mát của Đông Dương và cả Viễn Đông. Dalat là một đô thị hình thành giữa rừng thông, tuân thủ nguyên tắc chủ đạo quy hoạch (planning guidelines) là thành phố trong rừng và rừng trong thành phố.

Trong nửa đầu thế kỷ XX, đồ án quy hoạch Dalat đã được thiết lập theo ý tưởng trong Chương trình phát triển  của Toàn quyền Paul Doumer, các đồ án của thị trưởng Paul Champoudry- 1905, O'Neill- 1919. và các kiến trúc sư Ernest Hébrard- 1923, Louis Geogrge Pineau-1932, H.Mondet -1940 và Lagisquet- 1942.

1. Ý tưởng QH ban đầu do thị trưởng Champoudry lúc ấy đề nghị vùng đồi núi phía Bắc cao nguyên Langbian, phía hữu ngạn suối Cam Ly dành cho khu quân sự và vùng đất phía Nam ở tả ngạn suối Cam Ly dành cho thành phố tương lai, nơi sẽ hình thành khu hành chánh và công chánh, một trung tâm thương mại bên cạnh chợ và ở trung tâm thị tứ, khách sạn và casino. Nhà ga xe lửa ở gần vị trí ga ngày nay và kế bên là bưu điện. Đường sá được dự trù tương đối rộng rãi: đường chính lộ giới 20m, đường phụ rộng từ 12 – 16m (Pineau, trong bản tường trình ngày 12 mars 1906). Ý tưởng nầy được thực thi phần lớn và đặt nền móng cho thành phố hôm nay.











Năm 1921, kiến trúc sư Ernest Hébrard nhận nhiệm vụ thiết lập đồ án quy hoạch Đà Lạt. Tháng 8 năm 1923, công trình này được hoàn thành. Hébrard có một tầm nhìn rất rộng. Ông dự kiến xây dựng Đà Lạt thành thủ phủ của Liên bang Đông Dương. Theo bản đồ quy hoạch, dọc theo dòng suối Cam Ly hình thành một chuỗi hồ: ngoài hồ Xuân Hương và hồ Than Thở như hiện nay, còn có 6 hồ nước khác mà hai hồ lớn nhất nằm ở vị trí trường Võ bị Quốc gia (có nhà thủy tạ) và ở giữa đường Hoàng Diệu và Hoàng Văn Thụ trước khi dòng suối chảy đến thác Cam Ly.

ĐỒ ÁN QUY HOẠCH ĐÔ THỊ ĐÀ LẠT CỦA KTS ERNEST HÉBRARD







1. Hồ bơi
2. Bệnh viện Việt Nam
3. Bệnh viện Pháp
4. Câu lạc bộ thể thao
5. Chợ
6. Chùa
7. Dinh Thị trưởng
8. Đài vô tuyến điện
9. Khách sạn
10. Ngân hàng
11. Nghĩa địa tạm thời
12. Nhà nghỉ mát
13. Nhà thờ
14. Phủ Cao ủy
15. Phủ Toàn quyền
16. Phủ Thủ hiến Nam Kỳ
17. Sân cù
18. Sân quần vợt
19. Suối cải tạo
20. Thủy tạ
21. Tòa Thị chánh
22. Tổng kho tiểu công nghiệp
23. Trại bảo an
24. Trường học
25. Trường nam trung học
26. Trường nữ trung học
27. Văn phòng
28. Nhà bảo tàng
29. Viện điều dưỡng

Tư tưởng chủ đạo của Hébrard là tập trung vùng dân cư xung quanh hồ. Ở phía Bắc thành phố là khu quân sự. Khu bệnh viện trải dài từ đường Phạm Ngọc Thạch đến đường Trần Bình Trọng. Khu Toàn quyền nằm ở vị trí trường Võ bị Quốc gia gồm có 7 toà nhà dành cho Phủ Toàn quyền và các bộ: kinh tế, công chánh, tài chánh, nông nghiệp, thuỷ lâm,... Khu hành chánh nằm dọc đường Trần Phú ngày nay với công trường (place publique), tháp đồng hồ, toà thị chính, kho bạc, bưu điện, sở cảnh sát, thư viện, hội trường, rạp chiếu bóng, sở cứu hoả, bảo tàng dân tộc học, động, thực vật,...Khu vui chơi, giải trí ở khu vực giữa hồ và khách sạn Langbian Palace với hội trường, casino, quán cà phê, phòng đọc sách, sân quần vợt, vườn hoa,... Khu thể thao gồm có sân vận động, hồ bơi nằm ở phía Bắc hồ Xuân Hương. Hai vườn hoa được bố trí ven hồ, trong khu vực Nhà nghỉ công đoàn (biệt thự BS Sohier – TCV Kontum) và gần góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Đinh Tiên Hoàng. Phía Nam hồ Than Thở là khu đất dành cho đồn điền của Ngân hàng kỹ nghệ Trung Hoa. Đường Dalat - Sài Gòn đi qua ngả Khe Sanh.


