Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Người Chăm

Người Chăm, còn gọi là người Chàm, người Chiêm Thành, người Chiêm, người Hời..., hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái LanHoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra dân số 1999 là 132.873 người; theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc Chính phủ Việt Nam năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Cham woman.jpg
Phụ nữ người Chăm với trang phục truyền thống
Khu vực đông người sinh sống
 Campuchia 270.000
 Việt Nam 145.235
 Lào 15.000
 Malaysia 10.000
 Thái Lan 15.000
Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ 200
 Pháp 1.000
 Ả Rập Saudi 100

Lịch sử

Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử; có nền văn hóa phát triển; có quan hệ đồng tộc, đồng tôn với các cộng đồng Chăm ở các nước khác như Campuchia, Thái Lan, Malaisya, Mỹ, Pháp, Australia, Canada,...Ở Việt Nam người Chăm có quan hệ gần gũi với nhóm dân tộc như Ê Đê, Gia Rai , Chu Ru , RaGlai.
Trước thế kỷ thứ 7 có vương quốc Lâm Ấp từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm 605, tình hình nước Chăm Pa không rõ cho đến thế kỷ thứ 8. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc (phiên âm theo tiếng Bắc Kinh hiện nay là Lin-yi-guo), Chiêm Bà Quốc, Hoàn Vương QuốcChiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh dưới sự chỉ huy của vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đài: nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chăm Pa). Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc Chăm Pa được phục hồi nhưng chia thành 2 tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832). Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt dưới sự chỉ huy của vua Lê Thánh Tông để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê tức năm 1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Hiển Tông thứ 2 chúa Nguyễn (năm Chính Hòa thứ 14 nhà Lê tức năm 1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Nhưng, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm Pa, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn (vua Nguyễn Hiển Tông tức Nguyễn Phúc Chu) đã bất đắc dĩ cầu hòa với người Chăm Pa và cho phép người Chăm Pa phục hồi Thuận Thành trấn (Khu Tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm Pa được ghi rõ trong Nghị Định Ngũ Điều vào năm Hiển Tông thứ 21 (năm Vĩnh Thạnh thứ 8 nhà Lê tức năm 1712) và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau cải thổ quy lưu (giải thể khu tự trị) vào năm 1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của chúa Chăm Pa có ông Dụng Gạch, một vị hoàng tử anh hùng, phó chủ tịch ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (Bắc Bình ngày nay) phụ trách miền núi sau Cách mạng tháng Tám.
Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên (Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng Tây Nguyên. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng, các chúa Panduranga thì thuộc dõng Pandu nên Chăm Pa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là 2 quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ 2 nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là 2 quốc gia riêng.
Lịch sử của vương quốc Chăm Pa là các cuộc xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, KhmerMông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự hoàn hảo hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm Pa là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê (1471), Tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều đại vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm Pa bị giết và 30.000 bị bắt làm tù binh. Ngược lại, Tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục phát triển dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long (Nguyễn Thế Tổ) trong các vùng thung lũng Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết. Tuy nhiên vua Minh Mạng đã không quan tâm Chăm Pa như vua cha nữa và thủ tiêu cơ chế tự trị của Thuận Thành trấn vào năm Minh Mạng thứ 13 nhà Nguyễn (1832).

Ngôn ngữ

Tiếng Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa đảo (Malayo-Polynesian) của hệ ngôn ngữ Nam Đảo (Autronesian).

Dân số và cư trú

Người Chăm được xác định là cư dân bản địa ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mẫu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác.
Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới khoảng 400.000 người, phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái LanHoa Kỳ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng trên 270.000 người tại Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam; Thái Lan trên 15.000 người; Malaysia trên 10.000 người và Hoa Kỳ khoảng trên 200 người.
Một số người Chăm di cư sang các nước khác, như tộc Utsulđảo Hải Nam, đến bang Terengganu của Malaysia hay vùng Hạ Lào. Trong thế kỷ 20, nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác.

Phân bố dân cư ở Việt Nam

Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 145.235 người Chăm sinh sống, sống rải rác ở các tỉnh phía Nam như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang,... Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm Hroi; Chăm Ninh Thuận - Bình ThuậnChăm Nam Bộ.
Nhóm Chăm Hroi bao gồm những người Chăm hiện đang sống rải rác từ Nha Trang trở ra, chủ yếu là Phú Yên và Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu được gọi là Chăm Hroi.
Nhóm Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; tổng số khoảng 98.000 người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận: 32.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt Nam.
Nhóm Chăm Nam Bộ bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh Đông Nam Bộ; tổng số khoảng 26.700 người, cư trú ở các tỉnh như: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Bình Dương, Bình Phước,... trong đó tập trung chủ yếu ở An Giang và thành phố Hồ Chí Minh. Người Chăm ở đây có cùng nguồn gốc với người Chăm Hroi và người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận, nhưng do nguyên nhân lịch sử, nhiều người Chăm đã rời Việt Nam đến các nước như Campuchia, Thái Lan, Malaysia vào những thế kỷ trước. Từ cuối thế kỷ thứ XVIII đến đầu thế kỷ thứ XX, một bộ phận người Chăm ở Campuchia mâu thuẫn với người Khmer bản địa và sự ngược đãi của chính quyền Campuchia nên đã tìm về cư trú ở An Giang và Tây Ninh tạo nên cộng đồng người Chăm ở hai tỉnh này. Những năm sau đó, một bộ phận nhỏ người Chăm này chuyển đến một số tỉnh khác ở Nam Bộ để sinh sống.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chăm ở Việt Nam có dân số 161.729 người, cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận (67.274 người, chiếm 41,6 % tổng số người Chăm tại Việt Nam), Bình Thuận (34.690 người, chiếm 21,4 % tổng số người Chăm tại Việt Nam), Phú Yên (19.945 người), An Giang (14.209 người), thành phố Hồ Chí Minh (7.819 người), Bình Định (5.336 người), Đồng Nai (3.887 người), Tây Ninh (3.250 người)[4]

