Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

HỌ TRẦN-Nhà cổ họ Trần

LỜI DI CHÚC CỦA TIỀN NHÂN: VUA TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1309)
Các Người chớ quên!
Nghe lời Ta dạy
Chính nước lớn
Làm những điều bậy bạ
TRÁI ĐẠO LÀM NGƯỜI
Bất nghĩa bất nhân
Ỷ nước lớn
Tự cho mình cái quyền ăn nói!
Nói một đường làm một nẻo! Vô luân!
Chớ xem thường chuyện nhỏ ngoài biên ải.
Chuyện vụn vặt thành lớn chuyện: NGOẠI XÂM!

Họa Trung Hoa!
Tự lâu đời truyền kiếp!

Kiếm cớ này bày chuyện nọ! TÀ MA!
Không tôn trọng biên cương theo quy ước
Tranh chấp hoài! Không thôn tính được ta
Chúng gậm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo
Chớ xem thường chuyện vụn vặt Chí Nguy!

Gặm nhấm dần
Giang Sơn ta nhỏ lại
Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di
 
Các việc trên khiến Ta đây nghĩ tới
Canh cánh bên lòng “ĐẠI SỰ QUỐC GIA”!
Chúng kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VIỆT
Biến nước ta thành quận huyện Trung Hoa!

VẬY NÊN
CÁC NGƯỜI PHẢI NHỚ LỜI TA DẶN
KHÔNG ĐỂ MẤT
MỘT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI
HÃY ĐỀ PHÒNG
QUÂN ĐẠI HÁN TRUNG HOA!
 
LỜI NHẮN NHỦ
CŨNG LÀ LỜI DI CHÚC
CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU NƯỚC NAM TA.





VUA LÊ THÁNH TÔNG

(1473)
 

“Nếu các ngươi đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ

làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”.



Nhà cổ họ Trần

Căn nhà cổ ở đất Thủ xưa, cùng năm 1890 với nhà cổ Cai Cường

Nhà cổ họ Trần

Giữa thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương hiện có hai ngôi nhà cổ của dòng họ Trần với độ tuổi hơn 100 năm nhưng vẫn còn nguyên vẹn các giá trị về mặt văn hóa và nghệ thuật kiến trúc. Hai ngôi nhà ấy nay trở thành điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách khi đến thăm Bình Dương. 

Đó là ngôi nhà cổ của ông Trần Công Vàng và ông Trần Văn Hổ ở phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một. Cả hai ngôi nhà đã được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Cả hai ngôi nhà đều được xây dựng và chạm khắc rất tinh vi, thể hiện trình độ kĩ thuật và mĩ thuật của người xưa rất tinh tế.

Ngôi nhà cổ của ông Trần Công Vàng có kiến trúc theo kiểu nhà rường Huế, được xây cất từ năm 1889. Nhìn bề ngoài ngôi nhà có vẻ thấp, nhưng khi bước vào bên trong, hệ thống cột kèo, trần nhà cao làm cho không gian trở nên rộng rãi và thoáng mát. Từ chân cột đến mái nhà, bàn ghế, tủ, trang thờ, các khuôn cửa, hoành phi, liễn, câu đối, tranh tứ bình, thủ quyển… tất cả đều được chạm trổ, sơn thếp, cẩn xà cừ vô cùng công phu, khéo léo làm cho ngôi nhà mang vẻ đẹp vừa tráng lệ, vừa trang nghiêm. Ngôi nhà có một hành lang nội chạy vòng sau phần thờ tự. Hành lang này giúp việc liên thông giữa nhà khách và các buồng ngủ mà không phải đi ngang qua gian thờ nên đảm bảo được tính nghiêm trang cho gian thờ cúng của gia chủ.


Sân vườn ngôi nhà cổ của ông Trần Văn Hổ được bài trí theo phong cách truyền thống với cây cảnh và hòn non bộ.


Nội thất ngôi nhà cổ của ông Trần Văn Hổ được bài trí theo lối cổ với hoành phi, câu đối, thủ quyển.


Tượng phật bằng gỗ trong nhà cổ của ông Trần Công Vàng.


Trang thờ trong nhà cổ của ông Trần Công Vàng.


Trang thờ trong nhà cổ của ông Trần Công Vàng.


Tiền sảnh ngôi nhà cổ của ông Trần Công Vàng.


Nhà cổ của ông Trần Công Vàng được xây cất theo lối kiến trúc nhà rường Huế


Các consol của ngôi nhà được chạm trổ tinh xảo.


Dãy hành lang nội chạy vòng sau gian thờ tạo được sự riêng tư và trang nghiêm cho nơi thờ tự.


Căn nhà cổ của ông Trần Văn Hổ được xây dựng vào năm 1890 (hiện do Ban Quản lí di tích và danh thắng tỉnh Bình Dương trực tiếp quản lí) lại có lối kiến trúc theo dạng chữ “Đinh”. Trước sân nhà được bài trí vườn hoa, cây cảnh, hòn non bộ. Mái nhà lợp ngói âm dương hơi thấp và thoai thoải, mang đậm nét nhà truyền thống của người Việt. Nét độc đáo nổi bật của ngôi nhà có lẽ phải kể đến kĩ thuật chạm khắc rất tinh xảo trên bề mặt của các khuôn cửa. Bằng kĩ thuật chạm lộng điêu luyện, các nghệ nhân xưa đã tạo nên nhiều hình chạm cực kì sinh động quanh khuôn cửa với nhiều chủ đề khác nhau như: cuốn thư, lân, phượng, hoa lá, dây leo… Bên cạnh đó, lối bài trí nội thất ngôi nhà bằng hệ thống hoành phi, câu đối, tràng kỉ, tủ thờ được làm theo lối cổ càng làm tôn thêm vẻ đẹp quý phái và cổ kính vốn có của ngôi nhà.

Vật liệu chính để làm nên hai ngôi nhà này phần lớn là các loại gỗ quý như cẩm lai, giáng hương, gõ, sến, mật… Những loại gỗ này lâu ngày lên nước đen bóng kết hợp với sắc đỏ vàng của hoành phi, câu đối và màu ánh bạc của các chi tiết khảm trai làm cho không gian ngôi nhà càng thêm nổi bật, thể hiện rõ chất phong lưu, quý phái của các bậc gia chủ xưa. Ngoài ra, xét về vị trí, hai ngôi nhà cổ của dòng họ Trần đều nằm gần sông Sài Gòn, nên rất thuận tiện cho việc chuyên chở cây gỗ từ rừng về để xây cất. Tuy vậy, điều quan trọng để làm nên vẻ đẹp của nhà cổ họ Trần là người chủ đã biết tuân theo đặc điểm truyền thống trong phong cách kiến trúc cổ của người Việt Nam. Đó là lối kiến trúc hài hòa với địa hình, phong cảnh và thiên nhiên vùng nhiệt đới. Cả hai ngôi nhà đều quay mặt về hướng Nam, xung quanh có khung cảnh sông núi, thiên nhiên hữu tình.

Có thể nói, ngoài giá trị thẩm mĩ và kiến trúc, nhà cổ họ Trần còn phản ánh khá sâu sắc những yếu tố văn hóa, kinh tế, xã hội của tầng lớp thượng lưu vùng đất Thủ Dầu Một hồi thế kỉ XIX. Vì vậy, nó chính là một loại hình di sản độc đáo của vùng đất này.
http://vietnamarchitecture-nguyentienquang.blogspot.com/2014/03/nha-co-ho-tran.html

---------------------------------------------------

Tộc sử Họ Trần Công 
và việc di cấu Từ Đường 
từ Tiên Nộn lên Dương Xuân

 
                  Bên kia rặng thông xanh,
                 Núi Chữ mấy gò, công đức cù lao còn mãi đó.

                 Vượt trên giòng sóng biếc
                 Cồn Tiên một cõi, huân danh sự nghiệp vốn từ đây.

