Văn Ngọc
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/ma-luc-cua-hinh-anh
Thạch Đào (1642 - 1707), Đối thoại giữa hai đoá hoa (1694)
Bài thơ cũng tả hoa mộc lan đang nở và đang rụng ở trong núi.
Khỏi cần phải nói, ai cũng biết tầm
quan trọng của hình ảnh
trong đời
sống của con người. Chúng ta sống
bao bọc bởi hình ảnh, và cần nó như cần ánh sáng để nhìn, không khí để
thở. Đó chính
là sự sống phản
ánh
vào trong con mắt ta, và đó là một
nguồn thông tin quý báu, cần thiết cho cuộc sống.
Hình ảnh
còn là một công cụ diễn đạt
nhạy bén, trực
tiếp, nó nói lên được những
điều mà ngôn ngữ khái niệm không thể làm được. Điều
này, con người đã phát hiện
ra ngay từ thời còn ở hang động, khi chưa có chữ viết.
Do đó, hình ảnh có
một vai trò quan trọng trong chức năng diễn đạt, trong
văn, thơ, cũng như trong tất cả các ngành nghệ thuật
tạo hình.
Hình ảnh trong văn,
thơ, là hình ảnh ảo
của sự
vật mà ngôn
ngữ văn chương gợi lên trong óc
tưởng tượng của chúng ta qua những khái
niệm và qua những biểu
tượng. Có lẽ chính bởi vì nó không cụ thể, cho nên
hình ảnh ảo
mới có thể hài hoà được với cái ngôn
ngữ khái niệm, rất trừu
tượng, nhưng lại có
khả năng diễn đạt nội tâm của văn thơ . Chỉ cần đọc
một vài đoạn thơ cổ, hay thơ mới, là ta cũng thấy được rằng thơ cần
hình
ảnh, mặc dù đó chỉ là những hình ảnh tượng trưng mà
thôi :
Đưa người
ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong...
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong...
Thâm
Tâm, Tống biệt hành
(1940)
Những
câu thơ trên là những câu thơ giàu hình ảnh, nhưng chỉ là những hình
ảnh trừu tượng, hình
ảnh của khái niệm.
Tuy nhiên, chúng vẫn cho phép người đọc mường tượng được, dù không
phải là cùng những hình ảnh cụ thể mà nhà thi sĩ đã chính mắt nhìn
thấy, nhưng cũng là những hình ảnh đủ để nói lên một khung cảnh sông
nước, một cái đẹp của hoàng hôn, và một tâm sự lãng mạn.
Còn hình ảnh trong đời sống và trên các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, như : hội hoạ, điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt - bố trí, kiến trúc, điện ảnh, v.v. là hình ảnh thật, cụ thể, mà mắt ta nhìn thấy được.
Hình ảnh ảo, hay hình ảnh tưởng tượng
Do đó, ta có thể chia hình ảnh ra làm hai loại : hình ảnh ảo và hình ảnh cụ thể.
Ảo ở đây không
có cái nghĩa thường được
dùng trong quang học, hay trong tin học, để
chỉ những hình ảnh có thật, nhìn thấy trong gương, hoặc trên màn ảnh
của máy vi tính, mặc dầu tay ta không nắm bắt
được, nhưng mắt ta nhìn thấy
được. Trong chừng mức nào, đó
là những hình ảnh thật, chứ
không phải là hình ảnh ảo.
Hình ảnh trong gương, tuy ngược, nhưng là hình ảnh phản chiếu một sự
vật có thật, còn hình ảnh trên màn ảnh máy vi tính cũng là hình ảnh của
những sự vật cụ thể được chụp lại bằng máy ảnh . Nếu
ta đem
sao chụp, hoặc in ra giấy, thì nó cũng
giống như một bức tranh, hay một tấm
ảnh thật.
Hình ảnh ảo
mà chúng ta nói ở
đây, là hình ảnh mà ta thật sự không
nhìn thấy được bằng con mắt, mà chỉ hình dung được bằng
óc tưởng tượng, thông qua
những khái niệm có trong
ngôn ngữ.
