Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

QUY HOẠCH SAIGON





PHÁT TRIỂN KHÔNG GIAN ĐÔ THỊ SÀI GÒN
NHỮNG CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ !

 Tác giả: KTS Nguyễn Hữu Thái
Sài Gòn trong vòng hai thế kỷ vừa qua đã có không ít cơ hội bị bỏ lỡ trong việc phát triển không gian đô thị. Bộ mặt Sài Gòn phải chăng sẽ khác đi rất nhiều nếu đề xuất của các nhà quy hoạch đô thị xuất sắc và tâm huyết không gặp phải những lực cản từ sự thiển cận của giới cầm quyền, nạn bè phái, quyền lợi của giới tư bản vị kỷ, các thế lực đầu cơ đất đai, và đặc biệt bất ổn từ chiến tranh. Trong số họ đã có đến 3 kiến trúc sư từng được nhận giải thưởng kiến trúc danh giá nhất của nước Pháp là Giải lớn La mã (Grand Prix de Rome): Hébrard, Cerutti và Ngô Viết Thụ. Tham luận này mong nêu bật lên được các điểm mạnh của các đề xuất đó, phân tích các lý do thất bại của chúng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho những nhà quy hoạch và quản lý đô thị ngày nay.

Nếu thành Gia Định còn tồn tại, bộ mặt Sài Gòn sẽ ra sao?
Diễn tiến công cuộc đô thị hóa Sài Gòn phải chăng là một chuỗi liên tục phá hủy cái cũ và xây dựng cái mới. Tiền đồn phương Nam của các chúa Nguyễn là Gia Định Thành được xây dựng khá quy mô vào năm 1790. Chỉ mấy mươi năm sau, nhân cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, Gia Định Thành bị phá hủy và thu nhỏ vào thành Phụng. Thành trì quá yếu ớt này dễ bị súng đạn hiện đại của quân xâm lược Pháp triệt hạ vào năm 1859. Oái ăm thay, sự kiện này lại đánh dấu sự sụp đổ của lối quy hoạch phát triển của “thành lũy phòng thủ” thời trung cổ và mở ra giai đoạn quy hoạch phát triển của các “trung tâm đô thị mở” thời đại công nghiệp mới.



Gia Định Thành, 1815

Nhìn lại sự phát triển của Sài Gòn trong lịch sử cận – hiện đại, phải nói là công cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào giữa thế kỷ XIX đã mang tính hủy hoại ngay từ ban đầu. Thành Gia Định bị san phẳng thành bình địa (tabula rasa) bằng bạo lực nhằm xây dựng lại hoàn toàn mới một thành phố Sài Gòn theo hình ảnh và tiêu chí đô thị phương Tây, tượng trưng cho những tham vọng của đế quốc Pháp trên toàn bộ bán đảo Đông Dương và cả vùng Hoa Nam. Một thành phố với tính chất dành riêng trên cơ sở chủ yếu là chủng tộc, sự giàu có và quyền lực đã trở thành biểu tượng áp bức nhân dân Việt Nam. Nó chế giễu và vạch trần cái huyền thoại về sứ mệnh khai hóa của thực dân Pháp.

Phải chăng phương án quy hoạch Coffyn 1862 là không tưởng?




Phương án quy hoạch Sài Gòn của Coffyn, 1862

Đô đốc Bonard ngay từ năm 1862 đã đốc thúc trung tá công binh Coffyn lên phương án quy hoạch một thành phố mới. Một phương án đô thị mới ra đời, không hề đếm xỉa đến các đặc điểm vùng đất nhiều ao hồ, sông rạch, mà xây dựng hẳn một thành phố theo dạng chia ô bàn cờ, sáp nhập Chợ Lớn vào Sài Gòn với quy mô dân số dự kiến 500.000 dân. Thành phố chỉ đặt một quảng trường quân sự lớn ở phía Bắc và đào kênh vành đai nối liền hai rạch Bến Nghé và Thị Nghè – Nhiêu Lộc ngăn ngừa địch tấn công từ phía Tây.

Phương án bị cho là không tưởng vì dự kiến một số dân quá đông và vượt quá khả năng thực hiện của người Pháp thời đó. Tuy vậy, phương án đã rút tỉa được kinh nghiệm qui hoạch các thành phố Alger (thuộc địa Pháp ở Bắc Phi) và Singapore (thuộc Anh), dự trù kế hoạch phân lô bán đất gây quỹ cho chính quyền thuộc địa, có phân khu chức năng rõ ràng với các khu hành chính, thương mại, công nghiệp và nhà ở riêng biệt.


