LES
CINQ PROBLEMES D’URBANISME.
L’ URBANISM-
Gaston Bardet.
THIẾT KẾ ĐÔ THỊ
Theo Gaston Bardet trong tác phẩm L’Urbanisme
xác định khoa học thiết kế đô thị được thừa nhận vào năm 1910 bằng sự
chuyển đồi từ nghệ thuật kiến tạo đô thị (Aménagement de l’espace) với
những vấn đề trọng yếu cần quan tâm như: vấn đề lưu thông, vấn đề vệ sinh và
tiện nghi, vấn đề xã hội và kinh tế, vấn đề mỹ thuật, vấn đề trí thức và tinh
thần [4].
« La vie
d’une cité est une évolution créatrice, autrement dit une création continue,
échappant par conséquent au déterminisme. C’est dans le temps qu’il faut placer
la ville et, par suite, sous l’angle du changement incessant qu’il faut la
considérer. […] Pour étudier la ville, il ne faut pas partir de la terre ou des
conditions géographiques ou économiques, mais de l’être humain en qui se
manifeste la spiritualité créatrice. Ce ne sera qu’en second lieu qu’on
observera l’utilisation, grâce à l’intelligence humaine, de la nature par
l’homme. Ce renversement des valeurs, par rapport à l’ordre toujours suivi,
apparaît comme la conclusion de l’exposé qui précède. »
"Đời sống của
một thành phố là một sự tiến hóa
sáng tạo liên
tục, từng bước thoát khỏi định mệnh. Trong thời gian cần thiết
để đặt các thành phố về sự thay
đổi không ngừng phải được xem xét.
[...] Để nghiên
cứu các thành phố, không chỉ cần nghiên cứu đất đai hoặc điều kiện địa lý hoặc kinh tế, nhưng còn về con người thể hiện tinh
thần sáng tạo. Đó là chỉ ở vị trí thứ hai, chúng
tôi quan sát
việc sử dụng, thông qua trí tuệ con người bản
chất của con người. Điều này đảo ngược các
giá trị, so với thứ tự luôn luôn theo sau, xuất
hiện như là kết
luận của các cuộc thảo luận ở
trên. "
A l'époque des grandes luttes contre l'insalubrité dans les villes, il est
intéressant de voir le rôle donné à « l'espace libre planté ».
Par exemple, Gaston BARDET, architecte urbaniste, écrit dans «
L'urbanisme » en 1945 dans la collection « Que sais-je »
aux P.U.F., au chapitre « Problèmes d'hygiène et de confort » :« L'espace libre planté, la « terre vivante », selon l'expression de J.C.N. Forestier, doit être réparti suivant une hiérarchie harmonieuse. Un système de parcs comprend les grandes réserves nationales ou régionales, les parcs suburbains ou urbains, les cimetières jardins (en faveur desquels Robert Auzelle tente une véritable renaissance), les jardins de quartiers, les terrains de sport ou de jeux, ainsi que les jardins d'enfants, enfin, liaisonnant le tout, les avenues-parcs qui doivent constituer un réseau ininterrompu et complètement isolé des poussières, des émanations nocives, des dangers de la circulation. Sur ce réseau de verdure indépendant doivent se brancher les écoles, terrains de jeux, terrains de quartier. ».
Vào thời điểm của các cuộc đấu tranh chống lại sự bất an ở các thành phố, rất thú vị để xem vai trò nhất định "khoáng địa trồng cây ".
Ví dụ, Gaston
Bardet, đô thị gia, kiến trúc sư đã viết trong "Đô thị hóa" vào năm 1945 trong
bộ sưu tập "Tôi biết gì" của P.U.F., chương "Các
vấn đề về vệ sinh
và thoải mái".
"Khoáng địa trồng cây "," đất sống
", theo sự
biểu hiện của J.C.N. Forestier, được phân phối theo một sự hài hòa có thứ bậc. Một hệ thống công viên bao gồm
công viên dự trữ quốc
gia hoặc khu vực lớn, các khu ngoại ô và đô thị, nghĩa
trang, vườn (Robert Auzelle cố gắng một
sự phục hưng hồi sinh), các khu vườn của
khu dân cư, thể thao hoặc trò chơi,
và những khu vườn trẻ em cuối cùng liaisonnant
tất cả, những đại lộ, công viên nên
là một mạng lưới liền
mạch và cô lập hoàn toàn từ bụi, khói độc hại,
và các mối nguy hiểm giao thông. Trên mạng này kết
nối các trường
màu xanh lá cây độc lập, sân
chơi, khu vực sân golf. "
---------------------------------------------------------------------------------------------------
LES CINQ PROBLEMES
D’URBANISME.
Avant que d’entrer dans le
vif du sujet, il est bon de faire un rapide survol de cette science
relativement récente qu’est l’URBANISME, en exposant brièvement les phénomènes
qui ont été à l’origine de son apparition avec leurs conséquences induites.
Trước khi bước vào trọng tâm của vấn đề, tốt nhất cần có
cái nhìn tổng quát về một khoa học tương đối mới đó là "Thiết kế đô thị", bằng cách trình bày ngắn gọn những hiện tượng có nguyên nhân của sự xuất hiện của nó với những hậu quả gây ra.
(Thiết kế đô
thị thành một khoa học, những chuyên viên về môn này xuất hiện trong giới
nghiên cứu, hậu quả của những vấn đề mới đặt ra bởi những hiện tượng có tầm
quan trọng ít thấy trong lịch sử)
Le mot « Urbanisme »:
néologisme forgé peu avant la 1ère guerre mondiale, s’est généralisé par suite
de la reconstruction des régions dévastées. Cette nouvelle science, sociale en
son essence, a dû son éclosion à la nécessité de discipliner des métamorphoses
extrêmement complexes et déroutantes, nées de la grande poussée démographique
européenne du 19è s, conjuguée avec le développement du machinisme. Ces deux
faits aboutirent à une transformation structurale de la civilisation
contemporaine que l’on nomme le phénomène d’urbanisation. Son importance est
comparable à celle
des grandes invasions.
Từ "Thiết kế đô
thị" từ mới đặt ra một thời gian ngắn trước khi Chiến tranh thế giới lần đầu tiên, đã trở nên phổ biến do việc tái thiết các khu vực bị tàn phá. Khoa học mới này, xã
hội trong bản chất của nó, có nguồn gốc của nó trong nhu cầu xử lý kỷ luật biến
hoá vô cùng phức tạp và khó hiểu, sinh ra từ sự tăng trưởng dân số châu Âu vào
thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của máy móc. Hai sự kiện dẫn đến một chuyển
đổi cơ cấu của nền văn minh đương đại được gọi là hiện tượng đô thị hóa. Tầm quan trọng của nó có thể so sánh với các cuộc bành trướng.
Il est caractérisé par des
migrations de grandes foules (bi ou quadri quotidiennes, hebdomadaires ou
saisonnières, temporaires ou définitives) arrachant l’habitant à son terroir
natal pour le drainer vers les grands pôles industriels d’activité.
Nó được đặc trưng bởi di chuyển của đám đông lớn (kép
hoặc quad hàng ngày, hàng tuần hoặc theo mùa, tạm thời hoặc vĩnh viễn)
kéo người đứng đầu đất quê hương để chảy về các trung tâm hoạt động công nghiệp lớn.
Cette révolution
démographique a entraîné une révolution morale. Le foyer familial, regroupant
plusieurs générations sous un même toit, s’est contracté à la forme conjugale
ou instable. L’habitat réduit des grands centres urbains a conduit à une baisse
de la natalité, la fonction éducatrice qui restait la principale mission de la
famille a été sapée par le nombrecroissant des divorces, enfin la promiscuité
rencontrée dans les grands centres urbains a permis le développement de la
criminalité et la concentration des perversions de toute nature… Les grandes
masses prolétariennes transplantées, déracinées et déçues ne voient d’issues
que dans une action révolutionnaire où réapparaît l’esprit grégaire, le vieil
instinct de lutte et de haine contre l’esprit de prévoyance, de stabilité et de
responsabilité individuelle, qu’ont créé des millénaires d’efforts aboutissant
très exactement à la civilisation occidentale.
L’apparition de l’urbanisme
parmi les sciences, et des urbanistes parmi les chercheurs, est donc la
conséquence de problèmes nouveaux posés par le phénomène d’urbanisation que
nous venons d’évoquer.
Cuộc cách mạng nhân khẩu học đã dẫn đến một cuộc cách
mạng đạo đức. Gia đình, nhiều thế hệ dưới một mái nhà, hình thức hợp đồng, vợ
chồng hoặc không ổn định. Làm giảm môi trường sống đô thị đã dẫn đến tỷ lệ sinh
giảm, chức năng giáo dục vẫn là nhiệm vụ chính của gia đình đã bị phá hoại bởi
ly hôn nombrecroissant, bừa bãi cuối cùng đã gặp tại các trung tâm đô thị lớn
đã dẫn đến sự phát triển tội phạm và nồng độ của perversions của bất cứ loại
nào ... quần chúng vô sản tốt cấy, bật gốc và vỡ mộng và thấy không có vấn đề
trong hành động cách mạng mà trả về bản năng bầy đàn, bản năng cũ để chiến đấu
và căm thù đối với tinh thần phúc lợi xã hội, ổn định và trách nhiệm cá nhân,
những gì tạo ra thiên niên kỷ của những nỗ lực chính xác với nền văn minh
phương Tây.
Sự xuất hiện của đô thị trong các ngành khoa học, và các nhà hoạch định các nhà nghiên cứu, là hậu quả của những vấn đề mới đặt ra do đô thị hóa mà chúng tôi chỉ đề cập đến.
Sự xuất hiện của đô thị trong các ngành khoa học, và các nhà hoạch định các nhà nghiên cứu, là hậu quả của những vấn đề mới đặt ra do đô thị hóa mà chúng tôi chỉ đề cập đến.
Voici la définition de
L’URBANISME donnée par Gaston Bardet,
dans son ouvrage
« PROBLEMES D’URBANISME »
publié fin 1947.
Il écrit :
« c’est un ensemble de disciplines
:
- d’abord une Science qui s’attaque à la connaissance des
choses, étudie méthodiquement les faits, recherche les causes premières, puis
après un travail rigoureux d’analyse, essaie de déterminer par synthèses
successives, sinon des lois du moins des principes directeurs.
- Puis un Art appliqué qui
passe à l’action, à la création de synthèses nouvelles, matérialisant par un
jeu de pleins et de vides les volumes où s’abritent les groupes sociaux. Mais
l’application de cet Art, après l’analyse scientifique, nécessite un double
choix: choix des composants urbains à restaurer, modifier ou créer et choix des
applications possibles.
- Ce double choix qui
implique la détermination des valeurs humaines est, par essence, une Philosophie.
»,
Đây là định nghĩa “TKĐT” được đưa ra bởi Gaston
Bardet, trong cuốn sách của mình "
CÁC VẤN ĐỀ TKĐT " được xuất bản vào cuối năm 1947. Ông viết:
"Đây là một tập hợp các chuyên ngành:
- Trước tiên đó là một khoa học nhằm hiểu biết sự vật, có phương pháp nghiên cứu các sự kiện, tìm ra các nguyên lý và sau khi phân tích kỹ lưỡng, cố gắng để xác định những nhận định tổng quát kế tiếp, ít nhất là những qui luật nếu không là những nguyên tắc hướng dẫn .
- Sau đó một nghệ thuật áp dụng thực hành, tạo ra một sự tổng hợp mới, cụ thể hóa bởi một tập hợp các khoảng đầy và khoảng rỗng, nơi trú ẩn cho các nhóm xã hội. Tuy nhiên, việc thực hành Nghệ thuật áp dụng này, sau khi phân tích một cách khoa học, đòi hỏi phải có hai lựa chọn: chọn thành phần đô thị để khôi phục lại, thay đổi hoặc tạo ra và lựa chọn những trường hợp có thể áp dụng.
- Sự lựa chọn này liên quan đến việc xác định giá trị nhân bản, trong bản chất, một triết lý. ".