Lễ LẠC THÀNH Từ Đường năm 1944
(Di cấu từ Tiên Nộn lên Dương Xuân)
Gia-phổ của một nhà, Tộc-phổ của một họ, cũng như Quốc-sử của một nước. Một nước cần phải có sử, biên chép những việc hay, việc dở của một nước, một nhà cũng có gia-phổ, biên chép việc phải, việc trái của một nhà. Lớn nhỏ quan hệ tuy khác nhau, nhưng mục đích thời là một: để làm gương, giáo huấn đời sau. Sở dĩ làm sao mà thịnh vượng mà phồn vinh, lại sở dĩ làm sao mà suy vi, mà truỵ lạc, đó là những câu hỏi của những vị Minh-Quân, Lương-Tể, các bậc Chí-Sĩ, Năng-Thần, cần suy xét việc ký tải trong sử-sách, mà tự trả lời, để làm việc nước. Một kẻ tu-nhân, mỗi người một hướng dẫn, há lại không muốn biết công phu của Ông-Cha, sự nghiệp của Tổ-Tiên, để lo việc nhà sao?
 Vả lại gia-tộc là nền tảng của xã-hội, của quốc-gia, gia-tộc truỵ lạc, thời quốc-gia phải suy-vi, rời rạc, Gia-Tộc lại là cội rễ, là mày mặt của cá nhơn, một gia-tộc thịnh vượng thì mỗi phần tử của gia-tộc ấy, tức là tử tôn miêu duệ, đều được nương lấy cội rễ, vững vàng, mà được mở mang mày mặt.
 Xem thế thời việc chép sử của một gia-tộc thật là một việc cần. Cụ Tằng-Tổ chúng ta là Cụ Độn Chuối đã nhận thấy sự cần thiết ấy, nên Cụ đã sưu tập sử tích các tiền đại, rồi trong năm Tự-Đức thứ 22, năm Kỷ-Tị 1869, lược biên thành tập gia-phổ. Họ Trần ta nhờ thế mà có Gia-phổ, sử ký từ ấy trở đi. Con trưởng Cụ là Cụ Độn Chè Trần-Bình làm Thượng-Thơ triều Tự-Đức chép tinh lại rồi làm bài tựa.
 Nay trước giả viết tập lược biên này, trước hết là tóm lược sự tích họ nhà ta từ đời Cụ Sơ-Tổ cho đến khi có nhà thờ, đoạn này chỉ biên chép những điều khái yếu, để xem cho có mạch lạc dễ hiểu mà thôi.
 Đoạn sau từ khi có nhà thờ ở Vạn-Xuân, rồi lại không có, rồi sau lại có ở Tiên-Nộn, cho đến khi dời lên Dương-Xuân, công việc chi tiết hơi nhiều nên chi cần phải biên chép cho rõ, để đời sau biết đúng sự thật, lãnh hội tất cả duyên do, tự phán chỗ công, chỗ quá, ấy là ý nguyện của trước giả vậy.
Các áng Thờ bên trong Từ Đường năm 1944
 Họ ta nguyên ở Bắc-Kỳ, làng Tiên-Du, huyện Tiên-Du, tỉnh Bắc-Ninh. Sơ-Tổ, tức là đời thứ nhất, Cụ Công-Quý, các đời trước xa nữa không thể nhớ được, theo Đức Thái-Tổ Gia-Dũ Hoàng-Đế vào Phú-Xuân, rồi lập nghiệp, nhập tịch làng Tiên-Nộn. Lúc bấy giờ vào năm Mậu-Ngọ (1558).
 Ít lâu Cụ phải tùng quân chinh thú trong Bình-Định, Phú-Yên, sau Cụ trăm tuổi, Mộ Cụ và Cụ Bà nguyên-phối (cùng đi theo) đều mất tích, không ai biết ở đâu cả.
 May có con thứ ba của Cụ là Cụ Công-Thiều còn ở tại làng, giòng Hữu-vi còn nối lại đến ta bây giờ đều do từ Cụ. Mộ Cụ nay còn để tại Cồn mộ-địa làng, người trong làng thường gọi mộ ấy là Mộ Khai-Canh của họ Trần, nhưng sự thật chỉ là Nhị Đại-Tổ của ta mà thôi.
 Cụ mất ngày 18 tháng 8 nên từ khi các Cụ cận-đại đặt hai lễ xuân thu đã lựa ngày 18-8 làm ngày Thu-Tế là có ý để kỷ niệm ngày huý nhật của Cụ luôn. Còn ngày Xuân-Tế thì trước định vào ngày trung tuần tháng hai, nhưng qua năm 1905, tức là năm Cụ Thúc-Dự cúng nhà thờ ở Tiên-Nộn thời các Cụ lại cải qua ngày 27 tháng 2 là ngày kỵ Cụ Độn Chuối Công-Kính, cũng là một ý như trên, để cho con cháu lo lễ cho được lưỡng tiện.
 Con trai trưởng Cụ Công-Thiều là Công-Dĩnh. Lúc nhỏ học giỏi, hạnh kiểm tốt, thường đi dạy ngoài Quảng-Trị. Bà nguyên-phối là con chủ nhà Cụ ngồi dạy. Sau Cụ vào làm quan trong Thành Gia-Định, đến chức Thương-Trường Cai-Tải, khi mất quá 60, gia tư sung túc, nên linh cữu được đưa về kinh, có rước thầy địa-lý Trung-Hoa Diệp-Sùng cùng về theo xem đất, chôn tại làng Châu-Chữ, xứ Độn Trúc, sau vườn Thủ-Bộ Nguyễn-Sâm, mộ Cụ Bà , thường kêu theo Cố Độn-Chuối là Bà Tằng, cũng táng tại Châu-Chữ trong vườn Nguyễn Thị Điền. Cụ sinh được năm ông con trai, con trưởng là Cụ Công-Trực (tứ-đại-tổ) sanh trưởng ở làng, làm ăn khó nhọc, khi thọ chung con còn nhỏ dại, không có gia tư, mộ cất tại Mộ-địa làng.
 Em thứ năm Cụ Công-Trực là Cụ Công-Hạc mất sớm, còn ba ông em nữa là Công-Bạt, Công Chánh và Công-Hưng, trước theo thân sinh làm quan ở Nam, nên lưu ngụ tại tỉnh Định-Tường, phủ Định-Viễn, huyện Tân-An, tổng Tân-Minh, làng An-Hoà. Nhân vì trong năm Giáp-Ngọ, Bính-Thân (1774-1776), nhằm lúc binh cách loạn ly, nam bắc giao thông đoạn tuyệt, ba ông đều lập nghiệp luôn ở trong Nam. Đến năm Giáp-Tý 1804, triều Gia-Long, con ông Công-Chánh là Công-Trung và cháu là Công-Trứ ra Kinh, thuật chuyện nhà tỏ rõ mới hay ở Định-Tường họ ta còn có ba phòng nữa.
 Cụ Công-Trực có ba trai: trưởng và thứ ba đều mất sớm.
 Con thứ hai là Cụ Công-Thiện, sinh năm 1753, (Cụ Độn Gia, Ngũ-đại-tổ) sức vóc mạnh mẽ, lúc 37 tuổi bị Nhà Tây-Sơn bắt đi lính thú Bắc-Kỳ khi Cụ Tằng-tổ ta (Cụ Công-Kính) mới sinh được bảy hôm. Bảy năm sau Cụ mới được về, từ đó làm ăn lần hồi được hơi dư đủ. Đến năm Bính-dần (1806) làm nhà trên Vạn-Xuân rồi dời lên ở đó. Cụ ít học nhưng biết lấy lễ nghĩa dạy con. Cụ Công-Kính nhờ cái gia-giáo ấy mà dựng nên được một cơ nghiệp vẻ vang cho nhà ta về sau này vậy. Cụ Công-Thiện chỉ sanh có hai trai: trưởng là Công-Tại mất khi lên bảy, nên chỉ còn một mình Cụ Độn Chuối mà thôi.
 Cụ Độn-Chuối Công-Kính sinh năm 1790, thuở nhỏ chăm học, ưa nghiên cứu các khoa lý-học, số-học, y-lý, địa-lý. Cụ ra Quảng-Bình học nghề thuốc cùng ông Lương Bá-Ức ở làng Lệ-Sơn, lại kiêm học địa-lý cùng ông Trần-Huy-Thuần, mỗi lần đi học trọn năm mới về thăm nhà một chuyến. Lúc hai mươi tuổi bổ vào viện Thái-Y. Tánh Cụ rất ham sách vở, nào kinh sử tự tập, thi phú từ chương, tìm được là mua không kể mắt rẻ.
 Lúc bấy giờ có ông Nguyễn-Đức-Liêm ở làng Cự-Nẩm và ông Bạch-Đoạn-Cường ờ làng Phù-Việt, đều có tiếng tinh nghề châm cứu, Cụ tìm đến học được tất cả bí truyền, nên hai môn y-lý và điạ-lý Cụ có tiếng rất giỏi. Nhưng tánh tình ưa thích nhàn, không lấy việc phú quý làm vinh, tuổi mới 49 mà đã cáo lão về nhà, thường dẫn các ông con dạo xem sơn thuỷ, dò khe, chỉ núi, vui thích quên về. Cụ xét thấy mộ địa ở làng ẩm thấp, hẹp hòi, nên cố ý tìm kiếm cho được danh sơn, thắng địa, để đặt mộ hai Cụ thân sinh. Ngót bốn chục năm trời Cụ chọn được xứ Độn-Gia để làm sinh phần hai Cụ, và chọn Xứ Độn-Chuối làm sinh phần cho mình, cùng xứ Độn Chè và xứ Hạ-Thuỷ-Long nữa. Xứ Hạ-Thuỷ-Long này để ngôi mộ Bà dâu thứ hai là Bà Hiển-Tổ Phòng Nghĩa, cuộc đất này Cụ cho là tốt đẹp lắm. Cụ lại làm nhà thờ ở Vạn-Xuân, đặt tự-điền tại Tiên-Nộn, mua lạp điền giao làng Châu-Chữ lo lễ Thanh-Minh. Công đức Cụ hết sức to lớn.
 Lý-học huyền bí ta không thể nói được, Địa-lý lại còn khó biện chứng cho rõ ràng, nhưng từ khi Cụ Tằng-Tổ ta sắp đặt các ngôi mộ trên trở đi, thời con cháu mỗi ngày một thêm phồn thịnh, ấy có phải là nhờ long mạch kết phát chăng, hay là do vận hội tự nhiên, do cơ duyên tấn xảo, mà được như vậy ? Ta thường nghe địa-linh cảnh-thắng ảnh hưởng đã đành, nhưng nếu không có ân đức dạy vẽ phò trì của Cụ, và nếu con cháu không biết noi theo gia huấn, mà tu thân để tự lập thân, thì núi cứ núi ta cứ ta, địa-linh cảnh thắng kia âu cũng chỉ là của trời đất đấy thôi. Thế là lăng mộ ta từ đời thứ hai và thứ tư để tại đất làng, mỗi năm cứ ngày 03 tháng 12 là ngày lễ chạp. Đời thứ ba, năm và sáu trở xuống để tại Châu-Chữ, mỗi năm đến ngày 3 tháng 3 là Lễ Thanh-Minh. Gần đây lúc Cụ Thận-Chi Công-Thuận và Cụ Á-Hy Công-Nhã còn sức mạnh, anh em thủ-bộ Nguyễn Sâm, Nguyễn-Long là người lãnh ruộng chạp, xin hưởn lại mười ngày, kẻo lúa chưa kịp chín, các Cụ bèn dời lại ngày 13 tháng 3. Từ đó cứ theo ngày ấy.
 Thế là Họ Trần ta lấy Hương-Quán bây giờ là cồn Tiên-Nộn, nhưng đến khi tịch, lại quy thác trên gành Sông Châu. Cồn Tiên là nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng núi Chữ là nơi thâu cốt vùi xương. Từ 120 năm nay, giữ lăng, tảo mộ thay ta mà lo sắm, cúng cấp như lo việc công, làng Châu-Chữ đối với nhà ta là cả một mối cảm tình tha thiết nồng đậm không thua chi hương quán của ta, thiệt cũng đáng ghi nhớ cộng tình ấy lắm. Lúc Cụ Tằng-Tổ Công-Kính ta chí sĩ về nhà, lập nhà thờ, tu gia phổ, họ ta như cái cây đang đâm chồi nở hoa, phơi vẻ rườm rà tú mậu, khác hẳn đời xưa, thuở còn ở Tiên-Nộn, đôi phen linh lạc tiêu sơ.
 Cụ sinh năm ông con trai, cố ý lấy ngũ thường mà đặt tên cho năm phòng: NhơnNghĩaLễTríTín, để hằng nhắc nhở con cháu tới đạo làm quân-tử.
 Con trưởng Cụ là Cụ Định-Chi Trần-Bình, sinh năm 1817, xuất thân Cử-Nhân, lúc bấy giờ làm đến bậc Á-Khanh tại Triều, hai ông em: Cụ Thăng-Chi Trần-Tuyển, Cụ Thành-Chi Trần Giảng đều hai khoa Tú-Tài. Làng Tiên-Nộn từ trước đến nay chưa có khoa mục, thuở ấy ba Anh em nhà ta đã đỗ đạt kế nhau thiệt là đã được danh gía với làng và vẻ vang cho họ ta biết là bao nhiêu. Hai Cụ em cũng đã xuất sĩ cả. Hàng cháu nội ngoại cũng khá đông, cả con lẫn cháu đều kết lập vườn nhà ở Vạn-Xuân. Họ Trần ta lúc bấy giờ đã vào thời kỳ toàn thịnh. Công phu của Cụ đã có kết quả tốt đẹp rồi, thời Cụ mất. Cụ mất mà vẫn còn dư vinh: đám Cụ có hai trăm lính Triều tống táng, sông Hương-giang sáu dòng sóng gợn, gò Châu-Chữ rợp bóng cờ bay.

