Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014

Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn.
Là những kỳ quan được thiết kế xây dựng rất kỳ công trong những không gian hoành tráng hùng vĩ , hài hòa với những cảnh quan thiên nhiên một cách tuyệt vời ,bố cục tạo hình gợi cảm tiết điệu , có giá trị thẩm mỹ cao , tùy thuộc tư tưởng từng cá tính của mỗi vị vua . các lăng phản ánh tâm linh , quan niệm vĩnh cửu và huyền bí phương đông . Theo quan niệm phương đông khi lên ngôi , các vị vua đều nghĩ tới chuyện xây dựng lăng tẩm , nơi an nghỉ cuối cùng ‘’tức vị trị quan’’đấy là nguyên tắc của các vị đế vương .
LĂNG GIA LONG (Thiên Thọ Lăng )
Lăng Gia long còn gọi là Thiên Thọ Lăng ,bắt đầu được xây dựng năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn thành .Lăng thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến . Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi , núi lớn nhỏ , trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này .
Đồ án công trình bố cục theo chiều ngang ,trải rộng mênh mông , không có đình tả và thành .Tổng thể điện Minh Thành bao gồm tẩm điện , sân chầu ,tượng đá voi ngựa, quan chầu ,bia thánh đức thần công .
Bao quanh cảnh núi đồi hùng vĩ giống như một vòng thành thiên nhiên , với núi Thiên Thọ gồm 42 ngọn đồi ,khu mộ hợp táng vua và Hoàng hậu là sự độc đáo của công trình lăng ở phương đông . cảnh quan thiên nhiên hòa quyện với kiến trúc .Con người làm chủ thiên nhiên trong sự hài hòa có tính chất chiều sâu tâm linh nội tại . Một chuyên gia UNESCO đã nhận xét rằng “ lăng Gia Long ở giữa một khu vườn thiên nhiên bao la và gợi nên ấn tượng hoành tráng và thanh thoát .


LĂNG MINH MẠNG (Hiếu Lăng)
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng năm 1840 đến năm 1843 để chon cất vua cha Minh Mạng .Lăng nằm trên núi Cẩm Khê , gần ngã ba Bằng Lăng , là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12km .
Lăng Minh mạng , với đồ án chữ Minh của mặt bằng hồ , cùng những công trình kiến trúc theo trật tự thẳng trục thần đạo , có tính chất uy nghiêm hùng vĩ , đã phản ánh tư tưởng trung ương tập quyền của vị hoàng đế này .lăng Minh Mạng được coi là một trong những công trình lăng tẩm đạt đỉnh cao của sự hài hòa đối xứng và bất đối xứng của trật tự nghiêm ngặt tạo sự hoành tráng uy nghi , đặc biệt tẩm (khu mộ khối hình tròn thành cao tượng trưng cho mặt trời biểu tượng thiên thể )


LĂNG THIỆU TRỊ (Xương Lăng )
Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng nằm ở địa phận thôn Cư Chánh , xã Thủy Bằng , huyện Hương Thủy . Được vua Tự Đức cho xây dựng vào năm 1847 để chon cất vua cha Thiệu Trị . So với Lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị . Lăng Thiệu Trị có những nét riêng . Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng tây Bắc .một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung đình và lăng tẩm thời Nguyễn .
Là sự thay đổi không gian qua biến thể cấu trúc kết hộp giữa đồ án hoành của lăng Gia Long và trục đứng đạo đến khu mộ của lăng Minh Mạng để tạo ra bố cục mới đặt cụm kiến trúc sân chầu , nhà bia ,bửu thành song song viên chính và vẫn giữ vẻ uy nghi , quy mô hòa hợp với cảnh quan thiên nhiên


LĂNG TỰ ĐỨC (Khiêm Lăng )
Lăng tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình , phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn.Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thương ,Tổng Cư Chánh (nay là thôn Thượng Ba , xã Thủy Xuân , thành phố Huế ).
Tuy không có sự kế thừa nhưng đã phá vỡ không gian tạo hình , không giống những lăng các vị tiên đế . Đồ án uyển chuyển , nhịp nhàng , tạo nhịp điệu đầy chất thơ hòa quyện trong không gian thiên nhiên đầy thông ,hồ nước chảy quanh ,đặc biệt điễm tô thêm nhà thủy tạ , duyên dáng soi bóng trên mặt hồ sen ,một nhà bia với tấm văn bia đồ sộ biểu lộ tâm trạng bi quan của nhà vua .Lăng phản ánh tâm hồn phóng khoáng , lãng mạn của một vị vua thi sĩ đã có nhiều trước tác về thơ văn có giá trị văn học . Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn .Ở đó quanh năm có suối chảy , thông reo , muôn chim ca hát .yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng Tự Đức là sự hài hòa của đường nét . Không có những con đường thẳng tắp ,đầy góc cạnh như những kiến trúc khác , thay vào đó là con đường lát gạch bát tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn ,rồi uốn lượn quanh co ,ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại thụ ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh . Sự sáng tạo của con người hài hòa với cảnh quan tự nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng , diễm lệ .


