Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

1950 – 1954 “Hoàng triều cương thổ”

Phong thủy qua các đời vua Việt Nam

Bài 23: Đà Lạt, thủ phủ của “Hoàng triều cương thổ”

http://motthegioi.vn/ly-dich/bai-23-da-lat-thu-phu-cua-hoang-trieu-cuong-tho-8343.html

Đăng Bởi
Thành phố Đà Lạt có lịch sử 120 năm phát hiện và phát triển (1893 – 2013) đã từng là thủ phủ của Hoàng triều cương thổ (1950 – 1954) – nơi còn in đậm những kỷ niệm hồi hương của cựu hoàng Bảo Đại.
Yếu tố ” núi” và “nước” trong mưa tuyết Đà Lạt
Nhà Nguyễn phóng tầm nhìn đến Đà Lạt để xây một hành cung của mình trên đó. Chứng cứ được ghi lại qua việc triều đình phái đại thần Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư bộ Công, Cơ mật đại thần, kiêm Quản đốc Đô sát viện lên đường đến Đà Lạt giữa tháng 7 năm 1918. Đường sá đi lại hồi đó không thuận tiện như bây giờ. Khởi hành từ Huế bằng xe lửa, Đoàn Đình Duyệt xuống ga Đà Nẵng, đi bằng đường thủy về phương Nam đến Qui Nhơn, cảng Ba Ngòi, Phan Rang, rẽ hướng lên cao nguyên Lâm Viên, vượt qua “đỉnh Eo Gió (Bellevue) ở độ cao 1.045 thước tây”  và mô tả “hai bên đường cây cối rậm rạp tuyệt nhiên không có dân cư (…) chốn rừng rú u tịch, đường đá gồ ghề khó đi – khiêng kiệu phải dùng người Thượng mới đi được”, từ đó đi thêm theo “đường bộ dài 61km” lên tới Đà Lạt lúc “trời vào tiết đầu thu (…) xem khí hậu thấy giống như đầu xuân – theo lời quý quan trú ở đây thì vùng đất này tới mùa đông hàn thử biểu có lúc xuống một, hai độ, giống như khí hậu miền Nam châu Âu – đôi khi cũng có mưa tuyết – quả là điều kỳ lạ trên đất nước Lĩnh Nam vậy” (1).
Hai ngày sau trời mưa liên tục, đến ngày thứ ba ông mới bắt đầu dạo quanh, thấy dinh thự, khách sạn cho đến nhà ở của dân “thảy đều xây cất trên đồi núi với cảnh đẹp giống như tranh vẽ”.
Cuối cùng ông cũng tìm được một cuộc đất có thế địa lý ưng ý để chọn làm nơi xây hành cung cho nhà vua trên ngọn núi có “đỉnh bằng phẳng rộng chừng trên 10 mẫu nằm gần ngọn núi xây cất Phủ toàn quyền, hiện đang có những cây thông già xanh tốt (mọc tự nhiên) mỗi cây cao 6, 7 thước tây, mọc thành hàng như do người trồng, cảnh trí rất tự nhiên (…) một dòng suối lượn quanh bao bọc từ bên phải ra đến phía sau núi. Thật là một địa điểm cao ráo quang đãng” phù hợp với yêu cầu về phong thủy cho một hành cung tọa lạc.
Luôn tiện ông cũng mô tả suối Cam Ly “chảy quanh co như  một con sông, đến chỗ Cẩm Lệ (Cam Ly) thì có một khối đá lớn chắn ngang, dưới chân khối đá có một cái hồ lớn, từ mép hồ lên tới đầu khối đá cao độ 30 thước tây. Mặt khối đá có hai khe hở, nước từ khe hở chảy vọt xuống như hai cầu vồng dài. Giữa hồ nhô lên một cái gò như bãi trâu tắm” – trên gò có xây lầu bát giác, đứng ở lầu nhìn ra bốn phía thấy nước chảy vòng quanh, trăm hoa vây bọc “quả là chốn bồng lai tiên cảnh”(2).
