CHỈNH TRANG SAIGON, trước 1975
Quy hoạch sư Nguyễn Đỗ Dũng
Từ giữa thập niên 60, chính phủ Hoa Kỳ thông qua Cơ quan Phát triển
Quốc tế USAID đã hỗ trợ kỹ thuật cho phía miền Nam Việt Nam về quy hoạch
đô thị. Kể từ thời gian này, rất nhiều các đồ án quy hoạch và nghiên
cứu về đô thị quy mô và có chất lượng tại miền Nam được thực hiện.
Trong bài viết này, tôi giới thiệu sơ bộ cách tiếp cận của một số đồ án
này mà không đi sâu về các đề xuất quy hoạch của từng đồ án – đây sẽ là
chủ đề cho các bài giới thiệu sau.Điển hình là hai đồ án quy hoạch do hai công ty rất có tên tuổi trên thế giới lúc đó thực hiện: Quy hoạch chung thành phố Sài Gòn do công ty Doxiadis Associates – Consultants on Development and Ekistics[i] (Hy Lạp) lập năm 1965 và Quy hoạch phát triển Thủ Thiêm do công ty Wurster, Bernardi and Emmons[ii] (Hoa Kỳ) chủ trì lập năm 1972 thực hiện. Bên cạnh đó, Frank Pavick và James Bogle lần lượt thực hiện những báo cáo chi tiết về hoạt động quy hoạch đô thị ở miền Nam và những vấn đề của thành phố Sài Gòn. Cũng tác giả Frank Pavich sau đó còn thực hiện Khảo sát sử dụng đất tại Vùng đô thị Sài Gòn cho Tổng Nha Kiến thiết và Thiết kế Đô thị[iii]. Những tại liệu này không chỉ cung cấp những thông tin hữu ích về một phần lịch sử phát triẻn của thành phố cũng như lĩnh vực quy hoạch tại miền Nam, chúng còn cung cấu một mô hình thực hiện quy hoạch hoàn chỉnh trong điều kiện kinh tế thị trường và dựa vào phân tích khoa học hơn là các yếu tố thị giác đơn thuần – những vấn đề mà ngành quy hoạch Việt Nam đương đại, vốn xuất thân kiến trúc và trong điều kiện kinh tế chỉ huy, đang rất bối rối.
Các đồ án quy hoạch nêu trên mặc dù nghiên cứu rất kỹ lưỡng không chỉ về kiến trúc, khí hậu, đất đai mà còn cả nhu cầu giao thông giữa các khu vực và kinh tế/tài chính. Các hồ sơ quy hoạch thường kết thúc với phần đưa ra giải pháp triển khai, tài chính dự án và cả đề xuất rất cụ thể về chính sách cũng như luôn kèm theo thiết kế chi tiết một dự án thí điểm.
Những đồ án hoàn chỉnh và sâu sắc
Hồ sơ đồ sộ của Dioxiadis Associates (a) giống một nghiên cứu tổng thể quy mô về khí hậu, đất đai, địa hình – địa mạo, dân số, nhà ở và năng lực tài chính không chỉ của Sài Gòn mà cả miền Nam lúc đó hơn là một đồ án quy hoạch đơn thuần. Chương trình đồ sộ của Đồ án thể hiện qua 6 phần:
- Phần I: Chương trình phát triển cho vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn trong vòng 30 năm với liệt kê chi tiết nhu cầu phát triển và tài nguyên cần thiết để thỏa mãn nhu cầu này.
- Phần II: Đề xuất tổ chức hành chính cần thiết đề triển khai chương trình trên bao gồm cơ chế hành chính của chính phủ, sự tham gia của các thể chế tư nhân, tổ chức và ngân hàng.
- Phần III: Một dàn ý kế hoạch để hướng dẫn sự phát triển của vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn trong đó có định hình nội dung của quy hoạch, của các nghiên cứu cần thiết thực hiện và cách thực hiện chúng, xác định những điều kiện cho phép triển khai thực hiện ngay lập tức tại một số khu vực trước khi quy hoạch được lập.
- Phần IV: Nghiên cứu so sánh các loại hình nhà ở phù hợp với khí hậu Việt Nam.
- Phần V: Nghiên cứu so sánh tính chất các loại đất đai trong vùng (khô ráo, bán ngập, cao, thấp, v.v…) và chi tiết về giá trị và loại hình phát triển phù hợp cho từng loại.
- Phần VI: Mô tả chi tiết và đề xuất về các loại vật liệu địa phương và nhập khẩu cũng như nền công nghiệp vật liệu tại địa phương.
- Phần VII: Mô tả về nguồn nhân lực trong nước để lập và thực hiện chương trình và đề xuất về đào tạo nhân lực (công nhân xây dựng, thợ mộc, nhân viên khảo sát, họa viên, kiến trúc, kỹ sư, quy hoạch sư,v.v…).
- Phần VIII: Quy hoạch tổng thể một dự án thí điểm thử nghiệm cho khoảng 10,000 ngôi nhà phù hợp với môi trường Việt Nam. Đề xuất quy hoạch chi tiết cho một khu dân cư đầu tiên với khoảng 1000 căn nhà cho dự án trên. Dự án này sẽ giúp cung câp thông tin về các vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai chương trình phát triển này cũng như đào tạo nhân lực và đề trình bày những gì là khả thi.
- Thiết kế thể chất (quy hoạch vật thể): thu thập dự liệu về dân số và đặc điểm đất đai của vùng Sài Gòn (SMA). Xu hướng phát triển được so sánh với các yếu tố vật thể mà sẽ ảnh hướng việc phát triển SMA trong những thập niên tới.
- Kỹ thuật: địa chất được nghiên cứu để tìm phương pháp san nền tốt nhất cho khu vực thấp và ngập nước. Hệ thống kênh rạch được khảo sát và các dòng kênh chính được vẽ mặt cắt để nghiên cứu.
- Vận tải: nghiên cứu về lưu lượng giao thông cho hệ thống đường nội bộ của bán đảo[v]. một phân tích về các giải pháp vượt sông Sài Gòn được chuẩn bị để đánh giá về phương pháp và chi phí.
- Kinh tế: giá trị đất đai và sử dụng đất được dự báo cho thời gian 30 năm tới và những giả thuyết về khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển của bán đảo được đặt ra. Một phân tích phí tổn-lợi ích (cost-benefit analysis) cho từng phương pháp và một sơ đồ về dòng tiền (cash flow) đầu tư công cho bán đảo được thực hiện. Nguồn tài chính bên ngoài và năng lực của các thể chế tài chính địa phương được nghiên cứu.
- Những yếu tố khác: những chính sách và luật lệ của chính quyền được đánh giá về tác động của chúng đối với phát triển đô thị.
Ba phần thú vị nhất của đồ án là những thảo luận về việc kết nối hai bờ sông Sài Gòn, phần về tài chính và phần đề xuất chính sách. Dựa trên những nghiên cứu về giao thông và giá trị đất đai, đồ án yêu cầu thành phố sớm hoàn thành tuyến đường vành đai về phía Nam để giảm lưu lượng giao thông xuyên qua trung tâm và kết nối vơi sân bay tương lai[vii], di dời Tân Cảng và Xưởng đóng tàu Hải Quân (Ba Son) để xây cầu thấp kết nối trực tiếp đại lộ Hàm Nghi và đường Nguyễn Bỉnh Khiêm sang Thủ Thiêm[viii]. Cuối cùng, trong nhiều chính sách được đề xuất, nổi bật là việc đề nghị đưa vào hệ thống thuế dựa vào giá trị bất động sản (assessment tax), mở rộng địa giới đô thị để bao gồm vùng nông thôn xung quanh và 20% đất ở triển khai bởi Cơ quan Phát triển Điền địa[ix] sẽ là nhà cho người thu nhập thấp thuê và trợ giá 50%.
Những lực cản của quy hoạch
Các đồ án và nghiên cứu này tất nhiên không nhất thiết phản ánh chất lượng thực sự của công tác quy hoạch và nghiên cứu đô thị tại miền Nam lúc đó vốn vẫn bị ảnh hưởng của trương phái Beaux Arts do người Pháp để lại (b). Rất khó có thể đánh giá được mức độ tác động của các đồ án và nghiên cứu này vào hoạt động quy hoạch tại miền Nam. Điều kiện chiến tranh và ngân sách eo hẹp không cho phép triển khai những đồ án này. Ngoài ra, theo đánh giá của Seltz vào năm 1970, quá trình chuyển giao công nghệ không thực sự diễn ra do nhân lực chuyên môn yếu kém trong các cơ quan của chính phủ và nguồn tiền tài trợ dồi dào khiến tư vấn nước ngoài có khuynh hướng sử dụng nhân lực ngoại quốc hơn là địa phương (a). Các nghiên cứu và bài báo về hoạt động quy hoạch ở miền Nam cũng lột tả tương đối những vấn đề của đô thị và xã hội lúc đó. Rất nhiều những vấn đề nêu ra nay có thể quan sát thấy trong xã hội và hoạt động quy hoạch đương đại. Ví dụ, Michael Seltz (a), một nhà quy hoạch làm việc trong một nhóm cố vấn cho thị trường Sài Gòn rằng 3 yếu tố tác động tiêu cực đến quy hoạch (ngoài chiến tranh) là: 1/ thiếu thông tin; 2/ nạn tham nhũng khiến việc hợp tác đa ngành không thể diễn ra; 3/ chính quyền địa phương yếu và không có vai trò độc lập với chính quyền trung ương; và 4/ thiếu nguồn tài chính. Dưới đây là lược dịch đoạn tác giả nói về ba vấn đề đầu tiên:
… Quy hoạch Sài Gòn
ngày nay gặp khó khăn bởi thiếu thông tin. Không có con số dự báo chính
xác về dân số thành phố. […] Không có nghiên cứu về các hoạt động kinh
tế cơ bản để trả lời câu hỏi về tỷ lệ các ngành công nghiệp và lao động.
[…] Không có phân tích mở mức độ khu dân cư cho thấy điều kiện về nhà ở
và công trình công cộng. Rất ít các bản đồ tốt thông tin về thuế má.