LĂNG ĐỒNG KHÁNH (Tư Lăng )
Lăng Đồng Khánh tọa lạc giữa vùng quê tĩnh mịch ,thuộc làng Cư Sĩ , xã Dương Xuân ngày trước ( nay là thôn Thượng Hai, xã Thủy Xuân , thành Phố Huế ). Ông vua vắn số này yên nghỉ giữa một vị thế nồng ấm tình cảm gia đình . chung quanh ông là lăng mộ của bà con quyến thuộc. Lăng Tự Đức ( bác ruột và là cha nuôi), Lăng Kiến Thái Vương ( cha ruột), lăng bà Từ Cung (con dâu ), lăng à Thánh Cung (vợ). Xa hơn là lăng tá Thiên Nhân Hoàng Hậu ( bà cố nội ) , lăng Thiệu Trị ( ông nội )…âu đó cũng là sự bù đắp cho vị vua kém may mắn này .
Sau khi lên ngôi , Đồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở Cư Sĩ chưa có điện thờ nên sai bộ công dựng điện truy Tư cạnh đó để thờ cha . điện Truy tư khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó hoàn tất phần căn ản . Đồng Khánh rước bài vị của Kiên Thái Vương về thờ trong điện , đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh công trình . Thế nhưng , trong khi công việc kiến trúc đang tiếp tục thì Đồng Khánh mắc bệnh và đôt ngột qua đời . Vua Thành Thái ( 1889-1907)kế vị trong hoàn cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn , kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm , đành lấy điện truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh . Thi hài nhà vua cũng được an táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn , cách điện Ngưng Hy 30m về phía tây . Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là Tư lăng .
Tháng 8 năm 1916 , sau khi lên ngôi được 3 tháng , vua Khải Định (1916-1925), con trai vua Đồng Khánh đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha mình . Toàn bộ khu lăng mộ từ bái Đình , Bi Đình đến Bửu Thành và Huyền Cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Định .đến tháng 7-1917 mới hoàn thành .Riêng điện ngưng Hy cùng Tả , Hữu Tùng Viện ,tả , Hữu Tùng Tự tiếp tục được tu sửa cho đến năm 1923 .
Ra đời trOng quá trình dài như thế, lăng Đồng Khánh mang dấu ấn hai trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau . Nếu phong cách cổ truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc lăng tự Đức và phong cách hiện đại được thể hiện rõ nét trong kiến trúc lăng Khải Định sau này ,thì lăng đồng Khánh là một bước trung chuyển .

LĂNG DỤC ĐỨC (An Lăng )
Sauk hi vua Tự Đức băng hà, triều thần đã đưa Ưng chân lên ngai vàng vào ngày 19-7-1883, y theo di chiếu truyền ngôi của vua Tự Đức . Chưa kịp đặt niên hiệu , vị vua trẻ được đặt tên theo tư thất của mình là Dục Đức , nhưng chỉ vài ngày sau , Vua Dục Đức đã bị truất phế vì tội dám lược bỏ một đoạn văn trong di chiếu truyền ngôi của tiên đế và bị tống vào ngục thất . Ngày 24-10-1884 ông vua bất hạnh này bị chết đói trong nhà ngục , thi hài được gói trong một chiếc chiếu giao cho hai tên lính và một viên quyền suất gánh đi chôn ‘’đám tang ‘’của ông vua xấu số này được đưa về An Cựu để mai tang trong địa phận chùa Tường Quang (chùa do một người thân bên vợ của vua Dục Đức lập ra năm 1817) gần đến nơi thì thi hài nhà vua bị rớt giữa đường do đứt dây ,một người lính đã chạy vào chùa Tường Quang mời nhà sư trụ trì ra giải quyết .cuối cùng mọi người nhất trí chọn mảnh đất ‘’thiên tang ‘’đó làm nơi an nghỉ đời đời của vua Dục Đức.
Sáu năm sau, con trai vua Dục Đức là Bửu Lân lại được đưa lên làm vua .Sau khi tức vị , Bửu lân đặt niên hiệu là Thành Thái (1889-1907) và bắt đầu cho xây đắp lăng mộ của vua cha ngay trên nấm mồ ‘’thiên táng ‘’đó .lăng được xây dựng vào đầu năm 1890 ,đặt tên là An Lang nhưng chưa có điện thờ .vào năm Thành Thái thứ 11 (1899) nhà vua cho xây dựng điện Long Ân phía hữu lăng mộ , làm nơi thờ cúng vua cha .Ngoài điện Long Ân , nhà vua còn cho xây cất các công trình phụ như tả , hữu Phối Đường (trước) tả , Hữu Tùng Viện (sau ) dành cho bảy bà vợ thứ của vua cha ăn ở , lo việc thờ phụng hương khói .