Những mô tả trực quan của đại thần Đoàn Đình Duyệt gợi đến những chỉ dẫn của khoa địa lý phong thủy với hai phần: loan đầu và lý khí. Trong đó phần loan đầu là những gì một thầy địa lý có thể dùng mắt để trực tiếp quan sát được từ hình thể bao quát của một cuộc đất. Phần lý khí gồm những ứng dụng của lý học phương Đông vào việc xem xét chỗ đất kết. Ở đây Đoàn Đình Duyệt dùng kỹ năng sẵn có để thực hiện giai đoạn loan đầu rồi ghi vào bản trình tấu bằng chữ Hán lên vua Khải Định được dịch ra tiếng Việt đăng trên Tạp chí Nam Phong số tháng 3 và 4 năm 1918 (3).
3_19
Dinh thự, khách sạn, nhà dân ở Đà Lạt đều xây cất trên đồi núi với cảnh đẹp như tranh vẽ
Đến nay phong thủy học được kết hợp bởi địa chất học để tham cứu thêm về một cuộc đất nào đó. Riêng Đà Lạt, theo Võ Đình Ngộ:
“các khối nham biến tính lẫn hoa cương đều bị các mạch thạch anh, thạch bích cắt ngang” (4). Các mạch thạch anh này chạy song song dưới các ngọn đồi hoa cương ẩn hiện quanh thành phố, theo thế nghiêng, hoặc thẳng đứng, hoặc cắt nhau “một vài nơi như ở ngọn đồi Pin Thouard, trên đường Đà Lạt – Suối Vàng và ngọn đồi ở Trường Adran (ấp Xuân An) các mạch thạch anh lớn và chằng chịt” (…) một vài dữ liệu quan trọng có thể viết lại lịch sử của vùng này” trong đó có kết quả nghiên cứu khoa học về các lớp sa thạch và diệp thạch đã bị gấp nếp (plissement) theo “hướng chính là Đông bắc – Tây nam, hoặc Đông – Đông bắc, Tây – Tây nam – hoặc từ Bắc chí Nam.
Như vậy, hướng gấp nếp này không giống hướng gấp nếp của Trường Sơn mà thuộc về Nam Sơn (…)”. Gần đây việc định tuổi tuyệt đối của hoa cương Đà Lạt là 191 triệu năm (theo Géochronologie du Vietnam méridional – Faure, Cl., et Fontaine, H., 1969).
Quá trình xâm thực đã làm hình dạng của mặt đất thay đổi “yếu tố quan trọng nhất là dòng nước (…) để lại vô số thung lũng và đường đỉnh nằm song song với nhau”. Đến nguyên đại cận sinh (cénozoêque) về sau, chuyển động Hymalayen tạo nên những đường toạc, đưa loại dung nham khác trào lên đã nâng cao địa thế của vùng này thêm một lần nữa khiến“các đỉnh núi bị mài mòn hoặc bị phá hủy, làm cho hình thể mặt đất, càng lúc theo thời gian, càng bị san bằng để tạo thành một bán bình nguyên như ngày nay”.
Trên “bán bình nguyên” ấy mây mù bao phủ, che kín bầu trời từ 5/8 đến 6/8 vào mỗi mùa mưa. Về mùa đông đôi khi ẩm độ xuống quá 10% lúc trời sập tối. Sáng ra, không khí ẩm tăng lên do “sự tăng động của gió mùa Tây Nam trên triền núi”. Còn sương mù Đà Lạt thuộc loại “sương mù bức xạ do sự hóa lạnh ban đêm của mặt đất”. Phần lớn “các dãy núi cao đều vây quanh thành phố Đà Lạt và chính những núi cao này đã làm tăng thêm vẻ quyến rũ của miền đất này”.