Không có các chương trình tài chánh và thông tin về sử dụng đất mới chỉ
bắt đầu manh nha.
… Một nhà quy hoạch,
một trong số các nhà quy hoạch của (chính phủ) Diệm nói với tôi, không
thể làm việc độc lập như một bác sĩ hay luật sư. Anh ta cần hợp tác với
rất nhiều các nhóm trong cộng đồng. Nhưng sự hợp tác đó không hề tồn tại
ở Sài Gòn. Bất chấp thực tế là Chính phủ Việt Nam là một chính quyền
độc tài quân sự, có rất nhiều những trung tâm quyền lực (khác nhau)
trong lòng hệ thống hành chính không chấp nhận những nỗ lực hợp tác. […]
(tôi) được kể rằng nỗ lo sợ của người Việt Nam về sự thống nhất
(unitary) chiếm lĩnh rất nhiều cơ quan và các đầu mối quyền lực liên
quan, bởi vì người lãnh đạo (các cơ quan này) có thể kiếm rất nhiều tiền
thông qua việc ăn đút lót.
Thêm vào việc thiếu
thông tin quy hoạch, nạn tham nhũng và phan tán quyền lực giữa các cơ
quan trong bộ máy hành chính, là một thực tế rằng thành phố Sài Gòn
không (được vận hành) độc lập. Thị trưởng, trong thực tế, chỉ là một
quan chức nhỏ trong chính phủ, phải báo cáo công việc trực tiếp cho
tướng chỉ huy quân khu. Ngân sách của ông ta thì bị kiểm soát bởi Bộ Tài
Chánh, cơ quan đồng thời nắm sở kế toán của thành phố và là nguyên nhân
khiến thành phố thanh toán chậm trễ cho các chủ nợ. Các bộ khác nhau
của chính quyền quốc gia quản lý các chức năng quan trọng của thành phố,
như là giáo dục phổ thông và công chánh. Đôi khi, người ta cho là những
bộ này cố tình đình hoãn các dự án của thành phố để giữ lại một khoản
ngân sách (cho riêng mình) vào cuối năm vốn có thể bị trưng thu bởi các
bộ khác (b).
Bước đi dài và cuối cùng của quy hoạch tại miền Nam trước 1975?Tuy nhiên, ở một mặt khác, tài liệu quy hoạch tổng thể cuối cùng cho Sài Gòn mà tôi có: Kế hoạch phát triển vật thể vùng thủ đô năm 1974 được ghi là thực hiện bởi Nha Thiết kế Thị thôn thuộc Bộ Công chánh và Giao thông là một đồ án rất khoa học và thể hiện sự tiếp thu các đồ án trước đó do người nước ngoài thực hiện. Mở đầu phần I: Phúc trình tiên khởi, bản kế hoạch này xác định :
Phúc-trình này sẽ diễn-tả lần lượt các nhu-cầu được ước-toán, khả năng cung-ứng của đất-đai và một số giải-pháp đề-nghị.
Đồ án ứng dụng phương pháp chồng lớp bản đồ bằng công nghệ thông tin
để xác định sử dụng đất phù hợp và thậm chí cả mô hình giao thông cho
mỗi khu vực trong toàn vùng đô thị Sài Gòn (bao gồm cả Biên Hòa, Thủ Dầu
Một và Nhơn Trạch) và đưa ra quy hoạch cấu trúc có tính định hướng.
Trong chương 6: Kết-luận và Đề-nghị, phương pháp được tổng kết vắn tắt
như sau:
… các khu vực đều được phân thành ô
vuông, mỗi ô có diện tích 1 cây số vuông. Đặc-tính về đất-đai của mỗi ô
đều được phân-tích và lượng-giá trên một họa-đồ, miêu-tả bằng các màu
sắc đậm lợt ấn-định tùy theo mức độ khả-thi của khu vực. Tất cả các loại
họa-đồ này được xếp chồng lên nhau để xác-định họa-đồ tổng-hợp các loại
đất-đai khả-dụng.
[…] Đặc-tính thiên-nhiên và nhân-tạo
của mỗi ô vuông được ghi nhận bằng các mã-số và ký-hiệu, rồi sẽ tùy theo
mật-độ quy-định tại mỗi ô vuông, máy tính điện-tử sẽ ước-toán ra số
chi-phí thị-tứ-hóa cho mỗi khu-vực và cho toàn-thể giải-pháp.
[…] Máy tính điện-tử cũng được xử-dụng
để giải các mô-thức lưu-thông (một tập-hợp công-thức toán-học phức tạp)
và ấn-định các ma-trận di-chuyển (interchange matrix) rồi từ đó suy ra
sườn đạo-lộ.
Những phương pháp trình bày ở đây: phân tích sử dụng đất bằng chồng
lớp bản đồ (land use suitability analysis) và ấn định hành trình bằng ma
trận (trip assignment) cho mỗi khu vực giao thông trong thành phố để từ
đó suy ra lưu lượng vẫn là những phương pháp cơ bản được giảng dạy
trong các trường quy hoạch tại Hoa Kỳ ngày hôm nay như tôi đang được
học. Những phương pháp này tuy nhiên ít được biết tới trong giới quy
hoạch đô thị và không được giảng dạy tại Việt Nam ngày hôm nay.Nếu đây quả thực là một đồ án do người Việt Nam thực hiện, nỗ lực quy hoạch này xứng đáng được tôn vinh và ghi nhận trong lịch sử như là sự chuyển biến từ quy hoạch mang tính thiết kế kiến trúc sang một bộ môn khoa học tổng hợp về phát triển vùng lãnh thổ. Đáng tiếc là di sản này sau đó không được tiếp thu và chìm vào quên lãng sau 1975[x] để tới hôm nay thế hệ các nhà quy hoạch được đào tạo trong nhà trường Xã hội Chủ nghĩa khá bối rối trước nền kinh tế thị trường nơi mà quyết định thiết kế, xây dựng và sử dụng công trình và khu đô thị không còn thuộc độc quyền của nhà nước (và do đó kiến trúc không còn vai trò quan trọng trong quy hoạch như trước).
Nay đã có trong tay tất cả những tài liệu trên nhưng với quy mô đồ sộ của chúng, tôi cần thời gian để nghiên cứu và lần lượt giới thiệu chúng trên trang blog đô thị này.
[i]
Doxiadis Associates (DA) đứng đầu bởi kiến trúc sư người Hy Lạp
Constantinos Doxiadis là một trong những công ty tư vấn quy hoạch đô thị
có ảnh hưởng nhất thế giới vào thập niên 1960. Một trong những công
trình quan trọng nhất được hiện thức hóa của DA là thủ đô Islamabad của
Pakistan.
[ii]
Wurster, Bernardi and Emmons (WBE) là công ty kiến trúc có trụ sở chính
ở San Francisco (Hòa Kỳ). Công ty được lập ra bởi William Wilson
Wurster, người sáng lập Trường Thiết kế Môi trường tại Đại học
Californai – Berkely, và sau đó có sự tham gia của hai đối tác trẻ là
Bernardi và Emmons. Donn Emmons là người chịu trách nhiệm về đồ án Thủ
Thiêm 1972.
[iii] Thiết kế đô thị
(urban design) mà chúng ta hiểu ngày nay là một lĩnh vực mới phát triển
vào khoảng giữa thập niên 60 nhằm lấp khoảng trống giữa kiến trúc và quy hoạch. Trong trường hợp tên gọi của cơ quan này, cụm từ thiết kế đô thị chỉ quy hoạch đô thị và do đó được dịch ra tiếng Anh vào thời điểm đó trong các tài liệu của USAID là urban planning.
[iv] Bản dịch tiếng Việt của đồ án có nhiều lỗi (ngoài yếu tố ngôn ngữ tại miền Nam vào thời điểm đó), tuy nhiên để phản ánh không khí của đồ án, tôi trích nguyên văn và chú thích thêm để độc giả hiểu.
[v]
Tôi chưa thấy đồ án quy hoạch chung nào ở Việt Nam ngày nay thực hiện
nghiên cứu lưu lượng giao thông. Nếu quý vị nào biết xin thông tin.
[vi] Các quy hoạch chung ngày nay, từ Hà Nội tới Tp HCM vẫn theo đuổi mô hình này mà không đề cập tới những mặt trái của nó.
[vii] Tuyến đường này chính là đại lộ Nguyễn Văn Linh hôm nay và sân bay quốc tế Long Thành trong tương lai.
[viii] Riêng đề tài kết nối hai bên bờ sông Sài Gòn là một câu chuyện thú vị mà tôi sẽ kể vào một dịp khác.
[ix] Cơ quan triển khai dự án phía chính quyền.
[x]
Giáo sư Trương Quang Thao và sau đó một số sinh viên cao học và nghiên
cứu sinh của ông có nghiên cứu các đồ án này tại trường Đại học Kiến
trúc TP HCM. Nhờ giáo sư Thao mà tôi cũng lần đầu tiên biết đến các tài
liệu này vào năm 2009. Các tài liệu để viết bài này là tư liệu lưu trữ
của các thư viện đại học tại Mỹ.
-------------------------------------------
Nam
Sài Gòn (NSG), với khu trung tâm Phú Mỹ Hưng (PMH) đã nên hình hài, là
dự án quy hoạch và phát triển đô thị quy mô lớn đầu tiên ở Việt Nam từ
sau 1975. Cùng với Khu chế xuất Tân Thuận, dự án là một dấu mốc lịch sử
quan trọng trong quá trình Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, hòa nhập trong cộng đồng thế giới, và bước chân vào dòng chảy tư
bản và văn hóa toàn cầu trong lĩnh vực kiến tạo đô thị. Nhưng cũng
giống như bất cứ dự án nào khác ở cùng quy mô và tham vọng, câu chuyện
KCX Tân Thuận, Nam Sài Gòn và Phú Mỹ Hưng mang theo những thăng trầm của
thời đại, những bài học có giá trị về kiến tạo đô thị và không phải
không ẩn chứa những mâu thuẫn và mặt trái. Ghi lại những bước đi trong
lịch sử của dự án, học lại bài học thành công và ghi nhận mặt tiêu cực
của đồ án NSG/PMH là nỗ lực của bài viết này. Trong bản mới cập nhật
này, tôi tìm thấy và đọc lại hồ sơ khu chế xuất từ đầu thập niên 70 của
chính quyền Sài Gòn và các đối tác – gần hai mươi năm trước khi ông Phan
Chánh Dưỡng khởi động lại ý tưởng này.