Tín ngưỡng, Tôn giáo

Người Chăm có tín ngưỡng, tôn giáo rất phong phú. Tín ngưỡng của người Chăm có từ xa xưa và mang dấu ấn của thời nguyên thủy - Đó là sự tin tưởng của người Chăm vào sự tồn tại của một thế giới siêu nhân, nơi các thần linh ngự trị và cũng chính là nơi tồn tại của ma quỷ và linh hồn của những vật thể ở thế giới trần tục sau khi chết. Người Chăm luôn tin rằng tất cả các vật thể cũng như mọi người đều có linh hồn và linh hồn thì tồn tại vĩnh viễn dù con người có chết đi và các vật thể đã bị hư hại. Những linh hồn cùng với ma quỷ và thần linh luôn có những tác động, chi phối, ảnh hưởng đến thế giới hiện hữu, đến đời sống của cộng đồng cũng như đến từng thành viên trong cộng đồng người Chăm. Người Chăm thờ rất nhiều vị thần linh như Thần cây, Thần đá, Thần nước, thờ Linh hồn tổ tiên.
Người Chăm là một cộng đồng đa tôn giáo, niềm tin tôn giáo luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm lý của họ, chi phối hoạt động nhận thức, tình cảm, ý chí của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Người Chăm có niềm tin tôn giáo rất sâu sắc, chịu sự chi phối ràng buộc chặt chẽ bởi tôn giáo truyền thống.
Người Chăm theo Ấn Độ giáo, đạo Hồi, đạo Phật. Tôn giáo chính thời vương Chăm Pa cổ là Ấn Độ giáo và văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ. Tuy nhiên, cái gọi là đạo Bà La Môn (tức là tục Bachăm) ngày nay hoàn toàn không liên quan với Ấn Độ giáo này. Ngày nay, hầu hết người Chăm theo Hồi giáo. Hồi giáo của người Chăm có 2 loại: 1. là tục Bani và tục Bachăm, 2. là Hồi giáo Sunni (thuộc giáo phái Hanafi). Tục Bani và Bachăm là một tôn giáo chịu ảnh hưởng của Hồi giáo Shi'a (Ba Tư, Iran), họ rất tôn trọng Ali như Muhammad. Còn Hồi giáo Sunni thì không chấp nhận tôn trọng Ali như Muhammad. Theo Biên niên sử Mã Lai (1614), Hồi giáo đầu tiên ở thế giới Mã Lai cũng phát nguồn từ Iran, nhưng, sau này, người Ả Rập từ vùng Hadramaut (gọi là Hadrami) sang Mã Lai tuyên truyền, xuyên tạc Hồi giáo Shi'a là tà giáo, buộc người Mã Lai theo Hồi giáo Sunni cực đoan vào cuối thế kỷ thứ 18 - đầu thế kỷ thứ 19. Tục Bani là một hồi giáo bản địa hóa hiền lành, khoan dung, không cực đoan. Tục Bani giống giáo phái Alewi (một giáo phái Hồi giáo Shi'a ở Cộng hòa Suri ngày nay). Con đường tục Bani từ Iran chuyển bá chưa được làm rõ nhưng nhiều tài liệu Mã Lai, Java cho rằng chính Chăm Pa là trung tâm tuyên giáo Hồi giáo đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á.
Người Chăm sống ở Myanma rất nhiều, là một trong bốn dân tộc lớn nhất Myanma. Hầu hết mang họ Aung cùng họ với họ Ung của người chăm ở Việt Nam (đã bị Việt hoá)

Đặc điểm kinh tế

Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỉ.

Tổ chức cộng đồng

Người Chăm thường sinh sống tập trung trong paley Chăm (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng làng), trong đó, Po Paley là người đóng vai trò rất quan trọng trong Paley. Luật tục Chăm ghi:
Ếch có nắp đậy hang;
Làng có chủ cai quản

Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả:
Cây to lan tỏa một lòng,
Xòe ra che mát cho người dừng chân.

Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ, là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị loại ra khỏi cộng đồng.
Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu có, không được có chồng chắp vợ nối.
Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm qui định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.