Về nguồn nước, phía Tây bắc Đà Lạt có thác Suối Vàng đưa nước chảy trên nền đá hoa cương. Phía Tây có thác Cam Ly. Phía Nam có thác Datanla và tháp Prenn danh tiếng đưa nước chảy trên nền nham huyền vũ. Về hướng Nam trên đường đi Sài Gòn có thác Liên Khàng nằm cách Đà Lạt 30km. Do ở độ cao hàng nghìn mét nên nước của Đà Lạt không thể “thủy tụ” mà luôn có xu hướng đổ về xuôi, tức là “chảy xuống”. Cả những nơi “thủy tụ” như hồ Than Thở vẫn có không gian chứa đựng những huyền thoại tình yêu buồn man mác…
ho than tho
Hồ Than Thở, nơi chứa đựng những huyền thoại tình yêu buồn man mác
Đến Đà Lạt, hoàng đế cũng mộng mơ !
Bảo Đại “có duyên” với “thành phố mộng mơ” ngay từ hồi chưa thoái vị. Ông đã “mơ mộng” có ngày lên đó làm ăn (như dân thường). Nên chưa đầy 24 giờ trước ngày rời khỏi ngai vàng vào cuối tháng 8.1945, ông đã gọi Ngự tiền văn phòng tổng lý của mình là Phạm Khắc Hòe vào tâm sự. Ông muốn sau khi trao ấn kiếm cho chính quyền, hai người sẽ rời kinh thành Huế lên đường “làm ăn chung” trên cao nguyên. Hoàng đế muốn làm gì ? Làm thợ săn ! Vì dạo ấy ông và hoàng hậu Nam Phương vừa tậu sẵn một đồn điền trồng chè ở Blao nằm trên quốc lộ 20 đường Đà Lạt – Sài Gòn. Ở đó ông lại sẵn có hai chiếc xe cam-nhông còn khá mới:
- “Ông nói sẽ cho tôi (Phạm Khắc Hòe) thuê một chiếc để tôi đóng lại làm nghề chạy xe đò sinh sống, vì trước kia trong những năm 1927 – 1928 tôi cũng đã từng làm giám đốc một xí nghiệp chạy xe đò và sửa chữa ô-tô tại Quy Nhơn. Còn nghề săn bắn của Bảo Đại thì không những ngày nào ông ta cũng sẽ có thịt gà rừng, heo rừng, nai, thỏ v.v… để ăn và đem ra chợ bán, mà ít ra mỗi tháng còn có thể kiếm được vài con hổ nữa…”.
Nhắc đến hổ, ông Phạm Khắc Hòe kể thêm trong hồi ký : Nếu Bảo Đại săn được hổ thì da hổ, thịt hổ, răng hổ, móng chân hổ đều là những món hàng hái ra tiền cả. Nhất là xương hổ Bảo Đại sẽ giao cho ông Hòe để “cho tôi nấu cao hổ cốt bán chia lời” (vì gia đình ông Hòe sành nghề nấu cao hổ nổi tiếng thời ấy mà thành phẩm của họ được dùng để chữa nhiều bệnh). Bao nhiêu chuyện đời nói như đùa nhưng “đều có cơ sở thực tế khiến Bảo Đại rất vui trong khi một không khí buồn tẻ lạnh lùng bao trùm lên cả Đại Nội” trước ngày thoái vị.
thumb Da Lat
Dinh Bảo Đại
Nhưng chỉ là “giấc mơ thôi”. Vì rời ngai vàng song cựu hoàng vẫn là đối tượng tranh thủ của người Pháp, của các chính khách trên chính trường đương thời, trong đó có hai nhân vật “cự phách” là Lưu Đức Trung và Lưu Bá Đạt tung tiền bao bọc để cựu hoàng sống với người đẹp Hoàng Tiểu Lan (người Hoa lai Pháp với tên: Jenny Woong) tại Hương Cảng với giá 15 đô la ở khách sạn mỗi ngày, thêm món tiền khác để cựu hoàng ném vào các sòng bạc, hoặc đến vũ trường với Lan.
