Thứ Năm, 23 tháng 10, 2014

DALATARCHI- GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN

GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN THÁNH PIÔ X - ĐÀLẠT
http://www.skyscrapercity.com/showthread.php?t=1030701&page=638

Đà Lạt là vùng đất sở hữu nhiều hình thức kiến trúc độc đáo trong đó có các công trình tôn giáo, nhà thờ, tu viện... Các công trình kiến trúc nầy thường tọa lạc trên một đỉnh đồi thấp và với thiết kế mỗi nhà một vẻ của mình, đã đóng góp vào cảnh sắc chung của vùng đất cao nguyên này những nét chấm phá hết sức quan trọng. Các công trình tiêu biểu có thể kể đến như: Dòng Donbosco, Nhà thờ Domaine de Marie (dòng Vincent de Paul), Couvent des Oiseaux (Notre Dame de Langbian), Nhà thờ chính tòa, nhà thờ Cam Ly, Dòng Chúa cứu thế, Trung tâm mục vụ…

Nằm trong các công trình đó, Giáo hoàng học viện Piô X cũng được thiết kế và xây dựng theo xu thế hiện đại nhưng không hề phá hỏng cảnh quan kiến trúc chung của Dalat.

Bản phác thảo kiến trúc GHHV do kiến trúc sư Tô công văn thiết kế năm 1959!


http://ghhv.quetroi.net/images/ghhv05.jpg

Và hình ảnh thực tế khi xây xong:


http://antontruongthang.files.wordpr...00&h=551&h=352


http://i1113.photobucket.com/albums/...ps88cd4efb.jpg





 

Toàn cảnh GHHV, các công trình nổi bật trong hình gồm các tòa nhà và tháp chuông ở Viện ĐH Đà Lạt
ở phía góc trái phía trên hình đều còn nguyên vẹn!


http://ghhv.quetroi.net/Album29TMTIE...tp%20Dalat.jpg

Toàn cảnh panaroma GHHV lúc xây xong:


http://antontruongthang.files.wordpr...2010/07/64.jpg

Tòa nhà nằm nổi bật trên vùng đất cao nguyên Lâm viên. Đồi Cù nằm ở dưới hình,
phía đối diện, sân bóng phía sau, xa xa là Trường học Bùi Thị Xuân lợp ngói đỏ.






Thêm một số ảnh màu về GHHV lúc còn hoạt động!


http://i1113.photobucket.com/albums/...ps88934ddb.jpg


http://i1113.photobucket.com/albums/...ps55b94102.jpg


http://i1113.photobucket.com/albums/...psab96e753.jpg

GHHV Nhìn từ phía Hồ Xuân Hương, xa xa là hai đỉnh núi Langbian – Núi Bà và Núi Ông!


http://i1113.photobucket.com/albums/...psda4c86cf.jpg

__________________




Viên đá đầu tiên xây dựng Học viện và kỷ niệm khánh thành:


http://ghhv.quetroi.net/Album61TMTIE...s/SAM_0971.jpg





http://ngonsu.quetroi.net/KHANG/images/ghhv1.bmp

Cổng vào GHHV xưa và nay:


http://i1113.photobucket.com/albums/...ps8d6f442a.jpg


http://i1113.photobucket.com/albums/...psab108041.jpg

Mặt tiền tòa nhà chính, cây Thánh giá phía trên đã bị tháo xuống:


http://ghhv.quetroi.net/64TMTIEN/ima...ngThanhGia.jpg

Thư viện và tiền đường: Ngôi trường học trải qua thời gian dài mang một cái dáng rất "tiều tụy", điêu tàn... mang cái dáng căn nhà bỏ hoang không ai chăm sóc...


