Đà Lạt. Và bản đồ tạo nên thành phố…
http://www.tamdaoconf.com/vi/2015/08/23/3772/
Phiên toàn thể 2 : Nghiên cứu này được thực hiện trong bối cảnh chào mừng năm giao lưu Pháp-Việt 2013-2014. Trong khuôn khổ các hoạt động chào mừng, tuần lễ văn hóa Đà Lạt (9-15/12/2013) đã được tổ chức và sự kiện mở màn của tuần lễ văn hóa chính là lễ khai mạc triển lãm «Đà Lạt. Và […]
Ngày08 / 2015
Nghiên cứu này được thực hiện trong bối cảnh chào mừng năm giao lưu Pháp-Việt 2013-2014. Trong khuôn khổ các hoạt động chào mừng, tuần lễ văn hóa Đà Lạt (9-15/12/2013) đã được tổ chức và sự kiện mở màn của tuần lễ văn hóa chính là lễ khai mạc triển lãm «Đà Lạt. Và bản đồ đã tạo nên thành phố…» diễn ra ngày 9/12/2013 tại phòng triển lãm Hòa Bình, thành phố Đà Lạt. Ngoài ra, đây cũng là thời điểm kỷ niệm 120 năm ngày bác sĩ Yersin khám phá ra cao nguyên Lang Biang với những điều kiện tự nhiên ưu đãi, nơi sau này hình thành nên thành phố Đà Lạt ngày nay.
Để nhắc đến lịch sử đô thị 120 năm của thành phố Đà Lạt, vốn còn rất nhiều điểm còn chưa được biết đến một cách thấu đáo, Olivier Tessier, Trưởng đại diện của Viện Viễn đông Bác Cổ ÉFEO tại Việt Nam và tôi – những người tham gia vào xây dựng đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã quyết định lựa chọn góc tiếp cận bằng công cụ bản đồ lịch sử. Góc tiếp cận này nhanh chóng thể hiện sự phù hợp và độc đáo của mình trong việc làm sáng rõ cả một mảng trong lịch sử của vùng, nhất là những điểm còn đang được tranh luận hiện nay về những thách thức và phương pháp cần áp dụng vào mục đích giữ gìn di sản đô thị. Nghiên cứu tài liệu đã được chúng tôi thực hiện ở bốn nước với sự hỗ trợ của nhiều đồng nghiệp, chúng tôi cũng được nhiều cơ quan nhà nước, tư nhân và cá nhân tạo điều kiện để tiếp cận được với các nguồn tài liệu nguyên bản; nhân đây chúng tôi xin phép được gửi lời cảm ơn tới các cơ quan tổ chức và cá nhân dưới đây:
Chúng tôi đã thực hiện việc phân loại, sắp xếp và phân tích nguồn tư liệu khổng lồ này và từ đó hình dung được toàn bộ các dự án quy hoạch đô thị được thực hiện tiếp nối nhau trên cao nguyên Lang Biang và thành phố Đà Lạt trong suốt thế kỷ 20 và thậm chí cho tới tận hiện nay. Chính quyền thành phố Đà Lạt đã đặt hàng thực hiện một nghiên cứu đánh giá triển vọng vào cuối năm 2013, đề án «Điều chỉnh quy hoạch tổng thể thành phố Đà Lạt đến năm 2030, tầm nhìn 2050» đã hoàn thành. Đề án này đã được trình lên các cơ quan chính phủ và chính thức được thông qua vào giữa năm 2014. Nói như vậy để nhấn mạnh rằng, câu chuyện về lịch sử đô thị thành phố Đà Lạt mà chúng tôi chia sẻ trong bài trình bày này sẽ mang đến cho chúng ta một cái nhìn mới về thành phố – địa điểm tổ chức khóa học mùa hè lần thứ hai liên tiếp, đồng thời cũng giúp chúng ta có thêm chất liệu về chủ đề «phát triển đô thị bền vững».
Trong bài trình bày này, chúng tôi tổng hợp lại các yếu tố quan trọng nhất từ catalogue các tư liệu đã được triển lãm vào tháng 12 vừa qua. Nghiên cứu này của chúng tôi được thực hiện trên góc nhìn đa ngành, phương pháp luận và liên ngành qua đó cho thấy các chuyên ngành khác nhau về lịch sử, bản đồ và quy hoạch đô thị cũng như cách tiếp cận lịch sử và tương lai có thể đối thoại với nhau như thế nào.
1. Dẫn nhập
Việc sắp xếp trật tự của một không gian đô thị sẽ phản ánh bản chất và sự đa dạng của các mối tương quan về quyền lực, quan hệ xã hội và vị thế của các quan hệ đó, vốn là các yếu tố nhào nặn nên một đô thị kể từ khởi nguồn. Biểu diễn tất cả các quan hệ đó trong không gian, bản đồ sẽ giúp ta hình dung được những phương thức hình thành nên cấu trúc xã hội, chính trị và kinh tế của một thời kì nhất định. Tuy nhiên, mặc dù chính quyền ở các thời kỳ khác nhau, từ thời kỳ thực dân đến giai đoạn hiện nay, đã bao lần mong muốn kiểm soát được việc quy hoạch trên thực tế, nhưng phải thừa nhận một điều là Đà Lạt ngày nay không có một chút gì là kết quả của một sự phát triển liên tục và có kế hoạch.