LĂNG KHẢI ĐỊNH ( Ứng Lăng )
Lăng Khải Định còn gọi là Ứng lăng tọa lạc trên triền núi Châu Chữ ( còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế là lăng mộ của vua Khải Định , vị vua thứ 12 của Triều Nguyễn . Lăng được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi .Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bị sự pha trộn kiến trúc đông tây kim cổ lạ thường , vì các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo .
Toa6 lạc tại vị trí này , lăng Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án , lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt làm ‘’tả Thanh Long ‘’và ‘’Hữu Bạch Hổ’’, có khe CHâu Ê chảy từ trái qua phải làm thủy tụ gọi là ‘’minh đương’’ . Nhà Vua đổi tên núi Châu Chữ – vừa là hậu chẫm vùa là ‘’mặt bằng’’của lăng – thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo núi : Ứng Lăng
Lăng khởi công ngày 4-9-1920 và kéo dài trong 11na8m mới hoàn tất lăng . Lăng Khải Định có một diện tích rất khiêm tốn :117mx 48,5m nhưng cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian . Người đời sau thường đặt lăng Khải Định ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới , cái lạ , cái độc đáo , cái ngông nghênh , lạc lõng …tạo ra từ phong cách kiến thức . Toàn cảnh lăng Khải Định nhìn có môt cái gì nó vừa quen , vừa lạ . Tổng thể của lăng là một khối hình chữ nhật vươn cao với 127 bậc cấp như muốn thể hiện khát vọng tự chủ của ông vua bù nhìn này . sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc : Ấn Độ Giáo , Phật Giáo , Roman , Gothicque…đã để lại dấu ấn trên những công trình cụ thể .: những trụ cổng hình tháp ,ảnh hưởng từ kiến trúc A7n1 Độ , trụ biểu dạng stoupa của nhà Phật ,hang rào như những cây thánh giá khẳng khiu, nhà bia và những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể …Điều này là kết quả của hai yếu tố : sự giao thoa văn hóa đông tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định .

CHÙA THIÊN MỤ
Chùa Thiên Mụ hay là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương , cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây . Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601) đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng và chúa Nguyễn đầu tiên ở đàng trong.Đây có thể nói là ngôi chùa cổ nhất ở Huế .
Truyền thuyết kể rằng , khi chúa Hoàng vào làm trấn thủ xứ Thận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam , ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp. Xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này . Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương , ngược lên phía đầu nguồn , ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc , thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại , ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê .
Người dân địa phương cho biết nơi này ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi , nói với mọi người :
‘’rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí ,làm bền long mạch , cho nước nam hùng mạnh ‘’. Vì thế nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng .Nguyễn Hoàng cả mừng ,vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chú trên đồi , ngoảnh mặt ra sông Hương , lấy tên là Thiên Mụ .
Năm 1862 dưới thời vua Tự Đức để cầu mong có con nối dõi , nhà vua sợ chữ Thiên phạm đến trời , nên cho đổi từ Thiên Mụ thành Linh Mụ (hay bà mụ linh thiêng ).
Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ năm nhâm tuất (1862) cho tới năm kỷ tỵ(1869). Sau đó người dân thoải mái gọi hai tên : chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ.
Vì rằng từ ‘’Linh’’ đồng nghĩa với ‘’thiêng ‘’, âm người Huế khi nói ‘thiên’nghe trại ‘thiêng ‘’, nên khi người Huế nói ‘’Linh Mụ”, “thiên Mụ”hay “thiêng Mụ” thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến chú này .
Một số người còn đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (hay bà mụ thần tiên) cách gọi này không được giới nghiên cứu chấp nhận.

Dưới thời chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong , chùa được xây dựng lại quy mô hơn . năm 1710 , chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn , nặng tới trên hai tấn , gọi là Đại Hồng Chung ,có khắc một bài minh trên đó .Đến năm 1714 chúa Quốc cho đại trùng tu chùa vì hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như Điện Thiên Vương ,Điện Đại Hùng , nhà thuyết pháp , lầu tàng kinh ,phòng tăng , nhà Thiền …mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn , khắc vào bia lớn ( cao 2m60 rộng 1m2)nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây , việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bài kinh Phật đưa về đặt tại lầu tàng kinh , ca tụng triết lý của đạo phật , ghi rõ sự tích của Hòa Thượng Thạch Liêm , người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật Giáo ở đàng trong .Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn , trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp .
Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó , chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ đàng trong . trải qua bao biến cố lịch sử . Chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn tế trời , dưới triều Tây Sơn ( khoảng năm 1788) rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới các triều vua nhà Nguyễn .Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ”của bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ vua Gia Long ,bà nội vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn , xây thêm ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên ), đình Hương Nguyên và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp , đình và các bài thơ văn của nhà
Tháp Phước Duyên
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ . Tháp cao 21m , gồm 7 tầng , được xây dựng phía trước chùa vào năm 1844.Mỗi tầng tháp đều có tượng Phật .Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng ,nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng .Phía trước tháp là đình Hương Nguyện , trên nóc đặt pháp luân ( bánh xe pháp luân , biểu tượng phật giáo , Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi có gió thổi) . trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề ,nhiều công trình bị hư hỏng trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích ) .năm 1907 Vua Thành Thái cho xây dựng lại , nhưng chùa không còn to lớn như trước nữa .Hai bên tháp có hai nhà tứ giác ,một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu .

PHÁP LAM HUẾ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.