http://ghhv.quetroi.net/64TMTIEN/ima...cTienDuong.jpg


http://ghhv.quetroi.net/64TMTIEN/ima...aTienDuong.jpg

Nhà các Cha Giáo:


http://ghhv.quetroi.net/Album61TMTIE...s/SAM_0975.jpg


http://ghhv.quetroi.net/64TMTIEN/ima...eNhaCacCha.jpg


http://ghhv.quetroi.net/64TMTIEN/images/06NhaCacCha.jpg

__________________


Tòa nhà đã được thay đổi để trở thành văn hóa nhà thiếu nhi:


http://i1113.photobucket.com/albums/...psb0ef83c4.jpg


----------------------
GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN THÁNH PIÔ ĐÀ LẠT[41]
Nhằm giúp cho hàng giáo sĩ tương lai của Việt nam được đào tạo nghiêm túc về trí thức và tu đức – “une sérieuse formation intellectuelle et spirituelle” – các Giám Mục miền Nam Việt Nam đã thỉnh cầu Tòa Thánh thiết lập một Giáo Hoàng Chủng viện với cấp bậc đại học của một Phân khoa Thần học. Sau khi được Thánh Bộ Truyền giáo chấp thuận, trong buổi họp ngày 25.01.1957 các ngài đã xin Dòng Tên đảm trách Chủng viện này.
Dalat_GHHV1
Ngày 13.9.1958, Chủng viện được thành lập tại Đà Lạt. Ban huấn luyện lúc đó gồm 5 cha Dòng Tên, Ferdinand Lacretelle, Delierres, Bobbio Palacios, Josephus A. Ruiz và tu huynh Herhold trợ giúp. Khoá học đầu tiên có 24 chủng sinh đến từ các Giáo phận miền Nam, trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn hiện nay, sinh hoạt trong một khu nhà do Viện Đại học Công giáo Đà Lạt cấp, gần hồ Vạn Kiếp và trường trung học Trần Hưng Đạo. Đầu tiên, Chủng viện lấy tên là Giáo Hoàng Chủng Viện Mẫu tâm Vô Nhiễm (Seminarium Pontificale Immaculati Cordis B.M.V.), nhưng năm sau (1959), Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Giuseppe Caprio đổi thành Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Collegium Pontificium Sancti Pii X).
Sinh hoạt tạm thời của Học Viện tại đây kéo dài cho đến hết niên khóa 1962-1963. Từ niên khóa 1963-1964, Học Viện di chuyển tới cơ sở mới, số 13 Đinh Tiên Hoàng, trong một khuôn viên rộng gần 8 mẫu tây, kế cận trường trung học Bùi Thị Xuân và Đồi cù, gần Viện Đại học Công giáo Đà Lạt, không xa trung tâm thành phố lắm, và trước mặt là hồ Xuân Hương thơ mộng. Cơ sở mới rất bề thế, khang trang, do kiến trúc sư Tô Công Văn vẽ kiểu, đã được Đức Khâm Sứ Mario Brini đặt viên đá đầu tiên ngày 01.08.1961 và được Đức Ông Francesco De Nittis, Đại diện Tòa Khâm Sứ, khánh thành ngày 23.04.1964.
Cả cơ sở lẫn địa điểm và bầu khí đều thuận lợi cho việc tu luyện, học tập và đào tạo[42].
Ngay trước mặt tiền Giáo Hoàng Học Viện, phía bên trái, được gắn một bia đá với hàng chữ khắc trên đó:
A.D. MCMLXI
KALENDIS. AUGUSTI.
MARIUS. BRINI. DELEG. APOST.
EPISC. VIETNAMIENSIBUS. ADSTANTIBUS
COL. PONTIF. SANCTI. PII. X.
FUNDAMENTA.
JECIT.
Có nghĩa là: Vào năm 1961, ngày đầu tiên của tháng 8, vị Đại diện của Toà Thánh,[Đức Khâm Sứ] Mariô Brini, trước sự hiện diện của các Giám Mục Việt Nam, đã đặt viên đá đầu tiên xây dựng Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X[43].
Ngày 31.07.1965, Phân khoa Thần học được thành lập do Sắc lệnh của Thánh Bộ về Chủng Viện và Đại Học. Ngày 07.03.1966, khai giảng Phân khoa Thần học. Tháng 8.1966, Giáo Hoàng Học Viện nhận các tu sĩ ngoại trú thuộc các Dòng đến học. Các khoá học lấy bằng cử nhân thần học được tiếp tục cho đến năm 1975. Tháng 8.1972, khoá học đầu tiên lấy bằng tiến sĩ thần học được tổ chức.
