KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN GIAN CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC LÁT
XÃ LÁT- LẠC
DƯƠNG- LÂM ĐỒNG.
THỰC HIỆN :
KTS.TRẦN CÔNG HÒA
MỤC LỤC
PHẦN 1 :
NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ SINH
HOẠT – PHONG TỤC TẬP QUÁN – TÍN NGƯỠNG CỦA DÂN TỘC K’HO
- XÃ LAT– LẠC DƯƠNG- LÂM ĐỒNG.
PHẦN 2 :
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ NHÀ Ở CỦA
DÂN TỘC K’HO - XÃ LAT – LẠC DƯƠNG- LÂM
ĐỒNG.
PHẦN 3 :
KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN TỘC K’HO - XÃ LAT – LẠC DƯƠNG- LÂM ĐỒNG ( NGHIÊN
CỨU, ĐỀ XUẤT CÁC MÔ HÌNH GỢI Ý GIẢI
PHÁP Ở CHO NGƯỜI DÂN TỘC K’HO).
PHẦN 1
NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ
Sinh
hoạt – Phong Tục – Tập Quán – Tín Ngưỡng
Của
các Dân tộc bản địa Lâm Đồng
Lời mở đầu
Lâm Đồng là một Tỉnh có nhiều dân
tộc khác nhau. Hiện nay, ngoài dân tộc Kinh còn có 32 dân tộc thiểu số. Ngoài
các dân tộc bản địa như Mạ, K'Ho, Chu Ru, còn có các dân tộc M'Nông, Raglai, Gié-triêng,
X'Tiêng, Bru-Vân Kiều, Ba na, Ê Đê, Gia me, Chăm .v.v… Còn có các dân tộc thiểu
số ở miền núi phía Bắc di chuyển vào như Hoa, Tày, Nùng, Thái, Dao, H'Mông, Sán chay, Sán dìu, Thổ, Dáy…. Trong
phạm vi của đề tài này, chúng tôi đề cập đến những nét cơ bản về Sinh hoạt –
Phong tục – Tập quán – Tín ngưỡng của
dân tộc bản địa là K’ho.
PHẦN 1 :
NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ SINH
HOẠT – PHONG TỤC TẬP QUÁN – TÍN NGƯỠNG CỦA DÂN TỘC K’HO
- XÃ LAT– LẠC DƯƠNG- LÂM ĐỒNG.
PHẦN 2 :
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ NHÀ Ở CỦA
DÂN TỘC K’HO - XÃ LAT – LẠC DƯƠNG- LÂM
ĐỒNG.
PHẦN 3 :
KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN TỘC K’HO - XÃ LAT – LẠC DƯƠNG- LÂM ĐỒNG ( NGHIÊN
CỨU, ĐỀ XUẤT CÁC MÔ HÌNH GỢI Ý GIẢI
PHÁP Ở CHO NGƯỜI DÂN TỘC K’HO).
|
NGƯỜI K 'HO.
Người K ' Ho ở
Lâm Đồng là một tộc người thuộc ngôn ngữ Môn – Khơ me. Họ cư trú ở nhiều nơi
trong Tỉnh Lâm Đồng: Đà lạt, Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh, Đa Hoai.
Người K 'Ho tập trung nhất là ở huyện Di Linh. Người K'ho ở Lâm Đồng hiện nay
là 104.025 ( theo điều tra 01/ 10/ 1997) bao gồm các nhóm địa phương Srê, Nộp,
Cờ dòn, Tố la, Măng tố ( Prô), Bajà, Ta ngâu ( Đạ ngao), Chil, Lạt.
- SINH HOẠT KINH TẾ:
Người K 'ho chủ yếu làm kinh tế nương rẫy và ruộng
nước. Nghề rẫy gắn liền với đời sống
du cư, du canh theo chu kỳ 3 năm một lần dời chỗ ở. Nghề lúa nước gắn với đời
sống định cư. Cây lương thực chính của các nhóm K 'ho là lúa, riêng
đối với nhóm Chil lại là bắp.
- VỀ XÃ HỘI :
Đơn vị tổ chức xã hội cao nhất của người K ' ho là Bon
– Đây là một đơn vị tổ chức xã hội vừa là
một đơn vị kinh tế tự cung tự cấp của dân tộc K ' ho.
Bon là làng truyền thống theo kiểu một công xã nông
thôn hoặc công xã láng giềng, mang đậm dấu vết của công xã thị tộc mẫu hệ. Đứng
đầu Bon là già làng ( Kuang bon) . Ông là người có uy tín tuyệt đối sao với các
thành viên khác trong làng.
Trong xã hội truyền thống, thì chủ làng, cùng với chủ
rừng ( Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người K
' ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyền thống chủ yếu dựa vào
sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt truyền thống như ché, cổ chiêng..v.v.
Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng đồng.
Nhưng trong xã hội đã xuất hiện sự phân tầng lớp kẻ giàu người nghèo.
Trong xã hội truyền thống của người K ' ho đã tồn tại
hai hình thức tổ chức: gia đình lớn mẫu hệ và gia đình nhỏ mẫu hệ.
Điều đáng chú ý là dù ở gia đình lớn hay gia đình nhỏ
những dấu ấn mẫu hệ vẫn được duy trì và bảo lưu. Con cái sinh ra đều mang họ
mẹ. Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và cư trú bên vợ đã được xác lập và duy
trì một cách khá chặt chẽ trong xã hội.
- PHONG TỤC, TẬP QUÁN , TÍN NGƯỠNG:
Tín ngưỡng về siêu nhiên của người K ' ho cũng như của
các dân tộc ít người khác ở Tây nguyên nói chung, tập trung vào ý niệm một bên
là thần thánh luôn phù hộ con người và một bên là ma quỷ luôn luôn làm hại con
người.
Về thần thánh ( Yang) trong quan niệm của người K ' ho
có một vị thần tối cao đó là vị thần khai sáng vũ trụ và là vị thần bảo hộ tối
cao của con người tên gọi là Nđu – Mặc dù vậy trong các dịp tế lễ người K ' ho
ít cầu tới vị thần này mà thường cầu xin
các vị thần khác có ngôi vị thấp hơn như: thần mặt trời, mặt trăng, thần núi,
thần sông, thần đất, thần ruộng, thần nhà, thần ché rượu, thần kho lúa, thần
rừng... Đối nghịch với thần là ma quỷ (chà) luôn gây ra tai nạn cho con
người như phá hoại mùa màng, gieo các bệnh tật. Do quan niệm về sự chi phối của
thần và ma quỷ đối với đời sống, người K ' ho thường phải cúng kiến để cầu xin an lành
vào các dịp như: mùa màng, hôn nhân, tang, ma , ốm đau.
Vì đời sống kinh tế của người K' ho cơ bản dựa vào
nông nghiệp, cho nên những lễ nghi liên quan đến công việc làm ruộng rẫy,
là những lễ nghi quan trọng nhất và được tiến hành thường xuyên. Ngoài lễ Đâm
trâu( Nôsarpu) được tổ chức rất linh đình và mang nhiều ý nghĩa như mừng lúa mới,
tạ ơn thần linh đã ban sự an lành cho làng; Người K ' ho đã có một một số lễ
nghi nông nghiệp như: Lễ gieo giống ( Nhô Sih Srê), cúng trước khi gieo trồng.
Lễ rửa " chân trâu" tiến hành sau khi gieo hạt một tháng, lúc này con
trâu đã được nghỉ ngơi sau một thời gian cày bừa mệt nhọc, với mục đích cầu
cho trâu mập mạp, sinh sản nhiều.
Lễ Nhô Wer cúng vào lúc lúa đã mọc đầy đồng. Lễ này để
thần linh đã cho mưa thuận gió hòa.
Lễ Nhô kẹp – cử hành vào mùa lúa trổ bông.
Lễ Nhô tốt đông ( lễ trồng câu nêu) được cúng khi lúa
chín.
Lễ cuối cùng trong một chu kỳ nông nghiệp là lễ Nhô
Lir bông – Từ Lia bông có nghĩa là đậy nắp vựa thóc lại. Đấy là lễ tết của
người K ' ho Sêrê. Lễ được tổ chức tại kho thóc của mỗi nhà có sự tham dự của
chủ các bon, chủ gia đình khác trong họ.
Bên cạnh tín ngưỡng đa thần phổ biến và thống trị
trong xã hội K ' ho, sau này ta thấy xuất hiện nhiều bộ phận dân chúng theo
những tôn giáo từ bên ngoài du nhập vào như thiên chúa, tin lành.
PHẦN 2
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ NHÀ Ở CỦA DÂN TỘC K’HO- XÃ LAT– LẠC DƯƠNG- LÂM ĐỒNG
Về nhà ở của đồng bào dân tộc Lâm
Đồng chúng ta có thể phân loại ra thành hai loại hình lớn: Loại hình truyền
thống và loại hình hiện đại.
Trong loại hình thứ nhất chúng ta thấy có một quá
trình tiến hoá rõ rệt từ nhà sàn dài đến nhà đất qua giai đoạn nhà sàn ngắn,
tuy trong các loại hình này có những điểm chi tiết khác nhau do điều kiện môi trường, đặc trưng văn hoá từng dân tộc tạo nên. Còn về loại hình nhà dân tộc
hiện đại, tuy chúng có khác nhau như là nhà sàn hay nhà đất nhưng đó chỉ là
biểu hiện của sự giằng co giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển,
còn về mặt cấu trúc cũng như về mặt kỹ thuật và vật liệu xây cất, đây là những
nhà ở hiện đại theo đúng nghiã của chúng.
A. CÁC LOẠI HÌNH NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG
1. Nhà sàn dài:
Nhà sàn dài là loại hình nhà ở cổ xưa trong xã hội truyền thống của các dân tộc Lâm Đồng. Khi các nhà thám hiểm
Pháp đầu tiên đến vùng này như Henri Maitre- 1909, Patte, vào đầu thế kỷ 20, họ vẫn
còn thấy những nhà sàn dài 100 đến 120m. Những nhà dài như thế hiện nay ở vùng
Lâm Đồng không còn nữa. .
Tuy nhiên loại nhà sàn phổ biến nhất ở Lâm Đồng là nhà
sàn của người Mạ và người K'Ho, Srê, dài khoảng từ 20 đén 35m, rộng từ 3m đến
3,5m, cột nhà sàn cao từ 1m đến 1,5m, mỗi cửa đều có cầu thang lên xuống. Nhà
sàn dài của người K'Ho, Srê ở Di Linh, đều có sàn hiên ở
mỗi cửa ra vào và 1 sàn hiên khác rộng hơn ở một phiá hông nhà. Nhà sàn dài ở
Lộc Trung không có sàn hiên trước cửa ra vào nhưng sàn hiên bên hông rộng và
phát triển hơn đồng thời phiá sau có thêm những dãy sàn phụ.
Nhà sàn dài thường có hai mái lợp bằng lá
"rsôi", một loại lá mây rất phổ biến trong vùng Mạ, hay bằng lá
tranh. Lá "rsôi" được ghép thành từng tấm lớn dài 4,5m , khi dời nhà
thì được dỡ ra và cuốn lại để mang theo. Vách và mặt sàn làm bằng lồ ô đập dập,
kèo làm bằng tre và cột sàn bằng gỗ.
Kỹ thuật lắp ráp thô sơ, chủ yếu là sử dụng cột ngoãm
rồi dùng dây mây để cột.
Cấu trúc bên trong rất đơn giản. Cả nhà là một buồng
dài không vách, giữa nhà là một dãy bếp lửa, có nhà có đến 14 bếp dùng làm nơi
nấu nướng, sưởi ấm cho các gia đình nhỏ ngoại trừ bếp khách không dùng gì khác
hơn là để tiếp khách. Dọc theo vách đối diện với cửa ra vào là hàng ché, mà
nhiều hay ít tùy theo mức độ giàu, nghèo theo thang bậc giá trị cổ truyền của
xã hội. Có nhà có hàng trăm cái ché vừa cổ vừa mới, và niềm tự hào của một nhà
giàu có trong xã hội xưa là có toàn ché cổ. Trên mái nhà phiá bên này là nơi giắt
vũ khí. Phiá vách bên kia là nơi để củi và trên mái là nơi giắt các công cụ sản
xuất.
Mỗi nhà dài đều có chỗ để tiếp khách chung cho cả nhà
và thường trùng với chỗ ở của người có địa vị cao nhất. Đây có thể gọi là đầu
nhà và cũng là nơi đặt bàn thờ (nao), là chỗ tôn nghiêm nhất trong nhà dài. Nói
là bàn thờ nhưng cái "nao" xưa làm bằng ván gỗ có chạm trổ không còn
nữa, giờ đây người ta chỉ còn nhận ra là chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông
lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào. Những nhánh cây, bông lúa này là vết
tích còn lại của các buổi cúng thần đã qua và sẽ được mang theo mỗi khi dời
nhà.
Phiá trên trần nhà, trên các bếp lửa khoảng 1m có treo
những cái "giá" hoặc " mẹt" tròn dùng để chưá các thức ăn
cần hun khói hay để khô như thịt rừng, cá khô men rượu, tỏi hành… Ngoài ra,
cũng dọc theo nhà, chúng ta còn thấy những tấm tre đan lơ lững, mỗi tấm chỉ dài
độ vài mét treo lung chừng nhà dùng làm nơi để chiếu, chăn mền, gùi, rìu và các
vật dụng khác như bầu nước…
Ngoài ra bên cạnh nhà dài còn có nhà kho, chuồng gia
súc và nhà sản phụ là những kiến trúc phụ không thể thiếu được của loại hình
nhà dài.
Nhà kho là nơi chứa lúa. Đó là một nhà sàn nhỏ, cột
cao hơn nhà ở ( cao trung bình là 2,5m ) và cách nhà chính khoảng 10m. So với
nhà ở, tuy nhỏ hơn nhưng nhà kho được xây cất tương đối chắc chắn và kỹ lưỡng
hơn. Nhiều khi cửa kho được chạm trổ bằng những mô típ kỷ
hà chứng minh cho sự chú ý của con người với mục đích làm đẹp và chăm sóc nhà
kho. Nhà kho thường được xây cất riêng rẽ từng nhà nhưng cũng có thể tập trung thành khu riêng
biệt.
Ngược lại với nhà kho, chuồng gia súc được cất sơ sài
hơn. Thường cũng là nhà sàn nhưng rất thấp và nhỏ đủ để cản gia súc không thoát
ra được ra ngoài.
Nhà sản phụ cũng là một nhà sàn nhỏ ( cách đất khoảng
0,3m ) dài và rộng từ 3 đến 4m dùng để biệt lập người phụ nữ đang kỳ sinh nở.
Bên trong bố trí rất giản dị gồm có một bếp lửa
để sản phụ sưởi ấm, kế bên là những vật dụng cần thiết cho người sản phụ
như chăn , mền, bầu nước .v.v..
2. Nhà sàn ngắn:
Đứng về mặt phát triển xã hội,
nhà sàn ngắn là giai đoạn chuyển tiếp từ nhà sàn dài đến nhà nền đất, cho nên
từ cấu trúc đến kỹ thuật và vật liệu xây cất đều giống nhà dài. Cái khác chăng
là loại nhà này ngắn hơn nhiều, chỉ dài khoảng từ 4 đến 8m. Nhà cũng lợp hai
mái, cũng có sàn nhà hiên, cầu thang ..v.v… Bên trong cũng bố trí như vậy, cũng
bếp lửa, trên treo " giá", treo " nia", cũng gác lững nhỏ
dùng để xếp chăn, chiếu, nhưng phạm vi thu hẹp lại đủ cho một cặp vợ chồng và 1
– 2 đứa con nhỏ.
3. Nhà trệt ( nhà nền đất)
Nhà trệt là một bước phát triển rõ rệt so với hai loại
hình trên về mặt kỹ thuật lắp ráp cũng như về cách bố trí bên trong.
Tuy vật liệu xây cất giống nhau như gỗ , tre, lá mây,
tranh..v.v…nhưng nhiều nhà nền đất khác với nhà sàn bởi đầu hồi như kiểu mái
nhà người Việt (4 mái). Về kỹ thuật xây cất và lắp ráp, tuy còn sử dụng cột
ngoãm ở vài nơi, nhưng phần đông đã biết dùng mộng đẽo và cột cái để chống đỡ
sườn nhà. Nhưng cái biến đổi nhiều nhất
là cách bố trí trong, nhiều nhà đã ngăn chia thành buồng có vách hẳn hoi và tuy
bếp lửa vẫn còn để trong nhà nhưng sạp bàn ghế và sạp ngũ tre đã thấy xuất
hiện. Theo chúng tôi, đây không phải vì nhu cầu sinh hoạt trong gia đình không
thể diễn ra ngay trên nền đất dơ bẩn mà vì do ảnh hưởng bên ngoài trong quá
trình tiếp xúc với người Việt hoặc người Chăm tạo nên.
Mỗi
đơn vị gia đình gồm có các nhà sau đây: Nhà sàn dài, một số nhà trệt ngắn nằm
trước mặt và một số kho thóc nằm sau lưng hay bên cạnh. Nếu nhà sàn dài có hai
hộ thì có hai nhà trệt ngắn, nếu có ba hộ thì có ba nhà trệt ngắn. Nhà sàn dài
là chỗ nấu nướng, ăn uống và dành cho các ông bà già ngủ. Nhà trệt là nơi tiếp
khách và là chỗ ngủ của thanh niên. Nhà trệt ngắm không có bếp, nhưng có
giường, phản, người già thích ngủ ở nhà dài hơn.
Qua một đơn vị nhà dài vừa miêu tả như trên, chúng ta
thấy rõ một quá trình biến đổi về nhà ở đang diễn ra tại vùng này. Chắc chắn
đây là một bước quá độ từ nhà sàn dài đến nhà trệt ngắn, ở đó, nhà trệt ngắn đã
được xác lập nhưng nhà sàn dài vẫn chưa mất hẳn vị trí của nó.
B. NHÀ Ở HIỆN ĐẠI
Chúng tôi dùng khái niệm "hiện đại" ở đây
chỉ là tương đối để đối chiếu với khái niệm "cổ truyền" hay
"truyền thống" mà chúng tôi dùng, cùng với ý nghĩa tương đối, trong
phần trên. Nhà hoện đại đây không ý nghĩa là những ngôi nhà nguy nga làm bằng
bê tông cốt sắt đầy đủ tiện nghi hiện đại..v.v…mà chỉ là những ngôi nhà dân tộc
tương đối hiện đại về mặt kiến trúc, kỹ thuật lắp ráp cũng như về mặt vật liệu
xây cất. Trong phần này chúng tôi cũng muốn chứng minh rằng về mặt nhà ở quá
trình tiến lên vẫn là từ nhà sàn đến nhà trệt và điều kiện môi sinh không có,
hay rất ít ảnh hưởng đến loại hình nhà ở. Duy chỉ có ảnh hưởng bên ngoài tác
động nhiều về mặt kỹ thuật và vật liệu xây cất.
Nhà ở hiện đại gồm nhà sàn và nhà trệt.