Chẳng hạn như khi ta mô tả, hay thuật
lại cái đẹp của một dòng
sông, một cái cầu, hay một khuôn
mặt, người đọc hay người nghe chỉ có thể hình dung ra được
một phần nào cái đẹp
ấy mà thôi, thông qua các khái
niệm, và
các kỷ niệm
về những dòng sông,
những chiếc cầu, và những khuôn
mặt, mà họ đã từng gặp, từng nhìn
thấy trong dĩ vãng.
Đương nhiên, không phải ai cũng
hình dung ra được cùng một dòng
sông ấy, một chiếc cầu ấy, một
khuôn mặt ấy, và không phải ai
cũng cảm nhận được cùng một
cái đẹp mà tác giả đã
mô tả.
Do đó, nhiều khi có những
hình ảnh trong một tác phẩm
văn học đã ghi khắc vào trong trí
tưởng tượng của chúng ta, mà
rồi khi xem một cuốn phim được dàn
dựng dựa trên tác phẩm đó,
ta không tìm thấy lại được
đúng những hình ảnh mà
mình đã hình dung trong đầu.
Điều này cũng gần như một
quy luật, vì như ta biết, cái đẹp
của hình tượng văn học mà
ta cảm thụ được trong óc tưởng
tượng của ta, và ngay cả cái đẹp
của một bức hoạ mà mắt ta nhìn
thấy, cũng không thể nào giống
hoàn toàn với cái đẹp mà
người khác ghi nhận được
trong đầu óc của họ. Đó là do cái
bản chất « chủ quan »
của sự phán đoán của con người
trong lãnh vực thẩm mỹ, mà nhà
triết học Kant đã vạch rõ từ
thế kỷ XVIII.
Bởi vậy cho nên, trong văn,
thơ, ngoài cái đẹp tự thân
của ngôn ngữ (câu chữ, nhạc
điệu, nhịp điệu, v.v.), ngoài cái
đẹp của nội dung (cốt truyên,
chủ đề tư tưởng, tình cảm
các nhân vật) mà tác phẩm
chuyên chở ra, còn có cái đẹp
của những hình ảnh
mà
tác giả tạo nên trong óc tưởng
tượng của người đọc thông
qua ngôn ngữ. Ta gọi loại hình ảnh này là hình ảnh
« mở »,
vì nó cho phép người đọc
tha hồ tưởng tượng, không như
cái đẹp được thể
hiện một cách quá cụ thể, cố
định, bằng vật liệu, chất liệu,
màu sắc, v.v. của một bức hoạ,
một bức tượng, một công trình
kiến trúc, hoặc một tác phẩm điện ảnh, mặc dầu điện ảnh là một trường
hợp đặc biệt, vì nó vừa là văn chương, lại vừa là nghệ thuật
tạo hình. Nó là một sáng tạo tập thể của nhiều ngành văn học và nghệ
thuât tập hợp
lại.
Cái khả năng tạo ra những
hình ảnh mở của
ngôn ngữ văn chương, chính là
một trong những yếu tố có sức
quyến rũ không thể nào thay thế
được của văn, thơ.
Hình ảnh cụ thể hay hình ảnh thật
Hình ảnh cụ thể
là hình ảnh mà mắt ta nhìn
thấy được, xúc giác nhận
biết được. Đó là hình
ảnh của sự vật trong thiên nhiên và trong đời sống, hoặc hình ảnh tạo
nên bởi các tác phẩm
nghệ thuật : hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc,
nghệ thuật bày biện - bố trí,
nghệ thuật múa, điện ảnh, v.v.
Ở đây, tôi xin mở một
dấu ngoặc, để nói rõ hơn về
hai khái niệm trừu tượng và
cụ thể.
Trong các phong cách hội hoạ
hiện đại, đặc biệt là trong
hội hoạ trừu tượng,
người ta
quan niệm rằng tất cả những gì
hiện diện cụ thể trên mặt vải
đều có một vai trò nhất định
và góp phần tạo nên giá trị
thẩm mỹ của tác phẩm. Cũng bởi
vậy, mà đã có lúc cái
tên gọi « hội hoạ trừu
tượng » đã bị một số
các hoạ sĩ đứng đầu trường
phái này đề nghị bỏ đi (đầu thế kỷ XX), và
đặt lại cho nó một cái tên
khác : «hội hoạ cụ thể », bởi vì, theo họ, tất cả
những
gì mà mắt ta đã nhìn
thấy, thì không thể nào gọi là
trừu tượng được. Nhưng rồi cuối
cùng cái ý này đã không
được mọi người chấp nhận,
và ngay sau đó bị dẹp đi.