(Đọc bài phỏng vấn kiến trúc sư John Lund Kriken, tác giả đồ án Nam Sài Gòn/Phú Mỹ Hưng ở đây)
Tháng 3 năm 1971, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ra sắc lệnh No.016-SL/TH. T/PCI mở rộng cảng Sài Gòn về phía Nam (16). Trong cùng ngày, Bộ Công Chánh, cơ quan phụ trách quy hoạch và xây dựng trong chính quyền Sài Gòn, đã phê duyệt “họa đồ thiết kế” cho bán đảo Tân Thuận Đông (SL 1631/CC). Không có “họa đồ thiết kế” này để kiểm chứng nhưng rất có thể những ý tưỏng sơ bộ về một khu công nghiệp – cảng tương lai đã được thai nghén ở đây. Một năm sau đó, ngày 23 tháng 12 năm 1972, chính phủ VNCH ra tiếp sắc lệnh D43/TT/SLU đưa ra những định chế cho việc thành lập khu chế xuất (EPZ) tại miền Nam Việt Nam.
Trong khoảng thời gian từ 1972 đến 1975 chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều thảo luận và tin tức liên quan đến việc thành lập khu chế xuất. Sớm nhất mà tôi tìm thấy là một tài liệu có tên gọi New Approach: Export financing in Vietnam (Tiếp cận mới: Tài chính xuất khẩu tại Việt Nam) do bộ phận nghiên cứu của Quỹ Phát triển Kinh tế Quốc gia (địa chỉ 17 Bến Chương Dương – Sài Gòn) ấn hành năm 1972 kêu gọi việc xây dựng một khu chế xuất và một cơ chế hành chính để quản lý khu đó (17). Các chương trình đào tạo về thương mại quốc tế và hội thảo về tạo việc làm trong thời kỳ này đều coi Khu chế xuất là một giải pháp nổi bật và đưa vào chương trình thảo luận.
Năm 1974 là dấu mốc quan trọng khi chính phủ Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan) đồng ý hợp tác xây dựng một khu chế xuất tại Sài Gòn có quy mô tương đương khu chế xuất Cao Hùng (17). Địa điểm được chọn là một phần của khu vực cảng Sài Gòn mở rộng và vùng đất phía Tây của bán đảo Tân Thuận Đông. Cơ quan Quản lý Khu Chế Xuất Sài Gòn thuộc Bộ Thương Mại và Kỹ Nghệ được thành lập để làm đầu mối thực hiện dự án. Trong tháng 7 năm đó, một bản nghiên cứu quy hoạch cho Khu Chế Xuất Sài Gòn được hoàn thành dưới sự tài trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) (16).
Khẳng định vị trí thuận lợi về xuất cảng và nhân lực cho phát triển khu chế xuất, bản quy hoạch nêu ra thách thức lớn nhất là nền đất yếu và tiếp cận giao thông đường bộ. Vấn đề thứ nhất sẽ được giải quyết bằng đắp đất và móng cọc. Vấn đề thứ hai sẽ được giải quyết bằng: 1/ việc kéo dài tuyến đường sắt quốc gia hiện đang nối cảng Sài Gòn và nhà ga trung tâm với Biên Hoa và các tỉnh miền Trung (xem bản vẽ); 2/ nâng cấp cầu Tân Thuận và đường liên tỉnh lộ 15; 3/ thành lập tuyến xe buýt từ Sài Gòn tới khu chế xuất; và 4/ xây dựng phần phía Nam của tuyến đường vành đai xung quanh Sài Gòn (phần phía Bắc chính là Quốc lộ số 1) (16). Đề xuất cuối cùng thực tế đã được phản ánh trong đồ án quy hoạch Thủ Thiêm năm 1972 (20) và sau đó là quy hoạch Sài Gòn năm 1974 (19).
Mặc dù thấy cần thiết phải xây dựng tuyến đường vành đai Đông-Tây phía Nam thành phố, quy hoạch khu chế xuất Sài Gòn (16) cũng như đồ án quy hoạch chung vùng Sài Gòn năm 1974 đều chỉ nhắc đến một sự phát triển đô thị quy mô giới hạn dọc theo tuyến liên tỉnh lộ 15 nối Sài Gòn với Nhà Bè. Một bản báo cáo khác vào năm 1975 cho biết Cơ quan Phát triển Gia cư (housing development agency) sẽ đẩy nhanh tốc độ xây dựng với sự chú ý đặc biệt tới khu công nghiệp Biên Hòa, khu chế xuất Tân Thuận Đông (một cách gọi khác của Khu Chế Xuất Sài Gòn) và khu vực Thủ Thiêm.
Download Nghiên cứu quy hoạch Khu Chế Xuất Sài Gòn: saigon export zone
Xem thêm bài về quy hoạch tại miền Nam trước năm 1975 dưới ảnh hưởng của Hoa Kỳ.
Bước khởi đầu sau 1975
Năm 1989 khi ông Phan Chánh Dưỡng, khi ấy là giám đốc Liên hiệp Sản xuất Kinh doanh XNK Quận 5 – Cholimex – đề xuất xây dựng một khu chế xuất đầu tiên của cả nước tại TP HCM (1). Sau khi nhận được sự chấp thuận của lãnh đạo thành phố, ông Dưỡng bắt tay vào lựa chọn một địa điểm để thực hiện đề án. Ông kể lại:
Bước tiếp theo của dự án là tìm một đối tác nước ngoài để cùng thực hiện dự án. Thời điểm đầu thập niên 90 là giai đoạn của quá trình thực hiện chính sách Đổi Mới và thu hút đầu tư quốc tế. Thị trường Việt Nam lúc đó còn quá mới mẻ và chưa gây dựng được sự tin cậy trong giới đầu tư quốc tế (2). Hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện và không khuyến khích đầu tư ngoại quốc trong lĩnh vực bất động sản (2). Trong bối cảnh đó, tập đoàn Central Trade & Development Group (CT&D), bộ phận kinh doanh mới thành lập năm 1989 của Quốc Dân Đảng tại Đài Loan nhưng đã tách ra hoạt động độc lập vào năm 1993, đồng ý tham gia đầu tư trong một nỗ lực mở rộng các quan hệ quốc tế trong hoàn cảnh bị Trung Quốc cô lập (3), đồng thời nhằm phân tán bớt đầu tư ra khỏi thị trường Trung Quốc (2). Cũng phải nói thêm là trước khi tham gia vào dự án Tân Thuận, tập đoàn CT&D đã có một dự án khai thác gỗ tại Việt Nam tức là họ đã quan tâm tới thị trường mới mẻ này từ trước đó. Ngoài ra, từng tham gia vào thực hiện Khu chế xuất Sài Gòn vào năm 1974, người Đài có lẽ hiểu rõ hơn ai hết về địa điểm cũ này.
Chiến lược đầu tư
Do khu chế xuất đặt tại Tân Thuận nằm ở vị trí ngõ cụt về giao thông, CT&D nhận thấy cần phải có một tuyến đường lớn nối với hệ thống đường huyết mạch trong vùng mà không phải đi xuyên qua khu trung tâm thành phố hiến hữu. Đường Bình Thuận, sau này đổi tên thành Đại lộ Nguyễn Văn Linh, dài 18km, rộng 120 m với 6 làn cao tốc và 4 làn song hành nối Tân Thuận với Quốc lộ 1 ở Bình Chánh được đề xuất xây dựng dưới hình thức BT (Xây dựng – Chuyển giao). Tuyến đường mới này gợi ý cho sự phát triển đô thị dọc theo hai bên đường và tạo nguồn tài chính để xây dựng tuyến đường. Từ đó, một khu vực phát triển đô thị mới rộng gần 3000 hecta dọc theo đại lộ Nguyễn Văn Linh có tên gọi Nam Sài Gòn ra đời (2). CT&D và Công ty Phát triển Công nghiệp Tân Thuận (IPC) của thành phố hợp thành liên doanh Phú Mỹ Hưng (PMH) để phát triển 750 hecta khu trung tâm của đô thị này.
Trình tự đầu tư của CT&D là xây dựng trước tiên khu chế xuất Tân Thuận vào năm 1993 với quy mô 200 nhà máy và 80.000 công nhân (4). Tiếp theo là xây dựng nhà máy nhiệt điện 675 MW tại Hiệp Phước với mục tiêu đưa bào sử dụng tổ máy đầu tiên năm 1997. Bước cuối cùng và tham vọng nhất là xây dựng một khu đô thị hiện đại với hạ tầng đảng cấp quốc tế giữa lòng một Việt Nam mới bước ra khỏi thời kỳ kinh tế bao cấp. Khu đô thị này cung cấp hạ tầng đẳng cấp quốc tế mà khu trung tâm hiện hữu không thể đáp ứng, phục vụ nhu cầu phát triển của thành phố và của các tập đoàn đa quốc gia tới đầu tư tại địa phương (2 & 7).
Trong chiến lược triển khai dự án, để thu hút đầu tư và đảm bảo đẳng cấp quốc tế của dự án, những thương hiệu hàng đầu trong kiến trúc và thiết kế đô thị được mời tham gia tư vấn. Hai tháng sau khi được cấp giấy phép đầu tư xây dựng đô thị vào năm 1993, liên doanh PHM tổ chức cuộc thi quốc tế với sự tham gia của ba “ông lớn” là công ty Skidmore, Owings & Merrill (SOM) và Koetter Kim & Associates của Hoa Kỳ và Kenzo Tange & Associate đến từ Nhật Bản. Mặc dù phương án của SOM được lựa chọn, hai đơn vị tư vấn còn lại được mời tiếp tục tham gia quá trình thiết kế nhằm đánh bóng tên tuổi dự án và giúp kết nối với giới đầu tư quốc tế.