Nhà cửa

Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy họach phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.
  • Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (kèo được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
  • Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng Tây. Gian giữ là trung tâm (người Chăm gọi là sang-yơ), phía phải là phòng ngủ của bố mẹ, bên trái là kho, sau là phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên ở giữa nhà.
  • Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.).
Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
  • Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận.
  • Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.
Tập tin:In front of Chăm house.jpg

Trang phục

Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.

Trang phục nam

Tập tin:Cham music 1.jpg
Nhóm nhạc công người Chăm với trang phục nam truyền thống
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp.

Trang phục nữ

Tập tin:Chau Doc, weaving loom.jpg
Phụ nữ Chăm ở Châu Đốc dệt vải theo phương pháp truyền thống
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
                                                                                                     Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
http://nguyentienquang-huongtram.blogspot.com/2011/10/nguoi-cham.html 
http://quankhoasu5.blogspot.com/2012/07/lich-su-van-minh-champa-phan-1.html

Tháp Chàm


http://dalatarchi-trchoa.blogspot.com/2012/07/uong-xe-lua-thap-cham-lat_16.html 

Cái thật sẽ hóa giải lịch sử và hòa giải dân tộc
Nhà văn – nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Inrasara trả lời RFA
Caoduybang2
Kính Hòa thực hiện
RFA, 3-5-2013
(bản của Đài tại đây, Inrasara lấy lại nguyên bản đầy đủ hơn và có chỉnh sửa câu chữ)

1. Xin cho biết tầm quan trọng của văn hóa và ngôn ngữ Champa trong văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam hiện tại?
- Cộng đồng Chăm là cư dân của vương quốc Champa cổ. Dân tộc có chữ viết bản địa thuộc hàng sớm nhất ĐNA, có một nền văn minh phát triển… cho nên, dù nền văn minh ấy nay chỉ còn là những mảnh vụn, vẫn có nhiều cái đáng giá. Còn người Chăm, sau khi đất nước tan rã, vẫn còn bảo lưu văn hóa truyền thống đó.  
Thế nhưng, thường nhắc đến Chăm, người ta chỉ hay chú ý đến nền kiến trúc, điêu khắc mà dấu tích còn lưu lại dọc suốt dải đất miền Trung. Và phần nào đó là ngôn ngữ hay lễ hội: lễ Katê hay Ramưwan chẳng hạn… Người ta vẫn chưa biết nhiều về ca múa nhạc Chăm, càng chưa hiểu đâu là nền văn học dân tộc ấy, nó cũng rất phong phú và độc đáo. Đến nỗi văn học sử Việt Nam đến lúc này vẫn còn chưa có chương nào về văn học Chăm. Đó là điều rất lạ. Theo tôi, bên cạnh kiến trúc và điêu khắc, người Chăm còn cống hiến cho đất nước Việt Nam đa dân tộc nhiều mảng khác rất quan trọng, nếu chúng ta biết đánh giá và bỏ công khai thác xứng đáng với tầm vóc của nó.

2. Ngoài các mảng vừa nêu, anh thấy văn hóa Chăm còn ảnh hưởng gì nữa vào đời sống của người Chăm ở miền Trung? Ẩm thực hay tục thờ cúng cá ông chẳng hạn?
- Ở miền Trung vẫn còn ghi đậm dấu ấn Champa như trong cách phát âm của người Quảng, các phương ngữ. Nhiều dòng họ không có lập bàn thờ, các họ Chăm như Ôn, Ma, Trà, Chế vẫn còn tồn tại vùng Quảng Nam, Huế.
Mắm các loại là hẳn nhiên rồi. Nếu người Bắc quen dùng tương thì dân miền Trung không thể rời bỏ mắm trong các bữa ăn. Miền Trung thì gắn liền với dân tộc Chăm, thì ai cũng biết. Chăm có nhiều loại mắm, mà đặc trưng hơn cả là mắm nêm chế biến bằng cá cơm, và mắm cá lòng tong – loài cá nhỏ sống vùng hạ lưu nước ngọt. Loại mắm sau này, là đặc sản riêng Chăm, chứ tôi chưa thấy người Việt dùng đến.
Tục thờ cá ông cũng vậy. Đến hôm nay, ở vùng Chăm và Việt sống cộng cư tại Ninh Thuận, bà con Việt vẫn còn nhờ đến các thầy cúng Chăm đọc kinh trong các nghi thức này.