Cụ Định-Chi còn nhờ phúc ấm, làm một bậc năng-thần thạc-vọng, trong triều Tụ-Đức. Cụ từng ngồi Tổng-đốc ba tỉnh, Thượng-Thơ năm Bộ, đã vang danh giá một thời. Nhưng Cụ có tánh cương nghị, nên hoạn đồ của Cụ nhiều độ phù trầm, hãy xem trong tiểu sử thì rõ, đây chỉ lược thuật mà thôi.
 Cụ Thăng-Chi (1822), tính tình khiêm tốn, an bần tri mạng, Cụ làm đến Bát Phẩm Bộ Hình, vừa thọ chung.
 Cụ Thành-Chi (1824), có tánh độc lập, bường sanh cũng nghèo, khi mất đang ngồi Khánh-Hoà Giáo-Thọ. Còn hai Cụ Công-Hoành phòng Trí và Cụ Công-Hanh phòng Tín, đều mất sớm, con cháu cũng không bền vững, nay chẳng còn ai.
 Cụ Định-Chi mất rồi, kinh thành gặp cơn binh hoả, con cháu lúc bấy giờ sinh nghiệp cũng hơi kém sút, khó khăn, đến năm 1884, nhà thờ Họ ở Vạn-Xuân phải bán, việc kỵ giỗ ba phòng phải luân phiên lo sắm. Từ đó con cháu ở Vạn-Xuân cũng lần lượt rút đi hầu hết, kẻ ra Bác, người tùng cống, kẻ về làng chánh quán.
 Hơn hai mươi năm sau (1905), Cụ Thúc-Dự Trần-Thuận, con thứ Cụ Định-Chi, đang ngồi tri-huyện Hưng-Nhơn (Bắc-Kỳ) thấy sự thờ tự tổ tiên như thế không được chỉnh đốn, Cụ bàn cùng các ông anh định cúng một sở nhà thờ Họ thế cái nhà thờ hồi xưa, Cụ nhắn ông Công-Hân (trưởng tộc đời thứ chín) ra nơi lỵ sở, trao cho một số tiền là 1100 đồng bạc, đem về trình Họ, rồi mua một cái nhà làm Từ-Đường.
 Hồi đó Ông Công-Hân đang ở tại làng, theo nghề trưa ruộng, chưa có con, tuổi đã ngoài 40, chí tiến thủ trong danh trường đã khói lạnh, muốn yêm lưu nơi hương quán cho an thường, nên đã nguyện xin làm nhà thờ tại làng cho tiện việc (xem thơ nơi Ông Mặc-Khanh Trần Trọng Tiềm giữ). Cụ Thúc-Dự, Cụ Thận-Chi, Cụ Nột-Trai, Cụ Á-Hy đều biểu đồng ý, y như sở nguyện. Số tiền ấy mua được cái nhà ba căn hai chái, một cái vườn hơn bốn sào, để đặt nhà Thờ, và một mẫu bốn sào ruộng để phụ thêm với hai mẫu bảy sào tự điền Họ có sẵn từ trước.
 Ngoài sự giúp đở anh em, đùm bọc con cháu, Cụ Thúc-Dự đã làm một việc đại nghĩa đối với Tổ-Tiên và với hậu đại. Nên trong bài điếu văn Cụ Á-Hy khóc Cụ Thúc-Dự có câu: "Tưởng nỗi làm nhà thờ, đặt ruộng tế, một tay lo cả họ được nhờ, v.v...
       Áng giữa của Từ Đường - Phòng Nhơn 
Thế là từ ấy, Họ ta lại có cái nhà thờ như trước.
 Hai ông bà Công-Hân đã lãnh chức thủ tự, ba nhánh khỏi phải thay phiên mà coi việc như ngày xưa. ông Công-Hân lo lắng ổn thoả cả.
 Song cái nhà thờ ở nơi ẩm thấp, thiếu công trông nom, đến năm 1928, mối mọt phá hư, đã phải một lần đại tu bổ. Lúc ấy Cụ Thận-Chi và Cụ Á-Hy đã quá vãng. Con cháu trong Họ gom góp kẻ tranh tre, người tiền bạc, tổng cộng thành được một số tiền là 525 đồng bạc, kể lúc ấy số tiền bấy nhiêu cũng khá lớn.
 Công việc tu bổ xong thì ông Công-Hân mất. Con trưởng ông là Công-Đàm tùng sự tỉnh xa, việc thờ tự để lại Bà Công-Hân cùng con thứ là Trọng-Bào coi ngó.
 Ruộng tự điền bốn mẫu một sào, cho thuê mỗi năm không được là bao nhiêu mà việc kỵ lạp thì nhiều, và trong thời gian ấy nhà thờ lại muốn mục nát một lần thứ hai.
 Ông Mặc-Khanh Trần-Trọng-Tiềm xem thấy tình hình như thế, đã lập ý muốn chỉnh đốn sửa sang. Năm 1938, Ông đang tùng sự tại Saigon từng đề nghị vấn-đề cải cách, ông lập chương trình đấu ruộng tế cho lợi giá thuê, thảo điều lệ về việc cúng kỵ v.v. ông lại xin hoán bổ về Huế để cho cận tiện mà chăm lo. Kể nỗi nhiệt tình với việc phụng-sự tổ-tiên, thời ông Mặc-Khanh đã đóng vai tiên phong có công rất lớn. Nhưng tiếc vì anh em đồng hàng, lúc bấy giờ, trong mấy chi phái như ông Công-Điện cùng trước giả đều không có mặt tại kinh-đô để giúp đỡ, ông Mặc-Khanh làm một mình chưa xong thì mắc bịnh cáo hưu ra Thanh-Hoá năm 1941.
 Kế đó ông Công-Điện tậu nhà trên đường Nam-Giao, kề nhà ông Công-Dực, rồi lại mời ông Bá-Cung ở làng (bào đệ của ông Công-Hân) lên ở gần bên.
 Nguyên trước giả mua cái vườn Chiêu-Dương-viên gần sở máy nước, ở đồi Quảng-Tế, từ năm 1936, thỉnh thoảng ông Công-Điện về Huế thăm, thường tỏ ý muốn có một chỗ đất trong lối xóm để ở cho gần nhau.
 Ngày 16 tháng 3 năm Quý-Mùi (tháng năm 1943), ông Công-Điện về coi làm nhà, nhân gặp ngày kỵ Cụ Hiển-Tổ Phòng Nghĩa, anh em cả ba phòng đều có mặt ở Ẩm-Quang thất (Chiêu-Dương viên), ông Bá-Cung và ông Công-Điện đem việc họ ra luận bàn, rồi hẹn gặp nhau lần khác tại nhà ông Bá-Cung để bàn giải cho kỹ.
 Thế cho nên đại biểu cả ba phòng và các chi tại Huế, đã họp luôn hai hôm 21 và 23 tháng 5 năm 1943.
 Đại khái các vấn đề đem ra thảo luận lược kể như sau:
 Nhà thờ bị mối mọt hư nát, nên phải một phen đại tu bổ.
Bà Công-Hân tuổi gìa sức yếu, hai con Công-Đàm và Trọng-Bào mắc công vụ, một người tòng sự phương xa (Nha-Trang), một người có biệt nghiệp, việc Họ, việc thờ khó bề chăm sóc, coi ngó và giữ gìn, xin Họ xét lựa người khác trông nom.
 Mỗi khi có việc khánh tiết ở nhà thờ, bà con con cháu không mấy người hội họp, thiếu vẻ ấm cúng sum vầy, v.v...
 Ngoài các vấn đề đồng nhân trình bày trên đây, trước giả đề nghị thêm một việc quan hệ đến cách thờ tự xưa nay xét chưa được hợp với trình độ bây giờ và tâm lý toàn thể con cháu trong họ. Vấn đề này ông Mặc-Khanh đã đề nghị lần trước, mà vì bất thành thì bị bệnh rồi về hưu ra Thanh.
 Thiết nghĩ đã gọi là nhà thờ họ của công cọng cả họ thời tất phải làm thế nào cho tính cách chung cùng ấy được nguyên vẹn đời đời, bất kỳ thế hệ nào, mỗi người con cháu đối với nhà Thờ đều có cái cảm giác thân cận, khắn khít như nhau, mới có thể sum vầy, hoà hợp, mới chen vai gánh vác việc chung. Đã hay thế sự biến thiên, vạn vật có sanh thời có diệt, nhưng về nhà thờ Họ, nếu anh em con cháu có chí đồng tâm cộng tể, thời ta có thể chắc rằng: bao giờ Trần-Tộc còn nhà thờ, thời tộc nhân họ Trần vẫn còn khắn khít với nhau. Muốn trưởng dưỡng cái tinh thần thân ái, của con cháu của cả ba phòng, giữ gìn mối liên lạc, trong vòng bà con cho được bền chặt, trừ khử cái phân biệt thân sơ đối với nhà thờ, thì trước hết phải xướng lên cái tôn chỉ cộng đồng của nhà thờ họ, phải thờ hết cả những tộc nhân họ Trần quá cố từ xưa của cả ba phòng, rồi sau các vấn đề phụ thuộc khác không khó chi giải quyết.
 Nếu không sửa đổi theo tôn chỉ ấy thời con cháu chúng ta, mỗi phòng, lo việc phụng sự mỗi phòng là việc thiết cận hơn, còn rảnh đâu mà lo việc Họ, trách nào việc chẳng thiếu bề ấm cúng, thiếu vẻ sum vầy v.v...
 Cử tọa Hội-Đồng đều biểu đồng ý theo việc sửa đổi cách thờ tự như đề nghị trên đây.
 Còn các vấn đề kia, sau khi đã cân nhắc lợi hại, tiện nghi, Hội-Đồng quyết nghị:
 Đem nhà thờ lên Nam-Giao, trên miếng đất của trước giả nguyện cúng tại đồi Quảng-Tế, thuộc địa phận làng Dương-Xuân-Thượng.
 Thông cáo cho tất cả anh em con cháu tại Kinh và trong Nam, ngoài Bắc, tường tất cả các việc cải cách sắp làm, và khuyến lệ tấm lòng tán trợ. Nguyện trù việc di-cấu nhà thờ và thay thế những đồ hư nát phỏng hết 3000 đồng bạc, mà tiền đất ruộng của Họ chỉ được phân nửa thôi. Xem hai tờ biên bản hai kỳ Hội-Đồng thì rõ.
 Trong khi chờ đợi tin tức hưởng ứng của bà con, thời ông Công-Điện phải trở lên Dalat.