2. Năm 1933, kiến trúc sư Louis Georges Pineau đưa ra một đồ án chỉnh trang và mở rộng Dalat thực tiễn hơn. Ông cố gắng bảo toàn các danh lam thắng cảnh ở Dalat, dành một khu vực rộng lớn hình cánh quạt mà tâm điểm là Dalat và tỏa ra đến tận các đỉnh núi Langbian cho khu bất trúc tạo (zone non oedificandi) và đề nghị thành lập Vườn quốc gia. Thành phố vây quanh hồ, tạo thành một đường vòng cung từ Tây sang Đông Bắc.



3. Năm 1940, kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án quy hoạch và chỉnh trang Dalat. Đồ án của ông trở về với quan niệm cũ của Hébrard là bố trí những vùng dân cư và hành chánh xung quanh hồ. Mặc dù đồ án của Mondet có nhiều chỗ được nghiên cứu rất đầy đủ nhưng đồ án không được duyệt.

Dalat vào cuối thế kỷ XIX có thể hình dung: một con đường mòn in dấu chân người, một vùng đồi cỏ trải dài đến tận chân núi Langbian, đó đây vài mái nhà sàn, một sự im lặng ngự trị trên một vùng đất gần như hoang sơ...

Đến năm 1942, một thành phố xinh đẹp hiện ra với những đường phố rộng rãi, những biệt thự duyên dáng giữa những vườn hoa và thảm cỏ xanh tươi, mặt hồ phẳng lặng. Dalat là một nơi nghỉ mát quan trọng nhất không những của Đông Dương mà cả Viễn Đông.

Tuy nhiên lúc đó Dalat vượt khỏi giới hạn và phát triển quá mức. Nhiều khu phố được hình thành một cách vội vã và mất trật tự. Chánh quyền phải can thiệp. Thành phố cần có một đồ án quy hoạch chỉnh trang có uy lực về pháp lý.

4. Bằng Nghị định ngày 2-9-1941, Toàn quyền Decoux giao cho Nha Thiết kế đô thị và Kiến trúc Đông Dương nghiên cứu và hoàn thành đồ án, đồng thời đề ra biện pháp bảo vệ trong thời gian chờ đợi công bố văn bản pháp quy.

Trong tờ trình ngày 8-12-1942, kiến trúc sư Jacques Lagisquet - Giám đốc Nha Quy hoạch đô thị và Kiến trúc Đông Dương đã đánh giá Dalat: “Không ai có thể phủ nhận Dalat chiếm một vị trí đặc biệt thuận lợi ở Viễn Đông, khí hậu, danh lam thắng cảnh, tiềm năng phát triển làm cho Dalat thành một nơi được ưu đãi, không nơi nào có thể so sánh được. Dalat có thể và phải trở thành một nơi nghỉ mát lớn ở Viễn Đông”.

Dựa theo ý của kiến trúc sư Pineau, Lagisquet thiết lập đồ án chỉnh trang và phát triển Dalat với những nét chính sau:

- Thành phố không còn giống như một đường thẳng kéo dài từ Đông sang Tây nhưng có chiều sâu hơn và tạo nên một thể thuần nhất.

- Không kéo dài Dalat nhưng tập trung quanh hai trục chính.

- Dalat được mở rộng về hướng Nam, Tây Bắc. Cảnh quan về hướng núi Langbian là khu bất trúc tạo, được bảo vệ dành cho khu du lịch, rừng núi, những khoảng trống, những khu đất dành cho thể thao và trò chơi.

- Trung tâm thành phố ở phía Nam của Hồ Lớn, gồm có casino, chợ,...

- Khu nhà ở nằm ở phía Tây và phía Đông thành phố.