"Đây là một tập hợp các chuyên ngành:
- Trước tiên đó là một khoa học nhằm hiểu biết sự vật, có phương pháp nghiên cứu các sự kiện, tìm ra các nguyên lý và sau khi phân tích kỹ lưỡng, cố gắng để xác định những nhận định tổng quát kế tiếp, ít nhất là những qui luật nếu không là những nguyên tắc hướng dẫn .
- Sau đó một nghệ thuật áp dụng thực hành, tạo ra một sự tổng hợp mới, cụ thể hóa bởi một tập hợp các khoảng đầy và khoảng rỗng, nơi trú ẩn cho các nhóm xã hội. Tuy nhiên, việc thực hành Nghệ thuật áp dụng này, sau khi phân tích một cách khoa học, đòi hỏi phải có hai lựa chọn: chọn thành phần đô thị để khôi phục lại, thay đổi hoặc tạo ra và lựa chọn những trường hợp có thể áp dụng.
- Sự lựa chọn này liên quan đến việc xác định giá trị nhân bản, trong bản chất, một triết lý. ".
Quand à L’URBANISTE il le définit comme : « un
artiste cultivé.
- Artiste car seules la forme de connaissance
et la préparation artistiques permettent d’avoir d’emblée conscience des
complexités vivantes, puis de les harmoniser en des créations fécondes ;
- cultivé car seule une culture personnelle
approfondie et tenue à jour, de toutes les disciplines humaines touchant à la
Cité, peut donner les repères indispensables à la solidité des observations,
permettre les associations créatrices et guider le choix des valeurs ».
Đối với Đô thị gia, ông
định nghĩa là "một
nghệ sĩ được huấn
luyện.
- Nghệ sĩ bởi vì chỉ có hình thức của kiến thức và chuẩn bị có thể có nghệ thuật ngay lập tức nhận thức về sự phức tạp sống động và hài hòa họ sáng tạo hiệu quả;
- Được huấn luyện bởi vì chỉ có văn hóa cá nhân chuyên sâu để duy trì tất cả các lĩnh vực của con người liên quan đến thành phố, có thể cung cấp cho các tiêu chuẩn cần thiết cho sức mạnh của sự quan sát, cho phép các hiệp hội sáng tạo và hướng dẫn sự lựa chọn các giá trị ".
- Nghệ sĩ bởi vì chỉ có hình thức của kiến thức và chuẩn bị có thể có nghệ thuật ngay lập tức nhận thức về sự phức tạp sống động và hài hòa họ sáng tạo hiệu quả;
- Được huấn luyện bởi vì chỉ có văn hóa cá nhân chuyên sâu để duy trì tất cả các lĩnh vực của con người liên quan đến thành phố, có thể cung cấp cho các tiêu chuẩn cần thiết cho sức mạnh của sự quan sát, cho phép các hiệp hội sáng tạo và hướng dẫn sự lựa chọn các giá trị ".
Quand fin 1947, Gaston
Bardet publie « PROBLEMES D’URBANISME », rédigé à partir de 1939, il part du
constat, fait par Durkheim, que les différentes études sur la structure du
groupe urbain, menées par des théoriciens réformateurs tels Thomas Morus, Campanella,
Morelly, Fourier, Richardson, avaient « pour objet non pas de décrire et d’expliquer
les sociétés telles qu’elles sont ou qu’elles ont été, mais de chercher ce que
les sociétés doivent être, comment elles doivent s’organiser pour être aussi
parfaites que possible ». Cela revient à dire que de Fourier à Le Corbusier on
imagine, sur table rase, un certain état – correspondant à l’idéal qu’ils se
font de la civilisation – mais n’arrivent plus ensuite à faire coller le masque
sur le visage de la réalité.
Or, la ville est un être
vivant, possédant une âme collective (qui n’est pas une réalité
ontologique) et un comportement propre.
Tuy nhiên, thành phố là một sinh vật
với một tập thể linh hồn (mà không phải là một thực tế bản thể học) và
một hành vi cụ thể.
Saisissant maintenant cet
être vivant comme une unité localisée (bien que mouvante) en interrelations
continues avec les autres unités sociales différenciées qui constellent
l’étendue géographique, on peut dire que cette unité est composée d’un être individuel
plongeant ses racines
dans le site urbain, et d’un être social en constante immersion dans la
civilisation générale. De leurs échanges mutuels naît le comportement global
de la ville.
Nổi bật bây giờ là một thực thể sống động nằm trong các mối tương
quan liên tục với các đơn vị xã hội khác nằm rải rác phân biệt phạm vi địa lý
(mặc dù di chuyển), chúng ta có thể nói rằng đơn vị này bao gồm của một cá nhân
với gốc rễ của nó trong đô thị và một xã hội được ngâm
liên tục trong nền văn minh chung. Trao
đổi lẫn
nhau của nó phát sinh các hành vi tổng thể của thành phố.
Pour lui, « une ville n’est point un assemblage de
rues et de maisons, celles-ci ne sont que les carapaces, les coquilles d’une
société de personnes. Une ville est une oeuvre d’art à laquelle ont coopéré des
générations d’habitants »… Il poursuit : « parce qu’elle est dans un perpétuel
devenir sous l’effet de la succession infiniment changeante des êtres qui
l’habitent et la font et refont, la ville ne se ramène nullement à son plan,
schéma graphique, ni même à l’ensemble des creux et des pleins architecturaux
qui le définissent »… ceux-ci ne sont « que les manifestations extérieures de
l’existence d’un être collectif chez qui la vie est entretenue par la
substitution des générations les unes aux autres : c’est la connaissance de
cet être collectif qui importe avant tout ».
“Một thành phố không phải chỉ là những đường phố và
nhà cửa gom góp lại, vì đó chỉ là những phương tiện che chở giống như mai rùa,
vỏ ốc của một (xã hội con người)nhân quần. Một thành phố là một công trình nghệ
thuật mà nhiều thế hệ cư dân đã tham gia trong khi họ chịu đựng phần nào hoàn
cảnh đã có từ trước. Bởi vì thành phố sẽ biến cải mãi mãi, vì những lớp người ở
đó xây đi dựng lại kế tiếp nhau thay đổi vô cùng. Ý niệm thành phố không thể
thu gọn vào một đồ án, một lược đồ, hoặc ngay cả khoảng đầy khoảng rỗng của
không gian kiến trúc. Các sự kiện này chỉ là hình thức hiện hữu của một cộng
đồng sống động, mà cuộc sinh tồn tiếp
tục nhờ sự thay chân đổi chỗ của các thế hệ nối tiếp nhau: Chính sự hiểu biết cộng đồng đó là vấn đề quan trọng hàng đầu.
Par conséquent, « la réussite humaine éventuelle d’une
ville neuve dépendra du soin apporté à la formation d’une véritable âme
urbaine, cette âme dont la présence fait qu’un quelconque village est
infiniment supérieur aux cités-jardins les plus soignées ».
Fort de ces constatations, Gaston Bardet a élaboré dès
1934, une méthode d’analyse nouvelle. Au lieu de partir de la ville, de ses
fonctions, pour en déduire ses éléments propres, il considère les réalisations
urbaines sous divers angles particuliers, non pas en simple spécialiste de chaque
technique, mais en urbaniste, se plaçant au centre même de la vie urbaine organique,
indivisible, changeante et durable à la fois.
Vì vậy, “bất kỳ thành tích con
người của một thành phố mới sẽ
phụ thuộc vào sự chăm sóc được
thực hiện trong
sự hình thành của một linh hồn đô thị đúng, rằng linh hồn có sự
hiện diện là làng nào là vô hạn vượt trội
so với các thành phố vườn cẩn thận hơn. "
Dựa trên những phát hiện này, Gaston Bardet phát triển vào năm 1934, một phương pháp phân tích mới. Thay vì rời khỏi thành phố, chức năng của mình, để suy ra các yếu tố riêng của mình, nó xem xét những thành tựu cá nhân đô thị từ nhiều góc độ khác nhau, không phải tất cả các chuyên gia kỹ thuật duy nhất, nhưng lập kế hoạch, đặt chính mình vào trung tâm của cuộc sống đô thị hữu cơ, sẻ, thay đổi và kéo dài thời gian.
Dựa trên những phát hiện này, Gaston Bardet phát triển vào năm 1934, một phương pháp phân tích mới. Thay vì rời khỏi thành phố, chức năng của mình, để suy ra các yếu tố riêng của mình, nó xem xét những thành tựu cá nhân đô thị từ nhiều góc độ khác nhau, không phải tất cả các chuyên gia kỹ thuật duy nhất, nhưng lập kế hoạch, đặt chính mình vào trung tâm của cuộc sống đô thị hữu cơ, sẻ, thay đổi và kéo dài thời gian.
Ce qui le conduit à proposer, à titre de méthodologie,
et sans apriorisme, de classer les problèmes qui se posent à l’urbaniste en
cinq catégories :
- Problèmes de circulation,
- Problèmes d’hygiène et de confort,
- Problèmes sociaux et économiques,
- Problèmes d’esthétique
- Problèmes Intellectuels et spirituels.
Il précise en même temps, qu’il faut toutefois bien se
garder de penser que ces problèmesse résolvent ainsi en ordre immuable. C’est
une classification pratique dans le but de faire ressortir l’échelle des
valeurs et l’ampleur des questions qui ne peuvent être résolues que par une
vision globale.
Những vấn đề trọng yếu mà các nhà thiết kế đô thị đều
phải giải quyết:
- Vấn đề giao thông,
- Các vấn đề về vệ sinh và tiện nghi
- Các vấn đề Xã hội và kinh tế,
- Các vấn đề thẩm mỹ
- Các vấn đề Trí thức và các vấn đề tâm linh.
- Vấn đề giao thông,
- Các vấn đề về vệ sinh và tiện nghi
- Các vấn đề Xã hội và kinh tế,
- Các vấn đề thẩm mỹ
- Các vấn đề Trí thức và các vấn đề tâm linh.
Đây chỉ là cách trình bày lý thuyết về một sự phân
hạng thực dụng, để phân tích rõ giá trị thứ bậc, tính cách quan trọng của các
vấn đề cần giải quyết nhưng chỉ có thể giải quyết theo một quan điểm tổng quát.
La nouveauté de ce schéma (élaboré dès 1934, comme
nous l’avons dit) est qu’il permettait de sortir, pour la première fois, des triangles
classiques : Hygiène, Circulation, Esthétique ou Santé, Beauté, Confort,
transformant ainsi la vision de l’urbaniste en plaçant l’idéal spirituel
au-dessus de la recherche du confortable ! Une vraie révolution…Les deux
premiers problèmes (circulation et hygiène) sont plutôt d’ordre technique. Avec
les problèmes sociaux et économiques – vivifiés par la connaissance des
questions intellectuelles et spirituelles – on entre dans l’ordre de la science
urbanistique. Gaston Bardet précise qu’il a dû – pour des raisons de clarté –
séparer les problèmes d’esthétique des problèmes spirituels, bien que, sous
l’angle de la création pure, ce soit inconcevable. Nous allons passer
maintenant en revue ces différents problèmes, en repérant comment - en
visionnaire qu’il fut - il s’en empare pour les traiter d’une manière toute nouvelle,
à la fois synthétique et globale.
Sự mới lạ trong chương trình này (được phát triển vào năm 1934, như chúng ta đã nói), ông được phép ra
cho lần đầu tiên, hình tam giác
truyền thống: Y tế, Lưu thông, Thẩm mỹ và Sức khỏe, Thẩm mỹ, Tiện nghi, chuyển đổi
tầm nhìn nhà
thiết kế bằng cách đặt lý tưởng tinh thần
ở trên tìm kiếm sự tiện nghi thoải mái! Một cuộc cách mạng ... Hai
vấn đề đầu tiên (giao thông và vệ sinh) chứ không phải kỹ thuật. Với các vấn đề kinh tế và xã hội- Làm sinh động bởi các kiến thức về các vấn
đề trí tuệ và tinh
thần vào trật tự của khoa
học đô thị. Gaston Bardet nói rằng
ông đã vì lý do rõ ràng - tách các vấn đề thẩm mỹ của các vấn đề
tâm linh, mặc dù, về sự sáng tạo tinh
khiết, nó là phi thường. Bây giờ chúng
ta sẽ xem xét những vấn đề khác, xác định như
thế nào - là một tầm nhìn chiến lược - để đối phó một cách hoàn toàn mới, tổng hợp và toàn diện.