Phương án trong thực tế tuy không thực hiện được nhưng đã làm cơ sở cho phát triển Sài Gòn những giai đoạn tiếp theo. Do sự kiện chính quyền thực dân chiếm đoạt các khu đất trung tâm béo bở bán cho tư sản châu Âu, Hoa, Ấn và đẩy người bản địa về phía bên kia rạch Bến Nghé, xuống phía Nam Sài Gòn, mà việc quy hoạch phát triển Sài Gòn khó chủ động, gây nạn đầu cơ đất đai kéo dài hàng thế kỷ.



Bản đồ Saigon 1867 (còn vết tích Thành Phụng)

Phê phán qui hoạch thành phố Sài Gòn thời các đô đốc Pháp, nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng người Pháp nặng về phần phô trương quyền lực thực dân với trục đường hoành tráng, cửa nhà khang trang nhưng lại chưa xây dựng được hạ tầng kỹ thuật đô thị và nhất là đẩy người bản xứ vào các khu ở chật chội, lầy lội, thiếu vệ sinh. Nhà nghiên cứu Mỹ Gwendolyn Wright khi nghiên cứu về các đô thị thuộc địa Pháp cho rằng kiểu làm đó là lối “qui hoạch giả tạo” không giải quyết được các vấn đề cơ bản đô thị và mang tính phân biệt đối xử.



http://vanhocnghethuat.org.vn/hoi-ki...ua-cac-thoi-ky

Đánh mất cơ hội biến Sài Gòn thành thành phố công nghiệp hiện đại – Ernest Hébrard 1923

Theo quy chế thuộc địa Nam Kỳ, việc quản lý thành phố thuộc quyền thị trưởng và hội đồng thành phố. Hội đồng này thường bị tê liệt vì mâu thuẫn quyền lợi phe nhóm tư bản sừng sỏ và luôn dè chừng sự can thiệp của Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội. Bản thân Hội đồng cũng thường xung đột với Phòng Thương mại Sài Gòn có quyền lợi riêng của mình. Các nhà phân tích tình hình phát triển Sài Gòn thời cũ đều cho rằng thật sai lầm nếu giao việc quy hoạch phát triển đô thị cho hội đồng thành phố, vì rõ ràng họ vừa không am hiểu vấn đề, vừa dễ dàng bị chia rẽ vì quyền lợi phe nhóm.

Điển hình là vụ xây cất dinh Xã Tây (Tòa thị chính) kéo dài đến 30 năm mới xong. Việc quyết định xây dựng nhà hát cũng kéo dài 5 năm. Còn chợ Bến Thành sở dĩ xây dựng được nhanh là do Toàn quyền Đông Dương trực tiếp can thiệp và các nhà thầu đã thu lợi lớn khi được độc quyền xây cất các dãy phố quanh khu chợ.



Bản đồ quân sự Sài Gòn 1920

Tình hình quy hoạch đô thị ở Đông Dương chỉ được cải thiện sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) khi đạo luật Cornulet ra đời quy định việc chỉnh trang các đô thị chính quốc và thuộc địa. Kiến trúc sư và là quy hoạch nổi tiếng, giải lớn La Mã là Ernest Hébrard được Toàn quyền Đông Dương mời sang chỉnh lý các dự án qui hoạch đô thị, trong đó có Sài Gòn. Ông thừa nhận rằng các đô đốc đã thực hiện nhiều công trình đồ sộ cho Sài Gòn, nào “lấp kênh rạch, tạo các đại lộ nguy nga… Quy hoạch trung tâm Sài Gòn gợi nhớ đến các phương án huy hoàng thế kỷ XVIII với đại lộ to rộng trồng cây, các dinh thự như dinh Toàn quyền khống chế cả một tầm nhìn lớn”.

Quote:
Nhưng theo ông thì Sài Gòn thiếu các quảng trường, đường sá không phân cấp, không có các nút giao thông cho đường ra vào thành phố.
Hébrard nhìn ra hướng phát triển công nghiệp và xuất khẩu của Sài Gòn, đã đặt trọng tâm vào việc hoàn chỉnh hệ thống kỹ thuật hạ tầng, chủ yếu là ga xe lửa và cảng sông, củng cố thêm phố thị Khánh Hội và Nhà Bè. Thiếu ngân sách, đụng chạm quyền lợi của giới độc quyền nhà đất cũng như xung đột nội bộ trong Nha Công chánh là những nguyên nhân làm cho đề xuất qui hoạch rất sáng tạo của Hébrard không thực hiện được ở Sài Gòn.