1. Nhà sàn hiện đại :
Nhà sàn hiện đại tồn tại khá nhiều tại vùng người
Kơho, Srê ở Di Linh . Đây là loại nhà sàn ngắn, dài từ 8 đến 12 mét, rộng từ 5 đến
6 mét, cột sàn cao khoảng 0,5 mét làm bằng gỗ đẽo vuông rất chắc chắn, đôi khi
còn có trụ bằng gạch xây để cũng cố thêm. Nhà lợp bằng tôn 4 mái, kỹ thuật lợp
cũng khá tinh vi bằng đinh đầu tròn lớn, vách và mặt sàn bằng ván gỗ. Trước cửa
ra vào là sàn hiên, mặt sàn cũng bằng ván, có thang để leo lên. Bước sàn lên
trên, là một hành lang chạy chung quanh có lan can để vịn. Đôi khi hành lang
chỉ có phân nữa nghĩa là chỉ có bên phía hông trái và sau lưng nhà. Kỹ thuật
lắp ráp chủ yếu là cột đẽo có mộng, bắt thêm "bù loong" cho thêm chắc
chắn.
Bên trong nhà chia thành nhiều buồng có vách ngăn và
cửa ra vào. Buồng bên trái khi ta đi vào là buồng cha mẹ, buồng bên phải là của
gia đình cô con gái. Gian chính giữa là phòng khách có bếp lửa để tiếp khách,
còn bếp để nấu nướng thì xây cất bên ngoài ở phiá sau nhà. Phòng khách là nơi để bàn thờ
"nao", chiêng, ché và trống. Bàn ghế trong phòng khách có nhưng còn ít. Trong buồng có giường và đôi khi có tủ.
Nhà sàn người Chu Ru tại Đơn Dương còn hiện đại hơn
nhiều, tuy cũng một kiểu kiến trúc nhưng chung quanh nhà có hành lang và cột
sàn thấp hơn bằng gạch xây.
2. Nhà trệt hiện đại :
Nhà trệt hiện đại không khác nhà sàn từ cấu trúc kiến
tạo đến cách bố trí bên trong. Kỹ thuật lắp ráp và vật liệu xây cất cũng giống
nhau, duy chỉ có khác là nhà được xây dựng trên nền đất và hành lang phía trước
được thay thế bằng một thứ hàng ba. Một số kiểu nhà trệt này có thêm một mái
hiên trước đi thẳng vào cửa chính.
Một hiện tượng về nhà ở tại ấp Đạ Me xã Tu Tra I cho
chúng ta thấy một quá trình chuyển sang nhà đất. Tại ấp này chỉ còn duy nhất một nhà sàn ngắn truyền
thống. Theo chủ nhà cho biết đây là nhà của ông khi xưa. Nhưng nay ông chỉ dùng
nó làm nhà bếp, còn nhà ở chính của ông hiện tại là một nhà nền đất rất khang
trang rộng rãi xây ở phía trước cách đó 5 mét.
Ngày nay, tuy xã hội cổ truyền của các dân tộc ở Lâm
Đồng bị xáo trộn sâu rộng. Nhưng, nhìn chung địa bàn cư trú của họ vẫn còn tập
trung tương đối theo từng tộc người: Người Mạ ở phía Tây thị xã Bảo Lộc, người
Kơ ho, Srê ở phía Đông Nam huyện Di Linh và người Chu Ru, Raglai ở phía Đông
huyện Đơn Dương. Chỉ có vấn đề là một phần lớn các làng người Kơho, Srê, Chil
và Chu Ru đã bị dồn xuống đồng bằng đông dân cư nhưng lại ít đất canh tác. Vả
lại số đất đai của các làng định canh định cư này, nay đã bạc màu trong tình
trạng nguồn phân bón ngày càng hiếm hoi nên đời sống của đồng bào hiện nay gặp
nhiều khó khăn.
NHÀ SÀN DÀI
Nhà sàn dài là loại hình nhà ở cổ nhất trong xã hội
truyền thống của các dân tộc Lâm Đồng. Hiện nay sự tan rã của những "đại
gia đình" đã kéo theo sự ra đi của những ngôi nhà dài vốn là kiến trúc
truyền thống của họ. Ở Lâm Đồng hiện nay, xã Lộc Bắc huyện Bảo Lâm là một trong
những xã hiếm hoi mà ta còn được may mắn nhìn thấy những ngôi nhà sàn dài mà
người Mạ vẫn còn gọi là "Hìu rọt".
Vật liệu sử dụng trong ngôi nhà sàn dài chủ yếu là
những loại có sẵn trong thiên nhiên (rừng) như gỗ, tre, nứa, lá, dây mây… Các
loại vật liệu này sau khi lấy về được gia cố bằng cách tước vỏ, tạo ngoàm… tùy
theo vị trí thích hợp, cụ thể trong kết cấu nhà mà người Mạ chọn loại vật liệu
thích hợp.
Cột nhà và cột sàn thường được dựng đầu tiên theo
trình độ kiến tạo nhất định. Hai hàng cột nhà chạy song song với nhau từng đôi
một, số đôi cột này nhiều hay ít tuỳ theo độ dài của nhà. Nghiã là nhà càng dài
thì số cột càng tăng. Sàn nhà bao gồm nhiều phần liên kết với nhau: Cột sàn bố
trí dọc theo các đà ngang chạy từ mặt trước ra mặt sau nhà; Khoảng cách giữa
cột sàn này và cột sàn kia trong cùng hàng không quá dày (0,8m – 1m); các hàng
cột sàn cách nhau từ 1m – 2,5m trên kết cấu đà ngang là một lớp kết cấu đà dọc
khá dày bằng tre hay lồ ô. Có những ngôi nhà kết cấu phần này ngược lại: đà
ngang dày, đà dọc thưa, nhưng không phổ biến. Cột nhà cũng đồng thời đóng vai
trò cột sàn được chôn xuống đất như cột sàn. Khoảng cách từ sàn nhà xuống mặt
đất thường không quá 1,2m. Chiều rộng nhà thường lớn hơn khoảng cách cột này
tới cột kia trong cùng đôi cột. Cột nhà nằm vào phiá trong mép sàn từ 0,5m đến
1m. Chiều rộng nhà vì thế tương ứng với chiều rộng mặt sàn khác với nhà của
người Kinh, nhà dài của người Mạ không có kết cấu vì kèo, nghiã là không có
xiên chính, kèo chính – kèo phụ. Trong nhà dài cột này liên kết với cột kia
theo chiều dọc bằng mọt cây đà gác lên đà cột đã tạo ngoàm liên kết. Riêng hai
đôi cột ở hai đầu hồi nhà là có sự liên kết giữa hai cột trong một đôi, nhưng
xét cho cùng liên kết ở đây là phần hổ trợ cho liên kết xương vách.
Sàn nhà và cửa
nhà dài:
Vốn là một nhà tập hơp nhiều tiểu
gia đình chung sống nên nhà dài thường có nhiều cửa. Mỗi cửa tương ứng với một
sàn lộ thiên (sàn hiên) được làm tiếp giáp với mặt sàn, thấp hơn mặt sàn 0,5 –
10cm. Cửa nhà có cấu tạo vòm, cửa mở vào phía t dây mây giữ cửa cố định sát
trên mái nhà). Khi đóng cửa chỉ cần tháo dây mây hạ xuống. Toàn bộ nhà được lát
kín bằng lồ ô đập dập. Riêng phần từ cửa vào (rộng 0,5m – 0,7m) lát bằng lồ ô
nguyên cây như sàn lộ thiên. Ở mỗi sàn lộ thiên đặt một cầu thang lên xuống
hoặc không đặt nếu mặt sàn thấp. Vách nhà thưng kín bằng phên lồ ô, là mây hay
thân lau sậy sau khi đã hoàn thành kết cấu xương vách. Xương vách bao gồm hàng
loạt liên kết ngang dọc hợp với mép sàn một góc vuông. Điều khá đặc biệt là mặt
trước ngôi nhà phần xương vách nằm ngoài, thưng vách quay vào bên trong: Hai
đầu hồi nhà thưng bằng mây là chính.
Bộ mái nhà có kết cấu riêng. Có thể hình dung
mỗi bên mái là một khung hình chữ nhật, ở đó liên kết ngang dọc khá đều đặn
bằng tre hay lồ ô. Cây nọ cách cây kia 0,4m – 0,5m. Liên kết mái tạo sự
"gánh vác" đồng đều của toàn bộ khung mái khi tấm lợp được phủ lên.
Việc tạo ra tấm lợp không chỉ cần đòi hỏi thời gian mà
cả sự khéo léo. Lá mây được chọn lợp nhà là loại lá không già và cũng không quá
non (lá bánh tẻ). Sau khi lấy về phơi vài nắng thì đưa vào kết: từng tệp lá mây
được xếp chồng như vảy cá, mức độ bền chắc của mái nhà phụ thuộc vào khoảng
giữa các tệp lá trong liên kết bảo đảm bằng dây mây. Phên lá mây được đưa lên
mái lợp theo chiều dọc củatệp lá, mái rũ xuống trùm hầu như toàn bộ phần vách
nhà. Hai khung mái có độ rộng tương đương nhau nên số lượng phên lá mây lợp lên
trên mỗi mái bằng nhau. Nóc nhà nơi bộ khung mái tiếp giáp cũng dùng lá mây nẹp
kín.
Tóm lại : Nhà sàn dài là đặc trưng kiến
trúc dân gian, truyền thống tiêu biểu, có nét đặc trưng riêng là :"Cửa vòm" (khi là
phần xương mái đến nơi cửa họ uốn cong phần xương làm cho nó khum và nhô hẵn
lên so với những chỗ mái bình thường khác). Theo quan
niệm của đồng bào, họ muốn làm cho giống kiểu hang đá, nghiã là muốn tạo kiểu
mái hang nơi cửa ra vào.
(Trong
phần tổng hợp tư liệu trên
có
sử dụng tài liệu của tác giả
nhà
nghiên cứu dân tộc học
Mạc
Đường, của tác giả Lý Ngọc Hiển)
PHẦN 3:
KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN TỘC DÂN TỘC K’HO -
XÃ LAT – LẠC DƯƠNG LÂM ĐỒNG.
NỘI DUNG
A - Con người và phong tục dân tộc K’HO
I- Giớí thiệu:
1. Gốc tích và địa vực cư trú.
2. Nhân dạng.
3. Tính tình.
II- Đời sống cá nhân:
1. Ăn uống.
2. Hút thuốc.
3. Y phục.
4. Trang sức.
III- Sinh hoạt xã hội:
1. Xã giao.
2. Hôn nhân.
3. Giáo dục – Y tế.
4. Việc ma chay.
IV- Đời sống tinh thần:
1. Tín ngưỡng.
2. Âm nhạc.
V- Đời sống kinh tế:
1. Trồng trọt.
2. Chăn nuôi.
3. Săn bắn, hái lượm.
4. Tiểu thủ công nghệ.
5. Thương mại.
B - Kiến trúc
I- Buôn làng.
II- Những yếu tố cơ bản thuộc về ngôi nhà.
1. Nhà 1 hộ riêng lẽ.
2. Nhà dài.
3. Vật liệu xây dựng.
4. Kết cấu.
5. Không gian bên trong.
III- Nhà kho
IV- Nhà rẫy (nhà chòi)
V- Nhà làng.
VI- Nghiã địa
VII- Thần thoại về nhà ở.
C - Phương hướng nghiên cứu
* Nhà ở
I- Phương hướng.
II- Giải pháp đề nghị.
1. Cải tạo ngôi nhà sàn hiện tại.
2. Mẫu nhà sàn cải tiến
3. Mẫu nhà mới.
III- Bố cục không gian ăn, ở cho 1 hộ.
IV- Vệ sinh ăn, ở.
V- Kỹ thuật xây dựng:
1. Vật liệu.
2. Kết cấu.
3. Mái.
4. Sàn.
5. Vách tường.
KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN TỘC DÂN TỘC K’HO -
XÃ LAT – LẠC DƯƠNG LÂM ĐỒNG
A - CON NGƯỜI VÀ PHONG TỤC
DÂN TỘC K’HO.
I- GIỚI THIỆU:
1. Gốc tích và địa vực cư trú:
Rất ít người biết rằng trước đây
cả vùng Đồng Nai thượng thuộc Tỉnh Lâm Đồng có một "Tiểu quốc" của
người Mạ nằm giữa Chân Lạp và Chiêm Thành. Tiểu quốc này mờ dần trên con đường
Nam tiến của người Việt và bị xoá nhòa vào thế kỷ 17 khi cả Chân Lạp và Chiêm
Thành thuộc về Việt Nam.
Hiện nay sắc tộc Mạ có hơn 30.000 người. Tuy ít nhưng
chiếm cứ cả vùng Đồng Nai thượng rộng lớn chạy từ vùng Đơn Dương xuống tới Bảo
Lộc, đông nhất ở Di linh, một số ít ở Long Khánh.
Mạa còn gọi là Cqâu Mạ, Châu Mạ, Chi Hạ. Mạa là một
sắc tộc Thượng, có gốc tích Indonésien. Ngôn ngữ thuộc ngành Môn-K'hmer.
2. Nhân dạng:
Người Thượng thường nhỏ người, cao trung bình 1m60, nặng
từ 50kg đến 55kg, da ngăm đen hoặc nâu thẩm, tóc đen cứng, thỉnh thoảng lại
hung hung do thiếu vitamin, có người lại có tóc loăn xoăn. Họ đi bộ rất khoẻ,
gùi được nhiều. Nhưng nếu ta bắt họ khuân vác hay xách nặng thì họ không quen.
3. Tính tình:
Thật thà, mộc mạc trong nếp sống bình dị sơ khai. Họ
trở nên cộc cằn khi đụng chạm đến đời sống của họ.
·
Tính lười biếng,
không thích suy nghĩ sâu xa, đầu óc họ thực tế hướng về cụ thể hơn là trừu
tượng, không cần lợi vì ít nhu cầu.
·
Có tính di truyền
bảo thủ, câu nệ tập tục.
·
Thích sống và
hoạt động tập thể.
·
Tình cảm quyến
luyến làng xóm, nhà ở, nương rẫy của mình.
·
Người đàn ông Mạ
can đảm, hăng say chiến đấu, ảnh hưởng của những thế hệ trước.
II- ĐỜI SỐNG CÁ
NHÂN:
1- Ăn uống:
Lúc ăn uống, người Thượng quen ăn bốc, họ cũng biết dùng chén, đũa. Một ngày, họ chỉ ăn hai bữa cơm;
Một bữa lúc 7 giờ sáng, trước khi đi làm việc hay đi rẫy, chiều về dùng bữa tối
trước khi đi ngũ. Món ăn chính là cơm nấu bằng gạo tẻ hay nếp, cũng có thể ăn
độn trừ bữa. Thức ăn thông dụng là muối sống đâm nhỏ. Gia vị là ớt, tiêu. Họ
thích ăn măng, cà, mướp nấu với muối. Cơm hay món ăn nấu một lần buổi sáng, để
dành cả ngày. Họ nấu trong những cái nồi đất miệng hơi loe ra, đậy bằng là
chuối. Ngày nay, họ dùng nồi đồng hay xoong chảo bằng nhôm mua ở chợ.
Rượu cần là một món
ưa thích nhất của họ. Rượu ủ bằng cơm gại tẻ hay nếp, cũng có thể ủ bằng ngô,
sắn hay khoai lang, bo bo. Men rượu làm bằng bột bắp củ riềng và vài thứ lá
rừng. Rượu cần có vị chua chua ngọt ngọt, uống nhiều rất say. Rượu được hút
bằng những cần trúc đã thông mắt..
2- Hút thuốc:
Hút thuốc là một
thói quen của người dân tộc Thượng cũng như uống rượu. Đàn bà, đàn ông, trai gái
cho chí những em bé vài tuổi cũng biết hút thuốc. Họ hút bằng ống điếu, quấn
lá, đàn bà ưa ăn thuốc.
3- Y phục:
Không kể những lối
phục sức phức tạp mà đồng bào Thượng trong nhiều năm gần đây đã chịu ảnh hưởng
người Kinh, lối ăn mặc thuần túy của người Mạ rất đơn giản.
·
Đàn ông đóng khố và ở trần. Khố là một miếng vải hẹp,
bề rộng từ 15cm – 20cm, dài 2m, đôi khi mặc thêm áo cánh cụt tay rộng, tay
choàng thêm khăn về muà lạnh.
·
Đàn bà mặc "yêng" (váy). Đó là một tấm vải
quấn nữa mình, dài tới đầu gối, khi mặc giao hai múi tới trước rồi quấn cho
chặt. Mình để trần hoặc có thêm áo cánh cụt hay dài tay với những vết sọc
ngang.
Ngoài ra, họ còn
hay khoác 1 tấm choàng, để che thân hay che con nhỏ.
Đa số đàn bà
biết dệt vải.
Những lúc hội hè lễ
phục tươm tất hơn.
4- Trang sức:
·
Cà răng: Thanh
niên đến tuổi trưởng thành phải cà răng, vừa để biểu lộ lòng can đảm. Chỉ cà
sát nướu 6 răng cửa hàm trên.
·
Căng tai: thành
những lổ thật rộng bằng những khoanh ngà hay những vòng đồng.
Ngày nay, ở những nơi gần người kinh, tục lệ này đã
được hủy bỏ dần dần.
·
Những đồ trang
sức: cả đàn ông, đàn bà đều thích đeo những vòng đồng, những khoanh ngà, vòng
cườm, xâu chuỗi cườm. Đàn ông thích cắm lên búi tóc những lông chim rừng.
III-SINH HOẠT XÃ HỘI:
1. Xã giao:
Hiếu khách, phòng khách của họ là một bếp lửa ở giữa
nhà. Bất kỳ khách lạ hay quen đến nhà cũng được chủ nhà ngồi bên bếp lửa, mời
hút thuốc uống rượu cần rồi nói chuyện.
2. Hôn nhân :
Trước đây theo chế độ mẫu hệ, ngày nay đã chuyển sang
phụ hệ. Người con trai đi hỏi cưới vợ, nhưng lại ở rể nhà vợ. Nếu không muốn ở
rể thì phải nộp của hồi môn (tổn phí, trâu, rượu…) và được sự đồng ý của nhà
gái. Con gái lấy họ Mẹ.
Lễ hỏi chỉ có đơn sơ đôi sợi cườm, vòng đeo tay, chiếc
nhẫn.
Lễ cưới theo nghi thức tín ngưỡng và vậ phẩm gồm có
heo, dê, rượu cần.
Người Mạ cũng có chế độ đa thê với sự chấp thuận của
người vợ cả.
Nếu cuộc sống gia đìng trở ngại cũng có thể ly dị.
3. Giáo dục – Y tế:
Đối với họ chỉ là bước đầu, đa số mù chữ ngôn ngữ
tiếng Thượng và tiếng Việt. Đồng bào Thượng bị bệnh rất nhiều, thuốc men không có.
Họ chữa bệnh theo phù phép, cúng tế và lá cây rừng. Tại xã có trạm xá nhưng họ
ít đến.
Khi có một sản phụ sắp sinh, họ để ở góc nhà chờ đợi phó
mặc thiên nhiên. Do vậy số trẻ sơ sinh bị chết khá nhiều. Hiện tại y tế xã
không quản lý được điều này.
Vấn đề vệ sinh trong buôn thượng là cả một vấn đề,
trên nhà rận rệp, ruồi muỗi đầy rẫy, trong nhà tối om, xung quanh nhà rác rưới
tràn ngập, nước sinh hoạt thiếu thốn nhất là về muà hạ khi sông suối cạn nước.