Giới tai mắt nhận định những món tiền không nhỏ kia do trùm mật thám Pháp Cousseau đứng sau lưng chi trả. Mục đích của Cousseau nhằm giữ cựu hoàng trong tay để dùng khi cần thiết. Dịp tốt đã đến, Cousseau đóng vai trò không nhỏ trong việc khôn khéo tác động để có cuộc gặp mặt chính thức giữa cựu hoàng và Tổng thống Pháp Vincent Auriol vào giờ ngọ 8.3.1949 tại điện Elysée của thủ đô Paris.
Tiếp sau là một loạt sự kiện dẫn đến việc Pháp đưa cựu hoàng về nước với tư cách Quốc trưởng và thành lập Hoàng triều cương thổ “gồm những vùng cao nguyên có các sắc dân thiểu số từ Trung ra Bắc, là xứ bảo hộ cũ, mệnh danh là Hoàng triều cương thổ, để riêng cho con cháu nhà Nguyễn, xứ Thái Lai Châu và miền Tây Kỳ là đất dành cho Cựu hoàng. Thủ đô của Hoàng triều cương thổ là Đà Lạt và bất cứ ai đặt chân tới lãnh thổ này, kể cả dân Việt Nam đều phải xin phép của Nha Công an Hoàng triều cương thổ thuộc văn phòng Quốc trưởng ở Hà Nội và Sài Gòn, đặt dưới quyền cố vấn của Công an Pháp. Đà Lạt trở thành một kinh đô của những kẻ giàu sang quyền quý, ăn chơi. Phòng trà, tiệm nhảy, nhà ngủ, sòng bạc, đua nhau mọc lên. Cảnh rừng đồi thơ mộng cao nguyên với thông xanh, hoa anh đào đỏ ửng, biến ra làm nơi hò hẹn của những chính khách, bộ trưởng tương lai, hí trường mua chức bán tước hồi toàn thịnh của Bảo Đại. Cựu hoàng đã phải thốt lên: Tôi cần có một chục ngàn ghế bộ trưởng mới đủ ban cho bao nhiêu người tỏ dạ trung thành” (5).
Bà Mộng Điệp chụp với cựu hoàng Bảo Đại tại Pháp._1_resize
Bà Mộng Điệp ( áo đen bên phải) và cựu hoàng Bảo Đại
Từ Đà Lạt, cựu hoàng mở những bữa tiệc linh đình, những cuộc đi săn cọp trên lưng voi, những buổi đi câu cá có người Thượng xua mồi, có ngự lâm quân đi trước, có những người đẹp làm chiêu đãi viên dâng rượu thịt. Những lúc cao hứng, cựu hoàng tự mình lái xe jeep từ Buôn mê thuột băng rừng về Đà Lạt giữa đêm khuya.
Nhưng nơi mà cựu hoàng  thích lui tới vào ban đêm nhất là biệt thự Myrba của vũ nữ Mộng Điệp. Được cựu hoàng quyến luyến, Mộng Điệp tự xem mình như là đệ nhất phu nhân ở thủ đô Hoàng triều cương thổ (…) vào ngay văn phòng Quốc trưởng gọi đích danh viên bí thư và đại úy Nguyễn Chánh võ phòng ra mà chửi mắng:
“Chém cha đồ khốn nạn! Chúng bây có biết vì ai mà chúng bây có cơm ăn, có áo khoác vào người, có biệt thự để ở, có xe hơi để đi không? Chúng bây không biết ơn thì chớ, chúng bây lại lên mặt với anh bà! Để rồi Bà tống cổ chúng bây ra khỏi đây cho biết tay bà!. Mộng Điệp một tay chống nạnh, một tay xỉa xói vào mặt hai nhân viên cao cấp văn phòng Quốc trưởng đang cúi gầm, im lặng chịu đựng cơn thịnh nộ của “cục cưng” cựu hoàng”.