Sự thất bại của Hébrard chứng minh rằng chủ nghĩa thực dụng khó lòng dung hòa với các mô hình lý thuyết về quy hoạch xây dựng. Nó thường vấp phải giới cầm quyền thiển cận, giới tư bản chỉ nhìn thấy quyền lợi trước mắt.

Vì sao phải quy hoạch lại trung tâm Sài Gòn - Cerutti 1942


Chính quyền thuộc địa Pháp nhận thấy cần thiết phải sáp nhập Chợ Lớn và Thành phố Sài Gòn vào năm 1930, nhưng có lẽ hai cực phát triển này vẫn chưa bao giờ nối kết lại được với nhau. Và lạ lùng thay, ý đồ đó cùng lúc được 2 nhà kiến trúc-quy hoạch đô thị lớn, đều đạt giải lớn La Mã là Cerutti và Ngô Viết Thụ đề xướng.

Khi Cerutti đảm nhận Sở Quy hoạch đô thị Đông Dương ông phác thảo phương án xây dựng khu trung tâm hành chính mới, mong nối kết được Sài Gòn và Chợ Lớn. Kỹ sư Pugnaire là người hăng hái triển khai phương án này ở Sài Gòn. Phương án mang tên Cerutti-Pugnaire dự kiến di dời khu nhà ga ra khỏi trung tâm thành phố, xây cất tòa thị chính mới ngay tại vị trí chợ Bến Thành và thay thế khu nhà ga bằng những cao ốc thương mại, nối vào Chợ Lớn qua các trục lộ và cao ốc quy mô lớn. Sài Gòn sẽ có thêm nhiều công viên, sân bãi thể dục thể thao, khu thương mại, chợ búa, khu ở cao cấp lẫn bình dân.

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu những năm 1930 và Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) cùng sự suy yếu của chính quyền thuộc địa không cho phép người Pháp thực hiện được phương án chỉnh trang đó.



Năm 1943 KTS Pháp Pugnaire lập đồ án QH đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn quy mô 1.200.000 người.

Đúng vậy, sau nầy do ảnh hưởng chiến tranh, dân số đô thành Sài Gòn tăng nhanh, từ 1.400.000 người năm 1961 đã tăng lên 1.641.000 người năm 1965. Chính quyền Sài Gòn cũ đã cho lập nhiều đồ án QH mở rộng Sài Gòn. Như: giao cho Bộ Kiến thiết và thiết đô thị thiết lập đồ án chỉnh trang tỉnh Gia Định và đô thành Sài Gòn.

http://ngonsu.quetroi.net/GIAU/GIAUQuyHoachSaiGon.htm
__________________
Ước mơ tạo không gian mới cho Thủ Thiêm – Hoàng Hùng 1958

Kiến trúc sư Hoàng Hùng, lớp kiến trúc Trường Mỹ thuật Đông Dương Hà Nội, nguyên bộ trưởng bộ kiến thiết thời chính quyền Ngô Đình Diệm, vào năm 1958 đã đề xuất biến bán đảo Thủ Thiêm thành thủ đô mới Việt Nam Cộng hòa với nào các khu hành chính, ngoại giao và văn hóa mới thay thế khu trung tâm hành chính Sài Gòn cũ do người Pháp để lại.

Giấc mơ này khó thực hiện khi gặp phải chi phí quá lớn cho việc san nền nâng cốt vùng đất trũng, bắt nhiều cây cầu vượt mới sang sông Sài Gòn. Chính quyền Ngô Đình Diệm thời đó không đủ khả năng và tài chính thực hiện phương án táo bạo này.