Giải pháp thiết kế
Với mục tiêu xây dựng một thành phố mới cho 1 triệu người dọc theo đại lộ Nguyễn Văn Linh và trên vùng đất từng là đầm lầy, phương án của SOM đề xuất xây dựng “thành phố của những hòn đảo” cấu thành bởi những khu dân cư có kích thước nằm trong bán kính đi bộ (walkable neighborhoods) và tách biệt với nhau bởi hệ thống kênh rạch (5). Bên cạnh việc tạo dựng hồn nơi chốn cho đô thị, việc bảo tồn những dòng kênh này giúp tiếp tục các hoạt động giao thông và thương mại bằng đường thủy, đảm bảo cân bằng hệ sinh thái và chất lượng nước và không khí trong khư vực. Đại lộ Nguyễn Văn Linh là một hành lang giao thông mà sẽ được nâng cấp theo thời gian từ đường đô thị lên đường cao tốc và từ tuyến xe buýt lên tuyến đường tàu điện mặt đất (5).
Trung tâm NSG, đô thị PMH được quy hoạch với một ngôn ngữ đô thị đơn giản, mạch lạc và nhấn mạnh tới sự tương tác giữa các thành tố của đô thị. Mạng đường ô bàn cờ với một số đoạn uốn theo địa thế mặt nước. Công trình lớn thường bao lấy thế đất, khéo léo dấu sân trong hoặc bãi đậu xe phía sau. Các công trình cũng có khoảng lùi nhỏ, hoạt động gắn liền với vỉa hè, có mặt tiền uốn theo hướng của đường và do đó định hình và tương tác không gian công cộng phía trước công trình. Cạnh ngắn của một ô phố điển hình đồng nhất ở 90m đối với khu dân cư và 110m đối với khu thương mại. Những thành tố đô thị này, vốn tìm thấy nguyên vẹn trong trung tâm cũ của Hà Nội và TP HCM xây dựng từ thời Pháp, hầu như không còn tìm thấy trong các đồ án kiến trúc và quy hoạch đương đại ở Việt Nam (do ảnh hưởng của Chủ nghĩa Hiện đại?).
Về công năng, PMH được thiết kế để trở thành một trung tâm đa chức năng với các loại hình công trình đa dạng từ nhà ở tới văn phòng, trường học quốc tế, khu thương mại, khách sạn và cả một nhà triển lãm quy mô lớn. Hầu như không có một yếu tố nào của “bộ công cụ kiến tạo đô thị hậu-hiện đại hoàn cầu” bị bỏ sót (6). Cuối cùng, thiết kế đô thị nhấn mạnh tới sự đa dạng về quy mô công trình, mật độ, kích thước đường phố và quy mô công viên mà tác giả đồ án ghi nhận trong các khu dân cư truyền thống của Sài Gòn vốn nổi tiếng về sức sống và sự sôi động của chúng (5).
Đồ án quy hoạch và đầu tư khu đô thị NSG/PMH nhận được sự hỗ trợ cần thiết của chính quyền TP HCM, đồng thời cũng là một đối tác kinh doanh trong liên doanh PMH thông qua IPC. Do quy hoạch chung năm 1993 không đề xuất phát triển xuống phía Nam, thành phố đã cập nhật dự án NSG, điều chỉnh quy hoạch chung và xác định hướng Nam – hướng “tiến ra biển Đông” – là một trong những hướng phát triển chính của thành phố. Ban Quản lý Khu Nam được thành lập để thiết lập hệ thống hành chính “một cửa – một dấu” nhằm gia tăng tốc độ triển khai dự án trên địa bàn – mô hình quản lý phát triển đầu tiên tại Việt Nam (2). Thành phố cũng xây dựng mới hoặc nâng cấp các trục giao thông kết nối khu đô thị mới với trung tâm thành phố như đường Nguyễn Hữu Thọ, cầu Nguyễn Tri Phương và cầu Chánh Hưng.
Khen và Chê
Là một trong những đồ án khu đô thị mới được quy hoạch hoàn chỉnh đầu tiên ở Việt Nam từ sau 1986 và là “thành phố được quy hoạch tổng thể theo chuẩn mực thế giới lớn nhất ở châu Á” (7), Nam Sài Gòn nói chung và Phú Mỹ Hưng nói riêng nhận được sự khen ngợi của giới chuyên môn trong và ngoài nước.
Sự ghi nhận sớm nhất là Giải thưởng Kiến trúc đô thị lần thứ 42 do Tạp chí Progessive Architecture (PA, Hoa Kỳ) trao tặng năm 1995. Đánh giá về đồ án, các giám khảo khen ngợi sự tỉ mỉ và sự hài hòa trong thiết kế ở các tỷ lệ khác nhau cũng như cách tiếp cận về khí hậu và địa lý. Tuy nhiên, mặc dù xác nhận sự nỗ lực của tư vấn trong tìm kiếm một mô hình đô thị từ văn hóa địa phương, các thành viên BGK vẫn đắn đo về “những “chiến binh” phương Tây đến nói cho một dân tộc khác cách họ tổ chức đô thị” (6).
Tiếp bước tạp chí PA, Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (AIA) trao cho đồ án Giải thưởng danh dự về thiết kế đô thị năm 1997 – đồ án khu đô thị đầu tiên ở châu Á nhận được vinh dự này. Ban giám khảo của AIA nhận xét: “Đồ án này bắt nguồn từ lịch sử kiến tạo đô thị với hình dáng được gợi ý từ lịch sử của mảng đất này. Đồ án có vai trò như là một ví dụ điển hình cho các đại dự án đang diễn ra ở những nơi như Đông Nam Á” (12).
Gần 10 năm sau sự ghi nhận của quốc tế, khu đô thị Phú Mỹ Hưng mới được trao giải thưởng chính thức trong nước nhưng là cho công trình đã hoàn thiện chứ không phải đồ án quy hoạch. Trong cùng năm 2008, Phú Mỹ Hưng được Hội kiến trúc sư Việt Nam công nhận Công trình kiến trúc tiêu biểu trong thời kỳ đổi mới và Bộ Xây dựng công nhận là Khu Đô Thị Kiểu Mẫu (ĐTKM – Quyết định công nhận chỉ có giá trị trong 5 năm). Mặc dù chỉ có hai khu đô thị ở Việt Nam đạt tiêu chuẩn ĐTKM, tiêu chuẩn này thực ra đánh giá chủ yếu trên quy mô dự án (rộng trên 50 hecta, có trên 5000 dân), mức độ xây dựng (hạ tầng lấp đầy 70% diện tích), và tuân thủ các tiêu chuẩn pháp lý vốn (về nguyên tắc) phải đạt được để được phê duyệt. Tiêu chuẩn ĐTKM do đó không hề phản ánh chất lượng thiết kế đô thị cũng như sự khác biệt về phương pháp mà đồ án mang đến so với các khu đô thị thực hiện bằng quan niệm thiết kế phổ biến trong nước.
Bên cạnh những sự khen ngợi trên của các tổ chức chuyên môn, đô thị NSG/PMH cũng nhận được những câu hỏi và phê phán về xã hội, văn hóa và môi trường. Nằm không xa những khu vực nghèo nhất của thành phố và khu chế xuất Tân Thuận, nơi hàng chục ngàn công nhân có mức lương cả năm chỉ đủ mua 1 m2 sàn ở PMH, dự án nổi lên như một ốc đảo về xã hội và kinh tế trong lòng TP HCM. Với thái độ bi quan thường thấy của các nhà nghiên cứu xã hội, giáo sư Douglass (ĐH Haiwaii) mô tả PMH như một thế giới viễn tưởng, tách rời khỏi thực tế xã hội, và được xây dựng và quản lý nhằm phục vụ riêng cho tầng lớp giàu mới và nhóm nhỏ chuyên gia ngoại quốc tại Việt Nam (8). Ông cũng cho rằng dù có vai trò quan trọng của chính quyền địa phương, PMH cơ bản là một dự án tư nhân mà trong đó không gian công cộng không còn thực sự công cộng bởi camera và lực lượng an ninh luôn túc trực để đảm bảo không có những đối tượng không mong muốn trong khu vực. Ông viết:
Tấm biển “cấm chụp hình” bền ngoài khu dân cư có tường rào an ninh (gated community) ở PMH là một trong số rất nhiều chỉ dấu rằng những gì từng là công cộng nay trở thành tư hữu và bị hạn chế nghiêm ngặt. PMH cố gắng “văn minh hóa” công dân của họ bằng cách triệt tiêu các cộng đồng – không người lạ, không tiếng ồn, không hàng rong, không tự tập đông người – bằng cổng rào và nhân viên an ninh. Sự đối lập với vỉa hè ở Sài Gòn không thể mạnh mẽ hơn […] PMH thiếu vắng đời sống xã hội khiến nó trống rỗng về sự sinh động và vui thú.
Ngược lại với quan điểm này, tác giả của đồ án PMH John Kriken lại tự hào về việc đảm bảo 95% diện tích cây xanh dọc bờ sông phục vụ các hoạt động công cộng và giữ một tỷ lệ cây xanh đáng kể trong đồ án. Thực tế là 50% diện tích công viên của TP HCM 10 triệu dân đang nằm ở Phú Mỹ Hưng – đô thị hướng tới mục tiêu 100.000 dân – một chỉ dấu phản ánh cả chất lượng sống lẫn sự tương phản với thực tiễn đô thị TP HCM.
Cũng phê phán về sự đa dạng xã hội, giáo sư Waibel có nhận định rằng: “Ngày càng có vẻ như là các cư dân tương lại ở Nam Sài Gòn sẽ không phản ánh xã hội Việt Nam, như là thể hiện trong quảng cáo của PMH” (7). Giáo sư Waibel muốn ám chỉ quảng cáo ấn tượng với khẩu hiệu “wanted: one million residents” (“mong muốn: một triệu cư dân”) của PMH trong đó thể hiện sự có mặt nhiều của nhiều thành phần xã hội trong dự án này. Thực tế là không chỉ người nghèo không sinh sống ở PMH, khoảng 50% dân số Phú Mỹ Hưng là người ngoại quốc, mặc dù phần lớn trong số họ thuê lại nhà của chủ sở hữu người Việt (2).