Ở Đà Lạt, cựu hoàng biến biệt điện của mình “trở thành một thứ A Phòng cung tân thời, với các mỹ nữ đủ màu da, Bảo Đại nghiễm nhiên sống trong thế giới khoái lạc của một hoàng đế giữa bao nhiêu cung nữ một thời. (…)Thủ hiến Trung phần Phan Văn Giáo đứng ra phụ trách công việc cung cấp gái cho cựu hoàng, đưa các thiếu nữ Trung Hoa từ Hồng Kông đến, các cô gái Huế từ đất cựu đế đô lên, các cô đầm từ Paris qua … và nhiều người đẹp khắp các phương trời” (6).
Cựu hoàng dành biệt thự khang trang trên cảnh đồi thơ mộng ở Ban Mê Thuột cho người đẹp Mộng Điệp ở – rồi  dành riêng một chuyến máy bay thời ấy để chở 2000 con vịt trắng phau chọn mua ở Chợ Lớn đưa về thả từng đôi từng đôi trên mặt hồ trước biệt thự ấy cho thêm phần lãng mạn…
Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Tư liệu.
--------------
Sau ngày thoái vị (30/8/1945), vua Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ VNDCCH, tôi được chuyển từ Đại Nội qua hầu Đức Từ Cung ở cung An Định. Công việc của tôi rất đơn giản, nghe ngóng tin tức hoạt động của ông Cố vấn ở Hà Nội để báo với Đức Từ, hoặc khi cần thì nghe Đức Từ nói và viết thư cho ông Cố vấn. Đức Từ nhận được thư của Bảo Đại nói "ra ngoài này được cụ Hồ thương như con" Đức Từ rất mừng. Đến tháng 3/1946 ông Cố vấn sang ngoại giao ở Trùng Khánh thì bặt tin. Không ngờ đến đầu năm 1949 lại có tin ông Bảo Đại quay về làm "Quốc trưởng" cho chính phủ quốc gia do người Pháp lập nên để đương đầu với kháng chiến, Đức Từ không hiểu vì sao lại có sự thể ấy. Ông Phan Văn Giáo (người sau này được Bảo Đại cho làm Thủ Hiến Trung Kỳ và rất mất lòng dân) báo cho Đức Từ biết cuối tháng tư năm 1949 "Đức" Bảo Đại sẽ về chấp chánh nhưng ông không chịu về Sài Gòn, cũng không chịu về Huế mà đòi lên Đà Lạt. Đức Từ liền phái tôi theo ông Giáo lên Đà Lạt nghênh đón và phục vụ Bảo Đại. 
Ngày 28/4/1949, chiếc máy bay của Bảo Đại xuất phát từ Singapore hạ cánh xuống phi trường Liên Khương. Tôi theo ông Giáo ra đón ông tận cầu thang máy bay. Bảo Đại về lại ngôi biệt điện mà người Pháp đã dành cho ông từ khi ông mới lên làm vua. 
Về đến Đà Lạt ông tiếp khách suốt ngày, tiếp xong thì đi bắn chim đi câu cá. Lúc này có một phái đoàn đại diện cho số người Nam vô dân Tây đến xin Bảo Đại cho họ được hưởng một quy chế riêng; đại diện Pháp là Cao ủy Pignon đến gặp bàn việc thực hiện thỏa ước élysée tổ chức một chính phủ quốc gia do Bảo Đại làm "Quốc Trưởng" kiêm giữ luôn ghế Thủ tướng... và cựu thần, hoàng thân, quốc thích lên thăm viếng rất đông. 
Lúc này Hoàng hậu Nam Phương và các hoàng tử, công chúa con ông đang còn ở Pháp. Ông Phan Văn Giáo một người có "máu 35" nổi tiếng ở Huế, đem dâng cho Đức Bảo Đại một cô gái tên là Phi Anh, em gái của Phi Hoa vốn đã là người tình của Giáo. Ngay sau đó, nghe tin Bảo Đại về chấp chánh, các nhân tình cũ của ông như Mộng Điệp, Jenny cũng bay lên Đà Lạt với ông luôn. Trong ba người tình ấy, bà Mộng Điệp được ông sủng ái nhất và bà cũng có uy với ông nhất. Bảo Đại cho Mộng Điệp ở một ngôi nhà riêng gần Dinh số 1. Hai bà kia ở nhà bên ngoài. 