I – PROBLEMES DE CIRCULATION.
La circulation, c’est l’ensemble des échanges de
toutes sortes, matériels et spirituels, entre la ville, sa région, le vaste
monde et à l’intérieur de ces milieux eux-mêmes. C’est la manifestation la plus
tangible de la vie urbaine. Aussi a-t-on trop souvent voulu réduire l’urbanisme
à une question de circulation envisagée sous l’angle le plus étroit de la
voirie.
Le milieu immédiat ou régional régit les accès de la
ville : par eau, par route, par fer et par air. L’aménagement d’une ville
corsetée dans ses frontières communales ne peut mener à rien, il faut étudier
le réseau des communications dans la région dont elle fait partie.
Sự lưu thông bao gồm mọi sự chuyển dịch vật chất và
tinh thần giữa thành phố, vùng lân cận, khắp mọi nơi trên thế giới, và ở bên
trong các nơi đó. Đây là biểu hiện hữu hình nhất của đời
sống đô thị. Vì thế người ta thường chỉ coi thiết kế là một vấn đề
lưu thông được nhìn nhận theo khía cạnh hẹp nhất , nghĩa là vấn đề đường sá.
Các lối vào thành phố bằng đường thủy, đường sắt, đường bộ và đường hàng không đều tùy thuộc
vùng hay địa phương lân cận.
Chỉnh trang một thành phố trong một phạm vi bị gò bó
theo giới hạn, thì chẳng có ích gì. Phải nghiên cứu mạng lưới giao thông trong
phạm vi lớn hơn trong vùng mà thành phố là một phần thuộc về.
- La voie d’eau (chenal maritime ou fluvial) par son origine géographique, ses profondeurs
et niveau imposés est l’un des accès les plus ancrés de la ville auquel se subordonnent
tous les autres.
-
- La voie de terre, souple, est, elle, au
contraire un vrai graphique enregistreur de la volonté humaine. Rassemblant
tous les mouvements d’échange, elle défie la topographie soit en l’épousant
soit en la franchissant par des viaducs, ponts, tranchées ou tunnels.
- A partir du 19è s. le chemin de fer est venu
modifier bien des situations acquises en détournant ou affirmant nombre de
grandes voies d’échange. Délaissant les villes construites sur les hauteurs
pour la plaine, le rail a conduit à la création de faubourgs extérieurs, fixant
autour des gares (nouvelles portes des villes) tout une population. Afin
d’éviter les barrières artificielles que constitue le rail dans les villes,
Gaston Bardet suggère d’élever de plusieurs mètres le plan du chemin de fer et
de répartir les gares pour éviter les congestions qu’elles provoquent – tout en
les jumelant avec des gares routières et des aérogares.
- La voie aérienne, elle, pose des problèmes d’infrastructure insolubles dans les agglomérations
trop denses. D’où nécessité d’éloigner les aéroports tout en les reliant à la ville
par des moyens de transport rapides ; de tenir compte des nuisances sonores et polluantes
qu’ils génèrent en créant des couloirs de circulation évitant au maximum les zones
d’habitation dense.
- La rue, jadis,
remplissait deux fonctions: canaliser la circulation et vertébrer le morcellement
du sol. Anticipant, dès 1947, sur l’expansion pléthorique de l’automobile et les
nuisances induites, Gaston Bardet envisage de séparer le cheminement des
piétons de la trajectoire des véhicules, à la fois par des tracés indépendants
et par des différences de niveau, sérier les véhicules par catégories et
vitesses, le débit étant fonction de l’homogénéité, enfin libérer les maisons
de l’alignement rigide qui était de règle.
Des tracés différents, des profils en long et en
travers symétriques ou dissymétriques, des plantations d’alignement ainsi que
des dédoublements de chaussées épouseront la topographie ou aideront à
caractériser les différentes fonctions des voies : échanges, résidence,
circulation lourde, tourisme, etc.…
Il plaide pour une organisation « radioconcentrique »
ou en toile d’araignée, composée de voies
«rayonnantes » qui vivifient et d’autres « circulaires
» qui enveloppent et unifient. En ce qui concerne les places, qui doivent être
des lieux clos et paisibles, il prévoit une circulation uniquement latérale et
de préférence d’un seul côté, évitant ainsi de les assimiler à des carrefours
qui sont, eux, des lieux de passage, de croisement, de circulation giratoire :
véritable petite gare régulatrice.
Ce sont ces principes directeurs qu’il mettra en
application, à partir de 1957, lorsqu’il sera nommé urbaniste communal du petit
bourg rural de LE RHEU, à l’ouest de RENNES,
y réalisant la première cité-jardin de France. A la fin de cet exposé seront
projetés quelques exemples des réalisations du RHEU qui illustreront mon
propos. Dans « Problèmes d’Urbanisme », anticipant sur les 20 ou 30 années à
venir, il cherche comment faciliter la circulation et diminuer les points de
conflit dans les grandes agglomérations. Il propose la création de carrefours
giratoires, la répartition des flots en les divisant, l’utilisation des possibilités
offertes par les sens uniques, la création des « sauts-demouton » ou « gendarme
couché», de passages souterrains et également, dans certains cas, des
croisements à différents niveaux, en forme de trèfle ou autre. Ces derniers
étant à proscrire en centre ville car ils détruisent tout contact humain (comme
le trèfle de l’Ecluse, à Stockholm).
Surtout il attire l’attention sur les constructions
démesurées en hauteur, empilant sur les commerces au sol, des milliers de
mètres carrés d’appartements et bureaux, créant ainsi une congestion au sol
générant des coûts prohibitifs de gestion…. Car il faut être conscient que le
coût de tous les systèmes de transports dans une métropole, depuis la chaussée
ordinaire jusqu’au métro (pour voyageurs ou marchandises qui, comme à New-York,
s’étagent parfois sur six niveaux) est énorme en capital, entretien, perte de temps
et usure humaine. Tout cela pour une activité qui – dès qu’elle dépasse une
certaine échelle – obtient un rendement non proportionnel à son intensité, non
productrice ni élévatrice du niveau de bonheur, servant uniquement au maintien
des capitaux et des foules.
II – PROBLEMES D’HYGIENE ET DE CONFORT.
Dans cette série de problèmes, Gaston Bardet évoque
outre les systèmes de distribution d’eau potable et d’assainissement des eaux
usées, les orientations des façades principales en fonction de
l’ensoleillement, l’orientation des rues prenant en compte les vents dominants,
violents ou pluvieux, la prévention des nuisances et pollutions, l’évacuation
des ordures et déchets, enfin la prévention contre le bruit en veillant au
mariage de la ville avec la verdure.
A ce sujet, il préconise la création de parcs, de
jardins de quartiers et jardins d’enfants, de terrains de sport et de jeux et
liaisonnant le tout, des avenues-parcs qui doivent constituer un réseau
ininterrompu et totalement isolé des poussières, des émanations nocives, des
dangers de la circulation. Sur ce réseau de verdure doivent se brancher les écoles,
les terrains de jeux et les terrains de quartier. Il écrit : « le véritable
moyen d’aérer, d’ensoleiller, d’assainir la ville, chimiquement et physiquement,
c’est en réalité son mariage avec la verdure ». La ville dans la verdure ce fut
l’idéal des cités-jardins d’Howard ; la verdure dans la ville fut celui des municipalités
américaines. C’est ce qu’il a réalisé à LE RHEU, dans le lotissement des Sports
– que nous verrons tout à l’heure - où outre les placettes traitées en « green
», il a eu le souci d’intégrer des espaces verts dans la composition urbaine
autrement que pour répondre à un souci de mise en scène. Ainsi, le premier
stade municipal se trouve-t-il localisé au milieu des habitations et rejoint,
par un chemin piéton, un espace libre pour les jeux ou la promenade le long des
terrains municipaux. Vous le verrez tout à l’heure lors de la projection. (fig.
25).
C’est par suite d’une admiration béate pour la
technique, qu’on a trop souvent réduit,
durant des décennies, les problèmes d’hygiène au seul
tout-à-l’égout. Or, ce sont essentiellement les systèmes de parcs et
l’équipement d’hygiène sociale (centres de santé, dispensaires, etc.…) qui
peuvent lutter contre le fait que les villes sont « biologiquement des milieux
ennemis et meurtriers de la vie » comme l’écrivait Alexis Carrel, dans «
l’homme cet inconnu ».
III – PROBLEMES ECONOMIQUES ET SOCIAUX.
Dans l’approche qu’il fait de ces problèmes, Gaston
BARDET étudie tout particulièrement les critères permettant de définir la
taille optimale d’une ville avec des coûts de gestion raisonnables, d’une part
- En général, plus une ville est grande, plus elle est endettée – et d’autre
part, socialement et économiquement elle ne répond plus à sa fonction d’organisme
de transmission sociale et d’élément d’association.
Elle devient facteur de désagrégation. Il existe en
effet, une limitation biologique effective à la concentration urbaine, qu’il
fixe à l’optimum de 15.000 familles, pour que le milieu reste sain.
Il pointe
également la ségrégation liée à une certaine conception du zoning. L’afflux des
populations ouvrières dans les villes modernes a conduit à la notion
contemporaine et inhumaine, de faubourgs (ou banlieues) exclusivement ouvriers.
Puis la nécessité de séparer les zones industrielles des zones résidentielles
ont imposé graduellement des divisions administratives en zones : d’habitations
collectives, d’habitations individuelles et industrielles. Cet esprit de
cloisonnement, excellent en ce qui concerne la mise à l’écart des nuisances,
s’avère catastrophique par suite de sa mauvaise application qui a contribué au
rejet d’une classe paupérisée en des zones défavorisées.
A partir de ses travaux d’analyse urbaine, Gaston
BARDET met au point ce qu’il appelle une « topographie sociale » destinée à
mettre en évidence la structure sociale de la ville et « l’image » d’un
quartier, démontrant ainsi qu’une agglomération urbaine n’est pas un simple
espace géographique mais un espace social complexe et hétérogène formé d’une
multiplicité de groupes secondaires, qu’il baptise du nom d’échelons qui sont,
par ordre croissant :
- L’échelon patriarcal, (groupe élémentaire de
voisinage (5 à 15 ménages) qui s’assistent et s’entraident. La famille
conjugale actuelle est trop faible pour permettre à ses membres de se rendre
les services indispensables (garde des enfants, soins aux malades, services
divers). Cet échelon est une constante sociale, proprement biologique.
- L’échelon domestique. C’est l’assemblage de
rues et de parcs et d’échelons patriarcaux, regroupant de 50 à 150 foyers. Il a
une vie propre, une identité caractérisée par une voie, un site, voire un
équipement particulier. Il peut avoir ses manifestations propres. C’est une
constante d’ordre géoéconomique, le premier élément proprement urbain dont la
fédération constitue l’échelon supérieur :s
- L’échelon paroissial. Composé naturellement
de plusieurs échelons domestiques, c’est ce que nous appelons plus communément,
le quartier, le faubourg ou la petite villette. Il regroupe 500 à 1500 familles
et est identifiable par des équipements collectifs importants (centre cultuel
et/ou culturel) et monumentaux.
Chaque échelon possède son centre, ses limites, il est
hétérogène et il abrite des personnes de différentes classes sociales et de
genres de vie complémentaires.
Il ajoute à cette première série d’échelons trois autres
d’ordre croissant :
- La cité humaine (5000 à 15000 familles),
- La métropole régionale (50.000 à 150.000
familles)
- La capitale (500.000 à 1.500.000 familles).