GhhvMotLopPhongChucNgoài những hoạt động khoa bảng, Giáo Hoàng Học Viện còn đảm trách vai trò như là phân khoa thần học duy nhất ở Việt Nam, nên đã bắt đầu một số công trình nghiên cứu hầu có thể đóng góp cho đất nước một nền thần học sâu rộng hơn cho điều mà ngày nay gọi là “hội nhập văn hoá”. Dưới sự hướng dẫn của cha F. Gomez, việc chuyển ngữ các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II đã hoàn tất và xuất bản với phần chú giải. Bên cạnh đó, tạp chí Tuyển Tập Thần Học cũng ra đời. Tuyển tập này, phỏng theo tạp chí Theology Digest ở Mỹ, gồm những bài viết được chuyển ngữ. Một cuốn sách quan trọng cũng đã được chuyển ngữ là cuốn Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh của Xavier Léon-Dufour.
Niên khoá 1974-1975 khai giảng như thường lệ vào ngày lễ Các Thánh Tử Đạo 01.09.1974 gồm 252 học viên. Nhưng không trọn vẹn, bởi có những biến chuyển lớn dẫn đến sự thay đổi chế độ vào ngày 30.04.1975.
Sau đó, các giáo sư trở lại Đà Lạt và mời gọi các chủng sinh cùng trở về học lại. Ngày 02.06.1975, các lớp triết học và thần học được tái tục.
Ngày 28.08.1975, các Giêsu hữu người nước ngoài nhận lệnh của chính quyền phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 48 giờ.
Ngày 30.08.1975, 11 giáo sư và 02 tu huynh Dòng Tên ngoại quốc buộc phải rời khỏi Đà Lạt, nơi nhiều Giêsu hữu đã đảm nhận công việc đào tạo giáo sĩ trong 17 năm. Quyền quản trị Giáo Hoàng Học Viện được trao lại cho Đức Cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Giám Mục Giáo Phận Đà Lạt.
Ngày 09.08.1977, Giáo Hoàng Học Viện giải tán.
Năm 1980, Nhà Nước mượn cơ sở này.
PioX-01
Dưới đây là một vài con số[44]:
Thành phần giảng huấn: Trong những năm 1958-1975, có hơn 60 cha Dòng Tên dạy tại Giáo Hoàng Học Viện. Học Viện trải qua 5 đời Viện trưởng: cha Fernandus Lacretelle (1958-1960), cha Franciscus Burkhardt (1960-1962), [6] cha Paulus W.O’Brien (1962-1965), cha Josephus Raviolo (1965-1972), cha Josephus Ramon de Diego (1972-1975). Các cha cơ hữu hoặc thường xuyên có mặt gồm: Paulus Deslierres, Aloisius Bobbio, Albertus Palacios, Josephus A. Ruiz, Josephus Ch’en, Matthias Ch’en, Josephus Krahl, Henricus San Pedro, Antonius Drexel, Joannes Motte, Hervaeus Coathalem, Franciscus Xavier Urrutia, Aloisius Leahy, Gildo Dominici, Philippus Gomez, Nilus Guillemette, Paulus Lachance ….
Sau tháng 8.1975, khi các cha ngoại quốc phải rời khỏi Học Viện và Việt Nam, Đức Cha  Bartôlômêô Nguyễn Sơn  Lâm đã  mời  một số cha triều và dòng (cha Stanislaô Hoàng Đắc Ánh OP, cha Anrê Đỗ Xuân Quế OP, cha Phi Khanh Vương Đình Khởi OFM, cha Giuse Nguyễn Quang Thạnh, cha Toma Trần Văn Dụ, …) điều khiển Học Viện và dạy chủng sinh, cho dến khi Học Viện giải tán năm 1977.
Thành phần chủng sinh: với 18 khóa, trước sau có tất cả 561 học viên, gồm 456 chủng sinh nội trú và 105 tu sĩ ngoại trú của các dòng đã thụ huấn tại Học Viện.
Số Linh mục: 316, gồm 227 Lm Giáo Phận và 89 Lm Dòng, tính đến hiện năm 2008.
Số Giám mục: 14 vị được tấn phong theo thứ tự: Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (Đà Lạt, 1991), Giuse Nguyễn Tích Đức (Buôn Ma Thuột, 1997), Phêrô Nguyễn Văn Nho (Nha Trang, 1997; qua đời 2003), Phêrô Nguyễn Soạn (Quy Nhơn, 1999), Tôma Nguyễn Văn Tân (Vĩnh Long, 2000), Stêphanô Tri Bửu Thiên (Cần Thơ, 2003), Micae Hoàng Đức Oanh (Kontum, 2003), Antôn Vũ Huy Chương (Hưng Hóa, 2003), Giuse Nguyễn Chí Linh (Thanh Hóa, 2004), Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng (Huế, 2005), Giuse Nguyễn Văn Đệ, SDB (Bùi Chu, 2006), Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J. (Bắc Ninh, 2008), Giuse Nguyễn Năng (Phát Diệm, 2009) và Tôma Vũ Đình Hiệu (Xuân Lộc, 2009).
CacGiamMucPioX