3. Trong sinh hoạt của cộng đồng Chăm hiện tại ở Ninh Thuận và những nơi khác ở Việt Nam, Anh có thấy những yếu tố nào có nguồn gốc từ người Việt không?
- Tôi rất tin và đã từng viết đâu đó rằng, văn hóa Chăm có sức sống mãnh liệt. Cho dù sống xen cư và cộng cư với người Việt hơn 200 năm, người Chăm vẫn bảo lưu bản sắc văn hóa dân tộc, bảo lưu được bao nhiêu là khác biệt. Nhưng dẫu sao, không thể cứ bản sắc cũ mà bo bo giữ. Cần thâu thái cái mới để tạo nên bản sắc mới. Sống chung với người Việt, người Chăm đã tiếp nhận được nhiều điều, cả tích cực lẫn tiêu cực. Ngoài những cái khó nhận diện, như lối sống, cách ăn mặc, có bộ phận dễ nhận ra nhất, là văn học nghệ thuật. Chị em Chăm đã biết múa Apsara theo kiểu Đặng Hùng; chứ vài trăm năm trước họ có múa như vậy đâu. Rồi đã có nhạc sĩ, họa sĩ viết ca khúc, vẽ bức tranh Làng Chăm ơn Bác, đã có không ít trí thức Chăm vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Cạnh đó, những người viết văn làm thơ người Chăm cũng đã dùng thành thạo tiếng Việt, dùng nhiều nữa là đàng khác. Hội nhập với cộng đồng dân tộc anh em, thì phải thế.
Thế nhưng, điều đáng lo nhất chính là hiện tượng nói độn tiếng Chăm vào tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt đời thường. 50%, có khi 70% là tiếng Việt. Tôi nói đùa: “chúng ta đang nói tiếng Việt bằng giọng Chăm”. Chữ viết nếu mất đi thì không đáng lo lắm, mà khi tiếng nói bị lai độn, rồi nguy cơ biến mất, mới là điều đáng báo động.

4. Anh vừa nhắc đến vũ điệu Apsara của Đặng Hùng. Anh đánh giá thế nào về sáng tạo của nghệ sĩ này?
- Người Chăm có rất nhiều điệu múa, tương ứng với các điệu trống Ginang. Múa quạt, múa đội lu, múa khăn, múa tay không, múa roi, múa đạp lửa… nhưng chưa hề nghe đến múa cung đình. Mãi đầu thập niên 80, Đặng Hùng đã “giải mã” các thế chân, tay trên các bức tượng Chăm và tạo ra vài điệu múa, mà ông đặt tên là Múa cung đình Chăm. Sau đó vài người khác đã tiếp nhận và cách điệu thành nhiều điệu khác nữa, dựa trên múa Apsara của ông. Múa Apsara cũng gặp phản ứng của vài trí thức Chăm, rằng nó lai căng, nó hở hang, vân vân… Nhưng dù gì thì gì, các điệu múa trên là sáng tạo độc đáo của Đặng Hùng. Nó chẳng những xuất hiện trên sân khấu lớn, trên màn ảnh nhỏ, mà cả vùng nông thôn hẻo lánh nữa. Chị em Chăm đón nhận nó như là của mình. Hào hứng và đầy sáng tạo. Không thể nói họ chấp nhận điệu múa kia là do thiếu hiểu biết.

5. Anh có nhận định gì về quyển sách Có 500 năm như thế của nhà báo Hồ Trung Tú, một cuốn sách tạo được dư luận đáng kể?
- Tác phẩm Có 500 năm như thế là công trình giá trị. Giá trị hơn cả ở tính gợi mở của nó. Trong đó câu quan trọng nhất, là: “Chúng ta là người Chàm đang nói tiếng Việt bằng giọng Chàm”. Qua kết luận đầy quả cảm và chuẩn xác đó, ta không những truy ra lai lịch của dòng máu Chăm ở vùng đất Quảng, ở khắp dải đất miền Trung, mà cả ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam hôm nay nữa.
Chúng ta hãy chú ý đến bài nghiên cứu của sử gia Tạ Chí Đại Trường là “Tù binh Chàm”. Thời nhà Lý, thế kỉ XI, lần thứ nhất: 5.ngàn, lần thứ hai: 5 vạn! Họ đi đâu hết rồi? Sử gia này còn cho biết, 4 thế kỉ sau, ở Bắc vẫn còn tồn tại vài làng Chàm đặc khu nữa.
Luận điểm của Hồ Trung Tú còn gợi ý cho chúng ta về dấu vết văn hóa Chăm ở miền Bắc: dân ca Quan họ Bắc Ninh chẳng hạn. Điều này làm rõ hơn cách phân loại của tôi về 10 loại Cham trên khắp vùng Đông Nam Á. 10 loại, thuộc vùng địa lí, tôn giáo, với ngôn ngữ bản địa khác biệt, là rất đáng quan tâm.

6. Theo tôi được biết cũng có vài ý kiến chê bai tác phẩm này, rằng nó được viết bởi nhà nghiên cứu nghiệp dư, rồi có vài chuyện khác nữa. Anh nghĩ thế nào?
- Do cuốn sách là công trình đầu tay của một nhà báo mà chê nó nghiệp dư, là một bất công lớn. Có ai là chuyên gia ngay từ khởi đầu đâu. Cuốn sách mở ra một hướng đi khác lạ và đầy hứng khởi như thế, là điểm son đáng quý trong nghiên cứu về Chăm nói riêng, và Việt Nam nói chung. Điều gây ngộ nhận là, ngay ở phần đầu, trong khi anh khẳng định xác đáng: “chúng ta là người Chàm đang nói tiếng Việt bằng giọng Chàm, thì ở phần kết luận, anh lại rất lủng củng và kém cỏi trong diễn đạt: “Mỹ Sơn chính là di sản của tổ tiên ta để lại, chứ không phải là của vương quốc Chămpa đã bị diệt vong. Đó là di sản văn hóa của người Việt chứ không phải của một nền văn minh bị biến mất”.  
Chính câu này đã khiến vài người có suy nghĩ không tốt về anh. Họ cho là anh muốn cướp di sản Chăm trao cho người Việt! Rồi Inrasara cũng vạ lây, chỉ vì đã viết bài giới thiệu cuốn sách ấy. Ẹ vậy! Cả thế giới biết đó là của Chăm mà, làm gì có chuyện cướp. Ví có tác giả nào viết bài cho làng Chakleng quê tôi là của người Việt, hỏi có ai thèm cãi không? Lủng củng thôi. Qua trao đổi trên website Inrasara.com, tác giả hứa sẽ chỉnh sửa khi tái bản tác phẩm. Và anh đã cắt bỏ nó đi.