Il précise bien que cette classification n’a rien de
rigide et dans « PROBLEMES D’URBANISME », il admet déjà qu’une grande souplesse
doit accompagner cette vision cellulaire de la vie sociale et qu’il ne serait
pas contre nature de voir les chiffres avancés passer du simple au double,
voire plus.
IV – PROBLEMES D’ESTHETIQUE.
En rappelant que la cité « est la plus grande oeuvre
d’art collectif », Gaston BARDET bat en brèche la réglementation classique qui
traduit souvent une subordination de l’esthétique à des préceptes d’hygiène
simplistes. Il écrit : « la ville est faite par l’homme et pour l’homme. Sa silhouette,
son coloris, ses jeux de pleins et de vides, son caractère, son échelle, qu’ils
proviennent de ses matériaux (hommes et pierres), de son site humanisé, de ses
modes de vie passés ou présents, du nombre de ses habitants, sont les éléments constitutifs
et primordiaux de sa personnalité ». Jadis, l’unité et la beauté urbaines
étaient filles d’une discipline consentie, d’un sûr instinct et d’une réelle
communauté d’idées. La dégradation du goût, la poursuite forcenée des profits
obligent à réglementer étroitement les constructions publiques et privées.
Cette réglementation doit être aussi sévère contre les fautifs que souple et
nuancée dans sa conception. Cette réglementation, selon lui, ne peut être le
fruit de la cogitation de technocrates rigides, mais le résultat de conseils
éclairés de véritables artistes.
Il évoque enfin la notion fondamentale de « tableaux
urbains » en affirmant que
« c’est par le groupement organique, par la
composition en tableaux urbains que l’on
obtiendra une meilleure utilisation de l’espace libre,
le dégagement des vues, une économie générale des circulations et la
renaissance du sentiment communautaire ».
V – PROBLEMES INTELLECTUELS ET SPIRITUELS.
C’est dans la prise en compte de problèmes de ce type
ajoutés à la dimension
sociale déjà prise en compte, que Gaston BARDET ouvre
l’urbanisme à une nouvelle
dimension philosophique faite d’humanisme mais aussi
de valeurs morales.
Bergson – fait-il remarquer – distingue le
spirituel, l’esprit en soi cheminant dans les
voies de la création continue et faisant fleurir sur
son passage oeuvres esthétiques,
religieuses, politiques, sociales par lesquelles
l’homme manifeste sa liberté, et en quoi
consiste proprement la civilisation ; de l’intellectuel
ou détournement de cet esprit vers l’utilisation de la matière par l’homme,
embrassant donc les rapports nécessaires entre les forces extérieures et
conséquemment soumis à ces rapports. C’est l’ homo faber en qui un certain
matérialisme a cru voir la source de tout progrès !
A la Renaissance – poursuit-il – l’homme a fait la
découverte de l’humain. Ayant
tourné son regard vers lui-même, il s’est mis à
s’adorer en tant que créateur au lieu de
continuer à se conduire en créature soumise à l’ordre
même de la création. Il en résulte, note Maritain, une cité sans Dieu, « une
cité qui ignore d’une manière absolue, en tant que cité, toute autre fin qu’une
perfection humaine exclusivement terrestre ».
Les tentatives les plus louables des utopistes comme
Howard, par ex., ne visent qu’au bienêtre, à édifier un « paradis » terre à
terre, alors que la seule solution pratique et effective à tous les problèmes
sociaux – conclut BARDET – c’est l’amour du prochain, la charité… Pour ce
faire, il faut utiliser des cadres où les rapprochements humains, se
multipliant sans défaillance, sollicitent des hommes une union de plus en plus
étroite. Car, c’est pour des sociétés simples et closes et pour des petits
groupes que la structure morale originelle et fondamentale de l’homme, est
faite. Dans les foules, les grands nombres, l’homme est atomisé, frappé
d’impuissance, d’isolement, de déracinement.
Or, s’il était relativement aisé, au Moyen Age, de
forger une civilisation pour petits
groupes, on conçoit la difficile tâche de notre siècle
: amener les masses à la conscience d’elles-mêmes, à leur majorité spirituelle,
éviter leur dissolution en foules, permettre à la fois leur croissance en
nombre et en qualité, en force et en sagesse…
Et Gaston BARDET de conclure ce chapitre sur les cinq
problèmes d’urbanisme, en
écrivant : « retrouver les cadres à la taille de
l’homme, leur hiérarchie, leur grandiose
fédération, y faire vivre tous les hommes dans les
meilleures conditions possibles de confort soit, mais en vue de leur
épanouissement spirituel, telle est la haute mission des urbanistes qui doivent
être des appeleurs d’âmes ! ». Or, l’on ne peut disposer les « coquilles » qui suscitent
la formation d’âme, de psyché collective vivante, qu’en se fondant sur la
réalité de l’homme intégral qui est : corps, âme et esprit.
4.5. Les échelons communautaires
Partant de ce qui est, Gaston Bardet
déduit par observation directe des communautés urbaines, qu’à certain
changement de volume correspond un changement de nature, un changement de
fonction, qu’à certaines échelles correspondent certaines espèces. Ces
observations limitées à la société française s’appliquent toutefois aux
agglomérations en général.
Il distingue d’abord trois échelons
qu’il appelle : patriarcal, domestique et paroissial. Ils seront, bien
évidemment, différents de volume selon l’importance de l’agglomération
envisagée, la plus ou moins grande densité de l’espace urbanisé ; mais ils
ne seront pas directement proportionnels à l’importance des agglomérations.
-
L’échelon patriarcal.
C’est le groupe élémentaire où les voisins s’assistent et s’entraident
dans les travaux, les fêtes, les maladies, les deuils, les échanges de présents
et de secours. La proximité n’est pas tout, il faut encore, sinon la solidarité
absolue, du moins des relations de bon voisinage.
Il faut, enfin, dans la traduction
plastique de cet échelon, un lieu élémentaire de réunion, parfois privé,
parfois commun : avant-cour, jardin, lavoir où peut s’exercer une activité
commune. C’est pourquoi ce groupe familial de voisinage, cet échelon patriarcal
est une constante sociale proprement biologique.
-
L’échelon domestique.
C’est très exactement la continuité
des cheminements quotidiens qui fait la liaison entre les diverses maisons, les
divers foyers. C’est pourquoi cet échelon s’épanouit autour des places fermées,
des élargissements analogues aux places italiennes. Dans les structures
nouvelles, ouvertes sur un jardin intérieur – que les futurs urbanistes
traceront – ce sera toujours le cheminement piétonnier qui restera socialement
formateur, mais il sera enveloppé et non enveloppant. A cet échelon, le lieu de
rassemblement n’est plus un point,
c’est
l’alignement des boutiques tout entier.
Dans un échelon domestique, il n’y a
généralement que du commerce quotidien, et parfois quelques commerçants de
bourg égarés. Le commerce n’y est ainsi qu’une des formes de l’alternance des
activités ; la commerçante y est une ménagère comme les autres et la
cohésion de cet échelon en est renforcée.
Cet échelon, tissé par les
cheminements vivriers ou les besoins les plus primaires, correspond à la
solidarité nécessaire au jour le jour. L’échelon domestique n’est donc pas une
addition d’échelons patriarcaux, c’est une autre constante sociale, d’ordre
géo-économique. C’est, en fait, le premier élément proprement urbain.
-
L’échelon paroissial.
Le quartier, le faubourg sont des
unités administrativement reconnues, leurs habitants ne se contentent pas de
lieux de réunion de plein air, issus de configurations hasardeuses. Ils
possèdent ou réclament des monuments : église et/ou marché à eux.
Le monument public – dont la
multiplication est le signe d’une haute civilisation – est l’organe qui
caractérise cet échelon. Il est, soit générateur de quartier, soit expression
postérieure de celui-ci. « Le monument crée le quartier, non seulement il
lui donne son dispositif, sa vie, mais aussi sa physionomie ». L’édifice
public, comme organe de mouvement exerce son attraction sur les
rues avoisinantes ; comme organe de développement, il aide à former
le quartier autour de lui. Enfin, comme organe de structure ou de
distribution. Une fois qu’il est bâti, tout le quartier dépend de lui car il
donne au quartier le reflet de sa vie intime.
Toutefois, ce n’est point l’échange vivrier ou
matériel qui caractérise cet échelon ; il n’est pas simplement une
communauté matérielle, il est surtout une communauté spirituelle. Une vie
suffisamment fournie en éléments complémentaires pour avoir une intensité
réelle. C’est pourquoi Gaston Bardet a baptisé cet échelon : l’échelon
paroissial pour évoquer le rôle spirituel, le rôle solidarisant qu’y jouait la
paroisse, il y a quelques siècles.
La détection de cet échelon, par les méthodes de
topographie sociale mises au point par Gaston Bardet, est peut-être plus aisée
que celle de
nos échelons précédents, par suite de son importance : 500 à 1500
familles, et du monument qui le révèle.
Dans cet échelon, tout doit être fonction de la vie de
l’enfant. Sa dimension est fixée par la distance maximum que peut fournir un
enfant pré-adolescent pour aller à pied,
de la maison la plus éloignée, à la crêche, à l’école et aux terrains de jeux
annexes ; ces éléments d’éducation jouant, dans notre vie culturelle, le
rôle de l’église et de son cloître, au Moyen-Age. Leur forme est déterminée par
la nécessité de protéger l’école et les maisons du trafic routier, de ses
dangers et de ses nuisances. C’est une enceinte de foyers autour d’un espace
libre commun, munie d’éléments régénérateurs et, en particulier, d’un édifice
social : maison commune, bien étudiée qui doit réunir toutes les fonctions
élémentaires et immédiates.
C’est, en somme, un petit village, une petite paroisse
qu’il faut créer, avec sa crêche, ses écoles, ses terrains de jeux, ses
douches, sa buanderie, sa chapelle, ses salles de réunions communes, ses
coopératives de consommation, voire quelques ateliers d’artisans, permettant à
l’enfant d’observer le mariage de la main et de la matière.
-
La Cité humaine.
Les trois premiers échelons, s’ajoutant les uns aux autres, ne font qu’augmenter
l’intensité de la vie urbaine qui les solidarise, au détriment toutefois de
leur autonomie propre. A leurs qualités propres s’ajoutent, d’étage en étage,
des qualités nouvelles, caractéristiques du changement d’échelle, de structure,
de destin.
Celles-ci ne risquent pas de faire disparaître les
qualités antérieures des échelons les plus élémentaires, jusqu’à un certain
volume, qui est celui de la Cité humaine contemporaine, celle qui réalise parfaitement le milieu
favorable à l’épanouissement du bien vivre, ce qui est la fonction essentielle
de la Cité.
Au-delà d’un certain point : une dizaine de
milliers de familles, mais qui varie selon les conditions régionales et la
culture, la croissance urbaine se châtie elle-même. L’optimum à retenir dépend
du niveau de la culture et du niveau de la technique. Il faut donc en avoir une
conception non pas statique mais dynamique. Pour un même niveau de civilisation
tout dépend de la proportion des créateurs et des échanges actifs par rapport
au reste de la population.
Le développement de la civilisation : culture et
technique, conduit à de petites cités de vie communautaire intense. Ceci est
vrai pour les communautés de voisinage agglomérées ; nous verrons que par
un remarquable jeu de balance, dans le cas des communautés spatiales, la
civilisation conduit à des fédérations de plus en plus vastes.
-
La série des échelons.
Après avoir observé les quatre échelons :
- patriarcal, de l’ordre
de 5 à 15 familles,
- domestique, de l’ordre
de 50 à 150 familles,
- paroissial, de l’ordre
de 500 à 1.500 familles
- et celui de la Cité,
de l’ordre de 5.000 à 15.000 familles, Gaston Bardet en détermine deux
autres : - l’échelon métropolitain régional, de l’ordre de 50 à 150.000
familles et – l’échelon métropolitain capitale, de l’ordre de 500.000 à
1.500.000 familles. Mais ces estimations n’impliquent nullement que ces
échelons supérieurs (dans leur état présent) réalisent une fédération organique
des échelons inférieurs, ainsi que l’analyse nous l’a montré au contraire
jusqu’à la Cité.