4. Việc ma chay:
Khi có người chết, thân quyến lo khâm liệm, ngã trâu
bò làm lễ cúng. Xóm làng vào rừng kiếm cây to (thường là cây bằng, gạo)đem về
đục lỗ khoét rỗng bên trong như hình chiếc mõ dài, trên có nắp đậy. Khi liệm,
để nghiêng người chết cho lọt vào, đến khi chôn thì lật ngữa xác người lên. Áo
quan được đục lỗ ở phiá dưới và đưa để trên một cái vại. Hàng ngày, họ mang đi
để ở nghiã địa, khi nào xác chết không chảy nước nữa mới mang đi chôn.
IV- ĐỜI SỐNG TINH THẦN:
1-/ Tín ngưỡng:
Do điều kiện kém văn minh nên họ có rất nhiều lễ lộc
và cúng tế. Tất cả hành động từ sự canh tác, gặt hái, săn bắn, cưới hỏi, đình
đám, ăn ở và mọi sinh hoạt trong xã hội bị bao trùm bởi những tín ngưỡng, dị
đoan. Họ tin tưởng ở thần linh , núi sông, cây cối, đất đai. Tế lễ là một hình
thức mua chuộc thần thánh qua trung gian thâỳ cúng (bojou). Một số lễ chính: lễ
đâm trâu; cúng mồ mã; cúng ruộng nương; lễ tạ ơn; lễ cúng tại những nơi mà họ
cho là có thần linh. Đau ốm cũng cúng bái.
Ngày nay, họ đã cố gắng khắc phục bỏ dần khi tiếp xúc
nhiều với người Kinh.
2-/ Âm nhạc:
- Đơn giản kết hợp những ăm thanh man dại của núi
rừng, vẫn giữ được bản chất nguyên vẹn buổi ban đầu.
- Những bài ca là những điệu hát thần thoại truyền
khẩu.
- Nhạc cụ được chế biến từ những vật liệu thảo mộc tự
nhiên, công chiêng…
- Vũ khúc bình dị như tâm hồn họ, đơn giản hòa với lời
ca tiếng nhạc.
Ngày nay, nhạc mới cũng khá phổ biến, cây đàn guitar
rất được thanh niên dân tộc sử dụng thành thạo và ưa thích đặc biệt.
V- ĐỜI SỐNG KINH TẾ:
1-/ Trồng trọt:
Người Mạ sinh sống bằng nghề làm rẫy, kỹ thuật rất đơn
giãn. Về muà nắng họ đốn cây để cho khô rồi đem đi đốt, tro còn lại dùng làm
phân bón đất. Khi muà mưa bắt đầu, họ lấy cây tre nhọn chọc lỗ và gieo lúa. Đến
mùa gặt, đàn bà ra tuốt lúa bằng tay, cho vào gùi đem về cất trong nhà sàn. Lúa
trồng trên đồi nên rất đễ bị nước cuốn trôi đi và thế nên cứ vài ba năm họ lại
chọn nơi khác làm rẫy.
Kỹ thuật thô sơ, năng suất lúa rẫy kém, mỗi năm làm
một mùa lúa nên không đủ dùng.
Họ còn trồng thêm hoa màu phụ như: bắp, sắn, khoai,
đâu, chuối, miá, thuốc lá...
2-/ Chăn nuôi:
Có tính cách cá thể: heo, dê, gà trâu…
Trước đây họ nuôi trâu giống rất mập và thả đi tự do.
3-/ Săn bắn, hái lượm:
Những nơi gần sông suối, người Mạ cũng biết đánh bắt
cá.
Họ vào rừng săn thú, thu lượm những lâm sản như quế,
mật ong, sáp ong, dầu chai, củ măng rừng…
4-/ Tiểu thủ công nghệ:
Thường là thô sơ, có tính cánh gia đình.
- Đan gùi mây, đồ dùng bằng tre, mẫu nhà sàn nhỏ, cà
nồi đất gia dụng.
- Dệt vải để mặc và trao đổi.
5-/ Thương mại:
Thu nhặt lâm sản để đem trao đổi với miền xuôi
B
.KIẾN TRÚC
Buôn làng
Nhà ở
Nhà kho
Nhà rẫy
Nghiã địa
Nhà công cộng
I- BUÔN LÀNG:
Làng là đơn vị quan trọng trong xã hội người Thượng
(người K’HO gọi là BON). Những người đã sống trong một làng có sự liên đới cổ
truyền với nhau một cách mạnh mẽ và cả với những người ở khác làng mà cùng một
sắc dân, toàn thể coi nhau như là phần tử trong một gia đình.. Sự cách nhau của
các buôn làng tùy theo vị trí địa dư của từng bộ lạc và tùy theo sự canh tác
của họ. Thường thì cách nhau 1,2,3 cây số. Những ngôi làng Châu Mạa thường được
xây dựng ven bờ suối, ở chân núi, dọc theo những thung lũng nhỏ hẹp hoặc nằm
rãi rác ở các sườn đồi hẻo lánh. Khu đất dựng buôn được khai hoang sạch sẽ chỉ
chừa những cây lớn.
Nhà ở trong buôn bố trí tùy tiện, không theo một quy
hoạch nào cả. Thường thì người nào chiếm được chổ nào thì làm nhà ở đó, thành
ra sự đi lại trong buôn rất tự do và lộn xộn. Ở những khoảng trống là những nơi
sinh hoạt lẽ tẻ, cũng là sân thả heo, gà…giếng nước chung. Xung quanh buôn làng
có hàng rào với cổng đơn sơ. Những ngày lễ ở đầu buôn có treo vật biểu tượng
như đầu trâu, cành lá, rua…
Đặc điểm buôn người Mạ không có nhà rông (nhà làng).
Họ chỉ lấy nhà vị chủ làng làm nơi hội họp, tiêp khách.
Có những bộ lạc hướng nhà của họ về nhà chủ làng hoặc
là hướng nhà về phiá con đường lớn hay dòng suối chảy ngang đó.
Thường ngày cả làng đi làm rẫy hay về chợ đổi chác
thực phẩm, trong làng còn lại người già đau yếu và trẻ con.
II- NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN THUỘC VỀ NGÔI NHÀ:
Qua khảo sát thực tế chúng tôi thấy có nhiều loại nhà
nhưng thực tế có 2 loại chính:
1-/ Nhà cho hộ riêng rẽ, thường được lợp lá RSÔI
- Nhà sàn cao cẳng (1m-1,5m), kho ở bên ngoài nhà.
- Nhà sàn thấp cẳng (0,5m – 0,8m), kho ở bên ngoài
nhà.
- Nhà có 1 phần hạ xuống đất, kho ở bên trong nhà.
2-/ Nhà hẹp và dài (sàn thấp) hơn 50m, có khi đến 70m
– 80m dành cho nhiều hộ gia đình trong tôn tộc, kho lúa ở ngoài nhà.
- Loại chỉ lợp lá RSÔI.
- Loại lợp tranh hoặc vật liệu khác.
Kiểu nhà sàn thông thường cao cách mặt đất từ 0,8m tới
1m2, chiều cao trung bình của nhà là 4,5, dài khoảng 7m. Họ ở trên sàn là do
nhiều lý do:
·
Đất có độ dốc nên
làm nhà sàn để giải phóng mặt bằng.
·
Điều kiện khắc
nghiệt của khí hậu miền núi, chống khí độc, thú dữ.
·
Đất dể thấm nước,
đất tơi xốp, mùa mưa thì lầy lội, mùa nắng thì bụi mù nên họ ở nhà sàn cho sạch
sẽ.
·
Nhà sàn là sản
phẩm kế thừa của tổ tiên, ít chịu suy nghĩ cải cách, họ hành động theo thói
quen.
3-/ Vật liệu xây dựng:
- Là thảo mộc địa phương: tranh, tre, nưá, lá, vầu,
hóp,mai bương dùng làm bộ xương mái.
- Khung nhà: cột, quá giang, sà dọc, dầm sàn bằng gỗ
tốt như : êrăng (cẩm lai), cà te (gụ), săn drao (giổi), Hlok (đinh hương) để
làm cột. Grat (trám) làm quá giang, Kpang truột (ổi rừng) , hrat làm sà dọc và
dầm sàn.
- Lạt buộc: ngoài tre còn phải kể đến song, mây và các
dây rừng như đùng đình, thèm bép.
- Những vật liệu để làm vách: tre hay lồ ô đan thành
phên hay là thanh tre chẻ nhỏ buộc khít vào nhau.
4-/ Kết cấu:
- Cấu trúc bộ sườn đơn giản. Mỗi vì gồm 2 cột cái
(Kneh) đẽo tròn, chân cột chôn sâu xuống đất (1 heh = 0,4m) , đầu cột được
khoét để ôm lấy xà dọc. Ngoài ra bên cạnh cây quá giang chính cũng có thể có 1
quá giang phụ cho mỗi vì cột, cây này cũng được ngàm ở hai đầu để giữ xà dọc.
- Không có vì kèo thật mà chỉ có những hàng kèo giả
mặt kèo giả cách nhau 2 heh = 0,8m).
- Kết cấu sàn: dầm ngang được ốp vào cột cái bằng ngàm
khoét vào dầm và cột xiết chặt bằng dây mây, cột theo hình chữ thập.
- Mái nhà thường có 2 mái, đôi khi có thêm 2 mái phụ ở
đầu hồi, trên mái cũng như trên đường nóc không có trang trí gì cả.
- Vách phên ở 2 đầu hồi thẳng đứng, còn vách phên 2
bên thì ngã ra ngoài so với mặt sàn (hạ thu thượng thách).
- Nhà có 2 cửa đi đặt gần chính giữa 2 hồi. Cửa trước
nhìn ra lối xuyên thôn dành cho khách và đàn ông, cửa sau dành cho đàn bà và
người nhà. Chổ góc hai hồi nhà có sàn nước, dùng để rửa chân.
- Lên nhà bằng cầu thang bằng gổ hay tre.
- Nhà không có cửa sổ trông rất bưng bít, tối tăm.
5-/ Không gian bên trong:
Bước vào nhà chúng ta dễ để ý đến cái Bếp, nhà nhỏ
thí, 2 cái.Nhà dài thì nhiều bếp, mỗi bếp một hộ, cạnh bếp có chổ để củi, phiá
trên bếp là dựa treo bằng tre đan để hun khói thực phẩm (sấy thóc). Ché rượu
đặt ở góc nhà, nơi dễ thấy nhất.
- Không có tủ, quần áo treo , móc rất luộm thuộm.
- Cả nhà sàn chổ nào cũng có thể ngũ được, chân quay
về bếp lửa, đầu hướng về vách phiá trên. Vách bên kia để gùi đựng quần áo, nhà
không có vách ngăn gì cả.
- Đôi khi trên xà ngang họ làm cái dàn để đựng đồ lặt
vặt.
Ở những ngôi nhà dài chứa khoảng 10 gia đình, sống
quây quần trong đó. Ở giữa nhà, là một dãy bếp đặt theo chiều dọc của nhà sàn,
mỗi gia đình một bếp. Dọc theo mặt vách là một dọc chổ ngũ chạy từ đầu nhà đến
cuối nhà và được chia thành từng ngăn cho mỗi gia đình, bên kia vách người gia
đình để ché rượu, gùi thóc, gùi đựng quần áo và trên vách treo chiêng, còng,
rìu, xà gạo, chổ để củi, đồ linh tinh.
III - NHÀ
KHO:
Tại xã LAT, người K’HO cất thêm 1 nhà sàn nhỏ để chứa
lương thực, phiá dưới là chổ để công cụ, củi thô. Họ bố trí cách xa nhà ở từ 5m
– 10m vì sợ nhở cháy nhà thì lương thực ăn quanh năm vẫn còn.
Kiến trúc cũng giống như nhà ở, chỉ có 1 cửa và vách
không nghiêng ra, quy mô nhỏ và cao hơn nhà ở.
VI - NHÀ RẪY (CHÒI):
Ngoài nhà ở, Người Mạ còn cất thêm 1 chòi nhỏ nơi họ
làm nương rẫy. Hiện nay có những lúc mà những gia đình sống ở trên rẩy luôn
trong thời gian làm luá, vì rẫy của họ ở cách xa buôn làng, có chổ tít phiá bên
kia sông Đồng Nai. Mỗi lần đi là họ dùng xuồng độc mộc xuôi theo dòng Đạ tẻh mà
lên trên ấy. Lúc đó nhà cửa họ để trống như nhà hoang. Ta có thể thấy:
- Nhà: nơi ở chính thức, nơi thờ cúng, đón tiếp khách
và tổ chức các nghi lễ trong năm (chức năng xã hội, tôn giáo và che đậy bảo
vệ).
- Chòi: Dựng ở nơi sản xuất trong vòng vài ba năm. Khi
nào đất hết màu mở, họ dời chòi đi nơi khác (chức năng liên quan đến sản xuất).
Khi vào 1 làng, ta ít gặp vườn tược, trái lại tới
chòi, cây cối hoa màu rất nhiều. Chòi là nơi ở người sản xuất, đồng thời là nơi
chăn nuôi. Khi cuộc sống đã định cư, nhưng sản xuất vẫn còn du canh thì cái
chòi vẫn còn tồn tại.
V - NHÀ LÀNG:
Người Thượng không có nhà rông như phần lớn các dân tộc
khác. Thay vào đó họ coi nhà của vị chủ làng là nơi đại diện cho làng. Phần lớn
sinh hoạt của làng được tổ chức nơi đây.
VI - NGHIÃ ĐỊA:
Chổ ở cuối cùng, thường được đặt ở cuối làng, cây xanh
cách ly chưa đủ bảo đảm.
VII- THẦN THOẠI VỀ NHÀ Ở:
Thuở ban đầu, loài người không có nhà, người ta ở trên
cây rừng. Thấy cây nào được thì ở. Một hôm thần NDU thấy một người tên DOÊ đang
ẩn núp trên ngọn câyMƠHI là cây thần thường trú ngụ. Muốn che chở người đó,
thần Ndu làm cho lá cây không thấm nước mưa và mưa không ướt được. Từ ngày đó
người đó kiếm cây MƠHI làm cây trú ẩn.
Sau đó BUNG về âm phủ đem tre, rồi rạ lên, BUNG dạy
cho người ta làm nhà bằng tre, mái lợp rạ. Từ ngày cây đa lấy sắt cho con người
ta, người ta mới làm ra dao, rìu, rựa. BUNG cho người ta tất cả cây to trên
rừng, đủ các thứ gỗ để xây cất. BUNG còn dạy cách thức đẽo cột nhà.
Con mọt dạy cho người ta cách đục gỗ bằng cái khoan để
chắp nối gỗ với nhau. Từ đó người ta mới bắt chước con mọt đẻo gỗ. Mỗi khi cần
chắp nối thì đục 1 cái lổ trong khúc gỗ để đút một khúc gỗ khác vào.
C - PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN
CỨU
Nhằm mục đích cải tạo khu vực cư trú và nhà ở cho đồng
bào dân tộc Mạ, chúng tôi thử đề nghị các giải pháp về ngôi nhà ở, sao cho phù
hợp với sinh hoạt, phong tục tập quán của họ, dựa trên nghiên cưu về:
1-/ Con người và đặc tính dân tộc:
- Về hoàn cảnh địa lý, điều kiện thiên nhiên.
- Ngôi nhà truyền thống và mối quan hệ đối với con
ngưới ấy
Để tìm ra:
- Những đặc điểm tiềm ẩn.
- Những bước phát triển và chiều hướng phát triển.
- Mối tương quan giữa nó với quá trình phát triển kinh
tế xã hội. Từ đó chọn lọc, kế thừa và phát huy những điều tốt đẹp và cụ thể hoá
qua ngôi nhà.
2-/ Ngôi nhà vẫn giữ được mối quan hệ truyền thống
chặt chẽ với một số nhà khác trong nhóm tạo thành một đơn vị sinh hoạt và sản
xuất tại điểm dân cư.
Sau đây có một số điều kiện làmtiền đề cho các giải
pháp đề nghị:
VỀ QUY HOẠCH:
- Là một điểm định canh, định cư, bố cục không gian
phải thể hiện tổ chức sản xuất mới (tập đoàn sản xuất, tiến lên hợp tác xã).
- Thể hiện được nếp sống nông thôn mới miền núi.
- Thể hiện được tính truyền thống về những sinh hoạt
của người dân tộc.
VỀ KIẾN TRÚC:
- Kiến trúc phù hợp với khung cảnh địa phưong, gần gũi
với tâm lý dân tộc của người địa phương.
- Tận dụng vật liệu địa phương, có biện pháp kỹ thuật
kéo dài niên hạn sử dụng.
- ngôi nhà là nhân tố tích cực trong việc cải tạo và
nâng cao đời sống cho người dân tộc.
- Giải pháp nhà nữa sàn nữa đất là một dạng trung gian
trong quá trình phát triển hợp lý của ngôi nhà.
VỀ KỸ THUẬT:
- Phát huy và hợp lý hoá kinh nghiệm dân gian.
- Ban lắp ghép, cơ động, thi công đơn giản, dễ thực
hiện với quy mô lớn.
- Hướng nghiên cứu dễ dàng để đi đến sản xuất hàng
loạt.
- Sẵn sàng sử dụng vật liệu mới mà vẫn phù hợp với bao
cảnh.
NHÀ Ở:
I -PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU:
Qua tìm hiểu phong tục tập tập quán và
thực tế tham quan đời sống của người Mạ ở Đạ tẻh, chúng tôi cố gắng nghiên cứu
theo phương hướng sau:
- Nêu lên một số mặt không hợp lý của ngôi nhà dân,
tìm cách cải tạo tốt hơn, đồng thời còn giữ lại những gì còn phù hợp để người
sử dụng cảm thấy nét thân thuộc, không bỡ ngỡ cái mới lạ.
- Phát huy những kinh nghiệm dân gian
theo hướng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, bố trí lại nội ốc phù hợp với nhu cầu
sử dụng và điều kiện thiên nhiên.
- Đáp ứng nhu cầu xây dựng trước mắt,
làm phong phú mặt đứng, tránh đơn điệu, thống nhất kết cấu, tiện lợi chế tạo
thi công.
II- CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ:
Theo tình hình thực tế tại Đạ tẻh hiện
nay, có 3 hướng giải quyết:
1-/ Cải tạo ngôi nhà sàn hiện tại:
Đối với nhà trong buôn chưa dời đi, sẽ
sắp xếp chổ ăn, chỗ ngũ cho hợp lý, có chú ý cải tạo cái bếp trong nhà sao cho
khó bắt cháy và thoát khói dễ dàng.
2-/ Mẫu nhà sàn cải tiến:
Từ ngàn năm nay, người dân tộc tự bằng
lòng với ngôi nhà sàn, xem như là một tổ ấm quen thuộc bảo vệ họ chống lại sức
hủy hoại của thiên nhiên. Nhà sàn có những đặc điểm:
- Cao ráo tránh được ẩm thấp của núi
rừng.
- Giải phóng mặt bằng không bị ảnh hưởng
của thế đất.
- Tránh được thú dữ quấy phá.
- Tự bản thân nhà sàn sạch sẽ hơn nhà
đất.
Và nhà sàn cũng có những khuyết điểm
không tránh khỏi:
- Tốn gỗ nhiều hơn nhà đất.
- Bất tiện trong sinh hoạt và đi lại.
Sau khi chọn lựa chúng tôi thấy ở những
vùng đất dốc hoặc có khả năng ngập nước thì mẫu nhà sàn cải tiến được xây dựng
là thích hợp.