__________________

Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X

Vài nét về Giáo hoàng Học viện Thánh Pio X - Đà Lạt

Với khí hậu mát mẻ và cảnh quan đẹp, Đà Lạt nổi tiếng là một thành phố du lịch. Nhưng trước đây, Đà Lạt còn là một trung tâm nghỉ dưỡng và văn hóa. Đà Lạt đã từng có những cơ sở giáo dục nổi tiếng của Giáo hội Công giáo từ trung học cho đến đại học, trong đó có Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X. Đây là nơi xuất thân của nhiều vị giám mục, linh mục đang phục vụ ngày nay…

Lịch sử hình thành

Làm sao để có một hàng linh mục vừa đạo đức vừa có nhiều khả năng phục vụ Dân Chúa như Giáo Hội mong ước, đó luôn là một trong những quan tâm hàng đầu của Giáo Hội. Bởi vậy, ngay từ khi Giáo Hội Việt Nam được chính thức thiết lập năm 1659, Tòa Thánh đã nhắn nhủ hai Giám mục tiên khởi là Đức Cha Lambert de la Motte và Francois Pallu phải quan tâm nhiều đến việc đào tạo các linh mục bản xứ.

Sau năm 1954, để góp phần vào việc giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước, năm 1957, nhiều Giám mục đã nghĩ đến việc lập một Đại học Công giáo tại Đà Lạt mang tên Thụ Nhân, thường được gọi là Viện Đại học Đà Lạt. Trước đó, với sự gợi ý của Đức Khâm sứ Tòa Thánh, các ngài đã thỉnh cầu Tòa Thánh thiết lập một Chủng viện cấp quốc gia thuộc quyền Giáo hoàng (Giáo hoàng Chủng viện). Sau khi được Thánh bộ Truyền giáo chấp thuận, ngày 25.01.1957 các ngài đã xin dòng Tên đảm nhận việc điều khiển Chủng viện này.

Ngày 13.9.1958, Chủng viện được thành lập tại Đàlạt, với 4 cha giáo dòng Tên. Lớp đầu tiên có 24 chủng sinh đến từ nhiều giáo phận. Trong khi chờ đợi cơ sở chính thức được xây dựng, Chủng viện sinh hoạt tạm thời tại một villa thuộc Khu C của Đại học Đà Lạt, nằm gần trường Trần Hưng Đạo, nay thuộc Đại học Yersin. Đầu tiên, Chủng viện lấy tên là Giáo hoàng Chủng viện Mẫu tâm Vô nhiễm, nhưng năm sau (1959), Đức Khâm sứ Tòa Thánh Giuseppe Caprio đổi thành Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X.