- Làng của người Việt được hình thành ở phía Tây Bắc, Đông Nam, trên đường dẫn đến D’ran. Dalat mang tính chất một thành phố - vườn, chung quanh nhà của nông dân hay thợ thủ công là một mảnh vườn.

- Ở ngoại ô thành phố, một vùng đất nhượng địa trải dài về phía Tây Bắc, Đông Nam thành phố và trong tỉnh Langbian dành cho các nông trại trồng rau, chăn nuôi và cung cấp sữa.

Ngoài ra, Dalat còn đảm nhận tính chất đặc biệt: thành phố giáo dục và trung tâm thanh niên (trại huấn luyện, trại trường hướng đạo sinh, thanh niên học sinh…). Khu vực dành cho xây dựng các trường học được rải đều khắp thành phố tuỳ thời cơ thuận lợi. Những ngôi trường chính được đầu tư để phát triển. Những khoảng đất trống rộng lớn được dành cho sân vận động, sân golf (đồi cù), các trò chơi thể thao,... Sân bay cũ được dùng để cắm trại.

Lagisquet chia khu du lịch thành hai khu: vùng Tây Bắc là khu bảo tồn thực vật, không được khai thác, để giữ gìn cảnh quan núi Langbian; vùng lâm nghiệp cho phép chặt gỗ thường xuyên nhưng phải tôn trọng thắng cảnh và khai thác hợp lý. Khu du lịch, lâm nghiệp, thể thao chiếm 3/5 diện tích thành phố Dalat (khoảng 200 km2).

Mặc dù Dalat không phải là một thành phố công nghiệp vì đất đai và khoáng sản nghèo nàn, Lagisquet cũng đề ra một vùng công nghiệp gần đường giao thông và xa vùng trung tâm để tránh ô nhiễm môi trường.


ĐỒ ÁN CHỈNH TRANG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ LẠT CỦA KTS LAGISQUET




1. Nhà liên kế và biệt thự song lập
2. Làng người Việt
3. Biệt thự
4. Toà thị chính
5. Khu khách sạn
6. Casino, câu lạc bộ
7. Văn phòng Chính phủ trung ương
8. Dinh Toàn quyền
9. Nhà Quản đạo
10. Khu Thương mại người Âu
11. Khu Thương mại người Việt
12. Chợ mới
13. Sở Địa dư
14. Cư xá Công chánh
15. Cư xá Bưu điện
16. Cư xá người Đông Dương
17. Trường học
18. Khu bệnh viện
19. Khu thể thao – sân vận động
20. Trại thanh niên
21. Trung tâm văn hoá
22. Bảo tàng Dân tộc học
23. Khu bất trúc tạo
24. Khoảng trống


PHỐI CẢNH TRUNG TÂM ĐÀ LẠT THEO ĐỒ ÁN CỦA KIẾN TRÚC SƯ J. LAGISQUET



Tiền cảnh : Giải trí trường, câu lạc bộ, vườn hoa
Trung cảnh : Văn phòng Chính phủ trung ương và bến đậu xe
Hậu cảnh : Trường trung học Yersin



PHỐI CẢNH TRUNG TÂM ĐÀ LẠT CỦA KTS JACQUES LAGISQUET




Tiền cảnh : Văn phòng Chính phủ trung ương
Trung cảnh : Giải trí trường và câu lạc bộ; bên trái : dinh Toàn quyền và vườn hoa
Hậu cảnh : Khách sạn mới, trung tâm văn hóa, khách sạn Langbian Palace, nhà thờ và chợ mới


Lagisquet nêu ra cách bố trí cụ thể:

Nước: Một hồ chứa nước ở thượng lưu suối Cam Ly cung cấp nước cho thành phố. Sau đó, nước được gạn sạch, khử trùng và lọc lại rồi bơm vào các hồ chuyển tiếp phân phối cho toàn thành phố. Vấn đề cung cấp nước ở Dalat rất phức tạp vì tính chất thành phố - vườn, phạm vi và địa hình của thành phố.

Điện: Nhà máy nhiệt điện hiện cung cấp điện cho khu dân cư thành phố. Sau khi nghiên cứu, những công trình cho phép sử dụng thủy năng đã được tiến hành ở Ankroët. Theo dự đoán, hai nhà máy được kết hợp sẽ cung cấp điện cho thành phố đến năm 1970.