image hosted on flickr


Phương án Hoàng Hùng cho Thủ Thiêm, 1958

Nỗ lực nối kết 2 cực phát triển Sài Gòn - Chợ Lớn – Ngô Viết Thụ 1960


Ngô Viết Thụ là người Việt Nam duy nhất đoạt giải lớn La Mã vào năm 1955. Ngay từ những năm tháng còn nghiên cứu ở Roma kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã đề xuất việc xây dựng một khu trung tâm hành chính mới cho chính quyền Sài Gòn, có tác dụng nối liền hai cực phát triển kinh tế Sài Gòn (của Pháp cũ) và phố Hoa Chợ Lớn. Trong phương án công bố tại Sài Gòn năm 1960, ta nhìn thấy trung tâm đô thị mới với nhiều công trình qui mô lớn như dinh Tổng thống, các bộ sở, thư viện quốc gia, tượng đài anh hùng dân tộc… phân bố trên mảng cây xanh vườn cao su Phú Thọ.

image hosted on flickr

Dự án không thực hiện được một phần do công bố quá sớm, tạo ngay sự chiếm dụng đất để đầu cơ nâng giá. Lý do quan trọng khác là thiếu phương tiện và tài chính do chính quyền Sài Gòn lúc đó đang bắt đầu lún vào cuộc chiến tranh trở nên ác liệt ở khắp miền Nam.  

Vạch hướng phát triển đúng đắn cho Sài Gòn – Doxiadis 1962

Tìm kiếm hướng phát triển cho một thành phố ngày càng đông dân và phát triển năng động như Sài Gòn là việc làm cấp bách vào các thập kỷ ‘50 đến ‘70 của thế kỷ trước.

Suốt thời Pháp thuộc, các nhà quy hoạch Pháp đều loại bỏ hướng phát triển Sài Gòn về phía Đông, Nam hoặc Tây Nam là các vùng đất trũng thấp, làm nền móng rất tốn kém. Sài Gòn thời cũ sở dĩ không ngập úng là nhờ có các vùng đất trũng thấp này hứng nước. Hướng phát triển tự nhiên của Sài Gòn được xác định là hướng Bắc cao ráo. Tuy vậy, trước yêu cầu mở rộng Sài Gòn, bán đảo Thủ Thiêm nằm sát bên hông Sài Gòn luôn được nhắm tới.

Người Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngay vào giữa những năm 1950 đã dồn sức vào việc xây dựng tuyến đường có lẽ vào hàng hiện đại nhất Đông Nam Á thời đó: Xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa dài 30km. Qua đó người ta đã xác định hướng phát triển chính của thành phố là lên phía Bắc, đất đai cao ráo và mở ra miền Đông Nam Bộ đầy tiềm năng công nghiệp. Ý đồ này đã được sự tán đồng của nhóm quy hoạch đô thị quốc tế Doxiadis.



Đề xuất của Doxiadis về hướng phát triển Sài Gòn

Vào đầu thập kỷ 60, nhóm tư vấn quy hoạch đô thị nổi tiếng thế giới này được mời sang nghiên cứu phương hướng phát triển tương lai cho thủ đô Sài Gòn. Doxiadis là nhà lý luận quy hoạch Mỹ gốc Hy Lạp khá nổi tiếng với chủ trương tạo dựng các “trung tâm đô thị động” theo dạng tuyến chứ không hướng tâm hoặc vệ tinh kiểu cổ điển. Với Sài Gòn, ông chủ trương mở rộng cái lõi trung tâm đô thị về hướng Bắc, kẹp theo xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa. Thành phố như vậy sẽ phát triển trong không gian giữa 2 dòng sông Sài Gòn và Đồng Nai. Sân bay quốc tế đặt ở Biên Hòa, cảng Sài Gòn tập trung ở giao điểm các sông Sài Gòn và Đồng Nai là khu vực Nhà Bè.

Doxiatis cũng bác bỏ phương án Hoàng Hùng xây dựng khu hành chính, văn hóa mới ở Thủ Thiêm. Lý do là vùng đất trũng thấp, địa chất công trình yếu rất tốn kém san lấp, nâng cốt nền, làm nhiều cầu vượt sông Sài Gòn. Ông chỉ đề xuất phương án quy hoạch thí điểm bán đảo Thủ Thiêm thành khu gia cư trong một mạng lưới kênh mương, chỉ xây nhà ở thấp tầng, xen kẽ nhà liên kế và biệt thự là nhà ở tập thể 4 tầng, chứ không làm nhà cao tầng hoặc khu kinh doanh, hành chính đồ sộ.

image hosted on flickr


Đề xuất quy hoạch Thủ Thiêm của Doxiadis, 1965

Cơ hội xây dựng một Thủ Thiêm hiện đại nhất Đông Nam Á – WBE (Wurster-Bernardi-Emmons) 1974