7. Nhìn lại lịch sử, Anh nhận định thế nào về cái vẫn thường được đề cập tới trong sách sử Việt Nam là Nam tiến. Ràng đó không phải là chuyện mở đất bình thường mà có cả xung đột?
- Hai câu thơ nổi tiếng của Huỳnh văn Nghệ hẳn mọi người không quên:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.
Ý thơ chứng tỏ cõi Đàng Trong này không phải là miền đất hoang, mà là đất có chủ. Chủ đó là Champa và dưới nữa là Thủy Chân Lạp. Và khi một nước nuốt nước kia, thì xung đột là xung đột một mất một còn. Chuyện Nam tiến là thật. Chuyện Champa mất về tay Đại Việt, cũng là thật. Đó là tất yếu lịch sử: mạnh được yếu thua. Theo đánh giá của giới chuyên gia: Champa thua Đại Việt là thua về văn hóa. Văn hóa khuynh hướng xuất thế Ấn Độ bị văn hóa xử thế Trung Hoa đánh bại. Cụ thể hơn, con người A-la-hán Bà-la-môn giáo thua lí tưởng Đấng Trượng phu của Khổng giáo. Dẫu sao theo tôi, người Chăm tồn tại và còn giữ được bản sắc mình cũng nhờ nền văn hóa ấy.
Chính sách Nam tiến và, qua bước Nam tiến gần mươi thế kỉ, điều đáng ghi nhận là người Kinh hiếm khi phá đền tháp người Chăm. Có khi họ còn biến tháp thành tháp của họ, để thờ phượng nữa. Tháp Po Nưgar ở Nha Trang là ví dụ rất điển hình. Cạnh điểm son đó, chính sách đàn áp cộng đồng Chăm của vua Minh Mạng là sự kiện lịch sử đen tối nhất trong quan hệ hai dân tộc, hai đất nước. Chính chính sách dã man đó mà dân tộc Chăm từ sở hữu một vương quốc hùng mạnh, sau cuộc càn quét chỉ còn chưa tới một vạn rưỡi người.
Người Kinh và chính quyền Việt Nam hôm nay cần nhận ra và nói lên sự thật lịch sử đó. Không phải để khơi dậy tinh thần dân tộc hay tạo sự hiềm khích, mà là để hiểu biết lẫn nhau. Chính quyền cũng cần có chính sách rõ ràng, cụ thể và đặc biệt với cộng đồng Chăm và văn hóa của cộng đồng này. Chỉ khi làm được điều đó thôi, chúng ta mới có thể nói đến việc hóa giải lịch sử và hòa giải dân tộc.
 Xin Cám ơn nhà thơ Inrasara. Chúc cho tác giả Lễ Tẩy trần tháng Tư dồi dào sức khỏe. Chúc cho Lễ Tẩy trần tháng Tư của anh mang lại niềm vui hòa giải cho cộng đồng dân tộc.
http://inrasara.com/2013/05/04/con-duong-hoa-giai-lich-su-va-hoa-giai-dan-toc/#more-12361 

Georges Maspero và sách "Le Royaume de Champa"


Công trình nghiên cứu Le royaume de Champa của G.Maspero được giới nghiên cứu Champa trên khắp thế giới coi như một trong những công trình tiên phong và kinh điển, một standard interpretation trong nghiên cứu lịch sử của vương quốc Champa từ khởi nguồn cho đến năm 1471.[1] Sở dĩ công trình của Maspero nổi tiếng như vậy, bởi đây là một trong những công trình đầu tiên đã phác dựng lên một lịch sử hoàn chỉnh và nối tiếp liên tục của một vương quốc đã từng tồn tại ở miền trung Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên cho đến năm 1471. Maspero đã dựa chính vào hai nguồn sử liệu quan trọng nhất thời bấy giờ là Bia ký bằng chữ Sanskrit và chữ Chăm cổ được chuyển ngữ bởi các chuyên gia lớn về cổ ngữ thời bấy giờ; nguồn tư liệu thứ hai là các thư tịch cổ của Trung Hoa và Việt Nam đề cập tới vùng đất và cư dân mà ngày nay thuộc miền Trung Việt Nam. Đó là những nguồn tư liệu quý giá để hiểu về lịch sử của một vương quốc xưa, tuy nhiên cách thức tác giả sử dụng các nguồn tư liệu ấy và cách diễn giải/interpretation/discourse của tác giả về các nguồn tư liệu ấy như thế nào lại là một chuyện khác.