Tính thường kỳ của lịch sử đô thị tự áp đặt như là điều hiển nhiên ngay khi ta xem xét toàn bộ những kế hoạch chỉnh trang kế tiếp nhau từ năm 1906 đến 1994. Nhìn về quá khứ, những kế hoạch trên chứng tỏ sự lạc điệu lớn giữa kế hoạch hóa đô thị được sắp xếp một cách rất hoàn hảo với việc thực thi quá hỗn độn và đôi khi lộn xộn, chứng tỏ rằng con người không cam chịu bị trói buộc vào những loại hình, hoạt động và không gian được xác định từ trước nhưng được cho là quá xa so với thực tiễn thường ngày của họ cũng như quá xa so với khát vọng cá nhân và/hoặc tập thể.
Đà Lạt có đầy đủ những đặc điểm của một thành phố nghỉ dưỡng: «Tất cả các trạm nghỉ mát trên cao mới được tạo ra và không một trạm nào là sự phát triển từ một hạt nhân nguyên thủy. Chúng không có đặc tính phát triển chậm của các thành phố cũng như không có những lệ thuộc vốn có của một trạng thái cũ. Vì vậy, không có gì thúc đẩy để định hướng toàn bộ các công trình xây dựng ở những nơi này đến sự thể hiện kiến trúc, và sự hoàn toàn tự do sáng tạo phải được thực hiện» (Indochine hebdomadaire illustré, 1943). Hơn nữa, sự phát triển đô thị ở đây được điều chỉnh theo một nguyên tắc, đó là nguyên tắc quy hoạch phân khu chức năng, tức là chia khu và chuyên môn hóa không gian đô thị tùy theo bản chất sử dụng. Việc quy hoạch đô thị tìm cách hợp lý hóa kế hoạch chỉnh trang không gian bằng cách dung hòa hai đặc tính nội tại của hệ thống thuộc địa. Thứ nhất là sự chung sống giữa dân thường và quân sự, quân đội không thể thiếu để bảo vệ dân và bảo vệ tính bền vững của hệ thống. Thứ hai là sự phân cách giữa cư dân người Âu và người bản địa. Theo những hoạch định đầu tiên, đây là nơi nghỉ dưỡng và khu đồn trú cho các đội quân, sau đó thành phố dao động giữa nhiều chức năng (trạm điều dưỡng, trung tâm nghỉ mát trên cao hướng tới du lịch và vui chơi giải trí ngoài trời, trung tâm chính trị). Đầu những năm 1960 đánh dấu sự chuyển tiếp sang đô thị hóa kiểu Việt Nam theo đúng lô-gic chuyển giao các dịch vụ công của thành phố thuộc địa cho chính quyền mới của đất nước, song cũng là sự Việt Nam hóa các khu dân cư và các khu đất được sử dụng khác của thành phố. Cho đến năm 1975, nếu như thành phố vẫn phát triển chức năng du lịch, giáo dục và tôn giáo của mình, chính là do các vấn đề về an ninh và tiện ích công đã thúc đẩy triển khai những sáng kiến trong thành phố. Thành phố cũng khẳng định khuynh hướng khoa học và đào tạo đại học. Sau một thập kỷ chìm vào giấc ngủ, sự ra đời của chính sách đổi mới (1986) đã mở đầu một động thái đô thị mới. Từ nay nhiều vấn đề mới được đặt ra liên quan đến định hướng phát triển cho thành phố. Năm 1994, một kế hoạch tổng thể đã được phê duyệt ở cấp nhà nước cao nhất nhằm xác định lại địa lý của thành phố và của vùng cho tới thế kỷ 21. Những điều chỉnh gần đây giúp chúng ta hình dung được các định hướng tương lai trong quy hoạch thành phố.
Nếu bản đồ chắc chắn tạo ra thành phố, đồng thời trong một thời gian vun đắp hình ảnh của một «nước Pháp nhỏ miền nhiệt đới» (Le Brusq, 1999), thì xem xét triển vọng của việc lập bản đồ lịch sử và kết hợp nó với việc lập bản đồ tương lai có thể làm sáng tỏ những lựa chọn được mô tả ngày nay và từ đó sinh ra sự phát triển của Đà Lạt.
2. «Phát hiện» và các chuyến khảo sát (1881-1905)
Những chuyến đi đầu tiên
Ý thức được sự thiếu hiểu biết của họ về phần lớn lãnh thổ đã trở thành một thuộc địa của Pháp từ năm 1867, chính quyền dân sự và quân sự Nam Kỳ đã đưa ra một loạt các cuộc thăm dò và trinh sát tại Tây Nguyên vào đầu những năm 1880. Chuyến thám hiểm đầu tiên do bác sĩ Paul Néis và trung úy Albert Septans thực hiện. Họ đã tới cao nguyên Lang Biang năm 1881, sau khi đã ngược lên đầu nguồn sông Đồng Nai, nơi Raoul Humann đã lập một bản đồ chi tiết «Thung lũng sông La Ngà và Đồng Nai Thượng» vào năm 1889.