- Nhà được cải tiến trên cơ sở sinh hoạt
truyền thống có bố trí buồng riêng cho phụ nữ. Nhà có trổ cửa sổ lấy ánh sáng
và thông gió.
- Bếp tách riêng ra khỏi nhà và có hành
lang che mưa nắng.
- Cầu thang lên nhà có mái che mưa nắng.
Nhà phù hợp cho 2 hai đoạn phát triển ít
người và nhiều người.
3-/ Mẫu nhà mới:
Thời đại đã đổi thay, truyền thống của
một dân tộc, thể hiện trong bất cứ lãnh vực văn hoá nào cũng phải đổi thay, tức
là phát triển lên. Ngay về mặt kiến trúc, tổ tiên ta đã phải giải quyết một
loạt vấn đề để tự bảo vệ chống lại sức tàn phá của thiên nhiên rồi sau đó chống
lại chính đồng loại. Và cho đến nay, ngôi nhà sàn tồn tại trong thời gian qua
có lẽ không còn thích hợp với môi trường đồng bằng đã khai thác tương đối thành
thục ổn định, thiên nhiên không còn trở lại sau mỗi lần bị con người tác động
nữa. Ngôi nhà đất ra đời với nhiều ưu thế hơn. Và để có một bước chuyển tiếp
thích hợp trong vấn đề giải quyết nhà ở cho đồng bào dân tộc sao cho vẫn dung
hòa được các yếu ố môi trường, vật tư, kỹ thuật, quan hệ xã hội, tâm lý con
người. Chúng tôi đề nghị mẫu nhà: "vừa sàn vừa đất", có những đặc
điểm sau:
- Được xây dựng ở vùng đất tương đối
bằng phẳng.
- Vẫn giữ được tính "cao ráo chống
ẩm thấp" của ngôi nhà dân tộc, thể hiện ở 2 phần:
·
Phần sàn ngũ thay
giường (điều kiện trước mắt chưa có giường mà lại tạo nét quen thuộc cho người
dân tộc) có thể sử dụng làm mặt bàn, mặt ghế, mặt phẳng sinh hoạt. Mặt sàn cách
mặt đất tự nhiên bên ngoài khoảng 1m, cách mặt lối đi trong nhà khoảng30 phân.
·
Phần sàn phiá
trong nhà được bịt kín chỉ chừa những lổ nhỏ để thông gió. Lối đi lại đắp cao
50 phân, chỉ cần ít đất đắp mà vẫn bảo đảm tính cao ráo , thoáng mát.
- Gầm sàn coi như ở ngoài nhà, sáng sủa,
thoáng đãng, dễ quét dọn. Chỉ cần nền đất nện chặt.
- Giữa những hàng cột được đóng thành
những kệ tủ để đồ đạc, vừa gọn ghẽ, vừa là vách ngăn. Ngoài ra còn làm cho liên
kết ngôi nhà thêm bền vững.
- Nhà phù hợp cho 3 giai đoạn phát
triển.
III- BỐ CỤC KHÔNG GIAN ĂN, Ở CHO
MỘT HỘ:
Từ khi rời bỏ nhà sàn vùng rừng núi với
chức năng cư trú, sinh hoạt là chính, để tiến về khai thác đồng bằng phì nhiêu,
người dân tộc thiên về săn bắn, hái lượm, làm nương rẫy sẽ càng nhận ra được ưu
thế của các yếu tố "đất", "nước" dưới sự tác động của năng
lượng mặt trời và sức lao động của người khai thác biết lợi dụng thiên nhiên
một cách có lợi nhất. Việc tạo nên 1 không gian cư trú gồm nhà ở, vườn, ao,
chuồng được xem như một vòng khép kín về chuỗi thức ăn hay là mối cân bằng tự
nhiên về sinh thái ở quy mô nhỏ là căn hộ 1 hộ. Điển hình gồm có:
* Nhà chính:
- Phòng chung:
. Nơi tiếp khách sang trọng, chổ để trưng
bày, trang trí của chủ nhà.
. Nơi sinh hoạt gia đình.
. Góc làm việc học tập.
. Chổ ăn cơm.
. Có chổ ngũ cho con trai và khách khứa.
Sinh hoạt của gia đình dân tộc truyền
thốngđược gợi lại ở không gian sinh hoạt chung. Phần riêng được dự trù nhưng đó
chỉ là để ngũ, không bó buộc là không gian riêng của cá nhân nào.
- Phòng riêng:
. 1 phòng ngũ của cha mẹ.
. 1 phòng ngũ dành cho những sinh hoạt
kín đáo cần thiết cho con gái lớn, sẽ trở thành nơi ngũ cho cặp vợ chồng mới,
trong khi chờ ra riêng.
- Bếp:
Tách riêng nhưnh vẫn gần nhà chính, được
nối bởi nhà cầu. Đối với người dân tộc bếp lửa có ý nghiã đặc biệt. Một nhúm
lửa con con đã thay đổi cách sinh hoạt của loài người từ địa vị loài thú lên
ngôi bá chủ các sinh vật. Lửa là công cụ lợi hại.
Nấu nướng thức ăn.
Rèn đúc vật dụng, làm đồ thủ công.
Xưa kia lữa đã từng vật đổ cây cối lớn,
san bằng những khu rừng rậm rạp, âm u thành nương rẫy, đưổi các con vật làm hại
người, từ con nhỏ bé như muỗi đến con to lớn như mãnh thú…
Phương thế đắc lực và đơn giản để chống
lại sơn lam chướng khí
Lữa mang lại ấm áp, ánh sáng cho con
người, có người là có lữa. Bởi thế người dân tộc dùng lữa và biết sợ lữa.
Theo thói quen, người già thích sống gần
bếp lữa (bếp coi như là một lò sưởi).
Là chổ thuận tiện để sinh hoạt, tiếp
khách thân mật.
Chổ để sinh hoạt, sản xuất phụ như đan
gùi , giỏ…
Vì vậy bếp được bố trí sàn ngũ cho người
già ở bên cạnh. Chung quanh có tường bao che bằng đất để chống cháy. Bếp cao
ngang mực sàn, dưới có chổ để củi chẻ. Trên bếp có "dựa" dùng để sấy
khô thực phẩm. Riêng khói được rút lên trên mái và thoát ra ở cửa mái.
- Nhà cầu: Không gian đệm giữa nhà và bếp, có thể
giành cho sinh hoạt ban ngày như ăn cơm, tiếp khách, trẻ em chơi đùa hoặc làm
nghề phụ như đan lát, dệt vải.
- Sân phơi: Dù to hay nhỏ, nhà nào cũng có sân. Sân là
nơi để đập lúa, phơi phóng , đan lát, làm các nghề phụ. Ngoài tác dụng kinh tế,
sân còn là nơi để tụ tập đông người mỗi khi gia đình có tang ma cưới xin. Hoặc
những ngày đẹp trời cả gia đìng ra ngắm cảnh gío mát, trăng thanh, giải trí sau
một ngày lao động mệt nhọc.
- Sân nước; giếng; nơi tắm giặt:
Bố trí hợp lý cạnh bếp, vừa kín đáo vừa thuận tiện sử
dụng.
- Cầu tiêu gia đình: kiểu hố xí hai ngăn, dùng khạp ủ
phân bón vườn. Với gia đình 6 người, mổi người 7lít phân/tháng, thời gian ủ là
2 tháng, thì chỉ cần 2 khạp 80 lít là tổ chức được nhà cầu này. Ngoài ra nhà
cầu có thể bố trí gần, tiện lợi đi lại đêm hôm.
- Chuồng trại: phục vụ chăn nuôi gia đình, bảo đảm
khoảng cách ly xa nhà, nguồn nước uống, có trồng cây xanh cách ly.
- Ao cá: Được đề nghị vì thấy có những tiện lợi sau:
. Lấy đất đào ao làm nền nhà, vách bếp.
. Lấy nước ao tưới vườn, rửa chuồng.
. Nước thải cho chảy xuống ao.
. Nuôi cá cải thiện bửa ăn.
Ngoài ra là các phần phụ thuộc linh tinh.
IV- VỆ SINH ĂN Ở:
1-/ Nước ăn và nước sinh hoạt:
- Nước ăn: nước giếng, nước mưa dự trữ.
- Nước sinh hoạt: giếng, suối.
2-/ Năng lượng nấu nướng:
- Trước mắt vẫn tạm dùng củi đốt, than,
dầu lửa, thắp sáng thì xài đèn dầu, măng sông.
- Tương lai khi tiến lên sản xuất lớn,
chăn nuôi của cụm hoặc buôn sẽ sử dụng hầm tự hoại cung cấp khí đốt cho các
nhà. Khi có điện về đây sẽ thắp sáng bằng đèn điện.
3-/ Xử lý phân rác:
a- Nhà cầu gia đình: được đề nghị kiểu
hố xí hai ngăn, vừa vệ sinh, vừa ủ được phân trồng vườn.
b- Phân chuồng và nước thải nhà bếp cho
chảy xuống ao, phân sẽ tự rã tạo thức ăn cho cá.
c- Chất thải khác được xử lý tùy theo
loại:
- Đốt lấy tro dùng cho hố xí hai ngăn.
- Chế biến làm thức ăn cho heo hoặc làm
phân bón.
- Chôn lấp dưới đất.
4-/ Cải tạo vi khi hậu:
- Chọn nhà theo hướng tốt để đón gió
mát.
- Dùng biện pháp nâng sàn đón gió.
- Trồng cây, làm dàn cây leo để giảm bức
xạ nhiệt.
- Nắng mùa đông lấy trực tiếp vào nhà.
- Gió lạnh hoặc nắng chói được che đóng
bằng cửa chống
V- KỸ THUẬT XÂY DỰNG:
1-/ Vật liệu xây dựng:
Đạ tẻh là vùng có nhiều vật liệu dùng
được vào việc xây dựng, cho nên trước mắt sử dụng vật liệu sẵn có địa phương.
Tương lai dự trù vật liệu địa phương có gia công, công nghiệp hoá chế tạo.
Trước mắt phải kể đến tre, không những
nhiều về số lượng mà còn rất phong phú về chủng loại: tre, vầu, hóp, nứa, mai,
hương, lồ ô…
- Gỗ rừng có nhiềi loại để làm nhà rất
tốt như êrăng (cẩm lai), Gụ ( kate), săn drao ( giổi), hkok (đinh hương), opat
( trâm), kpang truột ( ổi rừng)
- Gỗ trồng có mít, xoan.
- Lạt buộc: tre, dang, mây song, và các
loại dây rừng như đùng đình, thèm bép….
- Vật liệu lợp bằng thực vật: rơm, rạ, cỏ
tranh, lá cọ, lá rsôi, nứa…
- Vật liệu làm tường vách: tre, gỗ, nứa,
đất.
Các vật liệu kể trên được sử dụng kết
hợp.
Vật liệu thảo mộc thường không bền, để có
tuổi thọ cao, người ta tìm cách ngâm, tẩm chúng trước khi sử dụng. Kẻ thù nguy
hiểm nhất của vật liệu này là mối mọt. Nhà làm bằng tre, nứa hay gỗ, nếu không
ngâm chỉ được 4 – 5 năm. Nhưng nếu được ngâm kỹ có thể bền bằng mấychục năm.
Tre nứa gỗ đem ngâm trong nước, tốt nhất trong bùn khoảng 1,2 năm mới vớt lên
sử dụng.
Riêng lạt buộc thì không ngâm phải sấy
khói ở dựa bếp, mối mọt không phá hoại mà độ bền dẽo lại tăng lên.
Ngoài ra nên khuyến khích các gia đình
dân tộc tự chuẩn bị một phần nguyên liệu xây dựng bằng cách tự sãn xuất tại nhà
để tăng thêm của cải xã hội trên đất thổ cư và đất kinh tế phụ như xoan, mít,
rơm rạ, trấu, vôi…
2-/ Kết cấu:
Cải tiến và hợp lý hoá kết cấu nhà tre gổ
cổ truyền theo hướng tiết kiệm và sản xuất cấu kiện điển hình hoá dựa theo module.
Ở đây chúng tôi đề nghị module 2, có đặc điểm:
- Là tầm với tay của một người cao trung
bình (1m65).
- Là khoảng cách làm việc thích hợp cho
các cấu kiện như tre, gỗ.
- Bảo đảm không gian sử dụng phù hợp kích
thước con người.
a- Cột: là bộ phận cơ bản tạo thành bộ
khung nhà. Hệ khung cột biểu thị sức mạnh của ngôi nhà nên phải chọn cột kỹ
càng.
- Muốn làm nhà cột chôn thường phải phải
lấy gỗ có lõi chắc. Nhưng loại gỗ này chôn xuống đất hàng mấy chục năm vẫn
không mối mọt, phần cột chôn cần ngâm tẩm hoá chất.
- Muốn làm nhà cột kể trên đá tảng, phải
chọn gỗ mập, chắc.
b- Vì kèo: Do chất liệu lợp là thảo mộc
cho nên vì kèo tam giác là thích hợp. Có thể sử gỗ và tre để làm vì kèo. Trong
trường hợp muốn làm vì kèo hoàn toàn với tre thì theo hướng dẫn sau đây:
- Cột bằng diểu hoặc vầu Þ = 120mm, lỗ
luồn quá giang nên đục trên đốt cột chừng 5 cm, đục vừa khít.
- Kèo: 2 cây diễn (vầu) Þ = 10cm, Phiá
gốc cắt dưới đốt 5 cm đặt ngược lên trên, vì phần gốc phải cắt một nữa để nối
đầu kèo cho nên phải khoẻ, không được đặt phía ngọn lên nóc kèo vì thân ngọn
mỏng.
- Quá giang: tốt nhất là cây hop Þ = 6 –8
cm, thẳng đầu. Phiá gốc cắt dưới đốt cây 5 cm. Luồn hop ở đầu cột 1 rồi lần
lượt cho qua các lỗ cửa chống đứng, cuối cùng qua lỗ đầu cột 2. Ở đầu này ngọn
cạy hộp làm quá giang thường bị hỏng trong lỗ cột, ta dùng nút chêm bằng ngọn
hóp có đường kính nhỏ hơn chêm vào.
- Nối quá giang: khi không có họp dài,
đoạn nối cần có đốt khoẻ và nên đặt ở chân chống đứng thứ 2 để lỗ của chống
đứng cũng tham gia ghì giữ mối nối. Hai đầu đoạn nối oốp 2 nữa ống tre và kẹp
giữ bằng chốt tre.
- Chống đứng – chống chéo:
Dùng cây diễn phần ngọn cắt còn lại khi
làm kèo cột. Chân các chống đứng cắt dưới đốt 5 cm và đục lỗ trên đốt 12cm để
luồn quá giang, đầu thanh luồn giữa 2
thanh kèo chốt bằng con sỏ. Đầu dưới chống chéo cắt vát 2 mặt để ăn khớp vào
góc vuông giữa chống đứng và quá giang. Đầu trên cùng dùng con sỏ để nối với 2
thanh kèo.
- 2 chống chéo ở đầu cột, đầu chống chéo
gần giáp đầu chống đứng phía trên, dưới quá giang và cột đều dùng chốt để liên
kết.
- Để tránh biến dạng vì kèo còn được tăng
cường thêm các chống đứng nhỏ ở 2 đầu quá giang, giằng đầu chống chéo ở cột với
kèo.
- Ngoài ra còn được tăng cường thêm các
giằng giữ các chông đứng và chống chéo song song với quá giang.
- Con sỏ bằng gốc tre đực già vót tròn
đều va khi lắp vì kèo phải đóng thật chặt.
- Kèo tre nên làm 2 lớp được liên kết
chắc bằng then cài hay buộc:
Lớp dưới là kèo lệ
Lớp trên là kèo ốp có đường kính lớn hơn
đòn tay.
Phiá trên mỗi mấu có đục lỗ để đòn tay đi
qua.
c-/ Mái:
Nhà lợp bằng chất liệu gì cũng phải có bộ
khung để đồ vật liệu lợp. Bộ khung này gồm có đòn tay, rui, mè.
- Đòn tay làm bằng gỗ, tre, diễn hoặc hóp
để nguyên cây. Đòn tay đặt trên lưng kèo, song song với nóc, cách nhau từ 50 cm
– 70 cm.
- Rui: Đặt trên và thẳng góc với đòn tay,
cách nhau từ 15cm – 20cm hoặc thưa hơn tùy theo cách lợp và số lượng lá. Rui có
thể bằng vầu, nưá hoặc tre chẻ thành từng mảnh, bản to 4cm – 5cm.
- Mè: đè trên rui, song song với đòn tay,
cách nhau 20cm – 30cm> Mè và rui tạo thành những ô chữ nhật 15cmx20cm hoặc
25cmx35cm.
Lợp mái:
Lợp bằng lá cọ, có 4 kiểu khác nhau:
. Đè mè – xé mép: người ngối lợp ngồi
trên mái đưa đầu tàu lá chui xuống dời mè rồi xé 2 mép của nó vắt qua mè lên
bên trên, hai mép lá đã là 2 cái móc giữ lấy tàu lá tại đây. Mỗi một ô chữ nhật
được lợp 1 tàu lá theo kiểu như vậy. Bắt đầu lợp từ hàng mè dưới cùng đến hàng
lá thứ 3, lấy một cái mè khác buộc lên hàng lá đó, rồi lại tiếp tục lợp.
. Khi 2 mái đã lợp lên tới đỉnh nóc thì
người ta lợp phủ nóc theo kiểu cài găm và dóc lòng tôm là chắc chắn nhất.
. Đè mè: Kiểu lợp này mép lá không vắt
qua mè mà cứ một hàng lá lại được buộc đè ra ngoài bằng một cái mè.
. Kiểu nảy mè: là sự kết hợp 2 kiểu trên:
1 đường mè xé mép lại đến một đường mè đè.
. Kiểu lợp chài: cho những công trình
phụ, kiểu lợp lá này kém bền hơn mấy kiểu trên. Không cần rui, mè, tàu lá được
buộc ngay vào đòn tay.
- Lợp bằng rơm rạ: có 2 cách là rũ rối hay xếp thành từng lớp,
mái lợp xong thường phải được phủ lên bằng một lớp mành thưa, bên trên mành
được đè bằng một số bộ kèo chống gió.
- Lợp bằng cỏ tranh: tranh được đánh
thành từng phên. Mỗi phên được gọi là một con tranh dài khoảng 1m –1,2m.
- Lợp bằng nưá: Nưá được đập dập thành
từng phên như phên tranh.
d-/ Sàn: có 2 hướng sử dụng
- Sàn gỗ: theo thứ tự từ trên xuống có:
. Ván gỗ sàn có chiều dày 25mm.
. Dầm đở sàn.
. Dầm ngang.
- Sàn tre:
. Mặt sàn dùng tre bổ làm 4, vát nah84n ,
ken dầy.
. Thanh tre lót sàn, đường kính 60mm
–80mm cách khoảng 150mm.
. Dầm ngang.
e-/ Vách
tường:
- Đan bằng
tre nứa: nứa đập dập cả cây rồi phanh ra thành từng phá rồi đan thành vách.
Vách có thể đan theo kiểu nong đôi, nong ba hay nong chiếc. Nếu là tre thì pha
cây tre thành từng nan nhỏ (2-4cm), rồi đan lại với nhau.