Nguồn lực và tài chính vào những năm 1960 đều dồn cho chiến tranh, cho nên phương án Doxiadis không thực hiện được. Chỉ khi viễn tượng hòa bình ló dạng vào cuối cuộc chiến, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cùng người Mỹ soạn thảo kế hoạch kinh tế hậu chiến vào đầu các năm 1970 mang tên “Kế hoạch Lilienthal - Vũ Quốc Thúc” xác định Sài Gòn là trung tâm phát triển kinh tế toàn miền Nam. Khu trung tâm thương mại - dịch vụ Sài Gòn sẽ được hoàn thiện cơ sở hạ tầng và nới rộng lên hướng Bắc và sang Thủ Thiêm.

Phương án phát triển bán đảo Thủ Thiêm của nhóm quy hoạch WBE (Wurster, Bernardi & Emmons) có trụ sở tại San Francisco (Hoa Kỳ) đề xuất việc xây dựng hẳn một khu thương mại - dịch vụ hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế quy mô lớn nhất Đông Nam Á. Phương án quy hoạch táo bạo và rất tốn kém đó ra đời vào năm 1974, chưa kịp thực hiện thì miền Nam đã được giải phóng.

Thay lời kết


Nếu sự phát triển thành phố, chỉ nói về mặt quy hoạch xây dựng, có bị hạn chế trong giai đoạn 1975 – 1990, thì các luồng di dân vẫn tiếp tục. Trong khi đa số dân nông thôn trở về đồng ruộng, nhiều người khác đi lập nghiệp ở các vùng kinh tế mới, không ít người bỏ đất nước ra đi, thì ngược lại thành phố lại đón nhận nhiều đợt nhập cư mới từ miền Bắc, miền Trung vào.

Những đổi thay lớn về không gian đô thị của thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975 phải chăng còn quá sớm để phân tích dưới khía cạnh lịch sử và di sản kiến trúc. Những chuyển biến này liên quan đến dân số, không ngừng tăng trưởng, và các công trình kiến trúc luôn đổi mới. Các phương án quy hoạch xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh theo kiểu định hướng rắn chắc thời kế hoạch hóa liên tiếp nhau ra đời, để rồi nhanh chóng bị vô hiệu hóa, do sự chuyển hướng nền kinh tế thị trường thời mở cửa và sự phát triển quá nhanh của thành phố.

Bản thân thành phố cho đến ngày nay vẫn còn lúng túng trong hướng phát triển các không gian đô thị mới cho mình. Hay nói như nhà nghiên cứu kiến trúc Pháp Francois Tainturier về kiến trúc đô thị Sài Gòn vào thời điểm thành phố kỷ niệm 300 năm vào năm 1998: “Tất cả sẽ để lại dấu ấn trên một thành phố mà chính cái tính năng động của nó luôn là bản ‘quy hoạch tổng thể’ hiệu quả nhất”.

http://ashui.com/mag/chuyenmuc/quy-h...ua-hoa-ky.html

Theo dòng nối tiếp của kiến trúc thì dĩ nhiên SG sẽ mang trên mình những dấu ấn kiến trúc và quy hoạch.

Nếu chỉ đứng về kiến trúc mà nói thì sự tiến triển này là hợp lý. SG một thời là trung tâm xây dựng tiệm cận với xu hướng thời đại lúc đó. Từ các công trình hơi hướng cổ điển chiết trung, Art Deco, rồi kiến trúc Đông DƯơng, kiến trúc hiện đại, kết hợp truyền thống vào kiến trúc hiện đại (tạm gọi là kiến trúc hậu hiện đại). Lúc này không thiếu các công trình lớn do các đon vị tư vấn trong nước, các kiến trúc sư người Việt tư vấn.

Tiếc là sự phát triển này chịu quá nhiều tác động của chính trị nhất là sau biến cố cách đây 38 năm. Thời đại thay đổi, SG ko còn là mảnh đất màu mỡ so với các thành phố lớn khác ở khu vực do mất vai trò trung tâm và đóng cửa 1 thời gian dài.

Điểm lại dòng chảy kiến trúc trong lòng Sài Gòn với 1 số công trình

Kiến trúc chiết trung kết hợp nhiều chi tiết hơi hướng cổ điển Âu châu phổ biến ở Sài Gòn vào cuối thế kỉ 19 đến đầu những năm 30 thế kỉ 20.