Ông Mặc-Khanh ở Thanh-Hoá được thông cáo của Họ và thơ riêng của trước giả, vội vàng trả lời hết sức tâm thành.
 Công-Đàm cũng gởi thơ riêng về cho ông Bá-Cung tỏ lòng lạc ứng. (Xem thơ ông Bá-Cung gởi cho ông Công-Điện ngày 21/08/1943).
 Nhưng ngày ... tháng 4, ông Công-Thành ở Hải-Phòng và ông Công-Mậu ở Hanoi, lại có thư về kháng nghị kịch liệt về việc dời nhà thờ lên xóm Nam-Giao. Ông Bá-Cung được thơ ấy lấy làm băng khoăng, khó xử, đem bàn với ông Công-Dực cùng trước-giả và tỏ ý muốn đình bãi việc đã xét định trong kỳ Hội-Đồng.
 Lý lẽ trong cái thư ấy quá ư khiếm khuyết , xét ra có lẽ vì tác giả đã đi vắng lâu ngày, chưa rõ tình đầu đuôi, chưa hiểu nguyên do việc Họ trong này ra sao cả. Vì nghe lầm nên nghĩ hoá sai.
 Lại xét sở dĩ chúng ta muốn chỉnh đốn việc nhà thờ, mục đích là để bồi dưỡng mối tình thân ái giữa anh em con cháu, thế thì ta nên gây lấy cái không khí hoà hợp là hơn, không nên cưỡng bách.
 Nghĩ như vậy, trước giả trả lời cho ông Bá-Cung, về đoạn kết có câu: có lẽ anh Hậu Công Thành chưa rõ duyên cớ vì sao mà phải định dời nhà thờ. Anh Hậu kháng nghị việc ấy nhưng rồi phải xử trí ra sao, anh không đề cập. Xin anh lấy tư cách trưởng tộc và trưởng cả phòng Nhơn hỏi lại ý kiến của các chi cho xác rồi định đoán, kẻo mất vẻ hoà đồng, thành việc chúng ta làm hóa ra hoài công vô ích, còn ý kiến của tôi, tôi đã tỏ bày trong kỳ Hội-Đồng không thể thay đổi.
 Trước giả lại viết thư cho ông Công-Điện ở Dalat, và ông Công-Tiềm ở Thanh, đại ý cũng như trên. Hai ông phúc thư đều lấy làm bất mãn về ý của hai ông Công Thành và Công Mậu.
 Từ ấy, thư đi, từ lại, cái ra Bắc, cái vào Nam, ngót mấy tháng tập hồ sơ việc họ mỗi ngày mỗi thêm giấy má mà công việc chính thì không tiến bộ một tấc nào.
 Tuy vậy mà bà con trong họ xa gần nghe việc di cấu nhà thờ công trình to lớn, ai cũng sẵn lòng chực ký sổ quyên, số tiền mỗi người nguyện cúng, tính sơ qua nghe đã gấp số tiền Hội-Đồng dự đoán. Có kẻ dự cúng cả bạc ngàn. Điều đó đã chứng tỏ rằng: tấm lòng con cháu đối với việc thờ phụng ông bà hết sức là nhiệt thành, và nhất là việc di-cấu từ-đường lên Nam-Giao, không cần phải cổ động, mà đã được đa số hoàn toàn hoan nghênh.
 Ngày ... tháng 11, lại tiếp được thư của ông Công-Thành đại ý nói vì ông nghe lầm và chưa kịp nghiệm kỹ, nên mới có lời ngăn trở, việc di cấu nhà thờ là việc phải, nay đã hiểu rõ nguyên do, xin lạc tùng như các lẽ Bản tộc đã sắp đặt. Ông Công-Mậu cũng có thư tỏ đại ý như lời ông Công-Thành.
 Ngày 14 tháng 9, ông Mặc-Khanh cũng vội vàng tin cho hay rằng ông đã giảng giải rõ ràng công việc Họ cho bà con con cháu bên chi Cụ Thúc-Dự, ai nấy đều hoan hỉ đồng ý không có điều gì dị nghị cả. Xin Họ lo tiến hành công việc đi.
 Vừa kế đó trước giả phụng chỉ đi công cán Dalat, được gặp ông Công-Điện trò chuyện một hôm, khi cáo biệt đinh ninh giao hẹn, ông thế nào cũng thu xếp công việc trên ấy để chóng về Kinh lo việc công tác nhà thờ. Cuối tháng chạp ông đã tạm từ Dalat về nhà mang theo trong hy-vọng những hình ảnh xinh đẹp của cái Từ-Đường tương lai.
 Tết xong ông hăng hái làm việc ngay: cắm giới hạn miếng đất tại đồi Quảng-Tế, mời thầy Địa chọn phương hướng lành, rồi xây lại chặt cây bới gốc, bồi chỗ thấp bớt chỗ cao, rồi đắp nền xây móng. Sau một tháng, miếng đất hoan vu tùng toả kia, đã nghiễm nhiên biến thành một cảnh trí khả quan, khả ái.
 Nhưng với số tiền 3000$ chúng ta dự trù năm ngoái dầu ông Điện có hoạt bát cách nào, tiện tặn thế nào, gói ghém thế nào cũng không làm sao đủ được, vì từ tháng ... năm 1943 đến nay, tuy chưa đầy một năm mà vật giá và nhân công đều lên cao gấp hai cả.
 Mặc dầu quyển sổ cúng của bà con con cháu đã quá số 3000$, tiền ruộng họ, và tiền khẩu phần cho thuê được hơn 1000$ nữa, nhưng tính lại vẫn còn thiếu nhiều. ông Công-Điện bàn với trước giả thế nào cũng phải chiêu tập Hội-Đồng nghị quyết việc bán sở vườn 4 sào của Cụ Thúc-Dự cúng ngày xưa để thêm vào cho đủ. (Xem sổ chi thu các khoản công tác, và xem danh sách các người lạc cúng bao nhiêu, biên chép minh bạch và treo tại nhà thờ Họ).
 Ngày ... tháng hai, lại họp Hội-Đồng tại Chiêu-Dương Viên, hiện diện có ông Bá-Cung, Công-Điện, trước giả, xá đệ là Thanh-Mại và Thanh-Địch, ông Công Dực, Công Bào và Công Mai.
 Sau khi ông Công-Điện lược trình số mục đã làm, phải tốn hết bao nhiêu, thời Hội Đồng xét thấy còn phải cần một số bạc bảy tám trăm đồng nữa mới đủ việc.
 Trước giả nhắc Hội-Đồng rằng sự thiếu đó bấy lâu nay anh em đều biết cả, và cũng đã nhiều phen nghĩ đến việc bán cái vườn dưới làng đi, sở dỉ chưa làm là vì chưa có ý kiến của bà con đông đủ, nay kỳ này nhóm, mục đích là để quyết định điều này thôi. Vã lại cái vườn ấy nếu dời nhà Thờ đi rồi thời là để không, lâu ngày chi khỏi hao hư cây cối.
 Cử toạ đều ý hợp, bán cho người ngoài sợ mang tiếng, nên bán cho con cháu trong họ khỏi mất dấu tích của Ông Bà v.v...
 Công-Bào nguyện mua cái vườn ấy với giá 500$, để giúp cho họ lo việc hương hoả. Hội-Đồng cũng nghĩ nên bán cho Công-Bào là cháu của nhánh trưởng.
 Nhưng ông Bá-Cung lại muốn Họ phải viết thư hỏi ý kiến ông Mặc-Khanh ngoài Thanh và lấy giấy hợp đồng bên chi Cụ Thúc-Dự cho đủ.
 Công-Bào lại trình thêm rằng nếu nhà Thờ đem lên Nam-Giao, thì Bà Công-Hân vì tuổi già và đơn chiếc, không thể theo lên được, còn Công-Đàm và Công-Bào, người mắc công vụ, người có biệt nghiêp cũng không thể coi việc hương khói tại nhà Thờ, và nhờ Họ liệu cách xử trí.
 Ngày 6 và 20 tháng Hai, cùng ngày 25 và 27 tháng Ba, 1944, ông Mặc-Khanh gửi về bốn lá thư thay mặt cho các chi ngoài Thanh và ngoài Bắc uỷ quyền cho Họ tiện nghi làm việc, và bán cái vườn hương-hoả ở làng để lo việc hương hoả cho được sáng rạng hơn.
 Trong mấy cái thư ấy, ông lại cố ý giải nghĩa cho rõ cho những người chưa hiểu về các lý do vì sao mà nhà Thờ sơ lập tại Vạn-Xuân, vì sao mà trung gian để tại Tiên-Nộn, và vì sao phải dời lên Dương-Xuân, nghị luận rất là xứng đáng, minh tích, phân đoán rất cương quyết, nghiêm nghị (Xem các bức thư trong hồ-sơ di cấu Từ-Đường).
 Công việc sửa đất đắp nền đã xong, chúng ta ấn định ngày 12 tháng 2 triệt hạ nhà thờ dưới làng và ngày 20 tháng 2 thượng lương trên đồi Quảng-Tế.
 Ngày 10 ông Công-Điện cùng trước giả mời ông Bá-Cung, Công Dực cùng xá đệ Thanh-Mại, Thanh-Địch và con là Kế-Tạo về làng yết từ đường lần cuối cùng, để cáo với tổ tiên xin phép tạm rước lư nhang từ khi triệt hạ đến khi lạc-thành an-vị.