Công ty PMH cho rằng họ đã đưa ra rất nhiều loại hình nhà ở với chi phí khác nhau cho người có thu nhập trung bình như 11 tòa nhà thuộc dự án Sky Garden có giá từ 400-500 triệu đồng (14). Khách hàng có thể trả góp và vay trả góp qua ngân hàng. Có lẽ không có nhiều người thu nhập trung bình có cơ hội sở hưu nhà PMH với mức giá trên. Thông qua đầu cơ, giá nhà ở một khu đô thị có môi trường sống tốt gia tăng rất nhanh bất chấp nỗ lực của CĐT.
Trước rủi ro về Biến đổi khí hậu và ngập lụt đang và sẽ đe dọa cuộc sống người dân TP HCM, địa điểm xây dựng dự án và sự tác động của nó vào việc thoát nước tự nhiên giờ đây là vấn đề nhiều học giả phê phán (7 & 15). Người lên tiếng sớm nhất và bền bỉ nhất có lẽ là giáo sư Lê Huy Bá. Ông đặt ra câu hỏi về việc phát triển NSG có là một chính sách phát triển bền vững (15):
Phú Mỹ Hưng được ca ngợi nhiều nhưng có mấy ai chú ý: trong lòng Phú Mỹ Hưng thì đẹp thật nhưng các điểm ngập lụt ở Q.8 tăng nhiều hơn và cao hơn trước đó.
Ông chỉ ra ba hạn chế chính của việc phát triển đô thị PMH và cả vùng NSG: 1/ bê tống hóa vùng đệm sinh thái của TP HCM khiến gia tăng rủi ro ngập lụt cho toàn thành phố; 2/ quá trình đô thị hóa vùng đất phèn có thể dẫn đến khả năng xì phèn, dẫn đến thoái hóa đất đai trên diện rộng; 3/ Đặc tính của đất với độ mặn cao và nền đất yếu sẽ khiến cho kết cấu công trình và hạ tầng bị ăn mòn và kém ổn định (15).
Tuy nhiên, ngoài các ý kiến chung chung, hiện vẫn chưa có những nghiên cứu định tính về mối tương quan giữa đồ án NSG/PMH với tình trạng ngập lụt của TP cũng như những phân tích chi phí – lợi ích (cost-benefit analysis) về kinh tế, xã hội và môi trường của dự án này cũng như chính sách phát triển về phía Nam.
Kết luận
Tác giả Dư Phước Tân (2) cho rằng dự án PMH mang lại bốn tác động tích cực: 1/ Xác lập một hướng phát triển mới về phía Nam cho TP HCM; 2/ Cung hạ tầng và không gian cho hoạt động kinh doanh quốc tế và gia tăng kết nối TP HCM với cộng đồng thế giới; 3/ Giới thiệu một mô hình phát triển đô thị và quản lý dự án bất động sản cho thị trường trong nước; 4/ Gia tăng giá trị đất đai của một khu vực vốn nghèo khó và có giá trị nông nghiệp thấp. Tác giả cũng xác định 2 tác động tiêu cực nhưng không thảo luận những tác động này ở mức độ toàn thành phố: 1/ Tác động tiêu cực nổi bật nhất, theo tác giả, là hiện tượng đầu cơ đất đai (giá đất tại PMH tăng trung bình tăng 1000 lần sau 15 năm); 2/ tác động thứ hai, đúng hơn là hệ quả của dự án, là rủi ro ngập lụt dưới tác động của nước biển dâng và BĐKH do địa điểm là vùng đất thấp.
Một cách tổng thể, việc hình thành đô thị NSG/PMH ở ngoại vi cũ của TP HCM là một quá trình ngoại ô hóa kèm theo quốc tế hóa hoạt động kiến tạo nơi chốn vốn xảy ra ở nhiều quốc gia trong khu vực (8). Trong quá trình này, nền kinh tế TP HCM và Việt Nam xích gần hơn tới thị trường vốn và kỹ nghệ thiết kế quốc tế và những người có mức thu nhập cao di chuyển ra ngoài đô thị để thoát khỏi những vấn nạn của thực tại đô thị đồng thời tiếp cận những tiện ích mới được cung cấp thông qua các nhãn hiệu quốc tế. Về mặt xã hội, việc xây dựng các đô thị mới thông qua vai trò của các nhà đầu tư lớn như trường hợp PMH, vốn tối ưu hóa lợi nhuận bằng cách nhắm vào một số phân khúc thị trường nhất định, sẽ đẩy xa khoảng cách giàu nghèo trong không gian sống cũng như làm đơn điệu hóa và tư hữu hóa không gian công cộng. Nhà nước cần tránh ưu ái các dự án lớn hơn là các dự án nhỏ và thông qua các công cụ quản lý quy hoạch – thiết kế đô thị nhằm cho phép sự công bằng, đa dạng, phong phú và sinh động – những “nguyên tố” căn bản của đô thị Việt Nam tồn tại trong sự hài hòa.
Về khía cạnh thiết kế đô thị, PMH là một đồ án chuẩn mực mặc dù dường như vẫn còn thiếu tính địa phương để thực sự tạo ra hồn nơi chốn. Đồ án này xứng đáng được nghiên cứu và so sánh một cách cẩn trọng với phương pháp thiết kế đô thị đang thực hành và giảng dạy trong các trường kiến trúc tại Việt Nam – vốn dường như thiếu nền tảng lý luận và bị ảnh hưởng nặng về hình ảnh của Chủ nghĩa Hiện đại.
Về quy hoạch, NSG/PMH tạo đà cho một chính sách và xu hướng đầu tư xây dựng đô thị về phía Nam TP HCM. Trong bối cảnh ngập lụt và biến đổi khí hậu, chính sách này cần được cân nhắc cẩn trọng và tìm giáp giảm thiểu rủi ro tương lai. Cũng phải nhìn nhận rằng dựa hoàn toàn vào đặc tính của đất và thủy văn để xác định hướng phát triển đô thị là điều khó khăn đối với TP HCM bởi những khu vực tối ưu về môi trường có diện tích giới hạn và phân tán. Với một vị trí chiến lược như PMH cũng như Thủ Thiêm, việc không phát triển có lẽ là một đòi hỏi không thực tế. Vấn đề là mô hình phát triển như thế nào để hạn chế tối đa việc tác động tiêu cực vào hệ thống chứa và thoát nước tự nhiên cũng như đẩy gánh nặng hạ tầng của một khu đô thị cao cấp sang ngân sách nhà nước và túi tiền eo hẹp của người dân sinh sống trong những khu đô thị hiện hữu.
Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói :“trước sau gì cũng phải phát triển tiến về phía Nam nhưng ở mức độ nào là điều phải tính” (15). “Mức độ nào” là câu hỏi mà thế hệ các nhà quy hoạch TP HCM trong thế kỷ của biến đổi khí hậu sẽ phải trả lời.
Tài liệu tham khảo
-------------------------------------------
Nam Sài Gòn: một lược sử quy hoạch (Bản mới)
Quy hoạch sư Nguyễn Đỗ Dũng
Một kế hoạch dang dởTháng 3 năm 1971, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ra sắc lệnh No.016-SL/TH. T/PCI mở rộng cảng Sài Gòn về phía Nam (16). Trong cùng ngày, Bộ Công Chánh, cơ quan phụ trách quy hoạch và xây dựng trong chính quyền Sài Gòn, đã phê duyệt “họa đồ thiết kế” cho bán đảo Tân Thuận Đông (SL 1631/CC). Không có “họa đồ thiết kế” này để kiểm chứng nhưng rất có thể những ý tưỏng sơ bộ về một khu công nghiệp – cảng tương lai đã được thai nghén ở đây. Một năm sau đó, ngày 23 tháng 12 năm 1972, chính phủ VNCH ra tiếp sắc lệnh D43/TT/SLU đưa ra những định chế cho việc thành lập khu chế xuất (EPZ) tại miền Nam Việt Nam.
Trong khoảng thời gian từ 1972 đến 1975 chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều thảo luận và tin tức liên quan đến việc thành lập khu chế xuất. Sớm nhất mà tôi tìm thấy là một tài liệu có tên gọi New Approach: Export financing in Vietnam (Tiếp cận mới: Tài chính xuất khẩu tại Việt Nam) do bộ phận nghiên cứu của Quỹ Phát triển Kinh tế Quốc gia (địa chỉ 17 Bến Chương Dương – Sài Gòn) ấn hành năm 1972 kêu gọi việc xây dựng một khu chế xuất và một cơ chế hành chính để quản lý khu đó (17). Các chương trình đào tạo về thương mại quốc tế và hội thảo về tạo việc làm trong thời kỳ này đều coi Khu chế xuất là một giải pháp nổi bật và đưa vào chương trình thảo luận.
Năm 1974 là dấu mốc quan trọng khi chính phủ Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan) đồng ý hợp tác xây dựng một khu chế xuất tại Sài Gòn có quy mô tương đương khu chế xuất Cao Hùng (17). Địa điểm được chọn là một phần của khu vực cảng Sài Gòn mở rộng và vùng đất phía Tây của bán đảo Tân Thuận Đông. Cơ quan Quản lý Khu Chế Xuất Sài Gòn thuộc Bộ Thương Mại và Kỹ Nghệ được thành lập để làm đầu mối thực hiện dự án. Trong tháng 7 năm đó, một bản nghiên cứu quy hoạch cho Khu Chế Xuất Sài Gòn được hoàn thành dưới sự tài trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) (16).
Khẳng định vị trí thuận lợi về xuất cảng và nhân lực cho phát triển khu chế xuất, bản quy hoạch nêu ra thách thức lớn nhất là nền đất yếu và tiếp cận giao thông đường bộ. Vấn đề thứ nhất sẽ được giải quyết bằng đắp đất và móng cọc. Vấn đề thứ hai sẽ được giải quyết bằng: 1/ việc kéo dài tuyến đường sắt quốc gia hiện đang nối cảng Sài Gòn và nhà ga trung tâm với Biên Hoa và các tỉnh miền Trung (xem bản vẽ); 2/ nâng cấp cầu Tân Thuận và đường liên tỉnh lộ 15; 3/ thành lập tuyến xe buýt từ Sài Gòn tới khu chế xuất; và 4/ xây dựng phần phía Nam của tuyến đường vành đai xung quanh Sài Gòn (phần phía Bắc chính là Quốc lộ số 1) (16). Đề xuất cuối cùng thực tế đã được phản ánh trong đồ án quy hoạch Thủ Thiêm năm 1972 (20) và sau đó là quy hoạch Sài Gòn năm 1974 (19).