- Đối với
vách bep thì kết hợp giữa đất , tre, nứa, rơm, rạ hoặc trấu. Kiểu vách này
trước hết phải làm một bộ xương bằng tre hoặc nứa nguyên cây gồm những thanh
ngang cách nhau chừng 15cm-20cm và những thanh đứng cách nhau từ 10cm-15cm.
Chúng tạo thành những ô hình chữ nhật 10cmx15cm hoặc 15cmx20cm. Đât bùn mhào
với rơm (rạ) vắt qua các ô của bộ khung, rổ vuốt hoặcc xoa bằng bàn xoa cho
phẳng cả 2 mặt, lần lượt làm từ thấp lên cao.
Một kiểu
khác là các thanh đứng được đan khít với nhau, bên ngoài trút bằng đất trộn
trấu hoặc vôi và cát.
- Vách ngăn:
làm thành từng tấm 70x180. Các tấm vách này liên kết với nhau theo kiểu bình
phong nhẹ, cơ động, dễ thay thế từng phần. Vách ngăn có thể làm bằng sản phẩm
phế liệu nông nghiệp như thân cây đay rộng, sậy, thân cây bắp, bã miá…
3-/ Thi
công và bảo trì:
a- Tổ chức
thi công:
Từ bao đời
nay, người dân tộc vẫn có truyền thống tương trợ giúp đở nhau để giải quyết lấy
nhà ở, chúng ta cần phát huy truyền thống tốt đẹp này. Để xây dựng nhà ở, gia
đình dân tộc sẽ đóng góp tiền của, công sức, thời gian…dưới sự hướng dẫn và hổ
trợ của tậpthể, nhà nước về mặt kỹ thuật, nguyên vật liệu cho vay vốn. Áp dụng
phương pháp bán lắp ghép. Dự kiến sẽ tiêu chuẩn hoá và công nghiệp hoá chế tạo.
b- Các giai
đoạn thi công:
Chuẩn bị vật
kliệu, dụng cụ, nhân lực
Lấy
đất đào ao làm nền
Dựng
khung nhà
. Đối
với nhà cột kê:
Lắp vì
Nâng
vì
Đặt
mộng nối vì
Làm
mặt sàn
Kiến
tạo mái và lợp mái
Làm
vách làm buồng, cửa sổ, cửa đi
. Đối
với nhà cột chôn
Dựng
các cột
Lắp
quá giang và xà dọc để hình thành bộ khung nhà
Điều
chỉnh góc vuông thẳng đứng tạo thế cân đối và lớp chân cột
Làm
lớp mặt sàn
Kiến
tạo mái và lợp mái
Làm
vách, làm buồng, cửa sổ, cửa đi
c- Bảo
trì:
- Hệ
cấu trúc tre, gỗ có cấu kiện gọn nhẹ, dễ tháo lắp cơ động tiện lợi cho việc
thay thế những bộ phận hư hỏng hay mục mọt.
- Các
phần vách cửa được làm dễ dàng trong những thời gian rỗi rãnh và thay thế bất
kỳ lúc nào cần.
- Mái
lợp tranh, lá hàng năm sẽ dồn xuống dưới và chôn lớp lá mới lên trên với khối
lượng bằng 1/4 số vật liệu lợp.
PHẦN KẾT LUẬN:
Trước nhu cầu thực
tế đang thôi thúc, chúng tôi hy vọng rằng những gì chấm dứt ở đây sẽ là khởi
đầu cho những đề tài nghiên cứu chi tiết hơn, những nỗ lực, cố gắng mới trong
công cuộc góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân tộc.
Xã Lát
Thuộc huyện Lạc Dương tỉnh Lâm đồng. Đó là khu vực dưới chân
đỉnh Lanbiang, một trong 3 ngọn núi cao nhất của cao nguyên Lâm Viên.
Đây là một trong những bản làng của đồng bào dân tộc tây Nguyên còn giữ
được nhiều nét văn hoá truyền thống. Đến nơi đây, du khách sẽ được
thưởng thức những nét âm vang của núi rừng qua đêm lễ hội cồng chiêng,
thưởng rượu cần cùng với thịt rừng nướng, xem các điệu múa cồng chiêng
cùng những lời ca mang âm vang của núi rừng Tây Nguyên.
Đà Lạt về xã Lát có 12 km, nhưng là cả một quang đường hấp dẫn để
khám phá. Những ngôi nhà bé như hộp diêm, những đồi thông bạt ngàn,
những trang trại trồng rau, hoa quả, hoặc ngắm nhìn hồ Suối vàng lấp
loáng dưới ánh mặt trời , nơi cung cấp nguồn nước ngọt cho Đà Lạt. Tất
cả đều là những bút vẽ chân thực nhất về một cao nguyên Lâm Viên.
Dân tộc Lạch – những cư dân đầu tiên của thành phố cao nguyên
xinh đẹp Đà Lạt. Người Lạch (hay còn viết là Lat, MLates) là tên gọi
của một nhóm cư dân nhỏ người Kho sống lâu đời trên cao nguyên Lang
Biang. “Lạch” theo tiếng địa phương có nghĩa là “rừng thưa” để chỉ vùng
rừng thông và đồi trọc từ dãy Lang Biang trải dài xuống hướng Tây Nam
bao gồm cả thành phố Đà Lạt hiện nay. Cộng đồng dân tộc Lạch, Kho này
sinh sống ở nơi với cái tên rất quen như địa danh này đã trở thành
thương hiệu: Xã Lát.
Xã Lát nổi danh hơn bất cứ địa danh nào ở Đà Lạt, và người dân ở
đây có một cuộc sống kinh tế khá cao bởi nguồn thu du lịch. Gần như bất
cứ ai đến xã Lát đều thích thâm nhập vào đời sống của cộng đồng người
dân tộc ở đây, cùng tham dự lửa trại, đi thăm vườn quốc gia BIdup, thăm
suối Vàng suối Bạc.
Xã Lát còn là nơi tạo ra những tấm thổ cẩm với hoa văn độc đáo tinh tế, mà du khách thích mua để làm kỷ niệm cho chuyến dừng chân. Bên cạnh đó, những đội múa cồng chiêng, của xã Lát là minh chứng hùng hồn về một nền văn hóa đang phát triển ở nơi này. Những tiếng cồng chiêng ngoài việc đem lại niềm vui cho khách ghé chân, là nguồn thu nhập cho cộng đồng dân cư tại đây.
Độc đáo hơn là ở đây có lại nhạc cụ khèn Mbướt với âm thanh réo
rắt càng làm cho du khách thích thú. Xã Lát có các buôn Đangya, Đưng,
BNeur và có tới 8 đội cồng chiêng chuyên nghiệp luôn có mặt trong các lễ
hội văn hóa của tỉnh và các Festival được tổ chức ở những nơi khác, đó
chính là niềm tự hào của người xã Lát.
Vào nhà người Lạch, bạn sẽ nhận được lời “niêm xá” (lời chào)
thân tình của người Trưởng thôn, được giới thiệu những chiếc cồng chiêng
treo thiêng liêng bên bếp lửa. Để khi người trưởng thôn khua một tiếng
chiêng, đã thấy âm vang của núi rừng, sông suối vọng về.
Ở quãng sân rộng phía trước, bạn sẽ được thưởng thức món thịt
rừng nướng cùng với rượu cần, thứ rượu của lễ hội, của niềm vui, của ước
mơ về cuộc sống giao hòa thân ái trong cộng đồng. Rượu ngâm bằng lá
cây, gạo nếp nên ngọt lịm từ đầu lưỡi, uống vào cứ vui lâng lâng và ngây
ngất không thôi.
Còn điệu múa của những chàng trai và thiếu nữ miền sơn cước nữa.
Trong tiếng trống, tiếng chiêng và tiếng đàn vang dội, điệu múa đơn sơ
rắn rỏi, mạnh mẽ nhưng uyển chuyển nhịp nhàng, làm cho núi rừng cũng
muốn cất lên lời ca, hát về cuộc sống cộng đồng thân ái và đầy phấn
khích của những con người nơi đây.
Một buổi chiều hòa mình vào cuộc sống nơi xã Lát dưới chân Lang Biang sẽ khiến bạn cảm thấy cuộc sống còn biết bao điều thú vị mà bạn cứ phải khám phá không ngừng.
---------
Xã Lát còn là nơi tạo ra những tấm thổ cẩm với hoa văn độc đáo tinh tế, mà du khách thích mua để làm kỷ niệm cho chuyến dừng chân. Bên cạnh đó, những đội múa cồng chiêng, của xã Lát là minh chứng hùng hồn về một nền văn hóa đang phát triển ở nơi này. Những tiếng cồng chiêng ngoài việc đem lại niềm vui cho khách ghé chân, là nguồn thu nhập cho cộng đồng dân cư tại đây.
Một buổi chiều hòa mình vào cuộc sống nơi xã Lát dưới chân Lang Biang sẽ khiến bạn cảm thấy cuộc sống còn biết bao điều thú vị mà bạn cứ phải khám phá không ngừng.
---------
Dân tộc K ’ho
(LV) - Người K’ho là một trong các dân tộc bản địa của Tây
Nguyên, họ sinh sống chủ yếu ở vùng Nam Tây Nguyên. Đến nay các lễ nghi phong
tục cổ truyền của người K’ho vẫn còn được bảo lưu và phát huy.
Làng
là đơn vị tổ chức xã hội mang tính cộng đồng của người K’ho. Mỗi làng dựng trên
vùng đất hai ba cây số vuông có thể là sườn núi cao hoặc dưới thung lũng sâu.
Ranh giới các làng được quy ước bằng các dấu mốc tự nhiên như sông suối, đỉnh
dốc.
Không gian văn hóa cồng chiêng của đồng bào K’ho tại khu du lịch
Đồi Mộng Mơ, TP Đà Lạt, Lâm Đồng.
|
Nhà
ở của người K’ho có hai dạng: nhà sàn và nhà sạp. Nhà sàn thường là của gia
đình giầu có và khá giả trong buôn. Nhà lợp tranh hai mái uốn, có vách phên
nghiêng ra ngoài nẹp tranh để chống cái lạnh. Trước đây các nhà sàn thường được
dựng cao hơn để phòng thú dữ, phía trước cửa thường có cầu thang rộng hoặc bằng
một cầu thang buộc dây hay một cây gỗ có khắc bậc. Người nghèo do ít có điều
kiện chuẩn bị nên hay làm nhà sàn thấp hoặc nhà trệt có vách hoặc hai mái úp
xuống đất.
Người
K’ho có thói quen làm vườn nhà và ngày nay đã bắt nhịp được với tập quán mới,
chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả. Đồng bào có thói quen chăn nuôi gia
súc làm sức kéo, nuôi gia cầm làm thức ăn và sản phẩm hàng hóa trao đổi. Một
phần gia súc gia cầm được dùng vào công việc tế lễ của bà con các gia đình
trong cộng đồng.
Nghề
thủ công gia đình chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, những sản phẩm của đồng bào
một phần đã thành hàng hóa giao lưu thị trường trong đó có đồ lưu niệm cho khách
du lịch. Nghề dệt vải khá phổ biến với những sản phẩm hoa văn đặc sắc. Nghề gốm
thủ công nặn tay chưa có bàn xoay cũng được bà con sản xuất quy mô nhỏ hộ gia
đình.
Trước
kia đồng bào sử dụng lương thực dưới dạng cơm lam nấu trong các ống tre tươi,
sau đó mới có nồi đất, nồi đồng và gang thay thế. Các món ăn chủ yếu được chế
biến khô để tiện ăn bốc. Nước uống đựng trong các ghè, vỏ quả bầu khô. Rượu cần
được sử dụng rộng rãi nhất là trong các dịp nghi lễ, đàn ông, đàn bà K’ho đều
hút thuốc theo kiểu lá thuốc phơi khô cuộn lại.
Ngôi nhà của đồng bào dân tộc K’ho tại Làng Văn hóa – Du lịch
các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Hoàng Huyền.
|
Trang
phục dân tộc K’ho có nhiều nét tương đồng với trang phục các dân tộc ở Trường
Sơn - Tây Nguyên. Đàn ông K’ho đóng khố, khoác chăn về mùa rét, mùa nóng ở
trần, khố của họ quấn kiểu chữ T, có hoa văn dải dọc theo chiều dài thân khố để
trang trí.
Phụ
nữ K’ho mặc váy mặc áo chui, có ba loại áo ngắn thân, áo cộc tay, áo dài. Váy
là tấm vải quấn quanh người và ngắn cạp. Nền váy màu đen, cạp, thân và gấu váy
dệt những sợi hoa văn vàng, trắng. Mùa rét phụ nữ có thói quen quàng tấm chăn
như nam giới. Trang sức K’ho có vòng cổ vòng tay bạc, hạt cườm, khuyên tai…
Hôn
nhân ở người K’ho theo chế độ mẫu hệ nên gọi là tục bắt chồng (kup bao), để đến
với hôn nhân người con trai vẫn thường chủ động làm quen với cô gái và dựa trên
sự ưng thuận của đôi nam nữ, cấm kị hôn nhân cùng huyết thống con chú con bác,
con dì con già (trừ trường hợp con cô con cậu có thể lấy nhau được). Theo chế
độ mẫu hệ con trai lấy vợ ở rể, con cái mang theo họ mẹ.
Người
con gái có quyền lựa chọn chồng, khi bằng lòng ai thì báo với mẹ cha và nhờ
người mai mối. Người làm mối mang lễ vật gồm vòng đồng, chuỗi hạt cầu hôn thì
sẽ tiến hành hôn lễ. Cô gái được mẹ cha, người mối dẫn đến nhà trai hôn lễ tổ
chức tại đó với tiệc ăn uống của gia đình, cộng đồng. Sau lễ cưới chàng trai về
ở bên nhà vợ, mang theo của hồi môn chiêng, ché, trâu, bò, đồ dùng cá nhân.
Luật
tục K’ho trai gái quan hệ trước hôn nhân không bị cấm kỵ gay gắt nhưng khi đã
có gia đình thì ngoại tình bị luật tục trừng phạt nặng nề. Hiện tượng ly hôn
rất hiếm xảy ra và phải được chủ làng ưng thuận. Chế độ một vợ một chồng K’ho
rất bền vững tạo ra mô hình gia đình phổ biến là hòa thuận.
Tang
ma của người K’ho mang tính cộng đồng cao. Quan tài làm bằng cây gỗ khoét rỗng
có nắp đậy và được trát kín kẽ hở bằng cơm nếp. An táng chôn theo đồ dùng cá
nhân của người quá cố. Tương đồng với nhà dài của người sống, người K’ho quá cố
cũng ở trong “mồ dài” mỗi gia đình có một khu mộ rộng có mái che, người chết
sau chôn kế tiếp người chết trước.
Người
K’ho tin rằng mọi mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định và
trong quan niệm của họ có một bên là thần thánh (Yang) luôn luôn phù hộ cho con
người và đối lập với các thần linh là ma quỷ, gọi chung là Chà, luôn gây tai
họa phá nhà, phá mùa, gieo rắc dịch bệnh, ăn linh hồn chết… Quan niệm của người
K’ho là các thần thích uống rượu và ăn thịt, vì thế cúng thần linh thường có
rượu cần, trâu, lợn, dê, gà… lễ cúng thần cúng Yang ở cấp độ gia đình và làng
(bon), lễ cúng ở gia đình gồm lễ gieo hạt, lễ cầu lúa nhiều bông, lễ cầu lúa
chín, lễ cúng ở cấp độ làng vào lúc lúa đứng cái xanh đòng. Khi thu hoạch xong
các nhà làm lễ cúng bên các kho thóc.
Dân
tộc K’ho có đời sống văn nghệ phong phú, độc đáo. Thơ ca của họ đậm chất trữ
tình giàu nhạc điệu. Nhạc cụ có nhiều nét tương đồng với các dân tộc ở Tây
Nguyên: Bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu, đàn ống tre. Vũ điệu K’ho được
biểu diễn trong các dịp lễ thần và sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hệ thống câu
đố, tục ngữ, thành ngữ, dân ca truyện cổ K’ho cũng rất phong phú.
Bảo
tồn phát huy văn hóa truyền thống, xây dựng cuộc sống mới với những buôn làng
văn hóa, những vùng chuyên canh cây lương thực, cây công nghiệp hình thành,
những điểm sáng du lịch phát huy trở thành những nét mới trong đời sống đồng
bào K’ho.
Dân tộc K’ho còn có tên gọi khác là Cơ Ho, Cờ Ho, Kơ Ho...
Nhóm địa phương gồm
có Cơ Ho Srê, Cơ Ho Tơ Rinh (T’ring), Cơ Ho Nộp (Tu nốp), Cơ Ho Chil, Cơ Ho
Lát (Lách), Cơ Ho Cờ Dòn.
Tiếng nói thuộc ngữ
hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer. Gần đây người K’ho mới có chữ viết theo
mẫu chữ Latinh.
Theo tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2009, người K’ho ở Việt Nam có dân số 166.112 người, cư
trú chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận.
|
Minh Phương
Nhà sàn của đồng bào K’ho: Đơn giản mà công phu
BT- ...Những căn nhà sàn dài, mái cao, đập vào mắt từ xa… vốn có
của dân tộc thiểu số K’ho trên Tây nguyên dường như đã không hề hiện diện
ở La Dạ, Đông Giang và Đông Tiến, là 3 xã có đông đồng bào K’ho của huyện
Hàm Thuận Bắc hiện nay.
Hiện nay, nhà của đồng bào K’ho ở 3 xã nói trên đa
phần giống như nhà người Kinh, hoặc là những căn nhà sàn ngắn, mái
thấp và sàn không quá cao so với mặt đất. Trong nhiều tài liệu cho hay: Người
K’ho là một trong nhiều dân tộc thiểu số ở Nam Tây nguyên và Bình Thuận. Đã có
một sự chuyển dịch của người K’ho từ vùng Đồng Nai Thượng trước đây (Lâm
Đồng) sang Bình Thuận. Quá trình chuyển dịch này diễn ra dài lâu trong
quá khứ và bộ phận người K’ho hiện nay tại Bình Thuận đã có sự giao thoa với
nếp sống, sinh hoạt của người Kinh, vì vậy, chuyện làm nhà ở tất nhiên cũng ảnh
hưởng. Trước đây, nhà ở của đồng bào K’ho được làm theo hai dạng: nhà sàn
dài hoặc nhà sàn ngắn. Nhà sàn dài, dài đến 100m, hai mái và không có vách
ngăn. Nhà sàn dài là nơi sinh sống của nhiều thế hệ, nhiều gia đình, theo dạng
mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng chiếm một khoảng trong căn nhà dài. Vật liệu sử
dụng làm nên nhà sàn dài là: gỗ, tre, nứa, lá, dây mây… Nhà càng dài, số
cột càng tăng. Sàn nhà, bao gồm nhiều phần liên kết nhau: Cột sàn bố trí dọc
theo các đà ngang chạy từ trước ra sau nhà; khoảng cách các cột trong
cùng hàng không quá dày (0,8m – 1m); hàng cột này cách hàng cột kia từ 1m
– 2,5m. Bên cạnh đà ngang là những đà dọc và khá dày bằng tre hoặc lồ ô. Khoảng
cách từ sàn xuống mặt đất thường không quá 1,2m. Nhà sàn ngắn thường dài từ 4 -
8m, duy nhất một cửa ra vào ở vị trí trung tâm căn nhà, bên ngoài cửa này
là cầu thang gỗ lên xuống. Nhà sàn ngắn là nơi ở của những đôi vợ chồng trẻ,
muốn ra riêng thay vì sống chung với người già, người lớn tuổi trong nhà dài
như trước đây.