Sở dĩ
cái tên « hội hoạ trừu
tượng » được giữ y
nguyên, trước hết là để
tránh một sự lẫn lộn. Trừu
tượng ở đây không có
nghĩa đối lập với cụ
thể , mà là đối lập với tượng
hình : hội
hoạ tượng
hình là nền hội hoạ sử
dụng các hình thể có thật
trong đời sống. Các hoạ sĩ đi tiên phong thời ấy quan niệm
rằng, hội hoạ trừu tượng, phải
là một nền hội hoạ trong đó
đối tượng vẽ không còn là
những vật thể có thật, có khái
niệm, tồn tại trong thiên nhiên, và
trong cuộc sống của con người. Đó
là cả một cuộc thử thách mới,
mà rồi qua thời gian người ta cũng
nhận thấy rằng không thể nào tôn
trọng được cái tính chất
quá « tuyệt đối » và đồng thời cũng hơi quá "mơ hồ"
của khái niệm "trừu tượng".
Hiện nay, có một số không ít các
hoạ sĩ trừu tượng cho rằng : « Trừu
tượng hay không, trước hết là phải đẹp ! ».
Đó cũng là một ý
kiến đáng chú ý. Nói chung, quan
niệm nghệ thuật hiện đại, ở vào thời đại ngày hôm nay, là một quan niệm
hoàn toàn mở, chứ không còn bị gò bó bởi những định
kiến, lý thuyết, trường phái, hay phong cách nữa.
Trên một bình diện khác,
người ta thường cho rằng kiến trúc
là một nghệ thuật « trừu
tượng », vì những hình khối
kiến trúc thường chỉ là những
hình khối hình học, làm bằng
những vật liệu vô tri, vô giác.
Thẩm mỹ kiến trúc chỉ là thẩm
mỹ của những hình khối, đường
nét, tỷ lệ, nhịp điệu, vật
liêu, chất liệu, v.v.
Ngoài ra, kiến trúc (với điều kiện còn
giữ được bản chất nghệ thuật
trong cái chức năng đa dạng của
nó, là : vừa làm nghệ thuật,
vừa làm kỹ thuật, lại vừa phải
lo về khía cạnh kinh tế của công
trình) thường được coi như một nghệ thuật trừu tượng,
so với hội hoạ và điêu khắc,
đơn giản chỉ vì nó không thể nào có
được một ngôn ngữ tượng
hình, ngoại trừ những yếu tố
trang trí, như : con rồng, con phượng,
chậu kiểng, bức tượng, hay bức phù
điêu, trong những nền kiến trúc
cổ. Trong kiến trúc hiện đại, đôi khi người ta cũng sử dụng những
biểu tượng, như biểu tượng của sự nhẹ nhàng, năng động : hình
ảnh
của cánh chim (Nhà ga hàng không của kts Saarinen ở New York,
Nhà hát Opéra ở Sydney của kts Jorn Utzon, v.v.)
Xem như vậy, ngay cả trong kiến
trúc, người ta cũng có nhu cầu diễn đạt bằng
những yếu tố tượng hình,
và quần chúng thưởng ngoạn, nói chung, ngay cả ở thời hiện đại, cũng
vẫn còn
quyến luyến rất nhiều với những yếu tố tượng hình, bởi vì
chúng gợi
nhắc đến thiên nhiên, đến một nét văn hoá, lịch sử nào
đó, hoặc đơn giản chỉ vì những chi tiết tượng hình thường ngoạn mục và
làm họ "no con mắt" hơn là những hình khối hình học quá giản lược.Khả năng hoà hợp giữa hình ảnh ảo và hình ảnh thật
Một thí dụ và cũng là một
tiền lệ đáng chú ý trong lịch
sử nghệ thuật, là sự hoà hợp
giữa thơ, thư
pháp và hội
hoạ trong một vài nền văn hoá
ở phương Đông, đặc biệt
là nền văn hoá của Trung Quốc và
của một số nước có nền Nho
học,Lão học và Phật học như : Nhật Bản, Triều Tiên,
và Việt Nam.