Mặc dù thấy cần thiết phải xây dựng tuyến đường vành đai Đông-Tây phía Nam thành phố, quy hoạch khu chế xuất Sài Gòn (16) cũng như đồ án quy hoạch chung vùng Sài Gòn năm 1974 đều chỉ nhắc đến một sự phát triển đô thị quy mô giới hạn dọc theo tuyến liên tỉnh lộ 15 nối Sài Gòn với Nhà Bè. Một bản báo cáo khác vào năm 1975 cho biết Cơ quan Phát triển Gia cư (housing development agency) sẽ đẩy nhanh tốc độ xây dựng với sự chú ý đặc biệt tới khu công nghiệp Biên Hòa, khu chế xuất Tân Thuận Đông (một cách gọi khác của Khu Chế Xuất Sài Gòn) và khu vực Thủ Thiêm.
Download Nghiên cứu quy hoạch Khu Chế Xuất Sài Gòn: saigon export zone
Xem thêm bài về quy hoạch tại miền Nam trước năm 1975 dưới ảnh hưởng của Hoa Kỳ.
Bước khởi đầu sau 1975
Năm 1989 khi ông Phan Chánh Dưỡng, khi ấy là giám đốc Liên hiệp Sản xuất Kinh doanh XNK Quận 5 – Cholimex – đề xuất xây dựng một khu chế xuất đầu tiên của cả nước tại TP HCM (1). Sau khi nhận được sự chấp thuận của lãnh đạo thành phố, ông Dưỡng bắt tay vào lựa chọn một địa điểm để thực hiện đề án. Ông kể lại:
Nhiều lần đi thực địa tìm hiểu các
vùng đất, tôi dừng chân ở vùng đất có diện tích 300 ha trên bán đảo Tân
Thuận Đông huyện Nhà Bè (nay thuộc phường Tân Thuận Đông quận 7) vì vùng
này có nhiều điều kiện thuận lợi: gần cảng Tân Thuận, gần nguồn lao
động từ cư dân quận 4 và quận 8, cách trung tâm TP không xa. […] nhiều
người cho rằng sự lựa chọn này quá mạo hiểm vì đây là vùng đầm lầy, nền
đất yếu, con trâu nhảy xuống còn chìm huống gì đặt nhà máy. Nhưng tôi
vẫn tin vào cách nhìn của mình. Bởi nếu các con đường Nguyễn Huệ, Lê
Lợi, Hàm Nghi (Quận 1) có thể từ vùng sình lầy ngày xưa phát triển thành
khu dân cư, mua bán sầm uất như ngày nay thì vùng đất Nhà Bè cũng có
thể xây dựng khu chế xuất. Hơn nữa, từ đây có thể thực hiện hàng loạt
chương trình đầu tư để đưa TPHCM phát triển ra biển Đông.(1)
Là một trí thức ở miền Nam, mặc dù chưa bao giờ nhắc tới lịch sử
trước 1975, ông Phan Chánh Dưỡng có lẽ biết về dự án khu chế xuất Sài
Gòn và có thể bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng của người đi trước. Hiểu
biết về dự án và sự lựa chọn địa điểm từ trước 1975 không để làm giảm
vai trò của ông đối với sự ra đời và thành công của Khu chế xuất Tân
Thuận nhưng có ích đối với việc dựng lại lịch sử kiến tạo đô thị Nam Sài
Gòn và những bài học mà nó để lại. Ở một góc độ khác, với vị trí giáp
ranh với cảng Sài Gòn và các hệ thống hạ tầng hiện hữu cũng như có sẵn
nguồn nhân lực trong các khu dân cư gần đó, bán đảo Tân Thuận Đông vẫn
sẽ là một ứng cử viên nổi bật để trở thành khu chế xuất. Tài liệu duy
nhất mà tôi được biết sau 1975 nhắc đến dự án Khu chế xuất Sài Gòn là
bài viết của ông Nguyễn Đăng Sơn trên tạp chí Người Xây Dựng (18). Mới
đây, kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, con trai của KTS Ngô Viết Thụ cho
biết thêm là khi thực hiện dự án Khu Chế Xuất Tân Thuận, phía Đài Loan
có tham khảo lại tài liện cũ mà họ có được. Ngoài ra, trong một cuộc họp
đầu thập niên 80 giữa KTS Thụ với ông Võ Văn Kiệt và UBND TP HCM có
nhắc đến dự án khu chế xuất Sài Gòn năm 1974. KTS Thụ khuyên thành phố
tham khảo dự án cũ trong quá trình nghiên cứu làm khu chế xuất.Bước tiếp theo của dự án là tìm một đối tác nước ngoài để cùng thực hiện dự án. Thời điểm đầu thập niên 90 là giai đoạn của quá trình thực hiện chính sách Đổi Mới và thu hút đầu tư quốc tế. Thị trường Việt Nam lúc đó còn quá mới mẻ và chưa gây dựng được sự tin cậy trong giới đầu tư quốc tế (2). Hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện và không khuyến khích đầu tư ngoại quốc trong lĩnh vực bất động sản (2). Trong bối cảnh đó, tập đoàn Central Trade & Development Group (CT&D), bộ phận kinh doanh mới thành lập năm 1989 của Quốc Dân Đảng tại Đài Loan nhưng đã tách ra hoạt động độc lập vào năm 1993, đồng ý tham gia đầu tư trong một nỗ lực mở rộng các quan hệ quốc tế trong hoàn cảnh bị Trung Quốc cô lập (3), đồng thời nhằm phân tán bớt đầu tư ra khỏi thị trường Trung Quốc (2). Cũng phải nói thêm là trước khi tham gia vào dự án Tân Thuận, tập đoàn CT&D đã có một dự án khai thác gỗ tại Việt Nam tức là họ đã quan tâm tới thị trường mới mẻ này từ trước đó. Ngoài ra, từng tham gia vào thực hiện Khu chế xuất Sài Gòn vào năm 1974, người Đài có lẽ hiểu rõ hơn ai hết về địa điểm cũ này.
Chiến lược đầu tư
Do khu chế xuất đặt tại Tân Thuận nằm ở vị trí ngõ cụt về giao thông, CT&D nhận thấy cần phải có một tuyến đường lớn nối với hệ thống đường huyết mạch trong vùng mà không phải đi xuyên qua khu trung tâm thành phố hiến hữu. Đường Bình Thuận, sau này đổi tên thành Đại lộ Nguyễn Văn Linh, dài 18km, rộng 120 m với 6 làn cao tốc và 4 làn song hành nối Tân Thuận với Quốc lộ 1 ở Bình Chánh được đề xuất xây dựng dưới hình thức BT (Xây dựng – Chuyển giao). Tuyến đường mới này gợi ý cho sự phát triển đô thị dọc theo hai bên đường và tạo nguồn tài chính để xây dựng tuyến đường. Từ đó, một khu vực phát triển đô thị mới rộng gần 3000 hecta dọc theo đại lộ Nguyễn Văn Linh có tên gọi Nam Sài Gòn ra đời (2). CT&D và Công ty Phát triển Công nghiệp Tân Thuận (IPC) của thành phố hợp thành liên doanh Phú Mỹ Hưng (PMH) để phát triển 750 hecta khu trung tâm của đô thị này.
Trình tự đầu tư của CT&D là xây dựng trước tiên khu chế xuất Tân Thuận vào năm 1993 với quy mô 200 nhà máy và 80.000 công nhân (4). Tiếp theo là xây dựng nhà máy nhiệt điện 675 MW tại Hiệp Phước với mục tiêu đưa bào sử dụng tổ máy đầu tiên năm 1997. Bước cuối cùng và tham vọng nhất là xây dựng một khu đô thị hiện đại với hạ tầng đảng cấp quốc tế giữa lòng một Việt Nam mới bước ra khỏi thời kỳ kinh tế bao cấp. Khu đô thị này cung cấp hạ tầng đẳng cấp quốc tế mà khu trung tâm hiện hữu không thể đáp ứng, phục vụ nhu cầu phát triển của thành phố và của các tập đoàn đa quốc gia tới đầu tư tại địa phương (2 & 7).
Trong chiến lược triển khai dự án, để thu hút đầu tư và đảm bảo đẳng cấp quốc tế của dự án, những thương hiệu hàng đầu trong kiến trúc và thiết kế đô thị được mời tham gia tư vấn. Hai tháng sau khi được cấp giấy phép đầu tư xây dựng đô thị vào năm 1993, liên doanh PHM tổ chức cuộc thi quốc tế với sự tham gia của ba “ông lớn” là công ty Skidmore, Owings & Merrill (SOM) và Koetter Kim & Associates của Hoa Kỳ và Kenzo Tange & Associate đến từ Nhật Bản. Mặc dù phương án của SOM được lựa chọn, hai đơn vị tư vấn còn lại được mời tiếp tục tham gia quá trình thiết kế nhằm đánh bóng tên tuổi dự án và giúp kết nối với giới đầu tư quốc tế.
Giải pháp thiết kế
Với mục tiêu xây dựng một thành phố mới cho 1 triệu người dọc theo đại lộ Nguyễn Văn Linh và trên vùng đất từng là đầm lầy, phương án của SOM đề xuất xây dựng “thành phố của những hòn đảo” cấu thành bởi những khu dân cư có kích thước nằm trong bán kính đi bộ (walkable neighborhoods) và tách biệt với nhau bởi hệ thống kênh rạch (5). Bên cạnh việc tạo dựng hồn nơi chốn cho đô thị, việc bảo tồn những dòng kênh này giúp tiếp tục các hoạt động giao thông và thương mại bằng đường thủy, đảm bảo cân bằng hệ sinh thái và chất lượng nước và không khí trong khư vực. Đại lộ Nguyễn Văn Linh là một hành lang giao thông mà sẽ được nâng cấp theo thời gian từ đường đô thị lên đường cao tốc và từ tuyến xe buýt lên tuyến đường tàu điện mặt đất (5).