Nhà sàn ngắn cũng không có vách ngăn. Vật dụng thường ngày được
dắt trên vách nứa, đặt trên sàn, hoặc để dọc theo bốn vách nhà. Mới đây khi lên
La Dạ, chúng tôi chứng kiến cảnh người dân làm nhà sàn ngắn. Có thể nói, phần
rui mè lợp mái, dù là mái tranh song khá dày, gần như chi chít. Trong toàn bộ
căn nhà, không hề đóng một cây đinh. Tất cả được buộc bằng dây mây và
bằng ngoàm. Một phụ nữ K’ho, tuổi ngoài 40, cho hay: Căn nhà đang làm là
của vợ chồng con gái chị. Giống như người Kinh, chị cho đất để con làm nhà
vì không muốn con sống xa chị. Nhà làm bằng gỗ, tre, nứa, nhưng để được
cái sườn nhà như tôi trông thấy, hai con chị mất hơn 2 tháng. “Nó phải tìm gỗ
tốt làm cột, chặt le làm sàn. Dây mây cũng phải đi rất xa…”. Theo chị này
để hoàn thành căn nhà, kể cả lợp tranh, người nhà của chị mất thêm chừng
2 tháng nữa. Tranh lợp trên mái nhà của đồng bào K’ho không đánh thành tấm rộng
như người Kinh thường làm, mà được kết bằng cách gập đôi cọng
tranh, giữa có thanh tre dài làm sống (như sống lưng), vì vậy rất cần nhiều rui
mè làm giá đỡ. Nhà sàn ngắn có hai mái khá xuôi, lại thiếu cửa phụ nên rất
tối… Theo quan sát của nhiều người, từ nhà sàn ngắn chuyển sang nhà trệt
hiện đại là khoảng cách không bao xa. Đây là điều lý giải vì sao tại La Dạ
nhiều hộ đồng bào đã chuyển sang làm nhà trệt. Một khi không gian sống có sự
thay đổi thì những tập quán mới sẽ hình thành.
Hoàng Hạc
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KIẾN TRÚC VÀ NHÀ Ở CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ PHÍA BẮC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN THẾ KỶ X – XVIII
TRẦN BÌNH
Tóm tắt
Nghiên cứu về kiến trúc, nhà ở của các tộc người thiểu số khu vực miền núi phía bắc, giai đoạn X – XVIII gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất do tài ghi chép,
nghiên cứu về các tộc người giai đoạn này rất hiếm hoi, nếu không muốn nói là không có. Thứ hai, việc xác định thành phần dân tộc khu vực này, ở giai đoạn đang đề cập cũng chưa rõ ràng và chưa thống nhất.
Tuy vậy, bằng các ghi chép của tiền bối, trong các loại chí mang tính địa phương, hoặc vùng, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn về văn hóa các tộc người, xu hướng biến đổi của văn hóa tộc người trong khu vực miền núi phía bắc, chúng tôi mạnh dạn đưa ra các nhận xét về đặc điểm kiến trúc dân gian cũng như nhà ở, văn hóa ở của các tộc người nói trên.
Hy vọng đây là những ý kiến có tính gợi mở và định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo, cả về kiến trúc, nhà ở cũng như các thành tố văn hóa khác của các tôc người thiểu số khu vực miền núi phía bắc nói riêng, ở Việt nam nói chung./.
1. Tài liệu ghi chép về kiến trúc nhà ở các tộc người thiểu số phía bắc Việt Nam giai đoạn thế kỷ X - XVIII
Trước hết xin được bàn về thành phần tộc người ở khu vực miền núi phía bắc giai đoạn thế kỷ X – XVIII. Cư dân được coi là bản địa, sinh sống trên lãnh thổ Đại Việt, An Nam và sau là Việt Nam bao gồm: Các tộc người nói ngôn ngữ Việt Mường (Việt, Mường, Thổ, Chứt), trong đó, Việt (Kinh) và Mường tách thành hai tộc người vào khoảng thế kỷ thứ X, Thổ tách khỏi Việt (Kinh) để hình thành tộc người riêng vào khoảng thế kỷ thứ XV – XVI (Hậu Lê); Các tộc người nói ngôn ngữ Môn – Khơ me ở miền núi phía bắc (Quảng Bình trở ra), bao gồm Mảng (Xá Mảng), Kháng (Xá Khao),
Xinh Mun (Xá Puộc), Ơ Đu (Tày Hạt), Bru – Vân Kiều (Khùa, Trì, Mang Coong, Vân Kiều); Dân tộc Tày ở vùng núi đông bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn).
Gia nhập thành phần dân tộc Việt Nam vào khoảng từ thế kỷ thứ X cho đến thứ XVIII, là các tộc người nói ngôn ngữ Tày – Thái ( Thái,
Lào, Lự, Bố Y, Giáy, Nùng, Sán Chay) ở miền núi phía bắc. Đáng chú ý nhất là dân tộc Thái, họ có mặt ở Tây Bắc khoảng thế kỷ X- XI (không kể người Tày Khao).
Các tộc người gia nhập thành phần dân tộc Việt Nam vào khoảng từ thế kỷ XV-XVIII bao gồm: Các dân tộc nói ngôn ngữ Hmông - Dao (Hmông,
Dao, Pà Thẻn); Các dân tộc nói ngôn ngữ Hoa (Hoa, Ngái, Sán Dìu); Dân tộc Khơ Me; Một số nhóm thuộc khối cư dân nói
ngôn ngữ Tạng – Miến (La Hủ, Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Côống và Si La); Một vài dân tộc nói ngôn ngữ Ca Đai (Cờ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha).
Có thể nói, việc ghi chép về văn hóa và kiến trúc, nhà ở các tộc người khu vực phía bắc được quan tâm khá sớm. Ngay từ thế kỷ IX, X,... đã có một số sách ghi chép về phong tục ở các khu vực: Việt điện U linh của Lý Tế Xuyên (7) thế kỷ XIV), Lĩnh
Nam Chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú (thế kỷ XV)... Thuộc loại sách về địa chí có Dư địa chí của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV/1435)(8). Trong cuốn địa chí này, tác giả có ghi chép về sông núi, đất đai và sản vật ở các trấn từ Quảng Nam trở ra. Thế kỷ XVI (1553) trong Ô Châu cận lục (6 quyển), Dương Văn An ghi chép về vùng Ô Châu (phủ Tân Bình và Triệu Phong), đề cập đến các yếu tố tự nhiên, xã hội, con người, di tích, danh thắng,… khu vực Quảng Bình - Quảng Nam. Từ thế kỷ XVIII về sau, những ghi chép có liên
quan đến các dân tộc Việt Nam được các học giả chú ý hơn, tiêu biểu là các ghi chép của Lê Quý Đôn, trong đó có những cuốn chứa đựng nhiều tư liệu về văn hóa tộc người như: Vân đài loại ngữ (3), Kiến văn tiểu lục và Phủ biên tạp lục. Sau đó là một số tác phẩm: Vũ trung tùy bút(5) của Phạm Đình Hổ, Tang
thương ngẫu lục (1) của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Hưng Hoá xứ phong thổ lục của Hoàng Bình
Chính, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch,Hưng Hoá ký lược (4) của Phạm Thận Duật, Cao Bằng ký lược của Phạm An Phú, Lịch triều hiến chương loại chí, Lê Trắc, Sử học bị khảo, Phạm Xuân Bảng, Nhất thống dư địa chí của Lê Quang
Định, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Phủ Man tạp lục, Vũ man tạp lục (Tiễu phủ sứ),…
2. Một số đặc trưng chính của nhà ở các tộc người thiểu số phía bắc Việt Nam giai đoạn thế kỷ X-XVIII
Các tài liệu có được chỉ cho phép hiểu biết hết sức khái quát về nhà cửa của các dân tộc, trong giai đoạn thế kỷ X – XVIII. Số tư liệu ít ỏi có được trong lĩnh vực này chủ yếu thu thập từ một vài cuốn sách đã đề cập ở trên. Để bổ sung tư liệu, chúng tôi có sử dụng các tài liệu công bố vào đầu thế kỷ XX. Sở dĩ các tài liệu này có thể tin cậy, bởi trong khoảng thời gian chúng ta đang nghiên cứu, văn hóa các tộc người thiểu số rất ít biến động, hoặc biến động không đáng kể.
Ở vùng thấp, có
thể nói, nhà cửa của người Mường, Thái, Tày và một số cư dân nói
ngôn ngữ Tày - Thái khác, có nhiều nét tương đồng về loại hình, kiến trúc, cách thức sử dụng, cũng như các kiêng kỵ, nghi lễ liên quan. Điều này không chỉ các học giả ở các thế kỷ trước, mà còn đông đảo các nhà nghiên cứu hiện nay thừa nhận. Nhà sàn của người Mường nhìn bên ngoài không khác gì nhà sàn của người Tày, người Thái, nhưng nhỏ bé và xây cất đơn giản, mộc mạc hơn. Nhà của các tộc người vùng thấp đều được làm bằng gỗ, tre, nứa, lợp bằng cỏ tranh hay lá cọ. Ngôi nhà cổ xưa thường chôn cột xuống đất. Thiết kế nhà cổ truyền theo kiểu vì cột, liên kết chủ yếu là buộc, gá hoặc dùng ngoẵm; một gian chính, hai chái, hai mái chính
hình thang cân và phẳng, hai mái đầu hồi nhỏ và thấp. Theo những nghiên cứu của J. Cuisinier và P. Grossin, người Mường ở Hòa Bình sống trong các ngôi nhà
có mái khum khum giống như mai rùa (2, tr.138-139). Những ngôi nhà cổ của họ thường nhỏ và thấp, vách làm bằng phên nứa, mái chảy xuống gần hết cửa sổ. Cửa sổ thường được thiết kế ở đầu hồi và vách phía sau. Đối với người Mường, cửa sổ ở gian thờ tổ tiên (voóng tông)
rất linh thiêng, kiêng đưa đồ vật và ngồi dựa vào đó. Tại hai đầu hồi, có cầu thang với số bậc lẻ. Cầu thang phía thờ tổ tiên (voóng tông) dành cho nam
giới, cầu thang phía bếp dành cho giới nữ. Cách bố trí nơi ăn ở trên sàn tương đối thống nhất. Phía trên (voóng tông), là nơi ngủ, phía dưới đặt bếp và là nơi sinh hoạt của gia đình. Tính theo chiều ngang sàn nhà, phía thờ tổ tiên (voóng tông), dành cho nam giới, phía giáp bếp là khu vực của phụ nữ, tiếp đó là sàn phơi và đồ đựng nước.
Trong tổ hợp kiến trúc nhà ở truyền thống của người Mường có chiếc lều nhỏ để thờ thổ thần, được dựng ở dưới vườn, đối diện với mặt tiền ngôi nhà. Vai trò tâm
linh của chiếc lều này rất quan trọng. Tuy thế, việc dựng lều thờ thổ thần, đối với người Mường, không phải bất cứ địa phương nào cũng có. Gầm sàn nhà người Mường thường được dùng phần lớn làm nơi nhốt trâu, bò, lợn và các loại gia cầm khác. Phần còn lại là nơi đặt các loại cối giã, để nông cụ, và các đồ dùng khác. Xung quanh khuôn viên cư trú của họ thường bao bọc bằng hàng rào tre, nứa hoặc các loại cây gai (dứa, xương rồng, găng,... ), có cổng ra vào. Trong khuôn viên cư trú của người Mường, ngoài nhà ở thường là vườn trồng các loại cây ăn quả lưu niên,
chè, mía, và các loại rau, đậu khác.
Theo Robequain, người Thái ở nhà sàn hình chữ nhật. Mặt trên sàn dùng để ở, gầm sàn dùng để nuôi, nhốt gia súc có rào kín xung quanh. Sàn ở cao khoảng 2m, sàn trước nhà để phơi phóng, rửa ráy. Tại đây có vại nước để rửa chân trước khi vào nhà. Bếp đặt ở giữa sàn ở, ban thờ tổ tiên, ông táo ở góc nhà. Mặt bằng sinh hoạt trên sàn nhà chia làm
hai phần: gian sát cấu thang chính là nơi tiếp khách, dành cho đàn
ông; gian phía trong, giáp cầu thang phụ là nơi dành cho
nữ ở và nấu nướng,...(6, tr.170-171)
Người Tày vùng phía
đông và đông bắc ở
nhà sàn, có hai tầng: tầng trệt nhốt gia súc; tầng sàn để ở.
Sàn cách mặt đát 1,60m, dát bằng tre bương, thang lên làm bằng gỗ tròn buộc ghép lại với nhau. Trước và sau sàn ở có sàn phơi phóng, nơi rửa, có khi làm nơi ăn cơm, ngủ nghỉ vào mùa hè. Sàn
nhà chính chia làm 2 phần:
-
Nửa
dành tiếp khách: trước ban thờ gia tiên đặt một cỗ phản. Bên trái và bên phải đạt 2 cỗ phản khác, thấp hơn để làm nơi ngủ cho đàn ông.
-
Phần
dành cho trẻ con và đàn bà được làm thành nhiều buồng kín.
-
Chính giữa mỗi phần đặt 1 bếp. Khung bếp làm bằng gỗ, lót đất sét. Trên bếp có gác, dùng để muối, hong khô các đồ vật
cần
thiết.
Người Tày ở khu vực phía Tây vùng
Đông Bắc
cũng ở
nhà sàn. Những ngôi nhà này được bố trí cửa ra vào chính ở đầu
hồi,
tiếp
theo đó là phòng đợi có mái, phòng khách dành cho đàn ông, phòng cho phụ nữ, cuối cùng là sàn rửa, phơi,... Mỗi khu vực đặt một bếp.
Người Cao Lan (nay thuộc dân tộc Sán Chay) hiện đang cư trú ở Quảng Yên, Phủ Lạng
Thương, Vình Yên, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên
Bái, Thanh Hóa,... Nhà của họ có kích thước khá lớn. Sàn nhà dài đến 18 m, rộng đến 8 m (theo
Bonifacy). Nhà làm bằng tre gỗ, lợp mái bằng cỏ gianh, sàn bằng tre, cao hơn mặt đất khoảng 1,60m; thang lên
sàn làm bằng tre, hoặc bằng tấm gỗ, đặt ở đầu hồi. Nhà không có
phên ngăn thành các buồng; Bếp đặt ở
chính giữa nhà. Sàn phơi ở đầu hồi, phía dành cho phụ nữ. Gầm sàn nhà là nơi nhốt gia súc, gia cầm (6, tr.163).
Ở vùng cao và rẻo giữa, các dân tộc sinh sống bằng làm nương rẫy, cả ở
tây bắc,
đông bắc
và miền
núi bắc
Trung Bộ,… đều ở
nhà sàn, ngoại trừ một
số
nhóm trong khối các tộc người nói ngôn ngữ Tạng
– Miến
(Hà Nhì, Lô Lô, Si La,…) và Hmông - Dao ở nhà trệt. Trong số các dân tộc ở nhà sàn, cũng có một số nhóm Dao, Tày (Lào
Cai) ở
trong các ngôi nhà nửa sàn, nửa trệt. Kiến trúc nhà của họ đa số đơn giản (cột – xà – kèo), lắp ráp bằng ngoãm, buộc bằng dây, mái có
khung gồm kèo, đòn nóc, đòn tay, dui mè và lợp bằng cỏ tranh, lá cọ, … Có một số dạng nhà điển hình như sau:
Người Dao vùng tả ngạn sông Đà, ở nhà trệt, hoặc nửa sàn nửa trệt, mở cửa hai đầu hồi; thờ tổ tiên, ăn và ngủ trên sàn; nấu ăn, sinh hoạt trên phần nền đất.
Người Dao Chàm ở phía tây Cao Bằng, ở trong những ngôi nhà sàn là
chính, một số ít ở nhà nửa sàn, nửa đất.
Các
cộng
đồng
nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me (Mảng, Kháng, Xinh Mun,
Ơ Đu,...) ở khu vực miền núi Phía Bắc, đều ở
nhà sàn. Nhà sàn của họ không khác gì nhà của người Thái Đen (Táy Đăm). Đó là loại nhà làm bằng tre, gỗ, lợp bằng có tranh, có mái hình mai rùa, cột chôn xuống đất, gầm sàn thấp, không có lan
can, ở
trên nóc tại hai đầu hồi có trang trí khau cút,...
Những
ngôi nhà sàn kiểu này, ngày nay chúng ta còn gặp rất nhiều ở vùng người Mảng (Mường Tè, Lai Châu). Đặc biệt, cung cách bố trí, sử dụng mặt bằng sinh hoạt trên sàn của các cư dân Môn – Khơ Me trong các ngôi nhà này, không khác gì
người Thái Đen. Trong ngôi nhà sàn đó cũng có cầu thang quản dành
cho đàn ông, cầu thang chan dành cho đàn bà; có tụp
cuông dành cho các chàng trai đến ở rể (du khươi); trong nhà cũng chia làm hai nửa (theo chiều ngang sàn), bênquản dành
để
thờ
cúng gia tiên (phi hươn), tiếp khách, và dành cho đàn ông, bên chan dành cho việc nấu ăn và là nơi sinh hoạt của đàn bà;... Tất cả những điều đó đều giống hệt như người Thái Đen.
Sự tương đồng điển hình giữa ngôi nhà của các tộc người nói ngôn ngữ Môn – Khơ Me với người Thái ở Tây Bắc, được hiểu theo nhiều cách. Một số học giả (trong đó có tác
giả
bài báo này) cho rằng, đó đơn thuần chỉ là sự ảnh hưởng, tiếp thu văn hóa Thái ở các cộng đồng đó. Nhưng thực tế chưa hẳn vậy, cũng như trang phục, một số học
giả
cho rằng
đó là sự ảnh
hưởng, tiếp nhận văn hóa Môn – Khơ Me của người Thái. Cơ sở của nhận định này là ở chỗ, hiện nay chúng ta thấy các đặc trưng kiến trúc, nhà ở của
các tộc
người nói ngôn ngữ Môn – Khơ Me ở phía bắc vẫn hiện diện trong kiến trúc và nhà ở của các tộc người nói ngôn ngữ Môn – Khơ Me sinh sống ở khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên.
Đặc biệt hơn nữa, trong tổ hợp
kiến
trúc nhà ở của
người Thái Đen cũng như các cư dân nói ngôn ngữ Môn – Khơ Me, hươn nọi (nơi thờ cúng bố mẹ vợ), bao giờ cũng được làm ở trong vườn và cách nhà ở khoảng dăm bảy mét. Đó là ngôi
nhà sàn nhỏ, diện tích sàn khoảng 0,5 – 1m 2, có
thể
có một
hoặc
hai mái, sàn của nó chính là nơi thờ cúng bố mẹ vợ của các ông chủ nhà. Những ngôi nhà này chỉ được tu sửa khi có cúng bái,
hoặc
vào các dịp tết nhất.