En définitive on peut classer les
espèces sociales que l’urbaniste devra traiter dans les six échelons
suivants :
1er échelon :
le hameau, l’écart, la rangée ou la maison plurifamiliale.
2ème échelon :
le village, d’exploitation strictement rurale, l’ancien petit faubourg
organique, l’îlot d’habitat collectif, la petite commune rurale ou le
micro-pays.
3ème échelon :
le bourg, le village-centre (avec ses satellites), la paroisse, l’ancien
quartier organique, l’unité de voisinage future ou le canton.
4ème échelon :
la cité humaine proprement dite, le pays rural ou l’arrondissement.
5ème échelon :
la métropole régionale ou le département.
6ème échelon :
la métropole capitale ou la région, en se rappelant toujours qu’il s’agit de
bio-sociologie avec tout ce que cela signifie de souplesse et d’adaptation et
non d’architecture, de pétrification.
Note :
la population rurale des cantons correspond sensiblement à un fort échelon
paroissial ; celle du « pays » correspond sensiblement à
une cité ; le département correspond lui à une métropole régionale et la
région correspond sensiblement à une métropole capitale avec ses écarts.
4.6. Les grandes lignes de la réforme démographique
En prenant comme base les études des échelons et des groupes de
production, Gaston Bardet, expose alors les grandes lignes de la réforme
démographique à entreprendre.
Dans la structure rurale :
Favoriser le regroupement spontané des petits hameaux et villages autour de
villages-centres et de centres coopératifs. Faire de ces villages-centres
équipés, de véritables noyaux d’une nouvelle civilisation rurale. Faire du
« pays » l’unité nouvelle d’équipement rural. Irriguer, par
roulement, la campagne de tous les éléments qui justifient l’attraction urbaine
(bibliobus, troupes théâtrales, cinémas ambulants, etc…).
Dans la structure urbaine :
Donner au quartier la semi-autonomie nécessaire à sa constitution et à son
développement. Favoriser la croissance des trop petites villes jusqu’à
l’optimum de 10.000 familles. Créer, si nécessaire, de nouvelles cités de
production du volume de l’optimum. Limiter la croissance des villes actuelles
qui ont dépassé l’optimum, les faire essaimer, en faire le centre d’une
ville-fédération.
Dégonfler et aérer les métropoles
régionales en recréant dans leur sein des communautés autonomes n’excédant pas
l’optimum et subdivisées en échelons ; enfin, promouvoir un type nouveau
de métropole décentralisée, métropole en grappe ou ville-fédération.
Décentraliser au maximum à
l’intérieur du territoire national, ce qui implique des mesures énergiques
vis-à-vis des agglomérations monstrueuses et de certaines régions trop étendues
et appliquer une politique effective d’équilibres régionaux.
Sur tout le territoire national :
Ce programme de regroupement rural et de dissémination urbaine, ne peut être
résolu sans poser comme base la décentralisation industrielle, administrative
et culturelle à diverses échelles. Fournir à chaque échelon l’équipement social
et spirituel – mobilier et immobilier – qui lui convient afin d’y permettre le
développement de l’esprit communautaire correspondant à sa taille.
Etudier toute cette
décentralisation, ou mieux, « recentralisation » - car il s’agit de
retrouver de nombreux centres autour desquels doivent se structurer des
communautés vivantes – dans le cadre des régions.
4.7. La géographie de l’esprit
Après avoir montré l’importance de
la géographie, de la création volontaire de petits groupes en vue de la
liberté, la justice, l’égalité dans la joie, Gaston Bardet précise qu’il ne
voudrait pas que l’on puisse en conclure que le retour aux cadres
traditionnels est le sens unique de
l’évolution future. Ce retour à des cadres connus et éprouvés n’est qu’une
reprise en vue d’une extension des associations personnelles et de la
recréation de nouveaux cadres, sur de nouvelles bases. Le renforcement, la
contraction des communautés de voisinage a pour but de faciliter l’extension,
l’expansion des communautés territoriales.
Toutefois, la nécessité de vastes
fédérations, comme les fédérations européennes, semble indiquer au préalable,
un renforcement des petites nations et l’affirmation d’une structure
régionaliste éprouvée dans les grandes nations.
Le danger de notre civilisation
occidentale consiste surtout en son uniformisation. Elle tente à appliquer non
seulement le même principe, mais les mêmes modes, les mêmes mœurs à des peuples
bien différents. Elle va ainsi contre la foncière diversité humaine. C’est
pourquoi Gaston Bardet pense qu’il faut voir dans le nationalisme des petits
peuples et le mouvement régionaliste, un réflexe de défense contre une
uniformisation erronée et nullement un obstacle à l’unité. Cette unité ne peut
se faire que sur les principes fondamentaux de la Science et de la Morale,
principes qui s’incarnent différemment en chaque peuple.
L’échelle de l’unité territoriale
devient plus vaste au fur et à mesure que se diffuse l’esprit. Une sorte de
voûte, faite d’images et de sons, entoure désormais la calotte terrestre et –
sans s’évader de l’espace-temps comme l’esprit – permet des communions qui
transcendent la géographie.
Il est probable que dans l’avenir,
les éléments qualitatifs ne se regroupent plus entre des frontières nationales
distinctes. L’Europe ne sera plus considérée comme formée d’une douzaine de nations, mais sans doute de
centaines de régions, plus ou moins diversement fédérées et parmi lesquelles certaines
présenteront une densité spirituelle qui semblera s’élever au-dessus du sol
comme une colonne de lumière.
A l’intérieur de ces nouvelles
grandes unités et par le jeu de balance que nous retrouvons sans cesse, de
nouveaux petits groupes, de nouvelles cités surgiront comme des phares.
Cette nouvelle architecture de
communauté, unissant les deux formes orientale et occidentale de l’humanisme,
équilibrera ainsi notre besoin élémentaire de protection au sein de sociétés
closes et d’aspiration vers les sociétés ouvertes, en attendant l’Unité
humaine !
LIVRE CINQUIEME
Dans ce cinquième livre, Gaston Bardet fait l’historique de
l’urbanisme, depuis sa naissance et son évolution jusqu’à l’aménagement de
l’espace. Il présente les cinq phases de cet aménagement, nécessaires pour
générer des structures et des ambiances, urbaines et rurales, socialement
saines et génératrices de communautés vivantes et interactives dans le cadre de
la région. Il conclut cet ouvrage avec les grands principes qui caractérisent
le Nouvel Urbanisme lequel – nous dit-il – doit être corporel, biologique et
harmonieux.
5.1. De l’urbanisme à l’aménagement de l’espace
L’apparition de l’urbanisme parmi
les sciences sociales, et d’urbanistes parmi les chercheurs, est la conséquence
de problèmes neufs posés par des phénomènes dont nous ne connaissons guère
d’exemples dans l’histoire. Mais ce n’est pas parce que cette science a
retrouvé les structures fondamentales des groupements humains, qu’une forme
nouvelle, un art urbain nouveau va pouvoir renaître.
La France a été la première à prendre
la tête du mouvement urbanistique grâce aux considérables transformations de
Paris opérées sous Napoléon Ier puis Napoléon III. En Angleterre, c’est
l’initiative privée qui impulsa le mouvement en faveur de l’amélioration des
logements populaires, en réaction contre
la ville monstrueuse. Mais c’est à l’Allemagne que revient officiellement la
première place en matière d’aménagement et d’extension des villes par le
traitement méthodique des villes existantes et une politique foncière municipale
ainsi que le traitement, avec un soin particulier, des quartiers excentriques
où logeait une forte population ouvrière. Aux Etats-Unis, les réalisations sont
le fait d’associations privées de commerçants, d’industriels et de
« clubs » qui voient dans l’urbanisme une « bonne affaire »
pour la Cité. Son apport principal consiste en la réalisation de vastes
systèmes de parcs réunissant les réserves boisées, les parcs et les jardins
intérieurs à la ville au moyen de rubans de verdure.
C’est au célèbre Congrès de Londres, en 1910,
où se trouvent réunis les grands pionniers de l’urbanisme, qu’apparaît pour la
première fois le mot « urbanisme ». C’est cette même année qu’en France
fut proposé que toute ville de plus de 10.000 habitants fasse l’objet d’un plan
d’extension et d’embellissement.
En 1903, en France,
Marcel Poëte avait créé le Cours d’Introduction à l’Histoire de Paris qui fut le germe de l’enseignement de
l’urbanisme en France.
En 1918 apparaît l’Ecole Pratique d’Etudes Urbaine et de d’Administration
municipale et en 1924, l’Institut d’Urbanisme de l’Université de Paris.
En 1938, devant l’indifférence officielle montrée pour l’enseignement pratique,
Gaston Bardet ouvrit un atelier libre qui forma de nombreux élèves, qui
occupèrent par la suite des postes important dans le domaine de l’urbanisme.
En 1919, c’est la naissance de la première revue
française spécialisée : « La Vie Urbaine » dirigée par
Marcel Poëte. Puis, en 1932 la revue « Urbanisme » et en 1936
l’éphémère « Paris
et la Région Capitale », dirigée par Gaston Bardet.
Le Congrès de Paris de 1937 sur « l’Aménagement
régional et national » concernait essentiellement l’aménagement de l’usage
du terrain. Toutefois, Raymond Unwin éleva le débat à son véritable niveau en
disant : « l’aménagement de l’espace doit contribuer à créer des
valeurs nouvelles, par une coopération échelonnée entre les diverses unités et
ce, depuis la personne jusqu’au globe entier ». De son côté, l’architecte
suisse Amin Meili déclarait : « la campagne, la ville et le village
constituent le tissu cellulaire qui enferme les existences humaines. Or,
l’expérience enseigne qu’il existe un optimum d’espace Le bonheur des
hommes et le travail qu’ils fournissent sont essentiellement influencés par
leur ambiance. Aussi bien envisageons-nous l’aménagement du
« milieu » (au sens le plus général du terme) comme partie intégrante
du programme de planisme qui est, pour l’avenir, d’une nécessité
absolue… ».
Né du désir d’améliorer le logement ouvrier et
désignant d’abord une simple discipline d’aménagement des cités, l’urbanisme a
été étendu successivement à l’aménagement des régions et des villages puis à la
nation toute entière. Présentement, l’urbanisme désigne donc l’aménagement du
sol à toutes les échelles, l’étude de toutes les formes de localisations
humaines sur la terre. Parti de l’organisation des groupes denses, il a dû
s’étendre à toute « l’économie territoriale ».
La définition de l’urbanisme qu’en donnait le
dictionnaire de l’Académie Française : « Art de construire, de
transformer et d’aménager les villes au mieux de la commodité suivant les
règles de l’esthétique et de l’hygiène » est très près du stupide
triangle : hygiène, beauté, confort officiellement enseigné à l’époque,
qui ne visait que la commodité et non l’épanouissement complet de l’homme. A
ces trois facteurs, Gaston Bardet en ajouta deux autres, présentant ainsi les
cinq grands problèmes qui se posent à l’urbaniste, dans l’ordre hiérarchique
suivant:
- Problèmes de circulation,
- Problèmes d’hygiène,
- Problèmes économiques et sociaux
- Problèmes d’esthétique,
-
Problèmes intellectuels et spirituels.
permettant
une définition beaucoup plus ample de l’urbanisme qui « est, à la fois,
une science, un art et une philosophie ; une science qui s’attache
à la connaissance des choses, étudie méthodiquement les faits, recherche les
causes premières, puis, après un travail rigoureux d’analyse, essaie, en des
synthèses successives, de déterminer, sinon des lois, du moins des principes
directeurs ; sur cette base peut s’ériger un Art appliqué qui passe
à l’action, à la création de synthèses nouvelles, matérialisant par un jeu de
vides et de pleins les volumes où se répartissent les groupes sociaux ;
mais l’application de cet art, après l’analyse scientifique, nécessite un
double choix : choix des éléments à soigner, modifier, susciter ;
choix des méthodes à appliquer - ce
double choix impliquant la détermination des valeurs humaines, c’est, par
essence, une philosophie. La connaissance impassible, la création
enthousiaste et le choix des valeurs sont les trois aspects
nécessaires du faisceau de disciplines que symbolise l’urbanisme ».