Yersin không phải là người châu Âu đầu tiên đặt chân lên cao nguyên Lang Biang, nhưng chuyến thám hiểm ông thực hiện từ tháng 2 đến tháng 10/1893 nhằm đánh giá nguồn tài nguyên và xem xét khả năng xây dựng một con đường ở vùng này vẫn có ý nghĩa quyết định đối với thành phố Đà Lạt tương lai bởi vì chuyến đi này có thể coi là tiền đề cho việc khai sinh Đà Lạt. Tuy nhiên, cũng nên tương đối hóa việc ông «phát hiện» ra cao nguyên Lang Biang ngày 21/6 vì thực ra trước đó rất lâu nơi đây đã có sự hiện diện của con người (các tộc người Lát, Sre, M’nông Chil Bih).
Năm 1897, Doumer mong muốn xây dựng một trạm nghỉ mát trên cao nên đã hỏi ý kiến Yersin về điều kiện vệ sinh nơi đây, câu trả lời của ông là cao nguyên Lang Biang đáp ứng đầy đủ các tiêu chí: «độ cao phù hợp, diện tích đủ, thời tiết ôn hòa, nguồn nước có sẵn, giao thông có thể dễ tiếp cận». Cuối cùng Doumer đã cho xây dựng gần Đăng Kia (làng của tộc người Lát), còn gọi là Lang Sa «phố Pháp», một đồn lính nhỏ cùng một đài quan sát với trạm khí tượng và một trạm thử nghiệm nông nghiệp.
Từ năm 1897 đến năm 1900, nhiều phái đoàn khảo sát về địa hình, khí tượng và y tế đã được cử lên cao nguyên, với mục đích là để đánh giá khả năng tiếp cận và điều kiện vệ sinh của khu vực này. Sau một loạt các chuyến khảo sát này, hiển nhiên là việc lựa chọn Đà Lạt đòi hỏi những nguồn nhân lực và tài chính kếch xù, dẫn đến nhiều ý kiến gièm pha. Một phái đoàn nghiên cứu mới được giao cho Debay, đối thủ của Yersin, thực hiện ở miền Trung (1900), tại Bà Nà. Tuy nhiên, dự án vẫn cứ tiếp tục được thực hiện.
Các công trình quy hoạch đầu tiên về đường giao thông
Ngay từ năm 1898, công trình làm con đường bộ rải đá từ Phan Rang lên Đà Lạt đã được khởi công để có thể đi lại bằng ô tô, con đường bộ này được lát đá và rải nhựa trên chiều dài 48 km, kéo dài thêm theo con đường mòn dành cho la và xe thồ. Duy chỉ có cầu Balach và đường đi là cần phải được nâng cấp và mở rộng. Kế hoạch xây dựng tuyến đường xe lửa cũng được nghiên cứu chạy từ Tháp Chàm và bỏ qua Nha Trang. Nhưng chi phí về tài chính và thiệt hại về nhân lực của dự án này quá lớn. Số người thiệt mạng vì dự án này lên tới hàng nghìn người, đến nỗi Hồ Chí Minh đã dẫn ví dụ về việc xây các con đường Đà Lạt để minh chứng cho những tội ác ghê gớm mà thực dân đã phạm phải.
3. Một thành phố đang bước đầu thành hình (1900-1916)
Năm 1901, Đà Lạt mới chỉ có một nhúm nhà văn phòng công chính phần lớn vẫn đang còn xây dựng, một vài lán trại dành cho quân lính và một khối nhà lớn bằng gỗ được sử dụng làm khách sạn.
Nhưng ngay từ đầu, trạm điều dưỡng Đà Lạt đã được xem là nơi có hai chức năng quân sự và dân sự, mục đích này đã dẫn đến việc tổ chức không gian theo hai chức năng.
Kế hoạch Champoudry (1906)
Paul Champoudry, Thị trưởng đầu tiên của Đà Lạt được bổ nhiệm năm 1900, là người khởi xướng đồ án đầu tiên về đô thị hóa được duyệt vào năm 1906, theo đó đồ án xác định sự tách biệt song hành: một bên là tách biệt giữa hai cực quân sự (phần Bắc cao nguyên cho tới đỉnh Lang Biang) và dân sự (phần Nam cao nguyên) và một bên là tách biệt giữa các khu vực cư dân người Âu và khu vực người bản xứ. Bản đồ này được thiết kế trên cơ sở nguyên lý về chia khu nhằm tập hợp các cơ quan và sở công chính hoạt động một phần trong năm:
- Khu vực trung tâm và phía tây: khu vực hành chính, nhà thương và khu thương mại;
- Phía đông: nhà ga và trường học tiếp nối với khu nhà ở.
Trong thực tế, Đà Lạt chưa có nhiều phát triển cho đến đầu những năm 1910. Thời kỳ đó, thành phố chỉ có khoảng chục ngôi nhà nhỏ bằng gỗ và một vài tòa nhà bằng gạch tập trung thành trung tâm hành chính.