 Trước-giả thay mặt anh em mời và khuyên Bà Công-Hân nên dọn lên Dương-Xuân khi nhà thờ làm xong, trước được trọn tiếng với Họ với làng, sau nữa Họ khỏi phải khó lòng lựa chọn người khác. Bà Công-Hân khẩn khoảng từ chối y như lời Công-Bào đã trình bày trong kỳ hội-đồng hôm kia. Cách ít hôm sau, vừa gặp ngày kỵ Cụ Tằng-Tổ (Cụ Độn-Chuối), anh em định tạm thiết bàn thờ tại nhà ông Bá-Cung và sắm sanh lễ tại đó.
Tối hôm ấy bà con con cháu hội họp đông đủ, cúng rồi, ăn uống xong, nhân bàn đến việc lựa người thủ tự để coi ngó nhà thờ mới và lo việc kỵ chạp cả năm, ông Công-Dực, trưởng Phòng Lễ được tất cả bà con trong Họ thuận cử sung vào chức việc ấy. Có lập biên bản để lưu chiếu.
 Việc công tác nhà thờ một mình ông Công-Điện chăm nom coi ngó, mà tiến hành rất mau, và kiểu kiến trúc lại được ông gia tâm chế biến để có vẻ trang hoàng và thêm phần chắc chắn. Về việc tài chánh và hạng liệu, ông lại càng mẫn tiệp, thiếu đâu bồi đó, không có của công thời lấy của nhà. Chỉ trong một tháng kể từ ngày thượng lương, cái Trần-Tộc Từ-Đường đã trang nghiêm đứng vững trên đồi cao, khiến khách qua đường phải thầm thì ngó vọi.
 Ôi ! Có đồng tâm mới hiệp lực, Có hiệp lực mới thành công. Đồng tâm hiệp lực khi nào là thành công khi đó. Sung sướng thay cho những người đã đồng tâm hiệp lực làm nên công việc này mà ta có thể gọi là một kiệt tác về tinh thần vậy.
 Nhà Từ-Đường đã cải cấu được kiên cố rồi, việc phụng sự, việc quản lý tộc vụ, việc giao tế trong Họ, việc giáo huấn con em cũng cần phải chỉnh đốn cho có phương pháp, có quy tắc, để ngày sau con cháu nối theo.
 Từ khi khởi xướng vấn đề sửa sang việc Họ, trước giả đã dự thảo một bản điều-lệ gọi là Hiệp-Định Họ Trần, trừ việc thờ cúng ngoại, đại ý còn là để bảo tồn những phong hoá tốt đẹp ngày xưa, lẫn tuân theo những đạo-đức luân-lý tổ tiên thuỳ huấn, để mong chen vai chung sức mà phò trì hổ trợ lẫn nhau trên con đường đời nhiêu khê cao thấp.
 Thế gian thường ngày lập hội, hợp quần, hội tương-tế, hội ái-hữu, hội liên-đoàn v.v..., muốn kết thân những người đông tây nam bắc lại, nay tạo hoá đã dành cho ta một mối liên lạc thiên nhiên: đồng phái hệ, đồng huyết thống, đồng chung vinh nhục với nhau, thời chúng ta còn phải đi kiếm tìm thân ái đâu xa nữa.
 Nhưng đã hợp quần, tất phải có điều lệ, tất phải có trừng giới, mới có trật tự, mới được trị an, nhưng nếu chỉ lấy cảm tình mà sửa trị chắc là chưa đủ.
 Thánh huấn, hiền phong mỗi ngày mỗi xao lãng, đạo quân-tử, nghĩa trượng-phu thường vì những mối vật dục, thuyết tự do mà sa sút suy vi, vấn đề dạy dỗ con cháu trong một gia đình nhỏ còn làm cho phụ huynh lao tâm vô lượng, huống một gia tộc như gia tộc nhà ta, muốn cho hàng thiếu niên biết tam cang ngũ thường, biết giữ gìn danh giáo để cho thành một gia tộc có thuần phong mỹ tục, thiệt dẫu đáng mấy cũng chẳng nài. Trong khi chúng ta lo việc Họ, vấn đề này cũng là một vấn đề quan hệ, cần phải đặc biệt lưu tâm mà hình ảnh cái Trần-Gia-Trang như trong ý tưởng của trước giả ngày sau thiệt hiện ra có được tốt đẹp hoàn toàn cũng do nơi điều kiện này vậy.
 Bản hiệp-định thảo xong đã cùng anh em hội duyệt, phân môn loại điều khoản tổng cộng thành 36 điều.
 Tối hôm 16 tháng 3, 1944, giáp một năm từ ngày hội năm ngoái bàn về việc nhà Thờ, nhơn có bà con đông đủ tại Ẩm-Quang-Thất, ông Công-Điện yêu cầu ấn định chương trình lễ lạc-thành ngày 15, 16, 17 tháng 4 âm lịch, giữa tuần trăng, cho long trọng, cho huy hoàng, cho xứng công phu những người đã cùng tận tuỵ theo việc Họ, bà con đều hoan hỷ tán thành, chị em bên phái phụ nữ mỗi người đều chia lãnh một phần việc. Còn như việc trần thiết, bài trí, mua sắm sinh phẩm, đặt lễ nghi, thiệp mời bà con xa gần, đều một tay ông Công-Điện chủ trương.
 Nhờ cái nhiệt tâm của một phần đông anh em chị em và con cháu, lại nhờ ông Công-Điện đem hết lòng thành kính cẩn hậu, khích lệ thêm, nên lễ lạc thành ba ngày được nghiêm trang chỉnh đốn, rực rỡ vẻ vang, thực từ đời Vạn-Xuân chi hậu chưa từng thấy. 
 Phỏng hai trăm bà con nội ngoại, trừ những người ở xa không về được, vì gặp lúc đường xá giao thông nhiều điều trở ngại, và mấy trăm tân khách cùng viên chức Tiên-Nộn, Châu-Chữ, Dương-Xuân, Bình-An, và lân bang, ai ai cũng đều biểu lộ một nét hoàn toàn hoan hỷ.
 Trong bà con có kẻ trước không tán thành việc di cấu từ đường và việc cải cách thờ tự, nay trông thấy vẻ tôn nghiêm của nhà Thờ, vẻ trang hoàng khi tế lễ, vẻ vinh diệu phản chiếu trên tộc nhơn, cũng đều một niềm hoan hỷ, có kẻ cảm động vui mừng đến nỗi tuôn trào nước mắt vắn dài.
 Xem bài tường thuật của ông Thanh-Mại sau đây *, và năm bức ảnh chụp vị trí nhà thờ, ba án thờ, và các bà con đến dự lễ.
Toàn thể bà con Nội-Ngoại về dự lễ LẠC THÀNH TRẦN TỘC TỪ ĐƯỜNG  năm 1944
 Thế là việc từ-đường được cải cấu, việc thờ phụng được canh tân, việc quy định tộc vụ đều đã được sắp đặt chỉnh đốn, một lần. Những việc quan hệ ấy đã làm cho một vài anh em ta phải hy sinh biết bao tâm lực biết bao phiền phí mới được thành công. Lại nhờ đa số bà con con cháu cũng sẵn lòng hiếu mục, thấy rõ sự ích lợi chung, hết sức tán thành bằng công, bằng của hoặc bằng thế lực tinh thần mới khắc thắng được tất cả những điều trở ngại.
 Thật là một việc đáng kỷ niệm muôn đời.
 Tổ tiên còn linh có chứng giám cho, ắt cũng vui lòng nơi chốn u minh phiếu diếu. Nay ta chỉ nguyện con cháu muôn đời về sau hãy nhớ, hãy tạc dạ ghi xương rằng: giòng Hữu-vi chúng ta là một giòng gia giáo, một giòng thanh thú. Phận sự con cháu cố gắng lập thân, dương danh để vinh hiển cho mình, cho cha mẹ tổ tiên, cho họ hàng quyến thuộc, nếu chẳng may lực bất tòng tâm, thì cũng lạc thiên tri mạng, noi giữ gia phong, đừng làm dơ bẩn đến tên tuổi ông cha, ấy là trọn hiếu, ấy là tròn bổn phận của một xuất đinh của họ Trần ta vậy.
 Ta không dám nói: " Hãy giết mình đi, để cho tiếng quân tử được nguyên vẹn (Quân-tử năng sát thân dĩ thành nhân), nhưng ta nhắn với đời sau hãy đừng quên câu nghiêm huấn của Ông Quản-Tử: " Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ là bốn triên của một nước, bốn triên mục nát, nước phải diệt vong " (Lễ nghĩa liêm sĩ quốc chi tứ duy, tứ duy bất xương, quốc nãi diệt vong). Nước còn như vậy huống nữa là nhà.