En ce qui concerne l’aménagement de
l’espace, Gaston Bardet considère « - pour l’instant et à notre échelle –
il ne peut y avoir en fait que des méthodes d’aménagement régional ».
-------------------------------------------------------------------------------------------
5.2. Les cinq phases de l’aménagement de l’espace.
Gaston Bardet poursuit : « il
n’y a pas une science mais une politique de l’urbanisme national. Il ne peut y
avoir qu’une science de l’aménagement régional. Ce sont les régions qui, par
leurs fédérations successives, formeront les nations, puis les plus vastes
confédérations, grands espaces ou continents ». Le Plan national
d’urbanisme qu’il a maintes fois exposé,
n’est qu’un retour à des équilibres régionaux. C’est à l’échelle de la région –
qui fait éclore la ville, comme une fleur géante dans la campagne – que doit
s’étudier l’aménagement de l’espace.
Tout aménagement spatial peut se diviser en cinq
phases principales :
A – les Enquêtes et les Analyses,
B – l’évaluation critique des
besoins et des activités déterminant le Programme-but.
C – la Synthèse, ou composition du
Plan directeur proprement dit,
D – le Programme-moyen ou Programme
d’application et l’Ordre d’urgence.
E – l’Application éducative et les
Mises au point.
Examinons chacune de ces phases.
A
– Les Enquêtes et Analyses.
Toute la valeur du Plan ou du
Programme dépend de l’analyse des structures et des fonctions urbaines et
régionales, autrement dit de l’enquête préalable, jamais assez approfondie,
jamais assez subtile et dans laquelle la topographie sociale joue un rôle
primordial. Cette enquête doit porter sur les principaux points suivants :
1)
le cadre antrhropo-géographique.
2)
le site.
3)
les hommes.
4)
l’évolution des tâches agglomérées.
5)
l’équipement des échelons et le zoning des fonctions.
6)
l’éducation et les loisirs.
7)
l’esthétique et les volumes sociaux.
8)
l’activité économico-sociale.
9)
la santé et l’hygiène.
10)
les voies et transports.
L’essentiel est d’arriver, après
tamisages successifs et coups de sonde répétés, à obtenir une vision réellement
synthétique du sujet mis en observation.
L’enquête, autrement dit la
recherche et la réunion des témoignages permettant un diagnostic sûr, peut se
décomposer en trois enquêtes superposées : bibliographique, personnelle et
monographique.
1) – l’enquête bibliographique
comporte le dépouillement des ouvrages antérieurs, archives, etc…se rapportant
au sujet et permettant d’établir son évolution dans le temps.
2) – l’enquête personnelle est ainsi
appelée parce qu’elle doit être faite en personne et qu’elle s’adresse à des personnes.
3) – l’enquête monographique, ou description
de chaque zone, de chaque groupe, de chaque fait particulier présentant une
individualité distincte. Elle présuppose la délimitation de chaque zone, de
chaque groupe distinct ce qui nécessite au préalable l’établissement de
cartogrammes qui fournissent l’image des variations d’intensité des phénomènes
suivant le lieu.
A ces trois enquêtes classiques,
Gaston Bardet en ajoute une quatrième, l’enquête par corps. Elle
concerne les « groupes constitutifs de la ville ou de la région, les
groupes locaux ou associatifs qui déterminent, à leur échelle et par écrit,
leurs besoins ; que les quartiers et les sociétés voisines se
connaissant mutuellement, estiment entre eux leurs besoins communs de chacun et
les besoins communs de l’ensemble ».
B
– L’évaluation critique des besoins et des activités.
Le planning suppose une révision des valeurs d’actualité, des
engouements, des modes ou des résidus des systèmes caducs, pour ne conserver
comme base certaine, que les grandes constantes climatiques, géologiques,
géographiques, psychologiques, métaphysiques et les constantes sociales
provenant de l’échelle des différentes communautés organiques, détectées
antérieurement.
L’essentiel est de partir d’une échelle des valeurs répondant aux relations
réelles.
Cette évaluation critique des
besoins repose sur trois facteurs : les directives du Plan national
d’aménagement, les desiderata de l’enquête par corps, enfin la culture
personnelle de l’urbaniste.
Cette évaluation permet de
déterminer les grandes lignes du Programme-but. Que désire-t-on
atteindre ? Le Plan essaiera de matérialiser cette volonté sur le sol.
Puis le Programme-moyen fixera les méthodes à employer, les moyens
d’application, les réalisations prévues et le déroulement souhaitable des
opérations.
C
- La synthèse ou composition du Plan directeur.
Les deux premières phases mettaient en œuvre principalement l’esprit
scientifique et philosophique de l’urbaniste. La troisième phase réclame
l’intuition et l’imagination créatrice.
Puis apparaît le Plan proprement
dit. Il ne s’agit point d’une mosaïque de conceptions diverses, mais d’une
orchestration de partitions souvent fort
discordantes au départ.
L’intuition et la raison règnent alternativement en maîtresses. Il s’agit d’un
art qui vise à combiner soit des activités sur des surfaces, soit des
surfaces au milieu d’activités, de peindre l’homme et le sol dans leurs
interrelations et interactions multiples. C’est un art de stratège beaucoup
plus qu’un art de maçon. Un art de distribution d’activités, c’est-à-dire
d’hommes sur des surfaces. Cette composition économico-sociale – qui, à grande
échelle, sera traduite par les exécutants ingénieurs, architectes, jardiniers-
n’en est qu’à ses premiers balbutiements. Elle devra s’apprendre sur le terrain.
Pour qu’un planning territorial ne
reste pas une carte géologique, il faut qu’il traduise autre chose qu’un état
purement statique, c’est-à-dire, une foule en action, ce qui nécessitera une
conjonction étroite entre les organismes techniques d’exécution et les organismes
administratifs et politiques de direction.
Pratiquement, dans la composition du
Plan, la difficulté majeure pour l’urbaniste consiste à passer du régime du
zoning, auquel les règlements l’ont habitué, au régime des échelons. De
l’analyse sociale surgira le besoin de créer une structure plastico-sociale
affirmée où la topographie sociale se révèlera créatrice.
D
– Les programmes d’application et l’ordre d’urgence.
Enquête, évaluation critique et plan
proprement dit n’apparaissent que comme des opérations préliminaires. C’est
l’application du plan, constante et continue, qui constitue effectivement le
planning.
Tout plan – qui n’est qu’entrelacs
et taches de couleur – n’a de valeur qu’accompagné de son programme
d’application qui doit, d’une part, être un programme de réalisations
collectives et, de l’autre, indiquer l’évolution souhaitable de chaque
surface-activité.
Un programme d’aménagement devra
donc comporter deux parties complémentaires mais hiérarchisées, la première
visant l’urbanisme actif : l’équipement proprement dit, la seconde,
l’urbanisme passif ou discipline de l’initiative privée. En outre, pour établir
ce programme, chaque agglomération devra être, avant toute chose, divisée en
échelons. C’est dans chaque échelon – principalement d’ordre domestique et
paroissial – que se poseront et se résoudront, de bas en haut, les problèmes
restant tous à taille humaine.
Gaston Bardet considère qu’il est
nécessaire de reprendre la question du zoning par la base en
ne mélangeant plus les unités sociales et les règles d’hygiène, la densité et
l’esthétique. Et en veillant à ce que le zoning d’activité n’engendre
pas un zoning territorial basé sur la richesse.
En résumé, le zoning , c’est-à-dire,
la division officielle en zones, secteurs et alignements, n’est qu’une
division administrative , sans échelle, un pur classement en vue d’un contrôle
simple des autorisations de bâtir. Un pur classement visant à l’uniformité
et détruisant l’unité. Ce zoning administratif devra donc laisser le pas aux
quartiers, aux échelons : réalités sociales. Ceci sera facilité par de
nouveaux modes d’implantation des maisons, dans le sein d’îlots ou d’unités
plus vastes, plastiques et sociales à la fois : les unités de voisinage.
Le zoning, conception formelle et géométrique, devra se subordonner aux
échelons exprimant l’être urbain ; fédération de communautés organiques.
Une réforme totale du programme
d’aménagement devra donc comporter deux parties
bien
distinctes visant, la première : l’urbanisme actif ; la seconde,
l’urbanisme passif.
1) - l’urbanisme actif : programme d’équipement de la ville : services et
espaces libres publics.
2) - l’urbanisme passif : règlements différentiels concernant l’utilisation du
sol et la disposition de constructions privées.
Il faut insister sur toutes les possibilités de
coopération et ne jamais concevoir d’actions individuelles isolées qui ne
puissent servir au bien commun, en commençant par les voisins. Le règlement,
volontairement dur, contre toute tentative d’exploitation du bien commun à des
fins privées, doit conduire à une politique de bon voisinage qui est à la base
de toute communauté humaine.
Un ordre d’urgence par étape doit être établi
en vue de la réalisation de l’équipement, des activités nouvelles à développer,
ou des séquelles à effacer. Cet ordre d’urgence s’avère très délicat par suite
des interactions du milieu extérieur, mais plus encore peut-être par suite des
cloisons existantes entre tous les services et des mauvaises méthodes de
financement. Il est bien évident, qu’un organisme : ville, région ou
quartier ne pourra satisfaire ses besoins s’il ne possède pas pour ceux-ci un
budget autonome, s’il n’a pas une direction représentant les groupements
intéressés, capables de poursuivre des buts lointains, s’il ne constitue pas
effectivement un « corps » organique en face des autres corps
constitutifs plus ou moins puissants, plus ou moins sclérosés.
L’enquête,
l’évaluation critique, l’expression des besoins réels sont indispensables si on
veut avoir des plans réalisables, mais faut-il encore que ceux-ci se réalisent.
Ceci n’est possible, en tous domaines, que si les intéressés sont eux-mêmes en
mesure de coordonner les activités qui les régissent et de répartir les fonds
qui leur sont nécessaires.
E - l’application éducative et les mises au point.
Cette
dernière phase consiste à faire intégrer progressivement le plan dans les
formes caduques actuelles, à le substituer aux routines et au laisser-aller.
Un
plan d’aménagement est un dossier toujours en instance. Les aménagements dans
chaque échelon devront partir du bas, de l’intérieur et non de règles trop
extérieures, en vue d’épouser la complexité de la vie. Il ne peut être que le
couronnement de deux stades préparatoires : le plan économique et le plan
directeur.
Le plan économique fixant, entre certains minima et
maxima, la valeur des terrains par zone pour éviter toute spéculation, doit
précéder tout aménagement.
Le
plan économique étant établi, l’urbaniste va pouvoir passer au plan directeur,
lequel va déterminer les communautés territoriales, l’équipement de chacune de
ces communautés, les tracés majeurs et les prévisions des grands services
publics.
Ce
plan directeur, comme son nom l’indique, ne peut être qu’une armature évitant
les grosses erreurs et fixant les surfaces-activités, les principales
localisations, les terrains et espaces libres réservés. Il sera déclaré
d’utilité publique sans plus attendre. Cette nouvelle fixation, d’ordre social
cette fois, n’est pas non plus immuable. Elle aura pour but de provoquer de
nouvelles applications de détail, de nouvelles mises au point, des propositions
de réalisations de la part de l’initiative privée, pour les édifices
semi-publics, en particulier.
Mais
une fois les plan économique et directeur définis, l’initiative doit venir de
la vie urbaine elle-même, de ses représentants agissants : industriels et
commerçants, propriétaires ou entrepreneurs. La spéculation même, dans ce
qu’elle a de constructif et rendue incapable de détourner le bien commun à son
profit, est à utiliser. En somme, c’est l’initiative privée, stimulée et
guidée, qui doit aider à passer du plan directeur au plan d’aménagement
proprement dit.