Champa mà Maspero đã cho đăng tải liên tục trên tạp chí T’oung Pao trong những năm 1910 tới 1913. Sau khi được xuất bản, cuốn sách trở thành một công trình tham khảo đặc biệt quan trọng đối với bất cứ ai nghiên cứu về lịch sử văn hóa Champa nói chung và lịch sử Đông Nam Á cổ xưa nói riêng. Chính vì thế mà các công trình vĩ đại sau này của Majumdar,[2] G.Coedes[3] và D.G.Hall[4] về cơ bản đều sử dụng lại và dựa chính vào công trình tiên phong này của Maspero khi trình bày về lịch sử của vương quốc Champa. Những cách kiến giải của Maspero về lịch sử Champa từ khởi nguồn cho đến thế kỷ thứ 15, dù sau đó đã nhận được những tranh biện từ P.Stein hay Arroussause, nhưng vẫn được coi là standard interpretation về lịch sử Champa. Một cách kiến giải mới về lịch sử Champa chỉ mới được tranh luận và bắt đầu lại từ những năm 1970 khởi nguồn từ nhóm các nhà nghiên cứu Champa của EFEO, và sau đó là các nhà nghiên cứu quốc tế khác quan tâm về Champa và Đông Nam Á. Thế hệ các nhà nghiên cứu này bắt đầu đặt câu hỏi và nghi vấn về các cách tiếp cận tư liệu cũng như là cách interpret/kiến giải-luận giải của Maspero về lịch sử Champa
Ở Việt Nam, công trình của Maspero đương nhiên đã trở thành một trong những nguồn tài liệu tham khảo quý giá và quan trọng đối với các thế hệ nghiên cứu về Champa học. Đó thực sự là một công trình vĩ đại nếu đặt trong bối cảnh của 1 thế kỷ trước đây. Khi ở Việt Nam, tôi chưa từng có cơ hội được tiếp cận tới nguyên bản sách của Maspero về vương quốc Champa bằng tiếng Pháp, nguyên do có thể là do tôi lười, tôi chưa đọc được tiếng Pháp và cũng có thể là do ở Việt Nam sách này không có ở những nơi tôi đã tìm. Tuy nhiên tôi đã được tiếp cận với hai bản dịch tiếng Việt của sách này. Bản thứ nhất tôi đã photo được từ Bảo tàng gốm Gò Sành ở Quy Nhơn, anh Hảo đã hào phóng cho tôi mượn đi photo. Bản dịch này theo tôi nhớ là của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Bản dịch này khác đầy đặn, chi tiết và có lẽ bám sát theo sách gốc (vì có cả phần chú thích chữ Hán). Bản thứ hai là tư liệu dịch của cụ Lê Tư Lành, lưu tại khoa Sử, trường Tổng Hợp Hà Nội. Tuy nhiên bản này không dịch toàn bộ nguyên bản gốc mà là lược dịch tác phẩm. Các bản dịch khác hiện có ở đâu đó ở Việt Nam thì tôi chưa được tiếp cận nên không biết. Chỉ đến khi sang Singapore tôi mới có cơ hội được đọc cuốn sách của Maspero bằng nguyên bản tiếng Pháp. Một bản tiếng Anh của cuốn sách cũng đã được xuất bản, tuy nhiên có khá nhiều sai sót do dịch giả không rành về tiếng Việt cũng như không có phần chú thích chữ Hán, kể cả một số trích dẫn sai.[5] Chính bởi thế, ai quan tâm tới sách của Maspero thì tốt nhất là nên sử dụng bản gốc bằng chữ Pháp, có thể đối chiếu với các bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt.
Nguyên bản tiếng Pháp sách của Maspero thực sự là một công trình đáng quý. Cũng giống như các công trình khác viết về Champa và Việt Nam thời đó, tác giả là người uyên thâm về cổ ngữ, đặc biệt là chữ Hán, nên các chú thích rất đầy đặn và khoa học. Bên cạnh những kiến giải khoa học của cuốn sách thì nếu ai nghiên cứu về Champa mà muốn tăng cường khả năng tiếng Pháp và chữ Hán thì đây quả thực là một công trình cần phải tham khảo. Dưới đây sẽ đề cập một chút về nội dung của cuốn sách và các cách kiến giải của Maspero về lịch sử Champa mà không có lời bình luận nào (sẽ đề cập trong những bài viết sau).
Bruce Lockhart trong công trình nghiên cứu gần đây của mình đã chỉ ra ba vấn đề cơ bản được nêu lên bởi Maspero trong công trình nổi tiếng của mình.[6]Theo quan điểm của G.Maspero thì tộc người Chăm là tộc người thống trị trong vương quốc Champa và các tộc người khác được coi là những “người mọi (savage) ở những vùng rừng núi”.[7] Champa từ khởi nguồn của mình đã là một “vương triều Ấn Giáo” (Hinduized dynasty), chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn minh Ấn Độ trong bối cảnh chung của thế giới Ấn Độ hóa ở vùng Đông Nam Á.[8] Cũng theo G.Maspero thì vương quốc Champa từ khi lập quốc dưới triều đại Sri Mara từ thế kỷ thứ 2 cho đến sự kiện năm 1471 là một vương quốc thống nhất (single/unity kingdom). Sự kiện 1471 được coi như là sự kết thúc của một nhà nước Ấn giáo ở miền Trung Việt Nam, và “người Chăm không còn hiện diện trong trí nhớ của nhân loại”.[9]
Trong sách của mình, Maspero cho rằng mối quan hệ giữa hai tộc Cau và Dừa có vai trò quan trọng trong lịch sử vương quốc Champa. Theo đó thì tộc Cau/Areca Palm nắm quyền ở Panduranga và tộc Dừa/Coconut nắm quyền ở phía Bắc. Hai tộc này thường xuyên xảy ra các cuộc chiến đẫm máu, tuy nhiên thường kết thúc bằng sự liên minh. (E.15 = Bản tiếng Anh, trang 15)
Nhà Vua Champa, trong quan điểm của Maspero, là người có quyền lực tối cao, có uy quyền đối với sự sống và cái chết, quyền lực với việc bổ nhiệm các vị trí, và toàn bộ hệ thống hành chính của toàn thể vương quốc đều nằm trong tay của vị Vua này (E.16)
Theo Maspero, dưới quyền của một vị Vua tối cao của một nhà nước Champa thống nhất là hệ thống các quan lại cấp tỉnh ở các vùng lãnh thổ của vương quốc, mà theo ông là có 3 hoặc 4 vùng chính là: Amaravati ở phía Bắc, gồm cả Indrapủa và Sinhapura; Vijaya ở Trung tâm, là thủ đô trong thời kỳ 1000 đến 1471; Panduranga hay Panran ở phía Nam. Virapura, hay còn gọi là Rajapura đôi khi trở thành thủ đô của vương quốc. Đó là vùng lớn nhất trong ba vùng, và nó bao gồm cả Kauthara. Các vùng lãnh thổ này lại được chia nhỏ thành các tỉnh, chẳng hạn gồm 38 tỉnh dưới thời Haruvarman II. Dưới nữa là các trung tâm, các đô thị, và các làng xã. (E.17).