Tận dụng vật tiệu có trong nước, nhà máy Ankroët cho phép trong vòng một năm rưỡi nâng công suất từ 800kW lên 1.500kW. Công suất thặng dư giúp một mặt mở rộng mạng lưới điện và mặt khác thiết lập hệ thống xe điện và những trạm bơm nước cho vùng trồng rau trong khi chờ đợi đập Đa Nhim được xây dựng.

Đường sá giao thông: Về tổng thể, tôn trọng hệ thống giao thông hiện nay và tuỳ khả năng nâng cấp bằng cách tạo đường dốc thấp hơn, mở rộng đường cho phù hợp với phương tiện giao thông. Do đó, cần nới rộng các đường Yersin, Paul Doumer, Jean O’Neil, Albert Sarraut, Lamartine (nay là đường Trần Phú, Trần Hưng Đạo, Hoàng Văn Thụ, Thống Nhất, Bà Huyện Thanh Quan).

Đường lớn nhất ở Dalat là đường Yersin, có hai mặt đường rộng 9m cho xe hơi, xen vào giữa là hàng cây rộng 3m, lề đường rộng 4,5m.

Đường Lamartine đi vòng quanh bờ hồ có một đường chính rộng 12m và hai đường phụ dành cho người cỡi ngựa và đi xe đạp.

3 trục đường chính sau đây được nâng cấp để giúp cho giao thông dễ dàng:

1. Đường Graffeuil, Doumer, Yersin, O’Neil (nay là đường Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ);

2. Đường Robin, Albert Sarraut, Cam Ly hạ (nay là đường Quang Trung, Thống Nhất, Phạm Ngũ Lão);

3. Đường Pasteur (nay là đường Hai Bà Trưng) dẫn đến ấp Đa Thành và Dankia.


Hầu hết các ngã tư cũng được thay đổi.

Để phục vụ cho các cư xá mới Cam Ly, Jean Decoux, Saint Benoît, Lagisquet dự kiến mở những con đường mới với chiều rộng thay đổi tuỳ theo địa hình.

Lagisquet cũng dự kiến xây dựng những bãi xe hơi chủ yếu ven hồ, gần giải trí trường và câu lạc bộ, chợ mới và khu thương mại.

Vườn hoa: Trước dinh Toàn quyền, Lagisquet thiết kế một công viên lớn kéo dài đến tận bờ hồ. Trước trung tâm văn hóa và thư viện có một lối đi với nhiều bậc cấp.

Trung tâm hành chính ở gần bờ hồ hướng về vườn hoa trên bờ Bắc.

Giữa khu giải trí trường và câu lạc bộ, phía sau giải trí trường, Lagisquet dự kiến thiết lập một vườn hoa dành cho thiếu nhi.

Vườn hoa cũng được bố trí trước nhà ga và hai bên bờ suối Cam Ly (8).

Như vậy lướt qua các đồ án QH trước đây qua các thời kỳ, chúng ta nhận xét chúng đều thống nhất ở các điểm sau:

- QH tổng thể (master plan) Dalat có dạng hình tia (rẽ quạt) theo ý tưởng của kiến trúc sư Louis Georges Pineau mà tâm điểm là hồ Xuân Hương.

- Phân khu chức năng rõ ràng. Khu ở phân biệt khu người Âu và khu dân bản xứ.

- Khu vực phía Bắc hồ Xuân Hương trải dài đến chân núi Langbian là khu bất trúc tạo, trở thành không gian mở và là tiền cảnh rộng thoáng cho tầm nhìn từ khu vực trung tâm



5. Các đồ án Quy hoạch hiện nay:


+ Đồ án quy hoạch tổng thể xây dựng Đà Lạt và vùng phụ cận do Viện Quy hoạch Đô thị Nông thôn – Bộ Xây dựng lập và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 620/TTg ngày 27/10/1994. Theo đó:

- Về tính chất: Thành phố Dalat là một trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng của vùng, cả nước và quốc tế; là tỉnh lỵ của Lâm Đồng, trung tâm văn hóa, dịch vụ, đầu mối giao lưu kinh tế quan trọng của tỉnh, đồng thời là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học của cả nước.

- Về quy mô dân số: thành phố và vùng phụ cận đến năm 2010 là 200.000 người; trong đó dân số nội thành Dalat là 180.000 người. Ngoài ra số khách “vãng lai”, khách lưu trú “dài ngày” chừng khoảng 1 triệu khách/năm.