Cháu đời thứ chín (Phòng Nghĩa)
  TRẦN THANH ĐẠT
 GIÁO-DỤC-BỘ THƯỢNG-THƯ
CƠ-MẬT-VIỆN ĐẠI-THẦN

Ngày 15 tháng Tư năm Giáp-Thân
Hoàng-hiệu Bảo-Đại thứ 19
tức ngày 07 tháng 5 năm 1944
120 năm sau khi Cụ Tằng-Tổ ta lập nhà thờ tại Vạn-Xuân


---------------------------------------------------------------------------------------------
* Rất tiếc không sao lục được bài tường thuật của Cụ Trần Thanh Mại. (Trần Thị Khanh-Tương)

-----¯¯¯-----


Vài nét chính về tiểu sử 
 Cụ TRẦN THANH ĐẠT  

Cụ Trần Thanh Đạt đời thứ IX phòng Nghĩa

 -   Thượng Thư Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sinh năm 1891 tại Thừa Thiên.
 -   Đỗ bằng Thành Chung, bổ nhiệm làm Thư ký tại Tòa Khâm Sứ Huế, từ năm 1908 cho đến 1919 
 -   Thi đỗ vào trường Luật và Hành Chánh năm 1919. Tốt nghiệp trường này năm 1922 Được thăng chức Thư ký thượng hạng cùng năm.
 -  Thi đỗ vào trường Uyên Bác Đại Học (do chính phủ Nam triều tổ chức) và thi đỗ hạng nhất trường này năm 1925. Chuyển qua làm việc cho chính phủ Nam Triều và giữ chức vụ Tạm Phái ở Bộ Nội Vụ.
 -   Sau đó liên tiếp giữ các chức vụ Tri Phủ Quảng Ninh (Quảng Bình),Tri Phủ Thăng Bình (Quảng Nam).
 -  Được bổ nhiệm Viên Ngoại ở Viện Cơ Mật  từ năm 1929 đến 1930, Quản Đạo ở Đồng Nai Thượng (Đà Lạt) năm 1931, Án Sát Quảng Nam năm 1932.
  -   Bổ nhiệm chức Lãnh Thượng Tá ở Bộ Quốc Gia Giáo Dục, rồi thăng hàm Tham Tri ở bộ này năm 1937.
  -  Tuần Vũ Bình Thuận từ tháng 2 năm 1940 cho đến tháng 5 năm 1942.
  -  Thượng Thư Bộ Quốc Gia Giáo Dục từ ngày 12 tháng 5, năm 1942.
  -  Nguyễn Triều Trụ Quốc Cơ Mật Đại Thần.

(Trích dịch từ quyển "Souverains et Notabilités d’Indochine", Hanoi, I.D.E.O., năm 1943.)
http://trantoctuduong.blogspot.com/p/blog-page_13.htmlhttp://trantoctuduong.blogspot.com/p/blog-page_13.html



 Đi tìm nguyên quán Quẹo Giằng Xay, An Cựu, Huế, gặp được bài viết này. Với niềm vui bất chợt, Tôi, con cháu họ Trần, cám ơn tác giả và mạn phép lưu lại Blog này!