Maspero cho rằng, Lâm Ấp chính là Champa, và vương quốc này đã được hình thành vào năm 192 SCN với vị Vua đầu tiên là Sri Mara trong bia ký, hay Khu Liên trong thư tịch Trung Hoa (E.25-26). Theo đó, Sri Mara trong bia ký và Khu Liên trong sử Trung Hoa được đồng nhất là một người, và là người đã tập hợp các thủ lĩnh và tuyên bố trở thành Vua của các thủ lĩnh Cham và ông cai trị lãnh thổ rộng lớn đến các biên giới phía Nam của vương quốc Kauthara, nơi tìm được bia Võ Cạnh. (E.26)
Các vị Vua sau đó và các triều đại sau đó của Champa được Maspero miêu tả như là những vị vua kế tiếp nhau, và lịch sử Champa là lịch sử liên tục của một nhà nước Champa thống nhất ở miền Trung Việt Nam. Việc thay đổi các triều đại hay các trung tâm được coi là những sự rời đô và thay đổi dòng họ nắm quyền của một vương quốc thống nhất.
Hwang-wang (Hoàn Vương) và bá quyền của Panduranga, hay Triều đại thứ 5/La Ve dynastie (758-859).
Theo Maspero thì một tài liệu của Trung Hoa cho biết rằng từ năm 758, tên gọi Lâm Ấp không còn được sử dụng, mà thay vào đó là tên gọi Hwan-wang. Một trong những vị Vua nổi tiếng của Champa trong thời kỳ này theo bia ký là Prithivindravarman, Maspero mô tả là thành viên của gia đình hoàng gia ở Panduranga, “tộc Cau” và ông tiếp tục ngự tại phía nam. Tuy nhiên, theo Maspero, vị Vua này cai trị toàn bộ vương quốc Champa và quyền lực của ông trải dài từ Hoành Sơn cho đến biên giới của đế chế Khmer ([Il ‘jouit’ cependant ‘de la terre entière de Campa’ et son autorité s’étendit du mont Hoành Sơn à la frontière de l’empire khmèr, p.97]).
Chiêm Thành/ Le Tch’eng-cheng, triều đại thứ 6/la Vie dynastie (875-991)
Đến triều đại này, Maspero cho rằng thủ đô của Champa không còn ở Panduranga nữa mà là ở Indrapura, và Đồng Dương là một trong những trung tâm phật giáo lớn vào giai đoạn này. Maspero ghi nhận về những mối liên hệ của Champa với các vương quốc khác trong khu vực, chẳng hạn như sứ thần đến Java, cuộc chiến với Đại Việt, và những phái đoàn ngoại giao đến Trung Hoa khá thường xuyên từ giai đoạn này. Và bắt đầu từ giai đoạn này, các sử liệu Trung Hoa và Việt Nam đề cập tới Champa khá nhiều, từ đó Maspero sử dụng chủ yếu (thậm chí trong nhiều thời kỳ là toàn bộ) các nguồn tài liệu này để phục dựng lịch sử Champa cho đến tận cuối thế kỷ 15 và bỏ qua các thông tin đề cập trong bia ký.
Triều đại thứ 7,
Theo Maspero thì triều đại Vijaya thứ nhất bắt đầu từ năm 989 đến năm 1044, Lưu Ký Tông trong sử Việt được Maspero đồng nhất với Ku Shri Harivarman II trong bia ký, lên làm vua ở Vijaya. Đến năm 999 thì Yan Pu-ku Vijaya lên kế vị, tuyên bố mình là vua ở Vijaya nhưng triều đình lại đặt ở Indrapura, nơi mà tất cả các triều vua đều tuyên bố mình là hậu duệ của Tộc Dừa. Năm 1000 được Maspero coi là năm mà Champa chính thức rời đô về Vijaya dưới áp lực của Đại Việt từ phía Bắc
Một phái đoàn Champa đã được cử đến triều đình Trung Hoa và cho biết về sự chuyển dời kinh đô của mình, và Maspero đã dựa trên thông tin này để khẳng định về việc Champa dời đô từ Indrapura về Vijaya. Hầu như tất cả các ghi chép về sử Champa sau này đều theo luận giải này của Maspero và ít người đặt câu hỏi về độ xác thực của nó (sẽ bàn ở các bài sau).
.
Những chương tiếp theo Maspero dựng lại một thời kỳ dài nhiều thế kỷ giao tranh giữa Champa với thủ đô ở Vijaya với Đại Việt ở Phía Bắc và Khmer ở phía Nam, cũng như là cuộc chiến chống Mông Nguyên vào thế kỷ XIII
Dưới đây là đoạn viết của Maspero về việc vua Champa dâng hai châu Ô và Lý của Champa cho vua nhà Trần
Giai đoạn cuối của triều đại thứ XI, hay là thời kỳ của Chế Bồng Nga được Maspero coi là thời kỳ huy hoàng đỉnh cao của vương quốc Champa (cuối thế kỷ XIV)
Thời kỳ từ sau giai đoạn của Chế Bồng Nga đến năm 1471 được Maspero coi là thời kỳ suy tàn và kết thúc của lịch sử vương quốc Champa, và lịch sử Champa dừng lại ở Triều đại thứ 14 (1458-1471)
Một số trang viết của Maspero về cuộc tấn công của vua Lê Thánh Tông, trong đó có đề cập tới vùng đất Phú Yên mà anh Bảo Đàn có đề cập:
Sự kiện 1471 Maspero cũng coi đó như là dấu chấm hết của lịch sử vương quốc Champa, và sau thời điểm đó thì Champa đã không còn hiện diện trong trí nhớ của nhân loại
Trên đây là những giới thiệu chung khái quát về diễn giải của Maspero về lịch sử vương quốc Champa từ năm 192 đến 1471. Đây thực sự là một công trình giá trị và đáng quý soi sáng lịch sử cổ xưa của một vương quốc đã từng tồn tại ở miền Trung Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Những diễn giải của Maspero dựa trên các tư liệu bia ký và thư tịch Trung-Việt sau khi ra đời đã thành nền tảng và cái sườn cho các sách và bài viết về lịch sử Champa của các thế hệ nghiên cứu Champa và Đông Nam Á sau này mà rất ít người đặt ra các câu hỏi về độ xác thực của các tư liệu, độ xác thực của các diễn giải của Maspero từ các tư liệu. Những bài viết về các tranh luận của các học giả đối với những diễn giải của Maspero sẽ được giới thiệu trong những bài viết sau
Đỗ Trường Giang
18/4/2012