Đã có một thời, trong những
nền văn hoá này, các văn nhân
thường sử dụng cây bút lông
của mình vừa để viết, lại
vừa để vẽ. Họ vừa có thể
đồng thời là nhà thơ, nhà
thư pháp và nhà hoạ sĩ. Trên
một bức tranh cổ, một bức bình
phong, hay một chiếc bình cổ, người
ta thường có nhu cầu đề
thơ.
Thơ và thư pháp góp phần làm
tăng thêm vẻ đẹp trang trọng của
bức hoạ, bức bình phong, hay chiếc
bình cổ. Ngược lại, một bức
hoạ có thể làm nổi bật sự cao quý của một bài thơ, và
khiến cho nó cụ thể, sống động hơn.
Trong khi thơ diễn đạt cái đẹp của
thiên nhiên và của cuộc sống bằng những nét ẩn dụ,và bằng
những hình ảnh trừu
tượng , thì hội hoạ diễn đạt
trực tiếp bằng những hình ảnh cụ thể.
Dường như nhân loại
đã ý thức được điều
này ngay từ sớm. Trong hội hoạ cổ
điển ở phương Đông, đặc
biệt là hội hoạ cổ điển
Trung Quốc, người hoạ sĩ bao giờ
cũng thể hiện thiên nhiên và sự
vật trong cuộc sống thông qua quan niệm
thẩm mỹ và triết lý của mình.
Họ diễn dịch, hoặc cách điệu
hoá, chứ không sao chép
y chang. Không những thế, họ còn có
nhu cầu hoàn thiện, bổ sung, phụ hoạ cho tác
phẩm hội hoạ bằng những ý tưởng
trừu tượng qua thơ, văn. Do đó,
cái nhu cầu đề thơ lên tranh, và
vẽ tranh lên một bài thơ, đã
trở thành một truyền thống.
Cố Khải Chi ,
hoạ sĩ thời Lục Triều, Trung Quốc (thế kỷ IV)
Truyền thống này đã xuất hiện
ít nhất từ thời Lục Triều ở
Trung Quốc, với nhà hoạ sĩ trứ
danh Cố Khải Chi (thế kỷ IV), và đã
phát triển đến cao độ ở thời
nhà Đường với nhà thơ kiêm
hoạ sĩ Vương Duy (698-759).
Một nhà thơ lớn thời nhà Tống
(thế kỷ X-XIII) đã nói về nghệ
thuật của Vương Duy như sau : « Thơ
của ông như một bức tranh (không có
hình vẽ), và tranh của ông như một bài thơ (không có chữ
viết) »[tạm dịch ý -V.N.].
Người
nhàn hoa quế nhẹ rơi
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
Vương
Duy, Điểu minh giản
Khe chim kêu (Ngô Tất Tố dịch)
Khe chim kêu (Ngô Tất Tố dịch)
Sự hoà hợp giữa thơ, thư pháp,
và hội hoạ trong các nền văn hoá
Á đông là một điều khá
tự nhiên, vì cả ba hoạt động
nghệ thuật này đều cùng sử
dụng một công cụ, đó là
cây bút lông. Hội hoạ cổ điển
Trung Quốc (tranh thuỷ mạc) chủ yếu là
nghệ thuật của đường nét.
Thư pháp và thơ cũng chủ yếu
là những nét bút. Bản thân mỗi
chữ vuông (chữ Hán) cũng đã là một ký hiệu, một hình vẽ
giàu nhịp điệu rồi. Do đó,
có một sự hài hoà nhất định
giữa ba hình thức diễn đạt này.