Đồ án được thiết lập “trên cơ sở” đánh giá hiện trạng như sau:

- Mỗi năm có từ 800-1000 ngôi nhà được xây dựng trong đô thị Dalat;

- Khu dân cư đô thị phát triển nhanh, nhiều lô đất được quy hoạch làm khu dân cư để bán lấy tiền xây dựng hạ tầng…như ở công trình kiến trúc các khu đô thị khác, làm cho bố cục không gian thành phố nghỉ mát đặc thù bị phá vỡ;

- Đường phố trở nên chật hẹp gây nhiều nguy hiểm;

- Đất nông nghiệp mở rộng nhanh chóng, chủ yếu lấn vào đất rừng;

- Các khu rừng cảnh quan, danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc bị khai thác cạn kiệt và một số bị tàn phá, bị bỏ quên;

- Khí hậu ngày càng nóng lên;

- Môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội ngày càng xuống cấp. Có thể nói, Dalat đang bị đe dọa mất đi những nét đặc sắc của mình, nhất là về không gian, môi trường.





MÔ HÌNH QH CHỈNH TRANG KHU TRUNG TÂM DALAT

Chúng ta để ý không còn Hội trường Hòa Bình. Nhà cao tầng mọc lên ở ấp Ánh Sáng, Nguyễn Chí Thanh, Phan Bội Châu, 3 tháng 2 (Duy Tân)…

+ Năm 2001, đồ án điều chỉnh quy hoạch chung TP. Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2020, được Viện Quy hoạch Đô thị Nông thôn – Bộ Xây dựng lập. Đồ án nhắm kết hợp cảnh quan tự nhiên trong bố cục không gian được hình thành qua quá trình phát triển theo các đồ án trước. Cụ thể cấu trúc Dalat phát triển từ hồ Xuân Hương làm tâm điểm bám sát địa hình tỏa ra nhiều hướng theo hình rẽ quạt (ý tưởng L.G.Pineau) với hướng phát triển chính:

- Hướng Bắc-Tây-Bắc: Trọng tâm là khu Suối Vàng – Dankia.

- Hướng Nam – Đông – Nam: Trọng tâm là hồ Tuyền Lâm với tuyến sản xuất công nghiệp (!)

- Hướng Bắc-Đông-Bắc: Phát triển du lịch sinh thái (ecological) rừng.

Quy hoạch là một lãnh vực phức tạp, đòi hỏi kiến thức đa ngành, vừa chuyên sâu, có tầm “vĩ mô”(macrostructure) và có sự hợp tác của nhiều chuyên gia đầy kinh nghiệm, tôi không dám luận bàn. Tôi chỉ dám mạo muội đưa ra các cảm nhận từ suy nghĩ cá nhân, qua theo dõi các đồ án quy hoạch hiện hữu:

- Đồ án QH chưa xác định được tính chất chủ yếu nhất của Dalat (quá nhiều mục tiêu) để làm tiền đề cho định hướng phát triển không gian của thành phố một cách đúng đắn, bền vững.

- Chưa nêu được vấn đề bảo tồn với môi trường, cảnh quan thiên nhiên, kiến trúc Dalat như một di sản cần phải giữ gìn và tôn tạo.

- Đồ án chưa xác định được hướng phát triển Dalat theo đúng nét đặc thù, bản sắc riêng của Dalat; nó vẫn mang những nét chung chung như bất cứ đồ án QH các TP nào trong cả nước.

Từ đó tôi có cảm giác là đồ án QH Dalat hiện nay thể hiện ý chí của chính quyền (chủ đầu tư): muốn khai thác tối đa Dalat vì mục đích thu lợi. Ý đồ đó thể hiện rõ ở chỗ gia tăng dân số vô tội vạ, tăng cường và kêu gọi tham gia các dự án đầu tư, gia tăng diện tích xây dựng, gia tăng số lượng nhà phố, tăng tầng cao xây dựng, giảm dần diện tích khu bất trúc tạo, khu bảo tồn thiên nhiên. Ý đồ đó càng thể hiện rõ ở chỗ chính quyền TP muốn nâng Dalat lên thành đô thị loại 1 (và điều đó ngày nay đã được mãn nguyện…(9))

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.