En
fait, les vrais plans sont surtout des instruments d’éducation pour
l’initiative privée, les organismes publics et semi-publics et les agents
d’exécution qui devront les mettre en œuvre. Ces plans ne peuvent espérer se
réaliser si - après avoir forcé les communautés à exprimer leurs besoins - ils
n’éveillent pas leur imagination, s’ils ne mettent à jour des tendances en
puissance.
En
résumé, les conditions de réalisation d’un aménagement de l’espace sont une
totale soumission de l’auteur à l’objet, une grande hauteur de vue, une égale
dose de bon sens et d’intuition, et le sens du devenir.
Quels
sont donc les grands principes qui permettent de caractériser le Nouvel
Urbanisme décrit dans cet ouvrage? Quelles sont les directives maîtresses qui
permettent dans chaque cas particulier d’œuvrer dans le bon sens ? On peut
les résumer en trois mots : le Nouvel Urbanisme doit être corporel,
biologique et harmonieux. Principes
directeurs d’une fécondité surprenante pour qui sait en recueillir les fruits.
Cette subdivision est d’ordre purement didactique car il n’y a pas de
séparation possible. Les trois directions maîtresses sont un seul et même acte
dans tous les gestes de l’urbaniste.
5.3.
L’urbanisme corporel
Contre
la dictature des abstraits qui a conduit à un monde inhumain, le Nouvel
Urbanisme, comme le Nouvel Humanisme, doit retrouver le réel, être incarné. Il
doit prendre corps et s’insérer dans des corps.
Résumons
ce qu’en dit Gaston Bardet. Il cite Bergson : « c’est pour des
sociétés simples et closes que la structure morale originelle et fondamentale
de l’homme est faite ». « Ce n’est pas en élargissant la cité qu’on
arrive à l’humanité, ce n’est pas par simple amplification qu’on passe d’une
société close à une société ouverte », mais par des bonds successifs.
Partout
l’homme cherche à reformer de petites sociétés au milieu des grandes et à s’y
ériger en privilégié, car il a besoin d’être le petit soleil d’un microcosme,
il a besoin de l’estime des autres et il ne peut être connu, donc admiré, aimé,
que dans un petit cadre. Or, le drame social de l’époque actuelle vient de ce
que l’on a tenté d’obtenir de grandes sociétés ouvertes en amplifiant, en
gonflant, en faisant éclater les anciennes sociétés closes, ce qui les a
détruites, au lieu d’avoir cherché à les former par une série de fédérations de
sociétés structurées gardant taille humaine.
L’homme
a besoin de la joie pour savoir si sa destination est atteinte. Pour permettre
à chacun d’avoir sa part de joie, il faut en multiplier les possibilités, donc
les petits cadres où les plus humbles qualités apparaissent en pleine lumière.
Les petits cadres sont pour les hommes ce que la Terre était pour Antée, ils
leur servent à prendre leur essor pour les fédérations successives des
groupements humains. Il nous faut sentir cette pulsion qui va des proches (le
plus proche étant nous-même) à l’infini.
Gaston
Bardet rappelle que ses topographies sociales l’ont conduit à déceler des
groupements d’échelle sensiblement constante et qu’avant toute esquisse,
l’urbaniste a besoin d’établir une enquête par corps : familiaux,
locaux ou professionnels, de voisinage ou d’activité, afin de susciter l’estimation
commune entre les groupes constitutifs de la ville et de la région, les
besoins privés de chacun et les besoins communs de l’ensemble - chacun de ces
groupes étant parfaitement habilité à reconnaître les problèmes à son échelle.
Mais sachant que le bien commun du tout est au-dessus de celui de la partie, il
est essentiel de n’orienter fermement chaque groupement que là où il est
humainement impossible de ne pas lui laisser sa propre direction. C’est une
question d’échelle.
Aux
méthodes uniformisantes du zoning doivent se substituer des méthodes unifiantes
par échelons, l’équipement public et semi-public doit se faire échelon par
échelon, corps par corps. Ce sont avant tout les lieux de réunion qui
caractérisent et unifient les échelons. Seule une floraison de centres sociaux
- de plus en plus indispensables au fur et à mesure que les masses accéderont à
la culture - permettra de structurer les tissus urbains, de recréer des
quartiers vivants où les individus pourront équilibrer leurs activités
complémentaires. Quant à la structure rurale, elle doit reprendre vie par
regroupement autour des villages-centres et des chefs-lieux.
Sous
quelque angle que nous abordions le Nouvel Urbanisme, nous retombons sur
l’affirmation de corps organisés et fédérés. Les plans et programmes qui
résulteront de cette méthode d’affirmation et de renforcement des corps
existants - fruits d’un consensus et d’une autorité réelle ne se manifestant
qu’aux échelles où elle doit se
manifester - seront donc réalisables.
Mais
pour qu’un plan réalisable se réalise il faut que les groupements qui y sont
intéressés y soient réellement attachés et en assument la direction. Il est
donc indispensable que des associations syndicales de propriétaires soient
constituées pour chaque opération d’ensemble et qu’on leur fournisse
l’autonomie la plus complète possible en les dotant de techniciens avertis,
d’un contrôle intelligent et souple et, enfin, de crédits spécialement
affectés.
Les
associations syndicales de propriétaires, l’expropriation par zones coïncidant
avec les échelons territoriaux, l’utilisation des plus-values aux œuvres
d’équipement social, permettront un financement effectif d’opérations visibles
par la compensation. Regroupés, re-centralisés suivant leur état organique, les
échelons détectés par l’enquête par corps doivent donc vivre, se renforcer pour
l’exécution des améliorations qui leur sont personnelles. Le sentiment de
communauté se fera jour éliminant ainsi tout individualisme.
5.4. L’urbanisme biologique
C’est,
en effet, le propre de la chose organique que la partie implique le tout, qu’il
y a par suite une dépendance entre la forme et la grandeur, ce qui conduit à la
recherche des optima comme étudié précédemment.
L’histoire
nous montre une création continue de corps organifiés à la manière des êtres
vivants, c’est-à-dire organisés de l’intérieur, par agrégation
volontaire. Cette formation ne rencontrait point d’obstacles lorsque l’homme
était immergé dans la nature, lorsque sa technique ne l’assujettissait point.
Mais actuellement, l’homme s’est laissé dominer par la technique, qui
l’entraîne à une vitesse et à des modes de vie destructeurs des formations
naturelles. Nous ne retrouverons des organisations organiques que lorsque nous
saurons dominer notre technique, c’est-à-dire, la faire servir à
l’épanouissement des êtres vivants et de l’homme en particulier.
Il
n’est pas en notre pouvoir de créer une vie organique, par contre nous sommes
outillés pour provoquer la création de la vie sociale. Nous pouvons, en
rapprochant des individus dans des cadres appropriés, en les mettant en contact
dans des conditions favorables et en remettant le levain évangélique dans la
pâte humaine, faire jaillir la flamme communautaire. Mais dès qu’il s’agit de
groupements importants, n’oublions pas que nous ne pouvons, dès lors, que
fédérer - le moins maladroitement possible - des organismes sociaux déjà
existants, des corps préexistants, et c’est en cela qu’urbanisme biologique et
urbanisme corporel se rejoignent.
Quels
sont les obstacles à cet ordre « biotechnique » ? Le tout premier est celui que dénonce Lewis
Mumford : « Plus les énergies d’une communauté s’immobilisent dans
des structures matérielles massives, moins elle est prête à s’ajuster aux
nouveaux besoins et à profiter de nouvelles possibilités ». Et Gaston Bardet précise : « Il
s’ensuit qu’il faut examiner attentivement
chaque proposition visant à élaborer le cadre matériel de la communauté. Il
faut discuter les conséquences sociales des moyens mécaniques proposés, prévoir
les possibilités d’un équipement mécanique plus simple et plus léger,
décentralisé plutôt que centralisé, petit plutôt que grand ».
Ces
principes sont directement opposés au capitalisme historique dont « les
profits découlent de la production et de la vente des utilités
mécaniques : plus c’est grand, plus c’est nombreux, plus c’est
profitable ».
Du
point de vue biologique, nos villes sont contraires à l’ordre et leurs déficits
paralysants font obstacle à une méthode souple qui permette de traiter les
situations neuves par des structures appropriées. Un des plus grands avantages
de la petite cité sur la métropole réside dans le fait qu’elle ne chancelle pas
sous le poids des capitaux enfouis en aménagements non productifs. L’économie
qui consiste à construire léger ne repose pas simplement sur un
investissement moins élevé, sa supériorité tient à ce qu’elle permet de
profiter des améliorations futures.
« La
charge écrasante de moyens mécaniques qui existe actuellement dans
l’habitation, le gratte-ciel et la ville, particulièrement sensible dans la
ville américaine, est un symptôme de notre incapacité de penser et d’agir
suivant une vue d’ensemble » déclare Mumford. La machine est devenue un
monument, la ‘mécanolâtrie’ une religion. Nous devons la rejeter sous ses
formes actuelles qui visent à étouffer la vie.
Aussi
la reconstruction de nos cités ne consiste-t-elle pas à ériger des coquilles,
mais à recréer des milieux vivants, des corps organiques capables de
circulation et de renouvellement dans chacun de leurs organes, membres et
tissus. Le mur d’enceinte qui symbolisait jadis la fonction protectrice de la
ville doit être remplacé par une ceinture agricole. Pour les créatures vivantes,
la seule protection réelle vient de la croissance, du renouvellement, de la
reproduction : processus opposé à la pétrification.
Toutefois,
dit Gaston Bardet, de graves erreurs d’interprétation sont à craindre, surtout
aux Etats-Unis où le nomadisme actuel, héritage des pionniers, conduit à un
goût pour les changements accélérés et à une dégradation générale qui mène fort
loin.
Le renouvellement n’implique pas le remplacement à
bref délai d’une coquille par une autre, comme on change d’auto par exemple, mais,
tout au contraire, l’élaboration de coquilles de base permettant le
renouvellement de l’être vivant, de coquilles qui n’empêchent pas
l’épanouissement de celui-ci, le développement de ses besoins au fur et à
mesure de leur apparition. Ceci implique la découverte de constantes
architecturales qui n’auront pas à être renouvelées (parce que caduques) de
génération en génération. Découvrir et établir ces constantes est le but
même de l’urbanisme moderne.
Le
renouveau signifie concevoir des constructions en matériaux tels et suivant des
techniques telles qu’elles pourront être aisément transformées au rythme des
générations, secteur par secteur, structure par structure et même environnement
par environnement.
Un
point essentiel est que l’urbanisme biologique doit évoluer à l’allure des
êtres vivants - rythme des générations - et non suivant un processus de
changements perpétuels accélérés. Quel frein trouverons-nous aux changements
immobiliers accélérés par la mode et la spéculation ?
Le
plus grave est que l’homme, dans l’incapacité de modifier la vitesse de sa
pensée, liée au cerveau, sa vitesse d’assimilation intellectuelle - qui reste
biologique - n’a trouvé d’autre expédient que d’adapter sa vie intellectuelle
au rythme de la vie mécanique.
Un
urbanisme ramenant la vie et la pensée à son rythme propre, a des conséquences
psychologiques considérables.
En
résumé, on voit que l’urbanisme biologique - qui n’est qu’une phase
préparatoire à un urbanisme spirituel - entraîne à une conception nouvelle du
tissu urbain, des métropoles et des constellations rurales urbaines. Il conduit
à des micro groupements légers, hiérarchisés dans des villes en grappes ou
s’effectuera la symbiose des vies urbaine et rurale.
5.5. L’urbanisme harmonieux
Nous
sommes au début d’une ère particulièrement intense, particulièrement tendue, et
qui vise à satisfaire dans un équilibre dynamique les deux grandes tendances
qui guident l’homme depuis le message chrétien : aspiration à l’unité
humaine et épanouissement de la personne dans sa liberté créatrice.
Lorsqu’on
relève ainsi des efforts du même ordre, aux deux bouts de l’échelle de
l’humanité, on peut être assuré qu’on les rencontre tout le long des maillons
intermédiaires. Et c’est pourquoi, sur des plans moins vastes et moins
profonds, nous trouvons la synthèse à chaque angle du Nouvel Urbanisme.