Bước ngoặt Đại thế chiến
Việc kết hợp hai nhân tố đã kéo Đà Lạt ra khỏi tình trạng đờ đẫn:
- Đại Thế chiến lần thứ nhất bùng nổ khiến cho các kiều dân khó quay trở lại chính quốc và những người này quyết định ở lại Đông Dương;
- Sau nhiều đợt hoãn đi hoãn lại, một vài công trường xây dựng hạ tầng giao thông cũng được hoàn thành (mở rộng con đường nối Phan Thiết – Djiring – Đà Lạt hoàn thành năm 1914; tuyến đường sắt Tháp Chàm-Xóm Gòn được đưa vào khai thác năm 1916).
Nghị định ngày 6/1/1916 đã chính thức hóa việc thành lập cùng lúc thị tứ Đà Lạt và tỉnh Lang Biang. Chỉ dụ của triều đình ngày 20/4/1916 đã công nhận quyết định này. Trung tâm đô thị Đà Lạt trở thành xứ Pháp nằm bên trong xứ bảo hộ Trung kỳ.
4. Thành phố phát triển (1915-1932)
Nhằm đối phó với sự tăng mạnh số lượng khách du lịch châu Âu thường xuyên đến nơi nghỉ mát này từ khi đại chiến thế giới lần thứ nhất nổ ra, toàn quyền Đông Dương lúc đó là Ernest Roume đã ra lệnh xây biệt thự và một khách sạn lớn, đó là khách sạn Lang Biang Palace (nay là Đà Lạt Palace) được xây trong các năm từ 1916 đến 1922. Về phần mình, Albert Sarraut đã thiết lập Sở Công chính chuyên tập trung cho việc xây dựng khu nghỉ dưỡng và những con đường xung quanh.
Cũng chính ở thời kỳ này mà hồ Xuân Hương được đào ngay trung tâm thành phố vào năm 1919.
Đồ án quy hoạch của O’Neill (1919): cân bằng quy hoạch lãnh thổ nghiêng về phía người dân
Vào năm 1919, Jean O’Neill đề xuất một bản quy hoạch đô thị được xây dựng theo ba định hướng chính:
- Phần ruộng đất trưng dụng cho khu doanh trại quân lính chiếm độc quyền toàn bộ phần diện tích nằm bên bờ hữu ngạn sông Cam Ly nay bị thu hẹp lại nhiều và được chia thành hai vùng đẩy lùi lên phía Tây Bắc và Đông Nam khu đô thị;
- Vùng đất tập hợp những khu đất thuộc sở hữu của Nhà nước được giải phóng, chia lô “để bán” và “để dành riêng”;
- Ở phía hạ lưu con đập của hồ nhân tạo đang xây dựng, có một khoảnh không gian được vạch định cho việc du nhập một“làng người An Nam”.
Nếu như hai khuynh hướng lúc đầu của thành phố được chấp nhận thì việc cân bằng lại sự chiếm đóng lãnh thổ nghiêng nhiều về phía người dân. Những yêu cầu nhượng đất thuộc sở hữu Nhà nước, tạm thời hay vĩnh viễn, đã minh họa cho những thay đổi trong việc sử dụng không gian.
Tiếp theo sau Chỉ dụ của triều đình ngày 11/10/1920 lập cao nguyên Lang Biang là khu tự trị nằm bên trong tỉnh được lấy tên từ cao nguyên này, nghị định ngày 31/10 đã chính thức hóa việc thành lập thị tứ Đà Lạt và xác định rõ bản chất tổ chức hành chính của thị tứ này.
Đồ án quy hoạch của Hébrard (1923) hay ý tưởng về một thành phố Đà Lạt « đô thị-thủ đô »
Bản đồ án của Hébrard hướng tới thành lập một trung tâm chính trị và hành chính quan trọng bậc nhất kết hợp với các chức năng giải trí và dưỡng bệnh. Theo đó, Hébrard đi tới xác định ba “thành phố” trong một:
- Một khu người Việt thực thụ. Ông ta lên kế hoạch mở rộng khu này về phía Bắc của làng mà O’Neill đã xác định trước. Hébrard đề xuất thiết lập khu người Việt thứ hai gần với trung tâm hành pháp trong trường hợp trung tâm này ra đời.
- Một thành phố dành cho người châu Âu cư trú gồm ba lô lớn.
- Một trung tâm hành chính sẽ sớm tiếp nhận thủ đô mùa hè của Hội đồng Đông Dương. Tiếp tục theo hướng này, ông này còn dự kiến xây dựng một “trung tâm hành pháp” lớn về phía Đông thành phố, được xem như thủ đô hành chính của Đông Dương.
Bản đồ án này hoàn toàn lờ đi vấn đề phát triển hạ tầng du lịch cũng như các yếu tố cảnh quan. Được duyệt vào năm 1923, dự án tỏ ra có quá nhiều tham vọng. Cuối cùng, chỉ có một trong ba hạng mục phân lô và con đường dạo quanh hồ là trở thành hiện thực.
Đường xá lên Đà Lạt cũng được cải thiện. Năm 1918, đã có thể đi đường bộ từ Sài Gòn lên Đà Lạt trong một ngày. Năm 1919, con đường nối Phan Rang – Đà Lạt xe cộ đã có thể đi lại được từ đầu đến cuối.