------------------------------------

. Phanxipăng 
http://chimviet.free.fr/ngonngu/phanxipang/phanxipnn_GiangXay.htm 
Kỳ thú
Giằng Xay
Giằng Xay là địa danh liên quan nhiều tỉnh thành: 
Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, 
Khánh Hoà và TP.HCM.
Lần nọ, về thăm cố đô Huế, tôi đưa một số bạn bè (cư trú từ nhiều địa phương) viếng đàn Nam Giao, thăm chùa Ba Đồn, dạo trước núi Bân và núi Ngự Bình, rồi xuôi ra ngã ba đường Hùng Vương - An Dương Vương - Ngự Bình. Khi biết giao lộ ấy mang tên ngoẹo Giằng Xay, có cô Bắc Kỳ nho nhỏ (thơ Nguyễn Tất Nhiên) duyên dáng hỏi: - Giằng Xay nghĩa là gì ạ?
Để trả lời thắc mắc kia, trước tiên nên tra từ điển. Các từ điển cắt nghĩa giằng xay thế nào? Có 2 cách. Tự điển Việt Nam do Ban Tu thư Khai Trí biên soạn (Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1971) định nghĩa: "Tay quay ở máy xay lúa". Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Trung tâm Từ điển ngôn ngữ xuất bản, Hà Nội, 1992) ghi: "Bộ phận của cối xay thóc thủ công, gồm một cán tra vào tay cối, dùng để làm quay thớt trên". Đó là cách thứ nhất. Cách thứ nhì xuất hiện trong Từ điển tiếng Huế của Bùi Minh Đức (NXB Tâm An, California, 2001 - NXB Văn Học, Hà Nội, 2004 và 2009): "Cối xay có gậy dài tra vào tay cối, cầm mà đẩy tới kéo lui". Cách thứ nhất chuẩn xác hơn. Tóm gọn thì giàn xay là cả cái cối xay, còn giằng xay là tay quay - một bộ phận của giàn xay. Lưu ý rằng nhiều thứ uốn khúc vẫn được cổ nhân liên tưởng vòng quay tròn của cối xay, nên cũng gọi giằng xay / Giằng Xay. Ví dụ: đàn giằng xay, đu giằng xay.
Một tố nữ chất vấn bằng giọng Nam Bộ nghe ngọt lịm:
- Gọi ngoẹo Dần Xây cũng được, anh Phanxipăng héng?
Nghe vậy, mọi người liên tưởng cầu Dần Xây thuộc huyện Cần Giờ, TP.HCM. Với nguồn vốn 32 tỉ đồng, cầu Dần Xây được thiết kế và thi công theo kết cấu bê tông dự ứng lực, rộng 12m, dài 381m, tải trọng 30 tấn. Khởi công ngày 2-9-1998, hẹn hoàn thành sau 1 năm, nhưng trải qua 7 lần gia hạn, cầu Dần Xây mới chính thức thông tuyến ngày 30-4-2001. Do đó, dư luận xã hội rên rỉ bằng giọng chịu chơi... chữ: "Cầu Dần Xây bị xây dần dần!".
Cầu, sông, rạch
Cầu mang tên Dần Xây bởi bắc qua sông Dần Xây. Gọi đúng gốc gác, phải là Giằng Xay. Từ điển địa danh TP. Sài Gòn - HCM do Lê Trung Hoa biên soạn (NXB Trẻ, 2003) ghi nhận: "Giằng Xay: sông làm ranh giới 2 xã An Thới Đông và Long Hoà, từ sông Ngã Bảy đến sông Mũi Nai, dài độ 3.800m. Giằng Xay đã bị nói và viết chệch thành Dần Xây. Giằng xay vốn là tên cây gỗ tạp, dùng làm vị thuốc dân tộc". Nguyên văn đoạn đó cũng được in trong Từ điển Sài Gòn - TP.HCM (NXB Trẻ, 2001, tái bản 2008).
Kỳ thực, giằng xay chẳng phải cây gỗ tạp, mà là cây nhỏ mọc thành bụi. Mỗi cá thể cao cỡ 1,5m, toàn thân và hầu hết các bộ phận của cây đều tua tủa lông măng, lá hình tim, hoa vàng 5 cánh mọc đơn độc nơi kẽ lá, quả có nhiều manh nang xếp quanh trục nom hao hao bánh xe hoặc cối xay. Cây này còn mang tên cây cối xay, tiếng Hán là kim hoa thảo / nhĩ hương thảo / ma bàn thảo / ma mãnh thảo, được định danh khoa học là Abutilon indicum L. thuộc họ Malvaceae. Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi (NXB Khoa Học Và Kỹ Thuật, Hà Nội, 1981) cung cấp thông tin: Đông y cho rằng cây giằng xay vị ngọt, tính bình, có tác dụng tán phong và thanh huyết nhiệt, có thể thăng thanh, giáng trọc, khai khiếu, hoạt huyết, chữa tai điếc. Theo kinh nghiệm dân gian cổ truyền, cây giằng xay được dùng làm thuốc nhuận trường, lợi tiểu, kiện vị, trị mụn nhọt.
Du lịch đặc khu rừng Sác, thong thả lướt sóng bằng ghe thuyền dọc luồng Dần Xây / Giằng Xay mà quan sát đôi bờ (chứ xé gió bằng ca nô thì khó dòm liếc kỹ), rồi rảo bước vài đoạn ven sông ấy, chẳng thấy cây giằng xay. Các tài liệu thực vật học cho biết cây giằng xay mọc hoang nơi khu vực đất khô, chứ đôi bờ sông này luôn ướt đẫm phù sa kia mà. Ngồi phi cơ phóng qua huyện Cần Giờ, hoặc đơn giản hơn thì trải bản đồ để quan sát, dễ thấy sông Dần Xây / Giằng Xay uốn éo quanh co từ sông Ngã Bảy tới sông Mũi Nai. Sông mang tên Giằng Xay chính vì dòng chảy quanh co uốn éo, chứ chẳng phải do cây giằng xay.
Từ điển địa danh TP. Sài Gòn - HCM của Lê Trung Hoa (sđd) cho hay Giằng Xay còn là: "Rạch ở vùng Thủ Đức. Bản đồ năm 1885 đã có tên rạch này".
Thác, dốc, bến, cầu
Tỉnh Khánh Hoà có sông Cái / Cù / Nha Trang, mà Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn chép là sông Phú Lộc. Dòng sông dài 60km, thượng lưu nhiều thác, nguy hiểm nhất đối với thuyền bè di chuyển là 3 thác nêu trong câu hò:
Ngựa Lồng, Trâu Đụng, Giằng Xay:
Qua ba thác ấy, khoanh tay mà cười.
Là sản phẩm văn nghệ dân gian truyền khẩu, câu hò nọ có các dị bản chỉ khác nhau từ cuối cùng, thay cườibằng ngồihoặc nằm. Trong sách Xứ trầm hương của Quách Tấn (NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1969 - Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hoà tái bản, 2002) và Non nước Khánh Hoà của Nguyễn Đình Tư (NXB Sông Lam, Sài Gòn, 1972 - NXB Thanh Niên tái bản, Hà Nội, 2003), địa danh Giằng Xay đều in thành Dằng Xay. Quách Tấn viết về thác này: "Mệnh danh như thế là vì thác chảy theo hình cánh chỏ, trông giống dằng xay xay lúa. Nước chảy rất mạnh. Nơi nghẹo cánh chỏ có một cồn cát. Nước chảy xuống dội mạnh vào nghẹo cánh chỏ bị dội trở lại, một phần theo dòng sông chảy xuôi, một phần chạy vòng quanh cồn cát như kiều xay lúa. Đó là một điểm nữa làm cho thác lấy tên là Dằng Xay chớ không lấy tên Cánh Chỏ hay Chữ Chi. Bè ghe khi xuống gần đến khúc nghẹo dằng xay, thì các tay sào phải sẵn sàng giơ ra theo chiều hướng thuận tiện để chống vào vách đá cho ghe bè theo đúng đường trôi xuôi. Nếu lỡ tay thì thế nào cũng bị va vào vách đá. Mà một khi bị va thì không vỡ cũng chìm, hoặc bị đẩy lọt vào phần nước bị dội và bị nước cuốn chạy vòng quanh cồn cát, phải tốn nhiều công sức mới ra khỏi vòng xà quây".
Tỉnh Quảng Nam có dốc Giằng Xay là một mốc ranh giới tự nhiên giữa huyện Phú Ninh (huyện thành lập năm 2005 do tách 10 xã khỏi thị xã Tam Kỳ) và huyện Tiên Phước. Tỉnh này còn thêm bến Giằng Xay nơi huyện Nam Giang, rút gọn thành bến Giằng. Đó chính là điểm xuất phát tên độc âm của huyện Giằng. Ngày 16-8-1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị định lấy lại tên cũ cho huyện Giằng là huyện Nam Giang. Thế nhưng, cùng với bến Giằng (ở thôn Ca Roong, xã Ca Dy) bên bờ sông Bung được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 15-12-2009, huyện Nam Giang vẫn có công trình bê tông cốt thép với tải trọng 18 tấn được thi công năm 2008 nhằm phục vụ giao thông vận tải lưu địa danh xưa: cầu Giằng.
Nên ghi chú rằng ở thị trấn Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, có cầu sắt dài 37m vừa dành cho đường sắt, vừa dành cho đường bộ, bắc qua sông Cẩm Giàng; cầu này thường được gọi cầu Giằng / Rằng vì nằm gần chợ cùng tên, chứ không xuất phát từ Giằng Xay.
Ngoẹo
Trở lại TP. Huế với giao lộ Hùng Vương - An Dương Vương - Ngự Bình. Ai ngược Bắc, xuôi Nam, ngang Tây, dọc Đông, nếu chưa quen thì đến đây gặp ngay cú uốn gấp khá bất ngờ. Địa thế đặc biệt ấy xuất hiện tại địa phận ấp Nhất Tây, làng An Cựu, khi route Coloniale ?1 tức tuyến đường Thuộc địa số 1 - sau trở thành quốc lộ 1 - được xây dựng. Điều đó khiến ông cha ta nghĩ tới vòng quay của chiếc cối xay. Từ ấy, tên ngoẹo Giằng Xay ra đời và phổ dụng. "Những người thích đùa" (nhan đề truyện ngắn của Aziz Nesin) thì cố ý "pha chế" ngoẹo Giằng Xay nên vẹo giò ngay hoặc trẹo hàm xai - kiểu nhắc nhở mang tính châm biếm nhằm giúp mọi người dễ nhớ chỗ năng xảy tai nạn giao thông cốt cẩn thận đề phòng.
Ngoẹo là khúc quẹo, cua ngoặc, rẽ vòng cung, uốn cong. Ngoẹo Cây Khế, ngoẹo Đồng Tiến, ngoẹo Hang Dơi trên đèo An Khê nối tỉnh Bình Định với tỉnh Gia Lai là những ví dụ.
Ngoẹo lắm khi bị nói và viết lệch thành nghẹo. Giằng thì có trường hợp ghi Dằng và Giàng. Thực tế, phụ âm đầu gi và d hiện đã đồng nhất trong loạt trường hợp, chẳng hạn giòng sông / dòng sông, giạm hỏi / dạm hỏi, giẫm đạp / dẫm đạp, hát giặm / hát dặm, trôi giạt / trôi dạt, gièm pha / dèm pha, giỏng ngược / dỏng ngược, trau giồi / trau dồi, gọt giũa / gọt dũa, Vỹ Giạ / Vỹ Dạ. Về sự chuyển hoá ă ra a, cụ thể ằng --> ang, là biến âm âm vị học, cũng đã xuất hiện một ít trường hợp "a ngắn hệt a dài" như hằng ngày --> hàng ngày, đằng trước --> đàng trước. Thế nhưng, đây chẳng phải quy luật phổ quát, một vài trường hợp bị phản ứng rằng dùng từ bị biến âm là thiếu trong sáng, chưa chuẩn mực. Cũng lưu ý: người miền Trung và miền Nam phát âm phân biệt phụ âm đầu x với s, nên không ghi nhầm Xay thành Say.
Vậy những văn bản lỡ viết tên cái ngoẹo này là "Dàng Xay" hoặc "Giàng Xay" thì cần chỉnh sửa.
Thời gian qua, nhiều tài liệu bằng các chất liệu khác nhau đều ghi đúng là "ngoẹo Giằng Xay". Chẳng hạn tham luận Địa danh học và việc nghiên cứu địa danh các tỉnh Trung Trung Bộ của Hoàng Tất Thắng (giảng viên Ngôn ngữ học tại Đại học Khoa học Huế) in trong kỷ yếu hội thảo khoa học Miền Trung - những vấn đề văn học và ngôn ngữ học do Đại học Khoa học Huế phối kết Đại học Sư phạm Huế tổ chức vào tháng 10-1998, rồi đăng tạp chí Sông Hương 1-1999; sách Huế - tên đường phố xưa và nay của Dương Phước Thu (NXB Thuận Hoá, Huế, 2004); bản đồ số GISHue-Tour Map 2008 do Công ty Đo đạc ảnh địa hình APT, Công ty Tin học eK và Trung tâm Công nghệ thông tin Thừa Thiên - Huế / Huesoft cùng thực hiện. Dư địa chí Thừa Thiên - Huế http://www3.thuathienhue.gov.vn/GeographyBook/Default.aspx?sel=4 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện hành cũng nhiều lần ghi rõ "ngoẹo Giằng Xay".
Phanxipăng Đã đăng Kiến Thức Ngày Nay 710 (1-5-2010)