Loại hình nhà trệt vùng Tây Bắc phổ biến ở các dân tộc như nhà người Hmông, người Dao, người Tu Dí, Pa Dí, Hà Nhì Đen (Bát Xát, Lào Cai). Điển hình nhất là loại nhà đất hình lô cốt của người Hà Nhì Đen ở Lào Cai. Đây là loại nhà phòng thủ với tường đất trình dày tới 40-50cm. Ngoài
cùng là cửa vào hành lang, cửa vào không gian chính trong nhà được thiết kế lệch so với vị trí cửa vào hành lang.
Nhà loại
này không có cửa sổ, chỉ có một hai lỗ thông hơi nhỏ hình phễu phía gian khách.
Loại
nhà này không có cột, phần mái được thiết kế úp lên tường, với khung là kèo, đòn nóc, đòn tay, rui, mè. Mái loại nhà này được lợp bằng cỏ tranh, không đánh
thành phên, lợp rất dày (40-50cm).
Phần lớn nhà đất của các dân tộc ở vùng cao Tây Bắc đều thiết kế có một số buồng ngủ cho vợ chồng chủ nhà, vợ chồng con trai mới cưới, và con gái chưa lấy chồng. Hầu hết nhà đất đều có hai bếp, bếp nấu cơm và bếp sưởi. Bếp nấu cơm của người Hà Nhì, Xa Phó, Si La... đều kiêng đỏ lửa khi có ánh nắng mặt trời. Khác với vùng thấp, nhà cửa truyền thống của các dân tộc ở vùng cao được thiết kế có mái rất thấp, gần sát mặt đất để chống chọi, ngăn chặn sương mù, mưa bụi, giữ cho không gian bên trong khô ráo, ấm áp.
3. Một vài nhận xét
Nghiên cứu về nhà ở của các tộc người thiểu số phía bắc Việt Nam giai đoạn thế kỷ X – XVIII là công việc hết sức khó khăn bởi tư liệu về thành tố văn
hóa này của các tộc người trong giai đoạn đó
gần như không được ghi
chép. Nói cho đúng, khi đó chúng ta chưa có Dân tộc học, và cũng chưa có
các nhà Dân tộc học, các ghi chép chỉ là tình cờ,
trong các cuốn địa phương chí.
Có
phần
hơi chủ quan khi nhận xét rằng: sau gần một ngàn năm Bắc thuộc, các yếu tố văn hóa của cư dân An Nam bị ảnh
hưởng văn hoá Hán khá nhiều, trong đó ảnh hưởng về kiến trúc, trong đó có
nhà ở
cũng khá rõ ràng như ăn mặc và ẩm thực. Điều cần nhận thấy ở đây là, sau khi
giành được độc lập, các tộc người ở
Việt
Nam lại
bắt
đầu
công cuộc khôi phục lại văn hóa truyền thống của mình (tái cấu trúc). Khi bàn về Lễ của
nước Nam ta, Phạm Đình Hổ ghi: “Nước Nam ta từ khi thuộc về Trung Hoa vẫn theo lễ nhà Hán, lâu sau dần dà mà sai đi, lại
thêm lễ giáo của Tây Dương, và bên Lào, bên Thích, làm cho tạp
nhạp loạn xạ, từ bấy giờ mới trái khắc cả cựu lễ. Trần Quốc vượng khi bàn về Văn hóa Việt Nam thế kỷ
thứ X
cũng nhận xét tương tự:Thế kỷ X
làm nhiệm vụ lịch sử kết thúc chặng đường dài gian khổ ngàn năm chống
Bắc thuộc về chính trị - quân sự và tái cấu trúc hóa nền văn minh Việt Nam và những
“mảnh vụn’’ của nền văn minh Việt
cổ và những nhân tố ngoại sin” (10,tr.145).
Có
thể
nói, giai đoạn đang đề cập
là giai đoạn gia tăng mạnh mẽ nhất thành phần các dân tộc ở
Viêt Nam. Thực tế đó cũng làm gia tăng vẻ phong phú của kiến trúc dân gian và văn hóa ở của các tộc người phía bắcViệt Nam. Đầu thế kỷ thứ X, thành phần dân tộc ở khu vực này chỉ bao gồm các dân tộc bản địa (Việt - Mường, Môn - Khơ Me phía bắc, Tày cổ,... ). Thế Kỷ
XI – XIII gia tăng thêm các dân tộc nói ngôn ngữ Thái. Khoảng thế kỷ XV trở đi, nhất là giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII trở đi, thành phần dân tộc trong vùng được bổ sung thêm các tộc người nói ngôn ngữ Hoa, Khơ Me, Hmông - Dao và Tạng - Miến (Di). Chính vì thế mà trong các thế kỷ sau, hoàn cảnh xã hội được cải thiện, giao lưu văn hóa diễn ra thường xuyên,... việc ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau giữa các tộc người ở Việt Nam rất mạnh mẽ.
Việc ảnh hưởng văn hóa cũng như kiến trúc, nhà ở giữa các tộc người trong vùng ở giai đoạn chúng ta đang đề cập,
chỉ tập trung ở các mối quan hệ Thái với các tộc Môn - Khơ Me ở Tây Bắc và giữa Việt với Tày ở Đông Bắc. Có thể nói, quan hệ, giao tiếp văn hóa nói chung và kiến trúc, nhà ở nói riêng giữa Thái với các tộc người nói ngôn ngữ Môn – Khơ me ở phía bắc là khá sâu đậm. Đến trước Cách mạng tháng Tám 1945,
việc
Thái hóa văn hóa của các cộng đồng Xinh Mun, Kháng, Mảng, Ơ Đu,... gần như đã đạt tới tột đỉnh. Không những chỉ ở
trong những ngôi nhà kiểu Thái, mặc trang phục kiểu Thái, thực hiện các nghi lễ như người Thái, các cộng đồng này còn quên mất luôn cả tiếng mẹ đẻ của mình và lấy tiếng Thái làm công cụ giao tiếp duy nhất của mình. Ở Đông Bắc, ảnh hưởng văn hóa Việt (Kinh) đối với cộng đồng Tày rất mạnh mẽ. Có thể nói những biểu hiện của Thọ
Mai gia lễ trong đời sống của cộng đồng, việc xuất hiện chữ Nôm Tày và dùng chữ Nôm của người Tày sự xuất hiện đình chùa miếu mạo, các phường hội
(phe,...),.... trong các
làng Tày,.... đã khẳng định kết luận trên.
T.B
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Án – Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
2. Jeanne Cuisinier, Người
Mường (ĐLNV&XHH), NXB Lao
Động, Hà Nội, 1995.
3. Lê Quý Đôn, Vân
đài loại ngữ, NXB. Văn Hóa,
Hà Nội, 1962.
4. Phạm Thận Duật, Phạm Thận Duật toàn tập, NXB.Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 2000
5. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, NXB Văn học, Hà Nội, 2001.
6. Nguyễn Văn Huyên, Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt nam (tập I), NXB.KHXH,
Hà Nội,
1995.
7. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, NXB
Văn học, Hà
Nội,
2001.
8. Nguyễn Trãi, Dư
địa chí, NXB Sứ học, Hà Nội,
1960.
9. Trần
Quốc Vượng (và các tác giả), Văn
hóa học đại cương, NXB. KHXH,
Hà Nội, 1996.
10. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXBVăn
học,
2003.
11. Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía bắc), NXB
KHXH, 1978.
12. Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB
KHXH, 1984.
13. Viện Dân tộc học, Về việc xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam, NXB
KHXH. 1975.
Dân tộc K ’ho
(LV) - Người K’ho là một
trong các dân tộc bản địa của Tây Nguyên, họ sinh sống chủ yếu ở vùng
Nam Tây Nguyên. Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người K’ho
vẫn còn được bảo lưu và phát huy.
Làng là đơn vị tổ chức xã
hội mang tính cộng đồng của người K’ho. Mỗi làng dựng trên vùng đất hai
ba cây số vuông có thể là sườn núi cao hoặc dưới thung lũng sâu. Ranh
giới các làng được quy ước bằng các dấu mốc tự nhiên như sông suối, đỉnh
dốc.
Không gian văn hóa cồng chiêng của đồng bào K’ho tại khu du lịch Đồi Mộng Mơ, TP Đà Lạt, Lâm Đồng. |
Nhà ở của người K’ho có
hai dạng: nhà sàn và nhà sạp. Nhà sàn thường là của gia đình giầu có và
khá giả trong buôn. Nhà lợp tranh hai mái uốn, có vách phên nghiêng ra
ngoài nẹp tranh để chống cái lạnh. Trước đây các nhà sàn thường được
dựng cao hơn để phòng thú dữ, phía trước cửa thường có cầu thang rộng
hoặc bằng một cầu thang buộc dây hay một cây gỗ có khắc bậc. Người nghèo
do ít có điều kiện chuẩn bị nên hay làm nhà sàn thấp hoặc nhà trệt có
vách hoặc hai mái úp xuống đất.
Người K’ho có thói quen
làm vườn nhà và ngày nay đã bắt nhịp được với tập quán mới, chuyên canh
cây công nghiệp, cây ăn quả. Đồng bào có thói quen chăn nuôi gia súc làm
sức kéo, nuôi gia cầm làm thức ăn và sản phẩm hàng hóa trao đổi. Một
phần gia súc gia cầm được dùng vào công việc tế lễ của bà con các gia
đình trong cộng đồng.
Nghề thủ công gia đình chủ
yếu là trồng trọt, chăn nuôi, những sản phẩm của đồng bào một phần đã
thành hàng hóa giao lưu thị trường trong đó có đồ lưu niệm cho khách du
lịch. Nghề dệt vải khá phổ biến với những sản phẩm hoa văn đặc sắc. Nghề
gốm thủ công nặn tay chưa có bàn xoay cũng được bà con sản xuất quy mô
nhỏ hộ gia đình.
Trước kia đồng bào sử dụng
lương thực dưới dạng cơm lam nấu trong các ống tre tươi, sau đó mới có
nồi đất, nồi đồng và gang thay thế. Các món ăn chủ yếu được chế biến khô
để tiện ăn bốc. Nước uống đựng trong các ghè, vỏ quả bầu khô. Rượu cần
được sử dụng rộng rãi nhất là trong các dịp nghi lễ, đàn ông, đàn bà
K’ho đều hút thuốc theo kiểu lá thuốc phơi khô cuộn lại.
Ngôi nhà của đồng bào dân tộc K’ho tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Hoàng Huyền. |
Trang phục dân tộc K’ho có
nhiều nét tương đồng với trang phục các dân tộc ở Trường Sơn - Tây
Nguyên. Đàn ông K’ho đóng khố, khoác chăn về mùa rét, mùa nóng ở trần,
khố của họ quấn kiểu chữ T, có hoa văn dải dọc theo chiều dài thân khố
để trang trí.
Phụ nữ K’ho mặc váy mặc áo
chui, có ba loại áo ngắn thân, áo cộc tay, áo dài. Váy là tấm vải quấn
quanh người và ngắn cạp. Nền váy màu đen, cạp, thân và gấu váy dệt những
sợi hoa văn vàng, trắng. Mùa rét phụ nữ có thói quen quàng tấm chăn như
nam giới. Trang sức K’ho có vòng cổ vòng tay bạc, hạt cườm, khuyên tai…
Hôn nhân ở người K’ho theo
chế độ mẫu hệ nên gọi là tục bắt chồng (kup bao), để đến với hôn nhân
người con trai vẫn thường chủ động làm quen với cô gái và dựa trên sự
ưng thuận của đôi nam nữ, cấm kị hôn nhân cùng huyết thống con chú con
bác, con dì con già (trừ trường hợp con cô con cậu có thể lấy nhau
được). Theo chế độ mẫu hệ con trai lấy vợ ở rể, con cái mang theo họ mẹ.
Người con gái có quyền lựa
chọn chồng, khi bằng lòng ai thì báo với mẹ cha và nhờ người mai mối.
Người làm mối mang lễ vật gồm vòng đồng, chuỗi hạt cầu hôn thì sẽ tiến
hành hôn lễ. Cô gái được mẹ cha, người mối dẫn đến nhà trai hôn lễ tổ
chức tại đó với tiệc ăn uống của gia đình, cộng đồng. Sau lễ cưới chàng
trai về ở bên nhà vợ, mang theo của hồi môn chiêng, ché, trâu, bò, đồ
dùng cá nhân.
Luật tục K’ho trai gái
quan hệ trước hôn nhân không bị cấm kỵ gay gắt nhưng khi đã có gia đình
thì ngoại tình bị luật tục trừng phạt nặng nề. Hiện tượng ly hôn rất
hiếm xảy ra và phải được chủ làng ưng thuận. Chế độ một vợ một chồng
K’ho rất bền vững tạo ra mô hình gia đình phổ biến là hòa thuận.
Tang ma của người K’ho
mang tính cộng đồng cao. Quan tài làm bằng cây gỗ khoét rỗng có nắp đậy
và được trát kín kẽ hở bằng cơm nếp. An táng chôn theo đồ dùng cá nhân
của người quá cố. Tương đồng với nhà dài của người sống, người K’ho quá
cố cũng ở trong “mồ dài” mỗi gia đình có một khu mộ rộng có mái che,
người chết sau chôn kế tiếp người chết trước.
Người K’ho tin rằng mọi
mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định và trong quan niệm
của họ có một bên là thần thánh (Yang) luôn luôn phù hộ cho con người
và đối lập với các thần linh là ma quỷ, gọi chung là Chà, luôn gây tai
họa phá nhà, phá mùa, gieo rắc dịch bệnh, ăn linh hồn chết… Quan niệm
của người K’ho là các thần thích uống rượu và ăn thịt, vì thế cúng thần
linh thường có rượu cần, trâu, lợn, dê, gà… lễ cúng thần cúng Yang ở cấp
độ gia đình và làng (bon), lễ cúng ở gia đình gồm lễ gieo hạt, lễ cầu
lúa nhiều bông, lễ cầu lúa chín, lễ cúng ở cấp độ làng vào lúc lúa đứng
cái xanh đòng. Khi thu hoạch xong các nhà làm lễ cúng bên các kho thóc.
Dân tộc K’ho có đời sống
văn nghệ phong phú, độc đáo. Thơ ca của họ đậm chất trữ tình giàu nhạc
điệu. Nhạc cụ có nhiều nét tương đồng với các dân tộc ở Tây Nguyên: Bộ
cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu, đàn ống tre. Vũ điệu K’ho được biểu
diễn trong các dịp lễ thần và sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hệ thống câu
đố, tục ngữ, thành ngữ, dân ca truyện cổ K’ho cũng rất phong phú.
Bảo tồn phát huy văn hóa
truyền thống, xây dựng cuộc sống mới với những buôn làng văn hóa, những
vùng chuyên canh cây lương thực, cây công nghiệp hình thành, những điểm
sáng du lịch phát huy trở thành những nét mới trong đời sống đồng bào
K’ho.
Dân tộc K’ho còn có tên gọi khác là Cơ Ho, Cờ Ho, Kơ Ho...
Nhóm địa phương gồm có Cơ Ho Srê, Cơ Ho Tơ Rinh (T’ring), Cơ Ho Nộp (Tu nốp), Cơ Ho Chil, Cơ Ho Lát (Lách), Cơ Ho Cờ Dòn.
Tiếng nói thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer. Gần đây người K’ho mới có chữ viết theo mẫu chữ Latinh.
Theo tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2009, người K’ho ở Việt Nam có dân số 166.112 người,
cư trú chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận.
|
http://langvietonline.vn/54-Dan-Toc/129437/Dan-toc-K-ho.html
Kiến trúc của cư dân bản địa- DALAT.
Cũng như các dân tộc thiểu số khác,dân tộc K’ho ở cao nguyên Lang Bian có một lối Kiến trúc truyền thống đơn giản phù hợp với môi trường sống gần gũi với thiên nhiên tại chỗ. Đó là kiểu kiến trúc nhà sàn với không gian sử dụng chính được đưa lên cao khỏi mặt đất tự nhiên một khoảng cách nhất định.
Thông thường, phần dưới sàn nhà để trống, hoặc có nơi sử dụng để chăn nuôi súc vật, hoặc là nơi chứa các vật dụng cần thiết khác.
Ngoài ra, một đặc điểm khác trong kiến trúc nhà ở của người thiểu số bản địa là hầu như không có cửa sổ. Phía trong ngôi nhà lại không ngăn thành từng phòng, kết hợp với việc chỉ có một cửa chính mái vòm. Thành thử, khi vào nhà, người ta có cảm giác như đang ở trong một hang động nào đó vậy.
Trên đây chỉ là những nét rất khái quát về kiến trúc nhà ở cổ truyền của người thiểu số bản địa Đà Lạt. Những kiểu kiến trúc như thế này ngày nay hầu như chỉ còn lại những vết tích đơn giản trong một số ít ngôi nhà của bà con người Lạch ở thôn Manline (phường 7) và xã Tà Nung mà thôi.
Annam Miradores entre Dalat et Krong-pha illustrateur Récnault Sarasin.
Những kiểu nhà sàn ở giữa Dalat- Krongpha
Dòng suối Camly uốn quanh ngọn đồi bờ Tây. Trên đỉnh đồi là nơi cư trú của Toàn quyền-1911
Kiến trúc của cư dân bản địa- DALAT.
Cũng như các dân tộc thiểu số khác,dân tộc K’ho ở cao nguyên Lang Bian có một lối Kiến trúc truyền thống đơn giản phù hợp với môi trường sống gần gũi với thiên nhiên tại chỗ. Đó là kiểu kiến trúc nhà sàn với không gian sử dụng chính được đưa lên cao khỏi mặt đất tự nhiên một khoảng cách nhất định.
Thông thường, phần dưới sàn nhà để trống, hoặc có nơi sử dụng để chăn nuôi súc vật, hoặc là nơi chứa các vật dụng cần thiết khác.
Trong khi đó, nhà đất đã xuất hiện khá lâu trong kiến trúc của người
thiểu số bản địa Đà Lạt, và trong thực tế, ngày càng tỏ ra lấn át loại
hình "nhà sàn". Mặc dù vậy, theo nhiều nhà nghiên cứu thì, nhà sàn vẫn
là loại hình kiến trúc tiêu biểu cho kiến trúc truyền thống của các dân
tộc thiểu số nói chung; bởi vì, kiến trúc nhà cửa trước hết là một phản
ứng tự nhiên của con người trước hoàn cảnh thiên nhiên. Trong môi
trường sống tự nhiên của người thiểu số bản địa, chính nhà sàn là giải
pháp tốt nhất về không gian kiến trúc để họ có thể an toàn sinh sống,
khắc phục được những hạn chế về khí hậu ẩm ướt, địa hình làm nhà không
bằng phẳng và có thể chống lại sự tấn công của các loại thú dữ.
Về độ cao của mặt nhà so với mặt đất trong loại hình kiến trúc nhà sàn của người thiểu số bản địa Đà Lạt,
thường phổ biến từ 50 - 80cm, cá biệt có nhà mặt sàn chỉ cao chỉ khoảng
20 - 30cm. Đây cũng là một trong những đặc điểm khác với kiến trúc nhà
sàn của một số dân tộc cư trú ở khu vực bắc Tây nguyên, nơi mà độ cao
từ mặt sàn tới đất có thể 1,2 - 1,5m, thậm chí có nơi còn cao tới 2m.
Mặt khác, một trong những đặc điểm về kiến trúc nhà ở truyền thống của
người thiểu số bản địa là loại nhà dài, mà theo đánh giá của nhiều nhà
nghiên cứu thì đó là loại hình tiêu biểu cho kiến trúc truyền thống của
các dân tộc thiểu số bản địa.