Công trường xây dựng tuyến đường sắt mất thời gian hơn rất nhiều: mãi đến năm 1938, một nhà ga mới được đưa vào sử dụng.
Đổ xô về Đà Lạt và những hệ quả đi theo
Đà Lạt cũng là một địa điểm nghỉ ngơi và giải trí. Người ta làm mọi thứ để thu hút du khách qua việc xây dựng một không gian đô thị dễ chịu và thoải mái, vừa đảm bảo các tiêu chí thẩm mĩ và thống nhất về kiến trúc. Một trong những nét hấp dẫn du khách đến thành phố này là hoạt động săn bắn thú rừng. Ngoài săn bắn ra, Đà Lạt còn giới thiệu nhiều hành trình dã ngoại đi bộ xung quanh thành phố hoặc xe hơi. Để đảm bảo đủ chỗ lưu trú cho du khách có tiền, nhiều khách sạn hạng sang đã được xây dựng (Lang Biang Palace, khách sạn Desanti, Hôtel du Parc, và mấy năm sau, khách sạn Annam và khách sạn Chic Shanghai cũng được xây dựng).
Vào năm 1930, thành phố có khoảng 350 người châu Âu sinh sống cùng với gần 10 000 người Việt Nam, cộng thêm cư dân Sài Gòn khoảng 1 700 người trong đó có nhiều người Sài Gòn đến nghỉ. Sự gia tăng dân số này khẳng định vai trò thành phố nghỉ dưỡng của Đà Lạt cũng như xu hướng đẩy dần các công trình quân sự ra khỏi khu vực trung tâm thành phố.
5. Tham vọng trái ngược của một đô thị-thủ đô (1932-1940).
Các đồ án quy hoạch của Pineau
Thập niên 1930 là thời gian của mọi tham vọng. Đồ án quy hoạch tổng thể mới với độ chính xác cao của nhà quy hoạch đô thị Pineau đã đưa Đà Lạt hướng tới một dự án quy hoạch đô thị thực thụ, hòa nhập với môi trường của nó. Một loạt đồ án-dự đoán và đồ án-kế hoạch được lập và cụ thể hóa theo chủ đề những định hướng mong muốn. Pineau nhấn mạnh tới các hạng mục mở rộng hồ nhân tạo, các khu vườn, cũng như chăm chút cho sự đa dạng về kiến trúc để phát triển Đà Lạt thành một «thành phố-khách sạn», và bảo tồn cảnh quan cũng như không gian thiên nhiên.
Nước, nhân tố tạo nên cấu trúc một đô thị-vườn
Tiếp cận và kiểm soát được nguồn nước là trọng tâm của quá trình phát triển thành phố, để đảm bảo đồng thời các vấn đề về vệ sinh, phúc lợi xã hội, thực nghiệm sinh học-nông học và đáp ứng được nhu cầu sau này đối với nước và năng lượng. Các hồ biến Đà Lạt thành một thành phố-vườn. Tuy nhiên, đến tháng 5/1932, một cơn bão gây ra mưa lớn, vỡ đập và lũ lụt mặc dù đã có biện pháp phòng ngừa, khiến 17 người chết, đều là người Việt Nam. Thảm kịch này khiến các nhà quy hoạch phải có biện pháp quản lý và phòng ngừa rủi ro tốt hơn. Việc vỡ đập cũng đẩy nhanh tiến độ các dự án mở rộng hồ (nạo vét, quy hoạch bờ bao, thành lập câu lạc bộ du thuyền mang tên «la Grenouillère» – Đầm Ếch ).
Các chức năng đô thị mới và mở rộng cảnh quan
Năm 1936, thị xã Đà Lạt được tổ chức lại thành hai khu vực đô thị nội đô và ngoại ô. Đà Lạt nổi lên với nhiều công sở và cơ quan đại diện cho quyền lực của thực dân. Hoàng đế Bảo Đại thường xuyên lưu tại đây. Nhiều tiện ích công mới phát triển: một bệnh viện lớn được xây dựng vào năm 1932, nhà ga và khu vực chợ được quy hoạch lại, trường trung học được đổi tên thành trường Alexandre Yersin vào năm 1935, phân viện của Viện Pasteur cũng được khánh thành vào năm 1936.
Nếu từ lâu Đà Lạt đã có một «khu phố An nam», thì ở thập kỷ này đã bắt đầu có những bước đầu tiên trong việc gia tăng mật độ cư trú cũng như xu hướng sinh sống lâu dài. Ngoài các khu nhà ở, thương mại, nhà vườn trồng rau thuộc về người Việt, một thành phố bản xứ nữa được bố trí ở khu vực phía Tây, gần ga xe lửa sau này.
Đà Lạt trước hết vẫn là một thành phố nghỉ mát. Du lịch, những thú ăn chơi của xã hội thượng lưu, ẩm thực sánh vai tự nhiên cùng thể thao, phục hồi thể lực và hé mở đời sống văn hóa địa phương. Một mặt, người ta tìm thấy ở đây thực phẩm của «Pháp» vốn có thể thiếu trầm trọng ở những nơi khác. Mặt khác, điều kiện thuận lợi cho hoạt động thể thao đã khiến nơi đây thành trung tâm thể thao quan trọng của thuộc địa (sân quần vợt, đường đua xe đạp, đường đua ngựa, câu lạc bộ đua thuyền, sân golf 18 lỗ, sân bóng đá).