Trung tâm NSG, đô thị PMH được quy hoạch với một ngôn ngữ đô thị đơn giản, mạch lạc và nhấn mạnh tới sự tương tác giữa các thành tố của đô thị. Mạng đường ô bàn cờ với một số đoạn uốn theo địa thế mặt nước. Công trình lớn thường bao lấy thế đất, khéo léo dấu sân trong hoặc bãi đậu xe phía sau. Các công trình cũng có khoảng lùi nhỏ, hoạt động gắn liền với vỉa hè, có mặt tiền uốn theo hướng của đường và do đó định hình và tương tác không gian công cộng phía trước công trình. Cạnh ngắn của một ô phố điển hình đồng nhất ở 90m đối với khu dân cư và 110m đối với khu thương mại. Những thành tố đô thị này, vốn tìm thấy nguyên vẹn trong trung tâm cũ của Hà Nội và TP HCM xây dựng từ thời Pháp, hầu như không còn tìm thấy trong các đồ án kiến trúc và quy hoạch đương đại ở Việt Nam (do ảnh hưởng của Chủ nghĩa Hiện đại?).
Về công năng, PMH được thiết kế để trở thành một trung tâm đa chức năng với các loại hình công trình đa dạng từ nhà ở tới văn phòng, trường học quốc tế, khu thương mại, khách sạn và cả một nhà triển lãm quy mô lớn. Hầu như không có một yếu tố nào của “bộ công cụ kiến tạo đô thị hậu-hiện đại hoàn cầu” bị bỏ sót (6). Cuối cùng, thiết kế đô thị nhấn mạnh tới sự đa dạng về quy mô công trình, mật độ, kích thước đường phố và quy mô công viên mà tác giả đồ án ghi nhận trong các khu dân cư truyền thống của Sài Gòn vốn nổi tiếng về sức sống và sự sôi động của chúng (5).
Đồ án quy hoạch và đầu tư khu đô thị NSG/PMH nhận được sự hỗ trợ cần thiết của chính quyền TP HCM, đồng thời cũng là một đối tác kinh doanh trong liên doanh PMH thông qua IPC. Do quy hoạch chung năm 1993 không đề xuất phát triển xuống phía Nam, thành phố đã cập nhật dự án NSG, điều chỉnh quy hoạch chung và xác định hướng Nam – hướng “tiến ra biển Đông” – là một trong những hướng phát triển chính của thành phố. Ban Quản lý Khu Nam được thành lập để thiết lập hệ thống hành chính “một cửa – một dấu” nhằm gia tăng tốc độ triển khai dự án trên địa bàn – mô hình quản lý phát triển đầu tiên tại Việt Nam (2). Thành phố cũng xây dựng mới hoặc nâng cấp các trục giao thông kết nối khu đô thị mới với trung tâm thành phố như đường Nguyễn Hữu Thọ, cầu Nguyễn Tri Phương và cầu Chánh Hưng.
Khen và Chê
Là một trong những đồ án khu đô thị mới được quy hoạch hoàn chỉnh đầu tiên ở Việt Nam từ sau 1986 và là “thành phố được quy hoạch tổng thể theo chuẩn mực thế giới lớn nhất ở châu Á” (7), Nam Sài Gòn nói chung và Phú Mỹ Hưng nói riêng nhận được sự khen ngợi của giới chuyên môn trong và ngoài nước.
Sự ghi nhận sớm nhất là Giải thưởng Kiến trúc đô thị lần thứ 42 do Tạp chí Progessive Architecture (PA, Hoa Kỳ) trao tặng năm 1995. Đánh giá về đồ án, các giám khảo khen ngợi sự tỉ mỉ và sự hài hòa trong thiết kế ở các tỷ lệ khác nhau cũng như cách tiếp cận về khí hậu và địa lý. Tuy nhiên, mặc dù xác nhận sự nỗ lực của tư vấn trong tìm kiếm một mô hình đô thị từ văn hóa địa phương, các thành viên BGK vẫn đắn đo về “những “chiến binh” phương Tây đến nói cho một dân tộc khác cách họ tổ chức đô thị” (6).
Tiếp bước tạp chí PA, Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (AIA) trao cho đồ án Giải thưởng danh dự về thiết kế đô thị năm 1997 – đồ án khu đô thị đầu tiên ở châu Á nhận được vinh dự này. Ban giám khảo của AIA nhận xét: “Đồ án này bắt nguồn từ lịch sử kiến tạo đô thị với hình dáng được gợi ý từ lịch sử của mảng đất này. Đồ án có vai trò như là một ví dụ điển hình cho các đại dự án đang diễn ra ở những nơi như Đông Nam Á” (12).
Gần 10 năm sau sự ghi nhận của quốc tế, khu đô thị Phú Mỹ Hưng mới được trao giải thưởng chính thức trong nước nhưng là cho công trình đã hoàn thiện chứ không phải đồ án quy hoạch. Trong cùng năm 2008, Phú Mỹ Hưng được Hội kiến trúc sư Việt Nam công nhận Công trình kiến trúc tiêu biểu trong thời kỳ đổi mới và Bộ Xây dựng công nhận là Khu Đô Thị Kiểu Mẫu (ĐTKM – Quyết định công nhận chỉ có giá trị trong 5 năm). Mặc dù chỉ có hai khu đô thị ở Việt Nam đạt tiêu chuẩn ĐTKM, tiêu chuẩn này thực ra đánh giá chủ yếu trên quy mô dự án (rộng trên 50 hecta, có trên 5000 dân), mức độ xây dựng (hạ tầng lấp đầy 70% diện tích), và tuân thủ các tiêu chuẩn pháp lý vốn (về nguyên tắc) phải đạt được để được phê duyệt. Tiêu chuẩn ĐTKM do đó không hề phản ánh chất lượng thiết kế đô thị cũng như sự khác biệt về phương pháp mà đồ án mang đến so với các khu đô thị thực hiện bằng quan niệm thiết kế phổ biến trong nước.
Bên cạnh những sự khen ngợi trên của các tổ chức chuyên môn, đô thị NSG/PMH cũng nhận được những câu hỏi và phê phán về xã hội, văn hóa và môi trường. Nằm không xa những khu vực nghèo nhất của thành phố và khu chế xuất Tân Thuận, nơi hàng chục ngàn công nhân có mức lương cả năm chỉ đủ mua 1 m2 sàn ở PMH, dự án nổi lên như một ốc đảo về xã hội và kinh tế trong lòng TP HCM. Với thái độ bi quan thường thấy của các nhà nghiên cứu xã hội, giáo sư Douglass (ĐH Haiwaii) mô tả PMH như một thế giới viễn tưởng, tách rời khỏi thực tế xã hội, và được xây dựng và quản lý nhằm phục vụ riêng cho tầng lớp giàu mới và nhóm nhỏ chuyên gia ngoại quốc tại Việt Nam (8). Ông cũng cho rằng dù có vai trò quan trọng của chính quyền địa phương, PMH cơ bản là một dự án tư nhân mà trong đó không gian công cộng không còn thực sự công cộng bởi camera và lực lượng an ninh luôn túc trực để đảm bảo không có những đối tượng không mong muốn trong khu vực. Ông viết:
Tấm biển “cấm chụp hình” bền ngoài khu dân cư có tường rào an ninh (gated community) ở PMH là một trong số rất nhiều chỉ dấu rằng những gì từng là công cộng nay trở thành tư hữu và bị hạn chế nghiêm ngặt. PMH cố gắng “văn minh hóa” công dân của họ bằng cách triệt tiêu các cộng đồng – không người lạ, không tiếng ồn, không hàng rong, không tự tập đông người – bằng cổng rào và nhân viên an ninh. Sự đối lập với vỉa hè ở Sài Gòn không thể mạnh mẽ hơn […] PMH thiếu vắng đời sống xã hội khiến nó trống rỗng về sự sinh động và vui thú.
Ngược lại với quan điểm này, tác giả của đồ án PMH John Kriken lại tự hào về việc đảm bảo 95% diện tích cây xanh dọc bờ sông phục vụ các hoạt động công cộng và giữ một tỷ lệ cây xanh đáng kể trong đồ án. Thực tế là 50% diện tích công viên của TP HCM 10 triệu dân đang nằm ở Phú Mỹ Hưng – đô thị hướng tới mục tiêu 100.000 dân – một chỉ dấu phản ánh cả chất lượng sống lẫn sự tương phản với thực tiễn đô thị TP HCM.
Cũng phê phán về sự đa dạng xã hội, giáo sư Waibel có nhận định rằng: “Ngày càng có vẻ như là các cư dân tương lại ở Nam Sài Gòn sẽ không phản ánh xã hội Việt Nam, như là thể hiện trong quảng cáo của PMH” (7). Giáo sư Waibel muốn ám chỉ quảng cáo ấn tượng với khẩu hiệu “wanted: one million residents” (“mong muốn: một triệu cư dân”) của PMH trong đó thể hiện sự có mặt nhiều của nhiều thành phần xã hội trong dự án này. Thực tế là không chỉ người nghèo không sinh sống ở PMH, khoảng 50% dân số Phú Mỹ Hưng là người ngoại quốc, mặc dù phần lớn trong số họ thuê lại nhà của chủ sở hữu người Việt (2).
Công ty PMH cho rằng họ đã đưa ra rất nhiều loại hình nhà ở với chi phí khác nhau cho người có thu nhập trung bình như 11 tòa nhà thuộc dự án Sky Garden có giá từ 400-500 triệu đồng (14). Khách hàng có thể trả góp và vay trả góp qua ngân hàng. Có lẽ không có nhiều người thu nhập trung bình có cơ hội sở hưu nhà PMH với mức giá trên. Thông qua đầu cơ, giá nhà ở một khu đô thị có môi trường sống tốt gia tăng rất nhanh bất chấp nỗ lực của CĐT.