Từ niên khóa 1963-1964, Học viện di chuyển tới cơ sở mới, số 13 Đinh Tiên Hoàng, trong một khu đất rộng gần 8 ha, bên cạnh trường trung học Bùi Thị Xuân và đồi cù, gần Viện Đại học Đà Lạt. Cơ sở mới này do kiến trúc sư Tô Công Văn vẽ kiểu, được Đức Khâm sứ Tòa Thánh Mario Brini đặt viên đá đầu tiên ngày 01.8.1961 và được Đức Ông Francesco De Nittis, Đại diện Tòa Khâm sứ, khánh thành ngày 23.4.1964. Điều hành Học viện tiếp nhận chủng sinh từ các Giáo phận miền Nam Việt Nam, có thêm một vài chủng sinh từ Lào và Campuchia. Mỗi khóa gồm 20-30 chủng sinh, bình thường 2 chủng sinh cho mỗi Giáo phận. Các chủng sinh được đào tạo trong 8 năm, cộng thêm 1 năm (hoặc 2 năm, tùy Giáo phận) đi thực tập mục vụ (giúp xứ) xen kẽ.

Ngày 31 tháng 7 năm 1965 Phân khoa Thần học của Giáo hoàng Học viện được Thánh bộ về Chủng viện và Đại học ký sắc lệnh chính thức thiết lập. Sau khi lập Phân khoa Thần học, cơ cấu điều hành Học viện gồm: Chưởng ấn (cha Bề trên Tổng quyền dòng Tên), Phó Chưởng ấn (cha Bề trên miền), cha Viện trưởng kiêm Khoa trưởng Phân khoa Thần học, cha Phó Viện trưởng, cha Quản lý, các cha Giám luật, các cha Linh hướng, cha Đặc trách tổng quát về học vụ, cha Trưởng ban Triết học, cha Quản thủ thư viện. Ngoài ra còn có Hội đồng tư vấn về Quản trị, về Phân khoa, và các cha điều hành những công việc chuyên biệt. Theo giáo luật, Đại học Công giáo phải có phân khoa Thần học hoặc Học viện thần học, nên năm 1974, Phân khoa Thần học của Giáo hoàng Học viện được sát nhập vào Viện Đại học Đàlạt. Việc quản trị được sắp xếp lại như sau: Chưởng ấn là Chưởng ấn Viện Đại học Đàlạt, Viện trưởng Viện Đại học Đàlạt, Đại diện dòng Tên (Bề trên miền), Viện trưởng Giáo hoàng Học viện kiêm Khoa trưởng Phân khoa Thần học. Để giúp cho tổ chức sinh hoạt của Học viện được tốt hơn, một Hội đồng chủng sinh được thành lập. Hội đồng góp ý và trao đổi trong những vấn đề đặc biệt liên quan tới đời sống chủng sinh.

Sinh hoạt hàng ngày gồm các giờ đạo đức, học tập, công tác và giải trí. Thứ năm và Chúa nhật là những ngày nghỉ. Hàng tuần có chiếu phim. Hàng tháng có một Chúa nhật dành để tĩnh tâm tháng, và một ngày đi dã ngoại hoặc chung hoặc theo nhóm. Hàng năm có tổ chức văn nghệ dịp Tết dương lịch. Trong năm, vào những dịp lễ hay kỷ niệm, thường có tranh tài thể thao giữa các lớp.

Hai ngày lễ đặc biệt là lễ thánh Piô X, Bổn mạng Học viện (03.9 theo lịch phụng vụ cũ) và Tết dương lịch. Ngày lễ thánh Bổn mạng thường cũng là ngày chính thức khai giảng niên học, được tổ chức long trọng, có bài Thuyết trình khai mạc về một đề tài triết học, thần học, v.v.

Một số hình ảnh về học viện

Đào tạo trí thức

Trước năm 1970, các chủng sinh phải qua một năm dự bị, ba năm triết học và bốn năm thần học. Bắt đầu niên khóa 1970-1971, Quy chế mới của Phân khoa Thần học được áp dụng đồng bộ, gồm 3 giai đoạn: 1/ Giai đoạn nền tảng gồm 1 năm Dự bị, 2 năm Triết học và 3 năm Thần học; 2/ Giai đoạn Cử nhân kéo dài 2 năm; 3/ Giai đoạn Tiến sĩ kéo dài ít nhất 2 năm.