Không gian xanh bao quanh Đà Lạt tăng thêm sức thuyết phục về sự quyến rũ của nó. Một trong những hướng phát triển là nhằm xây dựng một «thành phố-cảnh quan» hòa nhập vào cao nguyên Lang Biang, tức là một thành phố trong rừng. Điều này đòi hỏi phải thực hiện giải phóng mặt bằng theo hình nón để bảo vệ tầm nhìn toàn cảnh quan đặc biệt của miền núi. Bên trong thành phố, các khu vườn và không gian được mở rộng để bảo vệ được di sản thiên nhiên này.
6. Kết quả triển khai và những điều xảy ra ngoài kế hoạch quy hoạch dưới thời thuộc địa (1941-1955)
Đồ án quy hoạch của Lagisquet và việc kéo dài khu vực đô thị nội đô
Đầu những năm 1940 là một thời kỳ mới có nhiều thay đổi của thành phố. Chính quyền thực dân bắt tay vào các dự án mới làm đẹp và mở rộng thành phố, là một phần của kế hoạch rộng lớn hơn về chỉnh trang và quy hoạch đô thị trên toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp. Một ban quy hoạch đô thị và kiến trúc trung ương đã được lập vào tháng 12/1940 để thực hiện ý tưởng này, đồng thời một cao ủy về quy hoạch, làm đẹp và mở rộng các thành phố đã bắt đầu nhiệm vụ của mình năm 1941.
Đồ án Lagisquet năm 1943 là đề xuất cải thiện cơ cấu cuối cùng tái hiện thực những kế hoạch tiếp theo nhằm nhấn mạnh đến một số phương diện phát triển và làm đẹp thành phố. Đà Lạt vốn được cho là một «nước Pháp nhỏ miền nhiệt đới» vì thế cần phải gìn giữ những lợi thế thẩm mỹ và cảnh quan. Song dự án cũng đã phải đối mặt với những thách thức về dân số.
Chính sách kế hoạch hóa tập trung đặc biệt chú ý đến nông nghiệp và quân đội. Decoux đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng hạ tầng cho giáo dục và thể thao dành cho thanh niên cũng như đưa ra một chính sách mới về nhà ở xã hội ở khu vực ngoại ô.
Ảo tưởng về một thành phố thủ đô với một vài công trình xây dựng nổi tiếng
Đà Lạt trở thành thủ đô cố định dưới thời Decoux. Khi Hội nghị Đà Lạt được tổ chức năm 1946, nó đã trở thành một thủ đô Liên bang Đông Dương phi thực tế. Sau đó, vào năm 1949, khi trở về Việt Nam, Bảo Đại đóng đô làm việc tại Đà Lạt đã làm rạng rỡ thêm cho xứ sở này. Cho đến năm 1955, ông đã lấy Đà Lạt làm thủ đô không chính thức để lãnh đạo Quốc gia Việt Nam và lãnh thổ vùng Cao nguyên Nam phần, «hoàng triều cương thổ» trực tiếp thuộc quyền của mình. Thành phố có thể tự hào về nhiều công trình xây dựng uy tín tượng trưng cho quyền lực, đứng đầu trong số đó là dinh Toàn quyền cũ (được xây dựng từ năm 1933 đến năm 1937), nơi Decoux đã làm việc trong thời gian nửa năm, hay biệt thự thứ hai của cựu Hoàng đế An Nam được khởi công năm 1938. Tháng 11/1950, Trần Đình Quế trở thành thị trưởng người Việt đầu tiên của thành phố. Đà Lạt đón nhận những cơ sở quân sự mới (Trường thiếu sinh quân, Trường võ bị được thành lập năm 1950) và các cơ quan hành chính tỉnh và quốc gia. Những năm 1950 đánh dấu việc thành phố thuộc địa trở thành thị xã Việt Nam, song song với việc chuyển giao quyền lực.
Làm đẹp đô thị và bảo tồn cảnh quan
Từ 4500 người vào năm 1935, dân số thành phố đã tăng ba lần vào năm 1942 và tăng lên đến 25 500 người vào năm 1944. Sau đó, trong giai đoạn 1946-1953, khoảng hơn chục làng được hình thành và phát triển lên thành phường, thường là của những người dân di cư cùng quê.
Phong cách kiến trúc theo chủ nghĩa chiết trung được phản ánh trong nhiều công trình tôn giáo bắt đầu vào những năm 1930 và tiếp tục trong những năm 1950. Ngoài rất nhiều địa điểm theo Thiên chúa giáo, thành phố còn có nhiều đền thờ, lăng mộ lớn thờ Nguyễn Hữu Hào và nhiều chùa. Tổng cộng có hơn 40 chùa, 29 nhà thờ nhỏ và nhà thờ, 15 dòng Công giáo.
Do ít có dự án xây dựng được thực hiện nên thành phố vẫn giữ được tầm nhìn cảnh quan. Các khu vườn và khu vực trồng hoa làm tăng thêm sự hài hòa giữa phần xây dựng và các không gian thiên nhiên của thành phố.