Cuối năm 1949, Chính phủ Bảo Đại bỏ tiền mua thêm Dinh số 3 dùng làm nơi làm việc cho Đổng Lý Văn Phòng Nguyễn Đệ. Dinh rất lớn nên cho đặt luôn Võ phòng đó. (Về sau, Chính phủ của Bảo Đại dọn về Sài Gòn, Dinh số 3 dành làm biệt điện cho Bảo Đại và gia đình ông). 
Lúc này mọi người chú tâm vào việc tổ chức bộ máy hành chính ở ba kỳ. Một vấn đề nổi cộm là các tỉnh cao nguyên trong đó có thành phố Đà Lạt thì thuộc ai? Trước khi người Pháp, qua các dân tộc Tây Nguyên đều là thần dân của triều Nguyễn, nay trên danh nghĩa Pháp trả lại độc lập cho chính phủ quốc gia của Bảo Đại thì Bảo Đại phải có quyền ở những tỉnh ấy. Được sự đồng ý của Cao ủy Pignon, Bảo Đại cho thiết lập Hoàng triều cương thổ trực thuộc "Quốc trưởng Bảo Đại" (Sắc luật số 6 ký ngày 15/4/1950). Cuối tháng 5/1950 tôi được theo Bảo Đại lên Ban Mê Thuột dự lễ nhận tượng trưng đất Hoàng triều cương thổ (gồm Đồng Nai Thượng, Lâm Viên (kể cả Đà Lạt), Đắc Lắc, Pleiku, Kontum...). Trong dịp này tôi được dự một cuộc tế thần của người Tây Nguyên hết sức thú vị. 
Lễ được bắt đầu từ lúc chập tối. Lúc ấy, tất cả dân làng gồm đàn ông, đàn bà, trẻ già, trai gái ngồi chung quanh một con trâu bị trói chặt vào chân một cây cột bằng tre, lớn, cao, trên đọt cây còn giữ nguyên cành lá. Cột được tô vẽ trang điểm thật đẹp, có đính những vòng hoa hây hẩy trước gió. Con trâu đen, vạm vỡ, sừng rất rỗng, đầu cúi xuống, bốn chân cào cào xuống tỏ vẻ rất bực bội. Trời tối, người ta nổi lửa từ bốn phía (tượng trưng cho tứ phương?). Ngọn lửa cháy dần dần và bốc cao như muốn với lên đến trời xanh. Lửa không thiêu hết mọi vật mà dâng ngọn đến cao xanh, chứng tỏ con người đang chịu thần phục sẵn sàng tôn sùng thượng đế. 
Ông Bảo Đại được mời ngồi vào vị trí danh dự, ở giữa các bô lão. Đêm xuống khắp trời đất. Cuộc múa nhảy bắt đầu. Các điệu múa ăn nhịp với tiếng trống, tiếng cồng, tiếng chiêng và tiếng vỗ tay của đàn bà và trẻ con. Tay cầm giáo nhọn, cánh tay đeo mộc, các thanh niên nhảy theo các điệu khi lâm chiến họ lao vào đâm con trâu mạnh mẽ như muốn trút hết sự căm thù đã chồng chất trong lòng. Bởi vì con trâu hiền lành này là một con vật tế thần, từ buổi chiều nó đã được xem là một ác thần, tượng trưng cho nguồn gốc gây ra biết bao đau khổ cho người sơn cước. Giết con trâu - giết ác thần để dâng cho Phúc thần, cầu mong sự chiếu cố giúp đỡ. 
Con trâu bị đâm nhiều nhát, bị lửa đốt bốn chung quanh - tượng trưng cho lời cầu khẩn. Đến sáng hôm sau, con trâu chết, tượng trưng cho những cái ác đã được ngăn chặn. 