Trước rủi ro về Biến đổi khí hậu và ngập lụt đang và sẽ đe dọa cuộc sống người dân TP HCM, địa điểm xây dựng dự án và sự tác động của nó vào việc thoát nước tự nhiên giờ đây là vấn đề nhiều học giả phê phán (7 & 15). Người lên tiếng sớm nhất và bền bỉ nhất có lẽ là giáo sư Lê Huy Bá. Ông đặt ra câu hỏi về việc phát triển NSG có là một chính sách phát triển bền vững (15):
Phú Mỹ Hưng được ca ngợi nhiều nhưng có mấy ai chú ý: trong lòng Phú Mỹ Hưng thì đẹp thật nhưng các điểm ngập lụt ở Q.8 tăng nhiều hơn và cao hơn trước đó.
Ông chỉ ra ba hạn chế chính của việc phát triển đô thị PMH và cả vùng NSG: 1/ bê tống hóa vùng đệm sinh thái của TP HCM khiến gia tăng rủi ro ngập lụt cho toàn thành phố; 2/ quá trình đô thị hóa vùng đất phèn có thể dẫn đến khả năng xì phèn, dẫn đến thoái hóa đất đai trên diện rộng; 3/ Đặc tính của đất với độ mặn cao và nền đất yếu sẽ khiến cho kết cấu công trình và hạ tầng bị ăn mòn và kém ổn định (15).
Tuy nhiên, ngoài các ý kiến chung chung, hiện vẫn chưa có những nghiên cứu định tính về mối tương quan giữa đồ án NSG/PMH với tình trạng ngập lụt của TP cũng như những phân tích chi phí – lợi ích (cost-benefit analysis) về kinh tế, xã hội và môi trường của dự án này cũng như chính sách phát triển về phía Nam.
Kết luận
Tác giả Dư Phước Tân (2) cho rằng dự án PMH mang lại bốn tác động tích cực: 1/ Xác lập một hướng phát triển mới về phía Nam cho TP HCM; 2/ Cung hạ tầng và không gian cho hoạt động kinh doanh quốc tế và gia tăng kết nối TP HCM với cộng đồng thế giới; 3/ Giới thiệu một mô hình phát triển đô thị và quản lý dự án bất động sản cho thị trường trong nước; 4/ Gia tăng giá trị đất đai của một khu vực vốn nghèo khó và có giá trị nông nghiệp thấp. Tác giả cũng xác định 2 tác động tiêu cực nhưng không thảo luận những tác động này ở mức độ toàn thành phố: 1/ Tác động tiêu cực nổi bật nhất, theo tác giả, là hiện tượng đầu cơ đất đai (giá đất tại PMH tăng trung bình tăng 1000 lần sau 15 năm); 2/ tác động thứ hai, đúng hơn là hệ quả của dự án, là rủi ro ngập lụt dưới tác động của nước biển dâng và BĐKH do địa điểm là vùng đất thấp.
Một cách tổng thể, việc hình thành đô thị NSG/PMH ở ngoại vi cũ của TP HCM là một quá trình ngoại ô hóa kèm theo quốc tế hóa hoạt động kiến tạo nơi chốn vốn xảy ra ở nhiều quốc gia trong khu vực (8). Trong quá trình này, nền kinh tế TP HCM và Việt Nam xích gần hơn tới thị trường vốn và kỹ nghệ thiết kế quốc tế và những người có mức thu nhập cao di chuyển ra ngoài đô thị để thoát khỏi những vấn nạn của thực tại đô thị đồng thời tiếp cận những tiện ích mới được cung cấp thông qua các nhãn hiệu quốc tế. Về mặt xã hội, việc xây dựng các đô thị mới thông qua vai trò của các nhà đầu tư lớn như trường hợp PMH, vốn tối ưu hóa lợi nhuận bằng cách nhắm vào một số phân khúc thị trường nhất định, sẽ đẩy xa khoảng cách giàu nghèo trong không gian sống cũng như làm đơn điệu hóa và tư hữu hóa không gian công cộng. Nhà nước cần tránh ưu ái các dự án lớn hơn là các dự án nhỏ và thông qua các công cụ quản lý quy hoạch – thiết kế đô thị nhằm cho phép sự công bằng, đa dạng, phong phú và sinh động – những “nguyên tố” căn bản của đô thị Việt Nam tồn tại trong sự hài hòa.
Về khía cạnh thiết kế đô thị, PMH là một đồ án chuẩn mực mặc dù dường như vẫn còn thiếu tính địa phương để thực sự tạo ra hồn nơi chốn. Đồ án này xứng đáng được nghiên cứu và so sánh một cách cẩn trọng với phương pháp thiết kế đô thị đang thực hành và giảng dạy trong các trường kiến trúc tại Việt Nam – vốn dường như thiếu nền tảng lý luận và bị ảnh hưởng nặng về hình ảnh của Chủ nghĩa Hiện đại.
Về quy hoạch, NSG/PMH tạo đà cho một chính sách và xu hướng đầu tư xây dựng đô thị về phía Nam TP HCM. Trong bối cảnh ngập lụt và biến đổi khí hậu, chính sách này cần được cân nhắc cẩn trọng và tìm giáp giảm thiểu rủi ro tương lai. Cũng phải nhìn nhận rằng dựa hoàn toàn vào đặc tính của đất và thủy văn để xác định hướng phát triển đô thị là điều khó khăn đối với TP HCM bởi những khu vực tối ưu về môi trường có diện tích giới hạn và phân tán. Với một vị trí chiến lược như PMH cũng như Thủ Thiêm, việc không phát triển có lẽ là một đòi hỏi không thực tế. Vấn đề là mô hình phát triển như thế nào để hạn chế tối đa việc tác động tiêu cực vào hệ thống chứa và thoát nước tự nhiên cũng như đẩy gánh nặng hạ tầng của một khu đô thị cao cấp sang ngân sách nhà nước và túi tiền eo hẹp của người dân sinh sống trong những khu đô thị hiện hữu.
Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói :“trước sau gì cũng phải phát triển tiến về phía Nam nhưng ở mức độ nào là điều phải tính” (15). “Mức độ nào” là câu hỏi mà thế hệ các nhà quy hoạch TP HCM trong thế kỷ của biến đổi khí hậu sẽ phải trả lời.
Tài liệu tham khảo
- Phan Chánh Dưỡng (2010). Dấu ấn từ những đề xuất đột phá. Sài Gòn Giải Phóng số ngày 6/12/2010. Nguồn: http://sggp.org.vn/chinhtri/doimoidephattrien/2010/12/245113/
- Dư Phước Tân & Shigeru Fukushima (2011). A large-scale urban development through partnership with foreign affiliate in transitional economy, Vietnam – a case study on Saigon South Development in Ho Chi Minh City. The international seminar on Asian cities in the globalization, ngày 22/2/2011;
- Theo lời kể của một người tham gia thành lập khu chế xuất Tân Thuận;
- Griffiths, M (1995). The South Side. Asian architect and contractor, Issue 1, 1995, p.8-9. Hong Kong: Thompson Press Hong Kong;
- Kriken, J. Lund., Enquist, P. (2010). City building: nine planning principles for the twenty-first century. New York: Princeton Architectural Press.
- Progressive Architecture (2007). Saigon South Master Plan. Jan 1995; 76, 1, p.106;
- Waibel, M. (2004) The development of Saigon South New Urban Area – A Sign of an Increasing Internationalization and Polarization in Vietnamese society. Pacific News, 22 (July/August 2004), 10-13.
- Douglass, M. and Huang, L. (2007). Globalizing the city in Southeast Asia: Utopia on the urban edge – The case of Phu My Hung. International Journal of Asia – Pacific Studies, Vol.3, no.2;
- Leaf, M. (2008). Ranh giới mới của đô thị: đô thị hóa vùng ven và (tái) phân định ranh giới đô thị ở Đông Nam Á. Bài tham luận tại hội thảo quốc tế: Các xu hướng đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven ở Đông Nam Á, CEFURDS/IRD, TP HCM, 9-11/12/2008;
- Waibel, M. (2010). Thách thức đối với Phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam – ứng phó với hiện tượng Biến đổi khí hậu. Hội thảo Biến đổi khí hậu và phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam, Viện Geothe Hà Nội, 14-15/09/2010;
- Waibel, M. (2004). The development of Saigon South New Urban Area – A sign of an increasing internationalization and polarization in Vietnamese society. Pacific News Nr.22, July/August 2004;
- Công ty PMH (n.d.). Giới thiệu. Nguồn: http://www.phumyhung.com.vn/introduce.php?id=1
- Thành phố hướng ra biển Đông (2004). Trang web Ngân hàng Nhà ở Mekong. Nguồn: http://www.mhb.com.vn/vi/?p=news/news_detail.asp&nid=100;
- Lê Huy Bá (2006). Sử dụng tài nguyên đất tại TP HCM: “Phố Đông”, “Phố Nam” có phát triển bền vừng? Báo Tuổi Trẻ Cuối tuần ngày 22/04/2006, nguồn: http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/134060/“Pho-dong”-“Pho-nam-co-phat-trien-ben-vung.html;
- Nguyễn Đình & Hưng Long (2011). Một thời không xa. Sài Gòn Tiếp Thị. Nguồn: http://sgtt.vn/Kien-truc-doi-song/Chi-tiet/155168/Mot-thoi-khong-xa.html.
- Holmes & Narver Inc and AsiaPac-Fargo Inc (1974). Saigon Export Processing Zone Planning Study. USAID Contract AID 730-3602. Retrieved from http://pdf.usaid.gov/pdf_docs/PNABH442.pdf;
- Government Information Office (Taiwan) (07/21/1974). ROC will help build export processing zone in Vietnam. Retrieved from http://taiwanreview.nat.gov.tw/ct.asp?xItem=146577&CtNode=103;
- Nguyễn Đăng Sơn (nd). ĐÔ THỊ SÀI GÒN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH:HỘI NHẬP, HIỆN ĐẠI VÀ BẢN SẮC. Nguồn: http://www.tonghoixaydungvn.org/default.aspx?Tab=121&Tinso=3387;
- Nha thiết kế thị thôn (1974). Kế hoạch phát triển vật thể vùng thủ đô.
- Wurster, Bernardi and Emmons, Inc. (1972). Thu Thiem Peninsula Development Plan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.