Saigon 1955 - Shell Oil Company office building, constructed in the early 1930s.

image hosted on flickr



Các kiến trúc hiện đại của SG

Đại sứ quán Mỹ
image hosted on flickr


image hosted on flickr


http://ttvnol.com/gdqp/1440769/page-45

KS Caravelle - VP Kiến trúc Thâng - Hoa - Nhạc



Khách sạn Rex

image hosted on flickr


http://vietdethuong.com/viewtopic.php?f=123&t=72168

Ngân hàng Việt Nam thương tín - VP Kiến trúc Thâng - Hoa - Nhạc



http://www.dccd.vn/news/224/55/Kien-...chitiettin_vn/

Chùa Vĩnh Nghiêm - KIến trúc phỏng truyền thống trên nền vật liệu hiện đại. KTS Nguyễn Bá Lăng



Dinh Độc Lập. Công trình kiến trúc hiện đại xuất sắc kết hợp nhiều yêu tố hơi hướng truyền thống, sinh khí hậu. Vì thế để bình cho đúng công trình này thuộc phong cách nào hơi khó. Đến nay vẫn là kiến trúc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại xuất sắc nhất.

KTS Ngô Viết Thụ



Thư viện Quốc gia miền Nam Việt Nam - Tương tự như Dinh Độc Lập. Công trình này đc đánh giá rất cao khi kết hợp nhuần nhuyễn, tinh tế các giá trị truyền thống vào kiến trúc và vật liệu hiện đại. KTS Nguyễn Hữu Thiện - KTS Bùi QUang Hanh.



http://en.wikigogo.org/en/33997/ __________________

Các kts thời đó được giáo dục theo hướng hiện đại nên họ nhìn vào ý nghĩa và những điểm đặc trưng không lộ liễu chứ ko phải cái nhìn "nông dân", chỉ coi bề ngoài chứ ko thèm để ý tới các qui tắc nên kiến trúc thời đó tuy hiện đại nhưng vẫn có những đặc điểm cổ truyền trong khi các kts hiện giờ thì chỉ biết khoe ta đây vừa Tây vừa Tàu, ta đây chỉ là 1 tên khoe của dốt nát.

image hosted on flickr

Central Saigon 17 by David OMalley, on Flickr __________________
Tantum religio potuit suadere malorum.
Từ Sài Gòn nhiệt đới đến kiến trúc nhiệt đới Sài Gòn

Đã có thời ngang tầm khu vực


Nếu như “kiến trúc Đông Dương” xuất hiện ở nhiều đô thị trên cả nước thì kiến trúc nhiệt đới giai đoạn 1954 – 1975 chủ yếu xuất hiện ở Sài Gòn. Là đô thị duy nhất có điều kiện tiếp cận với kinh tế, khoa học kỹ thuật nước ngoài, kiến trúc ở đây đã có điều kiện phát triển và để lại những giá trị cần khẳng định.

Từ năm 1954 – 1975, Sài Gòn, dưới sự quản lý của chính quyền quốc gia đương thời với tình hình xã hội đã có giai đoạn tạm yên, kinh tế được phát triển, sức hút đô thị gia tăng kéo theo tốc độ đô thị hoá phát triển nhanh chóng.


Quote:
Dựa trên nền tảng kinh tế – xã hội đương thời, hoạt động xây dựng được phát triển cùng sự giao lưu mật thiết với các nước tư bản phương Tây đã tạo điều kiện cho các trào lưu nghệ thuật trên thế giới du nhập vào Việt Nam một cách tự do. Trong đó phong cách kiến trúc hiện đại quốc tế đang được ưa chuộng đã góp phần làm thay đổi diện mạo kiến trúc Sài Gòn. Phong cách kiến trúc này đã bắt đầu thay thế dần các hình thức kiến trúc cổ điển, tân cổ điển phương Tây rườm rà và gò bó trước đây, làm cho kiến trúc Sài Gòn mang nhiều yếu tố của một nền kiến trúc đô thị hiện đại, so ra không thua kém các nước trong khu vực châu Á tại thời điểm này. Đáng chú ý là hầu hết các công trình kiến trúc đó đều do chính đội ngũ kiến trúc sư người Việt thiết kế và thi công đạt tiêu chuẩn hiện đại quốc tế.
Thư viện Khoa học tổng hợp do KTS Nguyễn Hữu Thiện và KTS Bùi Quang Hanh thiết kế, hoàn thành xây dựng năm 1972 được đánh giá cao về giải pháp kiến trúc thích nghi với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều.
Đặc trưng nhiệt đới và sắc thái Sài Gòn