Đây chắc chắn là thời kỳ hoàng kim trong quy hoạch kiến trúc và cảnh quan của Đà Lạt. Thành phố được phát triển theo nhiều phong cách đa dạng. Năm 1942, toàn thành phố có 730 biệt thự và chừng ấy vườn. Các tòa nhà công chính được xây dựng chủ yếu theo phong cách hiện đại. Các tòa nhà mới xây dựng trong thời gian này chủ yếu theo phong cách chức năng. Di sản kiến trúc của thành phố đã trở thành biểu tượng và mang đến cho thành phố độ chín về thẩm mỹ.
7. Đà Lạt và thay đổi quy chế hành chính sang cấp tỉnh (1955-1993)
Tính hiện đại của Đà Lạt vào giữa những năm 1960
Trong thập niên 1960, thành phố có nhiều biến đổi dưới tác động của việc quốc hữu hóa các dịch vụ công và Việt hóa các khu dân cư. Hiển nhiên, quá trình phát triển của thành phố ở thời kỳ này bị bó buộc do hoàn cảnh chiến tranh. Hạ tầng cơ sở vẫn được tăng cường để biến Đà Lạt thành một thành phố đa năng, nhưng không có nhiều nỗ lực hay dự án mới được đưa ra trong vấn đề quy hoạch đô thị. Đồ án quy hoạch của Lagisquet năm 1943 thậm chí còn được sử dụng lại dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong khi đó, thành phố có sự thay đổi quy chế hành chính, chuyển sang cấp tỉnh. Năm 1958, việc chia lại địa giới hành chính đã dẫn đến sự ra đời của tỉnh Tuyên Đức và Đà Lạt trở thành thủ phủ của tỉnh này. Và thập kỷ 1960 chủ yếu là thời gian thực hiện việc tỉnh hóa Đà Lạt hơn là kéo dài các nỗ lực hiện đại hóa thành phố.
Thời kỳ này Đà Lạt có gần 60 000 dân. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp được tăng cường, khu vực trung tâm thành phố tăng dần mật độ dân cư, nhiều biệt thự mới được xây dựng. Để phục vụ cho các hoạt động thương mại, một khu chợ mới rộng rãi nhiều tầng cũng được xây dựng và khánh thành vào năm 1960.
Bên cạnh nhiều trường công và trường dòng, Đà Lạt cũng có một trường đào tạo linh mục sau này trở thành khoa thần học, một trung tâm văn hóa Pháp và một thư viện thành phố. Xu hướng phát triển thành thành phố khoa học cũng được khẳng định (trung tâm thử nghiệm giống cây nông nghiệp và giống hoa, nhà máy thủy điện Đa Nhim, trung tâm nghiên cứu nguyên tử, viện Pasteur, viện địa lý, sở thống kê). Được lên kế hoạch từ rất sớm, đến năm 1957, Đà Lạt bắt đầu có một trường đại học rộng rãi ở phía bắc khu vực hồ trung tâm.
Mặc dù ở trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng Đà Lạt vẫn là một điểm đến du lịch quan trọng của Việt Nam. Trong thời gian này, thành phố vẫn tiếp tục phát triển về mặt du lịch, đặc biệt ở cấp địa phương.
Những định hướng mới (1980)
Thời kỳ thống nhất đất nước và những năm sau đó được đánh dấu bằng sự ngắt quãng trong quá trình phát triển của thành phố, không có thêm một dự án mở rộng mới nào. Toàn bộ khu vực đô thị đều được điều chỉnh sau năm 1975, di sản kiến trúc Pháp cũng được thay đổi mục đích sử dụng hoặc dần bị bỏ mặc. Đà Lạt phụ thuộc vào sự phát triển của nhiều khu kinh tế mới trong vùng và đặt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước Trung ương. Dân số ổn định, sau đó tăng lên và vượt con số 100 000 người. Các hoạt động nông nghiệp và khai thác tài nguyên vẫn tiếp tục được tăng cường. Hồ và đập vẫn được tu bổ. Tuy vậy, ấn tượng chung vẫn là thành phố đang dần xuống cấp.
Chủ trương cải tạo thành phố mang lại một luồng sinh khí mới nhưng cũng làm tăng áp lực lên các công trình cũ, đất đai và môi trường. Nhiều câu hỏi mới về định hướng phát triển thành phố cũng được đặt ra. Sự kiện kỷ niệm 100 năm ngày phát hiện ra cao nguyên Lang Biang và Đà Lạt vào năm 1993 là dịp để đưa ra những hướng mới, mang tính tổng thể cho tương lai của thành phố. Năm 1994, đồ án quy hoạch tổng thể đã được chính phủ thông qua với định hướng phát triển cho thành phố cũng như toàn khu vực ở đầu thế kỷ 21.
8.Định hướng cho dự án Đà Lạt mở rộng ở thế kỷ 21
Đà Lạt đầu thế kỷ 21
Một dự án phát triển du lịch của thành phố Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng cho tới năm 2020 đã được đưa ra vào năm 1996. Nghị quyết thành phố năm 2001 đã nêu rõ các mục tiêu về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển dịch vụ và bảo vệ môi trường.