 
 


Giằng xay là tay quay thớt trên của giàn xay / cối xay.
Ảnh: Phanxipăng

Hoa và quả giằng xay

Sông và cầu Dần Xây - tên gốc là Giằng Xay - ở huyện Cần Giờ, Sài Gòn.
Ảnh: Phanxipăng

Ngoẹo Giằng Xay ở phường An Cựu, Huế.
Ảnh: Trương Văn Lộc
 
Ngã ba - Nghẹo Giằng Xay Crossroads / Đường - Ngự Bình - Street 




http://chimviet.free.fr/ngonngu/phanxipang/phanxipnn_GiangXay.htm 
---------------
HỌ TRẦN Ở HUẾ

http://trantoctuduong.blogspot.com/2013/05/thanh-minh-2013-13-3-nam-quy-ty-phan-ii.html#more 
-------------

Nét đẹp nhà rường Huế xưa

Ngót một thế kỷ rưỡi, Huế là kinh đô của nhà Nguyễn (1802 – 1945), triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trong suốt thời gian ấy, Huế từng là nơi hội tụ tinh hoa của cả nước. Tất cả mọi cái ăn, ở đến sinh hoạt đều được nâng lên tầm nghệ thuật.
Nét đẹp nhà rường Huế xưa
Nếp nhà vốn được người Việt coi trọng, ở đây càng được trau chuốt hơn, nhất là ở những gia đình danh gia vọng tộc hoặc chí ít cũng thuộc hàng khá giả trong xã hội. Nhà của các tầng lớp ở Huế, từ trung lưu trở lên ngày xưa thường được làm theo kiểu nhà rường và tùy theo khả năng kinh tế của chủ nhân mà nhà được làm lớn hay nhỏ, trang trí cầu kỳ hay đơn giản.
Nét đẹp nhà rường Huế xưa
Rường là cách gọi rút ngắn của rường cột. Nhà rường là loại nhà có hệ thống cột kèo gỗ, được dựng lên theo những quy cách nhất định, thường kiến trúc theo hình chữ đinh, chữ khẩu, chữ công hoặc nội công ngoại quốc. Dù to lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng hệ thống chốt và mộng gỗ, để có thể lắp ráp và tháo gỡ dễ dàng. Số gian trong nhà được phân định bằng hàng cột, chỉ có hai trái ở hai đầu nhà là phân cách với các gian giữa bằng vách ngăn.
Nét đẹp nhà rường Huế xưa
Mọi mặt của đời sống đế đô đều bị chi phối bởi phong tục và lễ nghi. Việc làm nhà của cư dân cũng không nằm ngoài luật lệ vua ban. Ví như năm Minh Mạng thứ ba (1822) có ban hành một đạo dụ, quy định, tất cả nhà cửa, dù là phủ của hoàng thân quốc thích cũng không được làm quá ba gian hai trái. Cụ Đông các đại học sĩ Thân Trọng Huề, khi dựng nhà ở Gia Hội đã thay hai trái bằng hai gian, làm thành nhà năm gian để không phạm vào phép vua.
Để tránh ảnh hưởng của mưa bão và không vượt quá chiều cao của cung điện, nhà ở Huế được làm khá thấp, mái nhà có độ dốc lớn để thoát nước mưa. Nhà rường Huế có kích thước nhỏ. Nhà một gian hai trái ít khi dài quá tám thước tây. Ngôi nhà rường ba gian hai trái dài nhất cũng chỉ khoảng mười hai thước. Những gia đình đông người, chủ nhân thường phải xây thêm nhà ngang, nhà phụ làm chỗ ở. Nhà rường Huế được chạm khắc rất công phu. Mỗi đòn, kèo, cột… trong nhà thật sự là một bức họa nổi. Tùy theo khuynh hướng và khiếu thẩm mỹ của chủ nhân, hoa văn được dùng trong trang trí rất đa dạng, bao gồm: tứ linh, bát bửu, mai – điểu – trúc – tước, gô đồng – phụng, liễu – mã, liên – áp, nho – sóc, lựu -thử…
Nét đẹp nhà rường Huế xưa
Những chi tiết nhỏ nhất tận trong ngóc ngách không ai để ý cũng không bao giờ bị bỏ sót khi chạm trổ. Gỗ dùng để dựng nhà được chọn lựa rất kỹ. Người ta thường dùng những loại gỗ như kiền, gõ, mít rừng. Phần chính của ngôi nhà rường ba gian hai chái ở Huế trung bình có 56 cột, số lượng kèo, xà và đòn tay cần chạm trổ vì thế tính ra rất nhiều. Một tốp thợ lành nghề tám người cũng phải mất hơn hai năm để hoàn thành phần mộc của ngôi nhà. Khi phần mộc và các nguyên vật liệu khác đã đầy đủ, gia chủ sẽ chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ Thượng Lương, tức lễ dựng đòn nóc cho căn nhà. Lễ vật chính trên bàn thờ là một lá bùa bát quái trấn trạch. Trên đó ghi ngày làm lễ, tuổi của gia chủ.
Phần trên của lá cờ có gắn hai lá thiên tuế để cầu cho sự trường tồn của căn nhà, mép dưới lá cờ gắn 2, 4 hoặc 6 đồng tiền cổ để cầu tài lợi cho gia chủ. Ngoài hương trà hoa quả, trên bàn thờ còn bày thêm gạo, vàng mã. Những người thợ cũng để lên bàn thờ mỗi người một đĩa gạo, tiền để xin lộc của lá bùa. Người thợ cả còn để thêm một chiếc khăn đầu rìu màu đỏ lên đĩa của mình và dùng khăn đó chít đầu khi dựng đòn nóc. Khi hành lễ, gia chủ sẽ khấn bài lễ Thượng Lương với năm câu phụng thỉnh các vị tổ của nghề xây nhà. Một trong những vị ấy là Lỗ Ban. Một vị khác không kém phần quan trọng là Cửu Thiên Huyền Nữ, chúa tể của các vật liệu trong thiên nhiên để bà cho phép dùng gỗ làm nhà.
Hướng nhà được ấn định bằng cách xem tuổi của chủ nhà. Kích thước nhà và cửa ngõ rất được coi trọng. Người ta cho rằng sự hưng thịnh của gia chủ về sau bị chi phối bởi những yếu tố này. Chính vì vậy mà cây thước Lỗ Ban là dụng cụ không thể thiếu trong việc xây cất nhà.
Tục truyền, trong quá trình làm nhà, gia chủ phải dùng lễ đối đãi với thợ, nhất là thợ cả. Những người thợ có thể dùng bùa Lỗ Ban để hại gia đình nếu họ bị ngược đãi. Bùa Lỗ Ban có ba loại thượng, trung và hạ. Mỗi loại có 16 cặp để yểm và giải. Tùy theo tuổi và căn cơ cao thấp của chủ nhà, người thợ cả sẽ chọn bùa. Thường người thợ cả vẽ một lá bùa nhỏ giấu vào khe đòn tay, kèo hay chân cột khi thuận tiện, có khi yểm thêm một miếng sắt nhỏ khắc ngựa và đao. Những người thợ cả cao tay ấn chỉ cần vẽ bùa trong không khí rồi vỗ vào cột chính cũng đủ cho gia chủ liêu xiêu.
Nhà rường Huế không bao giờ thiếu vườn. Vườn được thiết kế công phu không kém gì ngôi nhà chính. Tổng thể nhà vườn được quy hoạch kiến trúc theo các nguyên tắc của thuật phong thủy. Ngôi nhà phải có bình phong (nằm phía trước nhà, ngay trên trục chính của gian giữa), hai biểu tượng rồng chầu hổ phục đối xứng hai bên sân, và “minh đường” là yếu tố mặt nước, có thể là cai bể cạn trên sân hoặc cái ao sen nằm sau hòn non bộ. Trong vườn Huế, người ta thường chưng những chậu cảnh uốn theo các thế, trồng hoa và các loại cây ăn trái. Cây cối đem trồng được chọn lựa rất kỹ. Mỗi thứ cây đều có một ý nghĩa nào đó. Tùng, bách là những cây tiên lão, trường sinh, chỉ nên trồng trong lăng tẩm; ngô đồng là cây quân tử nên trồng trước nhà; đào ngăn quỷ nhưng quỳnh chiêu gọi ma; cây vả đem lại sự không may mắn nên không trồng gần nhà…
Ngày nay, nhà rường ở Huế còn lại không nhiều và mỗi ngôi nhà thật sự là một công trình nghệ thuật độc đáo. Nhà rường Huế là tài sản không những của chủ nhân ngôi nhà, của Huế mà là của cả dân tộc. Nó không chỉ có giá trị về mặt vật chất mà còn có giá trị rất lớn về mặt tinh thần, là một phần tinh hoa cần phải gìn giữ, bảo tồn để ngoài sông Hương, núi Ngự, còn có nét gì nhớ về Huế xưa.
Theo Suu Tam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.