image hosted on flickr


Nói đến công trình kiến trúc tiêu biểu thời kỳ này, không thể không nhắc đến dinh Độc Lập do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và các cộng sự thiết kế. Đồng nghiệp của tôi cũng có bài phân tích về công trình này trong cùng số báo, tuy nhiên, tôi vẫn muốn nhấn mạnh, đây là một công trình biểu hiện sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố văn hoá phương Tây và phương Đông, tạo nên một công trình có phong cách “hiện đại nhiệt đới” làm điểm nhấn không gian hoành tráng cuối trục đường Lê Duẩn.
Vào năm 1972, công trình thư viện Khoa học tổng hợp do các KTS Nguyễn Hữu Thiện và Bùi Quang Hanh thiết kế được xây dựng xong. Công trình nằm ở vị trí khá đắc địa tại trung tâm thành phố, đối diện với dinh Gia Long cũ – nay là bảo tàng Cách mạng thành phố – ở góc đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Lý Tự Trọng ngày nay.




Quote:
Các tác giả đã tổ hợp hình khối công trình theo chủ nghĩa công năng bằng cách tạo ra hai khối có dáng hình học dứt khoát rõ ràng nhưng đã khéo léo sắp xếp chúng tương phản nhau. Khối nằm ngang là các phòng đọc và khối đứng là kho sách, cùng với giải pháp mặt đứng một khối đặc và một khối rỗng đem lại hiệu ứng thị giác bất ngờ và ấn tượng. Mặc dù đây là thủ pháp mà chúng ta thường bắt gặp trong một số công trình hiện đại phương Tây, tuy nhiên ở đây các tác giả đã thể hiện sự nhất quán từ nội dung đến hình thức một giải pháp kiến trúc thích nghi với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm lắm nắng nhiều mưa. Đồng thời các tác giả cũng đã biết cách kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa các yếu tố thẩm mỹ phương Tây và yếu tố truyền thống của Việt Nam tạo dựng nên một công trình mang sắc thái độc đáo.



Công trình trường đại học Y dược Sài Gòn.


Vẫn là các lam hoa che nắng tạo nên mặt đứng thẩm mỹ của công trình.





Các khối nhà lại được gắn kết với nhau nhờ các dãy hành lang có mái che cả ba tầng nhà, nên sự lưu thông giữa các khối chức năng khá thuận lợi và gắn kết một cách hữu cơ với những khu vườn, cây xanh, mặt nước. Đây cũng là công trình thành công về giải pháp chống các tia bức xạ mặt trời. Đối với các mặt nhà quay ra hướng Đông và Tây, hệ thống lam đứng và dày kết hợp với hành lang đã được sử dụng. Còn đối với các mặt nhà hướng Nam và Bắc thì sử dụng giải pháp hành lang kết hợp hệ thống lam hỗn hợp trên cao.

Quote:
Mặc dù chỉ đơn cử một số ví dụ tiêu biểu trong bức tranh tổng thể của kiến trúc đô thị Sài Gòn giai đoạn 1954 – 1975, nhưng cũng cho chúng ta hình dung ra nền kiến trúc Sài Gòn giai đoạn này đã có một bước tiến vượt bậc, vừa thích ứng với khí hậu nhiệt đới vừa đáp ứng được nhu cầu lối sống đô thị mới của người dân nơi đây.

Mỗi khi nhắc đến giai đoạn này, ai cũng đều tự hào về một nền kiến trúc có tên gọi chung là phong cách kiến trúc “hiện đại nhiệt đới hoá”, một danh xưng được nhiều nhà nghiên cứu quốc tế ưu ái dành tặng. Với sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa tính hiện đại và tính dân tộc trong kiến trúc, giữa các yếu tố kiến trúc, khí hậu và con người, các công trình trong giai đoạn này thật sự đã đặt được nền móng vững chắc cho các bước tiếp theo của nền kiến trúc đương đại Việt Nam.
PGS.TS.KTS Nguyễn Khởi - ảnh: minh@K

http://ashui.com/mag/chuyenmuc/kien-...i-sai-gon.html __________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.