Ngay trước năm 2000, Đà Lạt trở thành đô thị loại 2, và đến ngày 27/5/2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch định hướng phát triển thành phố Đà Lạt (393 km2) và tỉnh Lâm Đồng cho hai thập kỷ tới.
Phân tích thực trạng của thành phố Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng
Các định hướng quy hoạch không gian mới được đưa ra trong nghiên cứu khả thi dự án «Đà Lạt lớn» hướng tới hai mục tiêu và ưu tiên nguyên tắc phát triển bền vững:
- Đà Lạt phải trở thành đô thị loại 1, dân số sẽ tăng gấp đôi đến năm 2050 (980 000 người);
- Là một thành phố nghỉ dưỡng với đặc điểm khí hậu độc đáo, không nơi nào có ở Việt Nam, Đà Lạt đặt hai mục tiêu phát triển du lịch đồng thời vẫn gìn giữ được vẻ đẹp cảnh quan và ưu thế về ngành trồng hoa, trái cây và nông nghiệp.
Phân tích đánh giá chi tiết toàn bộ lãnh thổ vùng đất Đà Lạt sẽ giúp đánh giá được thế mạnh và điểm yếu của thành phố, định hướng được các lựa chọn cần thiết cho phát triển dự án Đà Lạt mở rộng ra bán kính lớn hơn, với diện tích lên tới 3 355 km2. Công việc này sẽ giúp xác định lại được vai trò, hình ảnh và sự năng động của thành phố Đà Lạt – phần lõi trong phạm vi bán kính mới rộng hơn của Đà Lạt mở rộng bao gồm cả các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương và một phần huyện Lâm Hà.
Tỉnh Lâm Đồng đã triển khai một số trục quan trọng các định hướng này, đặc biệt các định hướng liên quan đến khai thác tiềm năng của vùng đất này như phát triển du lịch, các cơ sở giáo dục đào tạo và nghiên cứu chất lượng cao, sản xuất nông nghiệp và phát triển công nghệ mới.
Đà Lạt 2050, dự báo tổng thể và chuyên đề
Các lựa chọn này dựa trên tầm nhìn chiến lược và các định hướng quy hoạch không gian đáp ứng với mong muốn phát triển lãnh thổ bền vững.
Các tiềm năng của vùng đất này cho phép đặt mục tiêu phát triển cân bằng cho cả bốn cực chiến lược bổ sung cho nhau:
- Thành phố Đà Lạt, sẽ được tổ chức lại trong phạm vi giới hạn của cao nguyên. Khu vực nghỉ mát truyền thống nổi tiếng sẽ vẫn tiếp tục thực hiện các định hướng bảo vệ và phát huy giá trị cảnh quan, di sản, tầm nhìn, các khu vực rừng xung quanh, v.v…
- Hai điểm du lịch được phát triển ở khu vực hồ Đăng Kia và hồ Tuyền Lâm.
- Một thành phố mới ở khu vực phía nam (Liên Nghĩa) sẽ tập trung phần lớn các phường mới, phát triển các hoạt động kinh tế và các khu cư trú của người dân.
- Hai khu đô thị sinh thái, phát triển trên cơ sở các làng Nam Bàn và Quang Lập ở phía Đông và phía Tây thành phố mới.
9.Kết luận
Nếu như « bản đồ đã tạo nên thành phố», thì liệu rằng nó có tiếp tục giữ vai trò mang tính quyết định này trong một tương lai gần hay không? Nghiên cứu các bản đồ quy hoạch, ta có thể nhìn thấy nhiều đề án khác nhau đưa ra những mục tiêu tham vọng ở các cấp độ khác nhau để biến Đà Lạt thành một trạm nghỉ mát trên cao, một trung tâm điều dưỡng, một thành phố tương lai, một thành phố-khách sạn, một thành phố du lịch giải trí, một thành phố-vườn, một thủ đô mùa hè, một thành phố-thủ đô, một thành phố du lịch, một thành phố thử nghiệm nông nghiệp và trồng hoa, một thành phố đại học và khoa học, một thành phố hàng đầu.
Đà Lạt và cao nguyên Lang Biang là không thể tách rời, cùng tạo nên một và chỉ một thực thể duy nhất. Các giai đoạn phát triển đô thị tiếp nối nhau đã ngay từ đầu đặt ra mong muốn gìn giữ môi trường xung quanh. Các tiêu chí này vẫn luôn được tính đến trong các đề án quy hoạch ngày nay để xây dựng một thành phố tương lai phát triển bền vững, tổng thể và thân thiện với môi trường, một thành phố tương lai phải biến Đà Lạt thành đô thị loại 1 nhưng vẫn giữ được cái hồn của một «thành phố-cảnh quan» nguyên bản. Lịch sử Đà Lạt hiển nhiên cho chúng ta thấy một vài nét đặc thù, nhưng Đà Lạt cũng như rất nhiều thành phố khác trên thế giới hiện đang phải giải quyết hàng loạt các thách thức về dân số, kinh tế, bảo vệ di sản, môi trường, vốn là những vấn đề mà mọi đô thị đang chuyển đổi đều phải đối mặt.