Tuy nhiên, kiến trúc nhà dài của đồng bào thiểu số ở Đà Lạt hiện cũng
không còn thấy xuất hiện trong môi trường kiến trúc của khu vực này.
Tại thôn Manlin (Phường 7) và xã Tà Nung, nhà ở của đồng bào thiểu số ở
đây cũng không khác nhiều so với nhà ở của người Việt. Sự biến dạng
này cũng phù hợp với quy luật phát triển của xã hội người thượng nói
chung và của người K'ho ở Đà Lạt nói riêng.
Cũng như những người thiểu số khác ở Lâm Đồng, người thiểu số Đà Lạt sử dụng kỹ thuật làm nhà cổ truyền rất đơn giản. Họ thường sử dụng cột ngoãm để gác cây hay chặt khấc rồi dùng dây mây buộc lại. Từng gia đình phải tự tìm kiếm vật liệu để làm nhà, đến khi dựng nhà thì có sự giúp đỡ của bà con trong buôn đến giúp đỡ. Trong từng ngôi nhà của người K'ho, kết cấu sàn thường gắn bó chặt chẽ với khung nhà, trong đó cột nhà giữ vai trò là cột sàn. Đây cũng là một kiểu kết cấu "sàn treo" mà theo nhiều nhà nghiên cứu thì đó cũng là một trong những đặc trưng của kiến trúc truyền thống của người Thượng nói chung.
Bên cạnh đó, sự liên kết giữ khung cột và bộ khung mái lại không được gắn chặt với nhau thành một kiến trúc hoàn chỉnh như trong kết cấu nhà của người Việt cổ truyền, trong khi đó thì mái nhà của người thiểu số bản địa Đà Lạt, cũng như của Lâm Đồng là dạng mái nhà hai mái nghiêng. Riêng phần hai đầu hồi nhà được lợp tranh thay cho việc che bằng vách nứa. Điều đáng chú ý nhất trong kiến trúc nhà ở của người thiểu số bản địa là ở những cửa ra vào chính, thường có kết cấu dạng vòm mà bà con dân tộc gọi là "m'pồng me".
Cũng như những người thiểu số khác ở Lâm Đồng, người thiểu số Đà Lạt sử dụng kỹ thuật làm nhà cổ truyền rất đơn giản. Họ thường sử dụng cột ngoãm để gác cây hay chặt khấc rồi dùng dây mây buộc lại. Từng gia đình phải tự tìm kiếm vật liệu để làm nhà, đến khi dựng nhà thì có sự giúp đỡ của bà con trong buôn đến giúp đỡ. Trong từng ngôi nhà của người K'ho, kết cấu sàn thường gắn bó chặt chẽ với khung nhà, trong đó cột nhà giữ vai trò là cột sàn. Đây cũng là một kiểu kết cấu "sàn treo" mà theo nhiều nhà nghiên cứu thì đó cũng là một trong những đặc trưng của kiến trúc truyền thống của người Thượng nói chung.
Bên cạnh đó, sự liên kết giữ khung cột và bộ khung mái lại không được gắn chặt với nhau thành một kiến trúc hoàn chỉnh như trong kết cấu nhà của người Việt cổ truyền, trong khi đó thì mái nhà của người thiểu số bản địa Đà Lạt, cũng như của Lâm Đồng là dạng mái nhà hai mái nghiêng. Riêng phần hai đầu hồi nhà được lợp tranh thay cho việc che bằng vách nứa. Điều đáng chú ý nhất trong kiến trúc nhà ở của người thiểu số bản địa là ở những cửa ra vào chính, thường có kết cấu dạng vòm mà bà con dân tộc gọi là "m'pồng me".
Ngoài ra, một đặc điểm khác trong kiến trúc nhà ở của người thiểu số bản địa là hầu như không có cửa sổ. Phía trong ngôi nhà lại không ngăn thành từng phòng, kết hợp với việc chỉ có một cửa chính mái vòm. Thành thử, khi vào nhà, người ta có cảm giác như đang ở trong một hang động nào đó vậy.
Trên đây chỉ là những nét rất khái quát về kiến trúc nhà ở cổ truyền của người thiểu số bản địa Đà Lạt. Những kiểu kiến trúc như thế này ngày nay hầu như chỉ còn lại những vết tích đơn giản trong một số ít ngôi nhà của bà con người Lạch ở thôn Manline (phường 7) và xã Tà Nung mà thôi.
2. KIẾN TRÚC CỦA NGƯỜI VIỆT
Nói đến Đà Lạt, người ta vẫn thường nghĩ ngay đến một vùng du lịch mà
trong đời của mỗi một con ngời, ai cũng đều có một ước mong được một
lần đặt chân tới. Ẩn hiện giữa những rừng thông bạt ngàn, những vườn
hoa muôn sắc màu là những công trình kiến trúc vừa duyên dáng lại vừa
độc đáo. Cùng với cảnh quan thiên nhiên, kiến trúc Đà Lạt chính là hạt
nhân hấp dẫn lòng người. Có lẽ không ở đâu trên đất nước ta, kiến trúc
và môi trường đã được hòa nhập một cách tài tình và khéo léo như ở
Đà Lạt. Các công trình kiến trúc ở Đà Lạt, nhất là những công trình cũ,
đều rất xinh đẹp, không cái nào giống cái nào, nhưng vẫn tạo nên một
phong cách rất thống nhất…
Thực tế đã chứng minh Đà Lạt là một vùng di sản kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên cực kỳ lý thú. Đó là một sự thật không thể phủ nhận. Và cũng phải thấy rằng, từ một vùng rừng núi hoang vu, hẻo lánh, Đà Lạt đã phát triển một cách nhảy vọt để trở thành một đô thị hiện đại. Có thể nói, nếu không có nhu cầu xây dựng trạm điều dưỡng của ngời Pháp ở Đà Lạt, để từ đó phát triển dần thành một thành phố du lịch và nghĩ dưỡng nổi tiếng, thì ngày nay, có thể Đà Lạt vẫn chỉ là một vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh hoặc cũng chỉ là một thị trấn nhỏ thường thấy ở các vùng rừng núi của nước ta. Tuy nhiên, sự kiện này đều có hai mặt. Thủa ban đầu, đô thị Đà Lạt là sản phẩm của chủ nghĩa thực dân Pháp, và nó chỉ phục vụ cho lợi ích cá nhân của người Pháp ở thuộc địa. Nhưng mặt khác, đô thị Đà Lạt cũng là sản phẩm của nền văn hóa Pháp, sản phẩm của nền văn minh công nghiệp thế kỷ XX. Những tuyến đường giao thông được mở mang thuận tiện và hữu ích. Những đồ án thiết kế cùng những công trình kiến trúc hiện đại, độc đáo, những thắng cảnh nhân tạo … đều là những sản phẩm đáng cho chúng ta trân trọng, giữ gìn và phát huy. Đó cũng là những sản phẩm mà nhân dân lao động, người Kinh cũng như người Thượng, đã phải đổ biết bao mồ hôi, nước mắt và xương máu để tạo lập nên và góp phần làm cho vùng đất này trở thành một đô thị đẹp nổi tiếng của nước Việt Nam ta.
Thực tế đã chứng minh Đà Lạt là một vùng di sản kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên cực kỳ lý thú. Đó là một sự thật không thể phủ nhận. Và cũng phải thấy rằng, từ một vùng rừng núi hoang vu, hẻo lánh, Đà Lạt đã phát triển một cách nhảy vọt để trở thành một đô thị hiện đại. Có thể nói, nếu không có nhu cầu xây dựng trạm điều dưỡng của ngời Pháp ở Đà Lạt, để từ đó phát triển dần thành một thành phố du lịch và nghĩ dưỡng nổi tiếng, thì ngày nay, có thể Đà Lạt vẫn chỉ là một vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh hoặc cũng chỉ là một thị trấn nhỏ thường thấy ở các vùng rừng núi của nước ta. Tuy nhiên, sự kiện này đều có hai mặt. Thủa ban đầu, đô thị Đà Lạt là sản phẩm của chủ nghĩa thực dân Pháp, và nó chỉ phục vụ cho lợi ích cá nhân của người Pháp ở thuộc địa. Nhưng mặt khác, đô thị Đà Lạt cũng là sản phẩm của nền văn hóa Pháp, sản phẩm của nền văn minh công nghiệp thế kỷ XX. Những tuyến đường giao thông được mở mang thuận tiện và hữu ích. Những đồ án thiết kế cùng những công trình kiến trúc hiện đại, độc đáo, những thắng cảnh nhân tạo … đều là những sản phẩm đáng cho chúng ta trân trọng, giữ gìn và phát huy. Đó cũng là những sản phẩm mà nhân dân lao động, người Kinh cũng như người Thượng, đã phải đổ biết bao mồ hôi, nước mắt và xương máu để tạo lập nên và góp phần làm cho vùng đất này trở thành một đô thị đẹp nổi tiếng của nước Việt Nam ta.
Người giữ hồn văn hóa truyền thống của dân tộc K'Ho
28/11/2013 12:59 SA
Trong một lần về dự Hội nghị Tuyên dương gia đình văn hóa tiêu biểu
của huyện Đơn Dương, chúng tôi theo chân các anh chị công tác tại Phòng
Văn hóa - Thông tin đến thăm gia đình bà Roda Nai Linh ở tổ dân phố M’
Lọn, thị trấn Thạnh Mỹ - một trong 12 gia đình văn hóa tiêu biểu của
tỉnh được chọn đi dự Hội nghị Tuyên dương gia đình văn hóa tiêu biểu
xuất sắc toàn toàn quốc lần thứ II (năm 2013). Ở đây, người ta thường
gọi bà bằng cái tên thân mật là “Mọ Hưng”, bởi bà là người giữ hồn văn
hóa truyền thống của dân tộc K’Ho.
Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà sàn, được làm bằng gỗ, rộng khoảng 60m2. Nội thất bên trong căn nhà này không giống như những ngôi nhà khác, mà thay vào đó là những đồ dùng gần gũi trong đời sống, như các dụng cụ sản xuất, canh tác, các vật dụng của đồng bào dân tộc bản địa Nam Tây Nguyên. Các hiện vật trưng bày được sắp xếp, bài trí theo bố cục từng chủ đề như: Các loại nhạc cụ cồng, chiêng, đàn, sáo…; công cụ phục vụ săn bắt hái lượm như nỏ, cung tên, lao, xà gạc, nơm, chụp mối…; các vật dụng dùng trong sinh hoạt như nồi đồng, chóe, đồ gốm…; những sản phẩm đan lát như thổ cẩm, các loại gùi, nong nia…; những nhạc cụ dân tộc truyền thống được làm bằng tre, lồ ô hay quả bầu khô… Trong đó, nhiều hiện vật không chỉ có giá trị về vật chất mà còn có giá trị rất lớn về mặt tinh thần cho thế hệ con cháu mai sau. Đây thực sự là một bảo tàng thu nhỏ về văn hóa, văn nghệ dân gian của dân tộc K’Ho nói riêng và đồng bào dân tộc ở Nam Tây Nguyên nói chung.
Hàng năm, gia đình bà đã đón tiếp nhiều đoàn khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, các đài truyền hình ở Trung ương, địa phương đã phản ánh qua các phóng sự ghi nhận những đóng góp của bà trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc, qua đó nhằm tuyên truyền sâu rộng đến đông đảo người dân địa phương và để thế hệ trẻ noi theo.
Bà Roda Nai Linh niềm nở cho biết: Bà con dân tộc K’Ho, Chu Ru ở Đơn Dương, vùng Nam Tây Nguyên có bề dày văn hóa truyền thống rất phong phú. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người nói chung, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang dần bị mai một, nhất là vào những năm 1990, khi cuộc sống của người dân còn khó khăn, người ta nghĩ nhiều đến cái ăn, cái mặc hàng ngày hơn là gìn giữ lại những chiếc trống da nai hay những chiếc chiêng cổ... Không ít người đã bán đi vật báu của gia đình, dòng họ mình. Trong thời kỳ đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế và cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu số ở đây cũng không tránh khỏi sự tác động của văn hóa ngoại lai.
Ngôi nhà sàn của chị Roda Nai Linh - nơi lưu giữ và bảo tồn văn hóa bản địa. Ảnh: Văn Công
Trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của cha ông để lại, hơn ai
hết, với vai trò là cán bộ công tác trong Mặt trận Tổ quốc gắn bó mật
thiết với cộng đồng, bà và các thành viên trong gia đình đã gìn giữ ngôi
nhà sàn độc đáo nhất vùng này, cùng nhiều đồ vật có giá trị văn hóa của
các dân tộc Nam Tây Nguyên. Điều đặc biệt, sau gần 70 năm xây dựng,
ngôi nhà vẫn tồn tại, vẫn giữ được kiến trúc và hình dáng nguyên vẹn.
Không chỉ sưu tầm, lưu giữ và bảo quản những hiện vật gắn liền với đời sống vật chất của người dân bản địa, mà bà còn dày công sưu tầm và phát huy những sản phẩm văn hóa có giá trị trong đời sống tinh thần của người K’Ho. Bà Roda Nai Linh cho biết thêm: Trong một thời gian khá dài những bài hát, điệu múa Aria truyền thống của dân tộc K’Ho ở đây dường như bị lãng quên. Người già ai cũng lo thất truyền, còn lớp trẻ thì thờ ơ. Riêng bà Roda Nai Linh thì không nghĩ vậy mà bà tìm cách giữ và “truyền lửa” cho lớp trẻ. Sau những giờ lên lớp, các cháu nhỏ trong gia đình, trong khu dân cư được bà truyền dạy lại những bài hát, điệu múa Aria truyền thống của người K’Ho bằng niềm say mê cháy bỏng. Không phụ lòng bà, hết thế hệ này, đến thế hệ khác, các cháu của bà giờ đều là hạt nhân văn nghệ ở tỉnh và địa phương. Mỗi lần, huyện hay thị trấn tổ chức liên hoan văn hóa, văn nghệ, các thành viên trong gia đình bà đều tích cực tham gia và đạt giải cao. Điều đó càng thôi thúc bà và các con cháu ngày đêm luyện tập để truyền lại cho nhiều người cùng biết, cùng giữ lấy nét đẹp văn hoá K’Ho truyền thống của dân tộc mình.
Có thể nói, trong những năm qua các ban, ngành, đoàn thể và các địa phương trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều nỗ lực, giải pháp để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số bản địa. Việc bà Roda Nai Linh giữ được ngôi nhà sàn xưa với những hiện vật, những bài hát, điệu múa của đồng bào dân tộc mình thật đáng trân trọng.
Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà sàn, được làm bằng gỗ, rộng khoảng 60m2. Nội thất bên trong căn nhà này không giống như những ngôi nhà khác, mà thay vào đó là những đồ dùng gần gũi trong đời sống, như các dụng cụ sản xuất, canh tác, các vật dụng của đồng bào dân tộc bản địa Nam Tây Nguyên. Các hiện vật trưng bày được sắp xếp, bài trí theo bố cục từng chủ đề như: Các loại nhạc cụ cồng, chiêng, đàn, sáo…; công cụ phục vụ săn bắt hái lượm như nỏ, cung tên, lao, xà gạc, nơm, chụp mối…; các vật dụng dùng trong sinh hoạt như nồi đồng, chóe, đồ gốm…; những sản phẩm đan lát như thổ cẩm, các loại gùi, nong nia…; những nhạc cụ dân tộc truyền thống được làm bằng tre, lồ ô hay quả bầu khô… Trong đó, nhiều hiện vật không chỉ có giá trị về vật chất mà còn có giá trị rất lớn về mặt tinh thần cho thế hệ con cháu mai sau. Đây thực sự là một bảo tàng thu nhỏ về văn hóa, văn nghệ dân gian của dân tộc K’Ho nói riêng và đồng bào dân tộc ở Nam Tây Nguyên nói chung.
Hàng năm, gia đình bà đã đón tiếp nhiều đoàn khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, các đài truyền hình ở Trung ương, địa phương đã phản ánh qua các phóng sự ghi nhận những đóng góp của bà trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc, qua đó nhằm tuyên truyền sâu rộng đến đông đảo người dân địa phương và để thế hệ trẻ noi theo.
Bà Roda Nai Linh niềm nở cho biết: Bà con dân tộc K’Ho, Chu Ru ở Đơn Dương, vùng Nam Tây Nguyên có bề dày văn hóa truyền thống rất phong phú. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người nói chung, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang dần bị mai một, nhất là vào những năm 1990, khi cuộc sống của người dân còn khó khăn, người ta nghĩ nhiều đến cái ăn, cái mặc hàng ngày hơn là gìn giữ lại những chiếc trống da nai hay những chiếc chiêng cổ... Không ít người đã bán đi vật báu của gia đình, dòng họ mình. Trong thời kỳ đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế và cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu số ở đây cũng không tránh khỏi sự tác động của văn hóa ngoại lai.
Ngôi nhà sàn của chị Roda Nai Linh - nơi lưu giữ và bảo tồn văn hóa bản địa. Ảnh: Văn Công
Không chỉ sưu tầm, lưu giữ và bảo quản những hiện vật gắn liền với đời sống vật chất của người dân bản địa, mà bà còn dày công sưu tầm và phát huy những sản phẩm văn hóa có giá trị trong đời sống tinh thần của người K’Ho. Bà Roda Nai Linh cho biết thêm: Trong một thời gian khá dài những bài hát, điệu múa Aria truyền thống của dân tộc K’Ho ở đây dường như bị lãng quên. Người già ai cũng lo thất truyền, còn lớp trẻ thì thờ ơ. Riêng bà Roda Nai Linh thì không nghĩ vậy mà bà tìm cách giữ và “truyền lửa” cho lớp trẻ. Sau những giờ lên lớp, các cháu nhỏ trong gia đình, trong khu dân cư được bà truyền dạy lại những bài hát, điệu múa Aria truyền thống của người K’Ho bằng niềm say mê cháy bỏng. Không phụ lòng bà, hết thế hệ này, đến thế hệ khác, các cháu của bà giờ đều là hạt nhân văn nghệ ở tỉnh và địa phương. Mỗi lần, huyện hay thị trấn tổ chức liên hoan văn hóa, văn nghệ, các thành viên trong gia đình bà đều tích cực tham gia và đạt giải cao. Điều đó càng thôi thúc bà và các con cháu ngày đêm luyện tập để truyền lại cho nhiều người cùng biết, cùng giữ lấy nét đẹp văn hoá K’Ho truyền thống của dân tộc mình.
Có thể nói, trong những năm qua các ban, ngành, đoàn thể và các địa phương trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều nỗ lực, giải pháp để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số bản địa. Việc bà Roda Nai Linh giữ được ngôi nhà sàn xưa với những hiện vật, những bài hát, điệu múa của đồng bào dân tộc mình thật đáng trân trọng.
Lê Văn Trình (Nguồn: Bản tin Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
Annam Miradores entre Dalat et Krong-pha illustrateur Récnault Sarasin.
Những kiểu nhà sàn ở giữa Dalat- Krongpha
Dòng suối Camly uốn quanh ngọn đồi bờ Tây. Trên đỉnh đồi là nơi cư trú của Toàn quyền-1911
Làng Thượng gần hạ lưu sông Neutong
Một kiểu nhà sàn ở Xã Lat