Cũng từ năm 1971, khi lớp Dự bị bắt đầu theo học tại Viện Đại học Đàlạt để lấy văn bằng Cử nhân Triết học, thì vẫn học tại Học viện các môn như có trong các lớp Dự bị trước đây, cộng thêm một số môn triết học. Hai năm kế tiếp năm Dự bị, theo sự thỏa thuận với Viện Đại học, một số môn Triết cũng được dạy tại Học Viện. Ban giáo sư, ngoài các giáo sư cơ hữu tại chỗ còn có các giáo sư đến từ các nơi khác nhau trên thế giới.

Học viện còn lập một thư viện với khoảng 50.000 đầu sách, (đa phần thuộc triết học, thần học, Kinh Thánh, giáo sử) và nhiều tạp chí đạo đời, thực hiện tập san Tuyển tập Thần học, dịch thuật và xuất bản các Văn kiện của Công đồng Vaticanô II, bộ Điển ngữ Thần học Thánh Kinh và một số sách khác.

Khi Phân khoa Thần học được thiết lập, Học viện tiếp nhận thêm nhiều tu sĩ ngoại trú thuộc các dòng như: Phanxicô, Salesian Don Bosco, Chúa Cứu thế, Vinh Sơn, La San, Biển Đức, dòng Tên…Ngoài ra, năm 1970, Học viện còn mở lớp Học thuật Tôn giáo (Thần học giáo dân) nhằm nâng cao trình độ giáo lý của một số tu sĩ và giáo dân.

Huấn luyện tu đức

Cùng với việc đào tạo trí thức và học vấn, việc huấn luyện tu đức rất được chú trọng, theo truyền thống tu đức của các chủng viện, và sau này dựa vào những chỉ thị của Công đồng Vaticanô II, nhất là Sắc lệnh về Đào tạo linh mục, và những chỉ thị khác của Tòa Thánh.

Phụ trách trực tiếp việc huấn luyện tu đức là cha Viện trưởng cùng với các cha Linh hướng. Để giúp cho việc theo dõi hướng dẫn ơn gọi của chủng sinh được liên tục và thuận lợi, Học viện đặt hai cha Linh hướng, một cho cấp Triết học (kể cả năm Dự bị) và một cho cấp Thần học. Bình thường mỗi tháng mỗi chủng sinh đều có cuộc gặp gỡ riêng với cha Linh hướng.

Ngoài những việc đạo đức cơ bản hàng ngày, mỗi tuần đều có giờ huấn đức, hướng dẫn suy niệm và trong mấy năm cuối còn có chia sẻ Lời Chúa cũng như kiểm điểm đời sống theo nhóm. Mỗi tháng có một Giờ thánh và trọn một ngày để tĩnh tâm. Đầu mỗi niên học có tĩnh tâm năm kéo dài 4 ngày.

Từ niên khóa 1967-1968, Học viện bắt đầu tổ chức “Tháng Tu đức” dành cho các chủng sinh năm I Triết học, dựa theo phương pháp Linh thao của Thánh Inhaxiô Loyola, phù hợp với chỉ thị của Công đồng Vaticanô II là cần “ấn định một thời gian thích hợp cho việc huấn luyện tu đức sâu rộng hơn”, “để giúp cho việc huấn luyện tu đức có căn bản vững chắc hơn và để các chủng sinh quyết chí theo đuổi ơn gọi với sự chấp nhận đã cân nhắc chín chắn” (Sắc lệnh về Đào tạo linh mục, số 12) Hoạt động tông đồ

Các chủng sinh thực tập hoạt động tông đồ trong ba ngành chính: 1. Thăm viếng mục vụ trong các môi trường gia đình, khu phố, nhà thương, nhà tù; 2. Dạy giáo lý tại các trường Công giáo; 3. Phụ trách hay trợ úy các hội đoàn (Thanh sinh công, Hùng tâm Dũng chí).

Trong quá trình học tại Học viện, mỗi chủng sinh phải tham gia ít nhất hai năm vào một trong những hoạt động tông đồ trên đây, được thực hiện vào các ngày nghỉ trong tuần. Trong mấy năm cuối, hoạt động tông đồ còn nới rộng tới tầng lớp thanh niên, nhất là sinh viên đại học.