[1] Maspero, Georges. Le royaume de Champa, rev.ed. Paris and Brussels: Van Oest, 1928.
[2] Majumdar, R.C. Ancient Indian Colonies in the Far East, Vol.1 – Champa (1927); and Vol.2 - Suvarnadvipa (1937)
[3] Coedes, George (1944). Histoire ancienne des etats hindouises d’Extreme-Orient. Translated into English as The Indianized states of Southeast Asia Ed. Walter F.Vella, translated by Susan Brown Cowing. Hawaii: East-West Center Press, 1968
[4] Hall, D.G.E. A history of South-east Asia. London: Macmillan Limited, 1955
[5] Tham khảo bản dịch tiếng Anh của công trình này: The Champa kingdom – The history of an extinct Vietnamese culture, được chuyển ngữ bởi Walter E.J. Tips. Bangkok: White Lotus Press, 2002
[6] Bruce M.Lockhart trong “Colonial and post-colonial constructions of ‘Champa’”, in trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art. NUS Press, Singapore, 2001, tr.1-53.
[7] Maspero, The Champa kingdom, sđd, tr.2.
[8] Maspero, The Champa kingdom, sđd, tr.3.
[9] Maspero, The Champa kingdom, sđd, tr.118. Quan điểm này cũng được một số các học giả khác ủng hộ, chẳng hạn như Majumdar trong: Champa – History and culture of an Indian colonial kingdom in the Far East, tr.148-149.

 http://quankhoasu5.blogspot.com/2012/07/georges-maspero-va-sach-le-royaume-de.html




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.