Sức hấp dẫn của hình ảnh trong thơ, văn
Mặc dầu cái đẹp được
gợi lên qua những hình
ảnh
trong thơ, văn, chỉ là một cái
đẹp ảo, chỉ tồn tại
trong trí tưởng tượng của
mỗi người, và phần nào khá
mơ hồ, bởi vì chỉ là cái đẹp
ẩn dụ, ước lệ, song đứng
về mặt tác dụng, nó cũng có
đủ những nét tượng hình
để gợi lên cho người đọc
một ý niệm về cái đẹp của
đối tượng được mô tả,
dù chỉ là một cái đẹp
được phác hoạ bằng những nét
chung chung, những khái niệm, những
biểu tượng,quy
ước, đã được sự
đồng thuận của nhiều thế hệ
người, và đã trở thành
những chuẩn mực của cái đẹp
trong một truyền thống văn hoá.
Trong Truyện Kiều
của
Nguyễn Du, chẳng hạn, nhà thơ cũng
chỉ mô tả được hai hàng Kiều
bằng những nét ẩn dụ, rất tượng
trưng như :
Vân xem trang
trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đăn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh
Khuôn trăng đầy đăn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh
(Nguyễn Du, Truyện Kiều, câu 20-26)
Nhưng rõ ràng, qua những câu thơ này
người đọc
có thể tưởng tượng được
sắc đẹp của hai chị em nàng Kiều
một cách thoải mái !
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Nguyễn Du,
Truyện Kiều (câu 145-146)
Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Lê Lam trong Truyện Kiều,
NXB Đại Học và Giáo Dục Chuyên nghiệp 1991
Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Lê Lam trong Truyện Kiều,
NXB Đại Học và Giáo Dục Chuyên nghiệp 1991
Thơ hay văn, dù có tượng hình đến đâu cũng không thể nào diễn đạt được một cách đầy đủ cái hình dạng thật của một đối tượng. Do đó, hình ảnh trong thơ văn luôn luôn là những hình ảnh mở, và người đọc có thể tự mình tưởng tượng ra cái hình ảnh ấy. Đây cũng chính là một ưu điểm của ngôn ngữ nói và của ngôn ngữ văn chương. Nó không gò bó trí tưởng tượng của người đọc, và khiến cho người ta có một vai trò tích cực trong việc xây dựng hình ảnh, cũng như trong việc thưởng thức và thẩm định tác phẩm.
Khách đà lên ngựa người còn nghé
theo (câu 168)
Nguyễn Du, Truyện Kiều
Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1965)
trong Kiều, NXB Thông Tin 1989
Nguyễn Du, Truyện Kiều
Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1965)
trong Kiều, NXB Thông Tin 1989
Có thể nói rằng văn chương
là nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ khái niệm,
thường chỉ có một nghĩa trừu
tượng, đủ để cho người
ta phân biệt được khái niệm cái
bàn
với khái niệm cái ghế,
nhưng không mô tả
được hình dạng thật của cái
bàn đó, hay cái ghế đó,
trong khi nghệ thuật tạo hình là ngôn
ngữ của hình ảnh cụ thể,
mà con mắt người nhìn thấy được,
kiểm tra được.
Cái đẹp của hình tượng đuợc diễn đạt
trong ngôn ngữ văn chương chỉ có
thể là một cái đẹp trừu
tượng, dù có được
mô tả một cách chi tiết, thì
cũng chỉ là thông qua phép ẩn
dụ, thông qua những mẫu mực đã có sẵn được coi
là chuẩn, đôi khi cũ
mòn, hoặc sáo rỗng.
Xem như vậy, cái nhu cầu đề thơ
lên tranh, hoặc ngược lại, sử dụng
nét vẽ để minh hoạ,
bổ sung cho hình tượng ảo
trong thơ, văn, đều có cái lô
gích của nó : những gì mà
người ta không diễn đạt được
bằng ngôn ngữ khái niệm,
thì
người ta phải diễn đạt bằng hình
ảnh cụ thể, và ngược lại.
Trong thơ, văn, người ta chỉ có
thể diễn đạt bằng những hình ảnh ảo, hoặc ẩn dụ. Mặc
dầu vậy, những hình ảnh này
có khả năng quyến rũ rất lớn, vì đó là những hình ảnh mở,
cho phép người
đọc tưởng tượng thoải mái, tuỳ theo
cái gu thẩm mỹ, tuỳ theo kinh nghiệm sống và trình độ
văn hoá của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.