Hàng năm Học viện có tổ chức ngày Đại hội Giáo lý tại Học viện quy tụ đông đảo các học sinh nhỏ tuổi được các thày dạy giáo lý tại các trường Trung Tiểu học trong thành phố Đàlạt. Hỗ trợ cho việc tông đồ là ngành báo chí. Tập san “Thông cảm” phát hành mỗi tháng, được các chủng sinh làm công tác tông đồ phát không cho các độc giả. Sau này, do nhu cầu của tầng lớp thanh thiếu niên, “Thông cảm” được thay thế bằng hai loại báo khổ nhỏ là “Lửa hồng” và “Thông xanh”.

Hoạt động giao lưu

Ngoài việc liên lạc, giao lưu thường xuyên giữa Học viện và các linh mục cựu chủng sinh của mình, Học viện còn giao lưu với các học viện, chủng viện và dòng tu nam tại thành phố Đàlạt (Salesian Don Bosco, La san, Tiểu chủng viện Simon Hòa..), với các sinh viên Đại học Đàlạt, trường Võ bị Quốc gia và trường Chiến tranh Chính trị thời ấy, chủ yếu qua các hoạt động thể thao (bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn…).

Một vài con số

Khoảng cuối năm 1975, một số linh mục nước ngoài rời khỏi Học viện và Việt Nam. Quyền quản trị Học viện được trao lại cho Đức Cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Giám mục Giáo phận Đàlạt. Đức Cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm đã mời một số cha triều và dòng (cha Stanislaô Hoàng Đắc Ánh OP, cha Anrê Đỗ Xuân Quế OP, cha Phi Khanh Vương Đình Khởi OFM, cha Giuse Nguyễn Quang Thạnh…) điều khiển Học viện và dạy chủng sinh, cho đến khi Học viện giải thể ngày 9 tháng 8 năm 1977. Năm 1980, cơ sở Giáo hoàng Học viện được trưng dụng cho công tác khoa học và giáo dục.

Với 18 khóa, trước sau có khoảng 370 chủng sinh đã thụ huấn tại Học viện. Số linh mục khoảng 200, trong đó, tính đến nay (2021), có 19 vị được tấn phong Giám mục theo thứ tự: Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (Đàlạt, 1991), Giuse Nguyễn Tích Đức (Ban Mê Thuột, 1997, qua đời 2006), Phêrô Nguyễn Văn Nho (Nha Trang, 1997; qua đời 2003), Phêrô Nguyễn Soạn (Qui Nhơn, 1999), Tôma Nguyễn Văn Tân (Vĩnh Long, 2000, qua đời 2013), Stêphanô Tri Bửu Thiên (Cần Thơ, 2003), Micae Hoàng Đức Oanh (Kontum, 2003), Antôn Vũ Huy Chương (Hưng Hóa, 2003), Giuse Nguyễn Chí Linh (Thanh Hóa, 2004), Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng (Huế, 2005), Phêrô Nguyễn Văn Đệ (SDB) (Bùi Chu, 2006), Cosma Hoàng Văn Đạt S.J (Bắc Ninh, 2008), Giuse Nguyễn Năng (Phát Diệm, 2009), Tôma Vũ Đình Hiệu (Bùi Chu, 2009), Matthêu Nguyễn Văn Khôi (Qui Nhơn, 2010), Luy Nguyễn Hùng Vị (Kontum, 2015), Emmanuel Nguyễng Hồng Sơn (Bà Rịa, 2016), Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh (Đà Lạt, 2017), Gioan Đỗ Văn Ngân (Xuân Lộc, 2017).

Tham khảo:

Lm Micae Trần Đình Quảng, VÀI NÉT VỀ GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN THÁNH PIÔ X ĐÀLẠT, trong quyển Gíao Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt, Một thời để nhớ, Lưu hành nội bộ 2011.


Bài viết : Quốc Anh
Hình ảnh : Sưu tầm

 
https://ymagazine.net/vn/bai-viet/vai-net-ve-giao-hoang-hoc-vien-thanh-pio-x-da-lat

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.