Một kẻ hành lễ mang đến dưới chân người chủ lễ một quả bầu khô rộng và một con gà trống màu trắng. Ông già chủ lễ quỳ xuống, cắt tiết gà, mổ lấy tim và hứng tiết vào trong quả bầu. Người tù trưởng hai tay đưa cho Bảo Đại một cái cần cong bằng trúc và mời Bảo Đại hút rượu đựng trong một cái hũ và nhắm một miếng gan heo nướng. Bảo Đại vừa nhắm xong, lập tức tất cả các bô lão đứng lên và lần lượt quàng vào bên tay trái Bảo Đại một chiếc vòng đồng có khắc dấu hiệu riêng của họ, nói lên sự giao hảo, phục lòng. Quàng vòng đồng xong, mọi người tung hô vạn tuế, vạn tuế. 
Cuối cùng, mọi người trở lại chỗ cũ. Viên chủ tế rất cao giọng xướng: 
"Hỡi thần linh! Hãy công nhận cha mà chúng con đã lựa chọn.
Hãy chấp nhận Ngài mà chúng con đã kính dâng buổi lễ này,
bằng chiếc hũ rượu có tiết gà trống bạch này.
Thần của núi rừng che chở cho chúng con.
Thần sông nước che chở cho chúng con.
Thần săn bắn che chở và đứng về phía chúng con
Xin thần gió thanh lọc sự giao kết của chúng con.
Xin thần lửa làm sự giao hảo sáng chói như chớp.
sự đồng minh mạnh như sấm bão.
Xin cho chúng con sự trường thọ vô cùng.
Xin cho tóc chúng con bạc trắng phau trước khi đến với Ngài.
Hỡi thần linh! Hỡi thần linh!
... Xin cho chúng con hưởng thụ thịt của con vật hy sinh này và hưởng thụ huyết của con trâu này
vào sáng nay.
Sống lâu, mạnh khỏe, hạnh phúc
Chúng con nguyện trung thành giữa chúng con cho đến đời con, đời cháu chúng con.
Bởi đó là lời thần dạy (...)
Bài văn tế rất dài, chúng tôi nghe qua lời phiên dịch tiếng Pháp của một nhân viên cao cấp người sơn cước. 
Sau lễ tế trâu, Bảo Đại và đoàn tùy tùng được mời vào nghỉ trong một ngôi nhà rông lợp tranh, các cột bằng gỗ teck. Trong nhà trang trí nhiều tác phẩm nghệ thuật vẽ mặt trời, mặt trăng, hình bò cạp, cá... Hình mặt trời khi nào cũng đẹp và lớn hơn cả. ở các chân cột nhà có treo nhiều giá đựng binh khí, chậu đồng. Bảo Đại được mời ngồi chung quanh bếp lửa uống rượu cần. 
Bữa rượu cần ấy đánh dấu việc vùng đất Tây Nguyên được người Pháp trả về với Việt Nam và được hưởng một quy chế Hoàng triều cương thổ khác với ba kỳ. 
Sau lễ ấy ông Bảo Đại đi thị sát các tỉnh miền Nam, còn tôi thì về lại Huế. 
Chuyện cũ đã hơn 45 năm tôi tưởng không bao giờ có dịp nhắc lại. Không ngờ bây giờ các nhà nghiên cứu Đà Lạt và Cao nguyên còn muốn biết để hiểu cặn kẽ hơn vùng đất này, tôi xin kể, nhưng chắc không tránh khỏi những sai sót do tuổi già, rất mong được chiếu cố tha thứ. 
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Sinh năm 1937
Tốt nghiệp Ngữ văn - Đại học Sư phạm Huế
Nhà nghiên cứu Triều Nguyễn
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Hiện là Trưởng Văn phòng đại diện Báo Lao Động tại miền Trung và Tây Nguyên.
(BLĐ Xuân Bính Tý 1996)
http://www.lamdong.gov.vn/vi-VN/a/book/Pages/books/baolamdong/kiniem.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.