N’est-il
pas symptomatique que l’art urbain considéré, il y a vingt ans encore, comme
destiné à améliorer le cadre extérieur de la vie, comme voué aux
« changements extérieurs », au même titre que la vie mécanique,
apparaisse aujourd’hui comme l’instrument le plus agissant pour permettre,
voire provoquer par stimuli visuels, les changements intérieurs, sans lesquels
aucune vie sociale, aucun bonheur terrestre n’est possible ?
Réaliser
la synthèse des besoins du corps et des aspirations de l’esprit, tel est
le premier point du Nouvel Urbanisme, ce qui implique satisfaire aux
nécessités élémentaires du confort, sans lesquelles il ne peut y avoir aucune
spiritualité pour la moyenne des individus. Faut-il rappeler qu’il n’est
réalisable que si l’on érige des structures qui permettent une alternance de
confort et de solitude, que l’excès de l’un comme de l’autre est un défaut
que l’éducation complète de l’homme nécessite les deux, que l’homme social et
l’homme personnel doivent s’équilibrer harmonieusement et non point se livrer
une lutte sans merci sous les noms fameux d’individualisme et de
collectivisme ? C’est par le biais des communautés territoriales, à toutes
les échelles, qu’on arrive à la synthèse désirable.
Depuis
Ebenezer Howard - couronnant une longue lignée d’utopistes - on cherchait à
résoudre l’opposition entre la ville et la campagne au moyen de cités
nouvelles, de colonies construites de toutes pièces dont le type est la
« Garden City ». C’était insuffisant. Maintenant on a compris que -
dans nos vieux pays - la Cité-jardin, sous forme de colonies entièrement
neuves, ne peut être qu’exceptionnelle. On ne cherche plus à construire ex
abrupto mais à utiliser la structure urbaine existante en y introduisant
l’espace libre et les facteurs qui assurent la vitalité de la campagne, et
d’autre part, à féconder la structure rurale par des noyaux de civilisation
urbaine. Cette recherche d’unité a conduit à concilier les exigences de la
circulation mécanique et de la vie piétonnière. On a, tout d’abord, cherché
à différencier les voies empruntées, puis les Américains sont arrivés au
principe du « neighborhood unit », cerné par la circulation mécanique
et à l’intérieur duquel peuvent s’épanouir, en toute quiétude, les vies
enfantine, familiale et de quartier. Depuis, les Anglais ont généralisé cette
formule à tous les cas sous le nom de « precinct ».
La
place qui, depuis l’Antiquité, était un élément principal de l’organisation
urbaine, avait perdu toute prééminence à l’avènement du Machinisme. Le
carrefour lui avait succédé : carrefour à giration d’Hénard ou trèfle
américain.
L’opposition
entre place et carrefour semblait irréductible. Mais celle-ci a été résolue
par l’application du système des « precincts » : ensemble
constituant un immense carrefour dont le centre est occupé par la vie
piétonnière, et une circulation locale, à vitesse réduite, rendant la vie de
porte à porte humainement possible, et autour desquels la circulation mécanique
continue sa ronde infernale. Cette synthèse de la place-carrefour couronne
dignement celle
des circulations mécanique et piétonnière dans les quartiers.
Enfin,
le zoning social - créateur de lutte des classes - celui qui avait conduit
à séparer les individus selon la forme et l’importance de leur habitat (donc
suivant leurs moyens matériels), se voit frappé à mort. Avons-nous lutté pour
cela ! nous dit Gaston Bardet. Il n’est plus question d’opposer le
gratte-ciel et la cité-jardin, plus question de créer des zones trop denses
d’habitations collectives et d’immenses banlieues de pavillons, plus question
de réserver le centre urbain aux célibataires et la périphérie aux familles.
Dans les unités de voisinage, dans les quartiers, on doit prévoir un complexe
d’habitat familial et d’habitat collectif soigneusement adapté aux besoins du
logement.
Il
n’est plus question d’opposer le gratte-ciel et la cité-jardin horizontale qui
symbolisaient (pour les journalistes) les théories en présence. Le gratte-ciel
se justifie pour les bureaux, les studios, les effets plastiques des monuments
publics dans certaines conditions d’environnement. La cité-jardin ou le
quartier-jardin doivent contenir, outre les maisons isolées, des maisons en
bandes, des maisons plurifamiliales, des maisons collectives, toute une gamme
de possibilités qui va des « garden appartments » américains aux « palazzine »
italiennes.
En
esthétique urbaine, plus de régionalisme naïf d’une part ou de cages à lapins
d’autre part. Si la Science est internationale, l’Art est local. Les artistes
savent maintenant faire entrer l’air et la lumière, équiper avec le confort
optimum, tout en s’exprimant librement dans le cadre à l’intérieur duquel ils
s’insèrent.
L’Art
urbain dont nous avons vu la mission propre : réaliser la synthèse du
changeant et du permanent dans des cadres durables et nécessaires à l’équilibre
de nos facultés, doit ériger des cadres permettant la sociabilité et
l’épanouissement mutuel de la personne et de la communauté. Ainsi, la Cité
Harmonieuse, plus que toute autre, permettra l’éclosion du supplément d’âme
que réclamait Bergson pour dominer et diriger notre corps « démesurément
grandi »…
L’urbaniste
est un appeleur d’âme.
------------------------------------------------------------------------
L'urbanisme selon Gaston BARDET : le bourg rural devient villette
En 1959, le maire de Le Rheu, Jean CHATEL, dont l'ambition est de
faire naître une petite ville qui ait une âme, découvre Gaston BARDET à
travers un de ses ouvrages « Le nouvel Urbanisme », et le persuade de
venir habiter Le Rheu.
C'est ainsi que Gaston BARDET, directeur de l'Institut International et Supérieur d'Urbanisme Appliqué à Bruxelles, devient urbaniste conseil de Le Rheu.
Son schéma de développement du bourg a donné à Le Rheu un urbanisme très original : autour d'un centre bourg respecté, une ville pavillonnaire en « échelons-gigognes » qui encadrent les équipements collectifs.
L'idée est de favoriser le lien social et la solidarité de voisinage.
C'est ainsi que Gaston BARDET, directeur de l'Institut International et Supérieur d'Urbanisme Appliqué à Bruxelles, devient urbaniste conseil de Le Rheu.
Son schéma de développement du bourg a donné à Le Rheu un urbanisme très original : autour d'un centre bourg respecté, une ville pavillonnaire en « échelons-gigognes » qui encadrent les équipements collectifs.
L'idée est de favoriser le lien social et la solidarité de voisinage.
Après une première opération d'urbanisation aux Landes d'Apigné, le Maire, Jean Chatel, estime que ce lotissement ne correspond pas à son projet de construction d'une petite ville à dimension humaine.
C'est à ce stade de réflexion qu'il découvre Gaston Bardet grâce à son ouvrage " Le nouvel urbanisme".
--------
Gaston Bardet, directeur des études de l'Institut International et Supérieur d'Urbanisme appliqué à Bruxelles et ancien Secrétaire général de la Société française des urbanistes est avant tout un théoricien qui a rarement mis en application ses conceptions. Invité par Jean Chatel à mettre en oeuvre sa vision de cité-jardin, il sera l'urbaniste conseil de Le Rheu à partir de 1957.
Selon Gaston Bardet, la réussite d'une ville " dépendra du soin apporté à la formation d'une véritable âme urbaine". Pour cela, l'urbaniste doit totalement s'impliquer du plan général aux détails (mobilier urbain, plaques de rues, clôtures...). "L'urbanisme est un art majeur et non simple art d'espaces géométriques... ce sont des espaces sociaux qui sont matérialisés sur la feuille et il s'agit de prendre l'homme et le sol dans leurs interrelations et interactions multiples".
L'application de ces conceptions donne une ville pavillonnaire en "échelons" gigognes établis autour d'équipements collectifs afin de favoriser le lien social et les solidarités de voisinage. Pour la circulation, il veut une organisation "radio-concentrique", en toile d'araignée, composée de "voies rayonnantes qui vivifient" et d'autres circulaires qui "enveloppent et unifient".
Il réalise des scènes urbaines, au sens pictural du terme, en se
souciant du moindre détail (maisons jumelées, clôtures, plaques de rues en lave
décorées, volets de fenêtres, trottoirs paysagers...) dans des placettes (ex :
place des acacias), le long des rues (ex : rue des bruyères) et dans les
carrefours.
Croyant à l'importance du" mariage de la ville avec la verdure",
il apporte un soin extrême aux espaces extérieurs et au paysage. Il a su
préserver la trame bocagère existante en créant des rues ou deschemins
piétonniers à partir des anciens chemins creux.
Il mettra en chantiers trois lotissements : le lotissement est (rue
de Rennes, rue des chênes, rue des bruyères..., le lotissement "des
oiseaux" (avenue des cygnes, rue des mésanges...) et le lotissement
"des sports" (avenue des sports, rue des tennis... ) et quittera
Le Rheu en 1967.
Gaston Bardet, qui a par ailleurs réalisé peu d'opérations, a pendant une
dizaine d'années, mené à Le Rheu une expérience originale qui a marqué
durablement la commune. Ce faisant, il allait, à l'époque, à l'encontre des
fonctionnalistes comme Le Corbusier, partisans de l'urbanisme vertical et de la
table rase. Cette spécificité continue de nous valoir les visites de nombreuses
délégations d'élus et de spécialistes de l'aménagement urbain.
Les citations en italique sont extraites de l'ouvrage de Gaston Bardet,
Le nouvel urbanisme, en cours de réédition.
L'urbanisme
selon Gaston BARDET : le bourg rural devient villette
http://blog.yahoo.com/tch5757/articles/112846/index
http://blog.yahoo.com/tch5757/articles/819253/category/URBANISM
Đồng thời , Jean Chatel đã phân khu đầu tiên của mình trong một mô hình thông thường nhưng nhanh chóng thất vọng bởi kết quả. Thị trưởng thành phố xem xét lựa chọn thay thế và phát hiện ra tác phẩm " The New nghĩa đô thị " Gaston Bardet . Anh nhanh chóng liên lạc với kế hoạch . Gaston Bardet chủ yếu là lý thuyết công nhận người hiếm khi có cơ hội để thực hiện ý tưởng của mình . Đây là sự ra đời của một sự hợp tác 10 năm bắt đầu từ khi Gaston Bardet chấp nhận đề nghị của Thị trưởng thành phố Le Rheu và định cư ở quê nhà vào năm 1956. Khi Gaston Bardet đặt chân lần đầu tiên trong Le Rheu , thị trấn này nhỏ nông thôn Chỉ có 900 cư dân . Phù hợp với thị trưởng của thị trấn, Gaston Bardet nhanh chóng trở thành kế hoạch và hội đồng thành phố cung cấp một chương trình đô thị hóa cho thị trấn.
Giai đoạn đầu của công việc sẽ dừng lại Bardet đô thị hóa ngày càng tăng xung quanh các đường cao tốc chính qua thị trấn (N24) và tái tập trung phát triển xung quanh thị trấn. Như vậy, mô hình phát triển của làng do Bardet sẽ cho phép các đô thị của Le Rheu để khôi phục lại một hình thức đô thị ban đầu, với khoảng một trung tâm thị trấn đáp ứng, một thị trấn "cấp kéo" ngoại chi phối các tiện ích công cộng. Mục tiêu cơ bản của Gaston Bardet là để kiểm soát phát triển đô thị trong thị trấn và tránh rối loạn thị. Mục tiêu thứ hai của nó là thúc đẩy hòa giải và trái phiếu xã hội, quản lý thông minh của các tuyến đường giao thông và việc thành lập một màu xanh lá cây.
Enfin, il emprunte aux cités-jardins
anglaises le concept de « close » qui est une petite placette fermée par les
îlots de maisons et offrant ainsi du calme, de la verdure et de la sécurité
pour les habitants. Ces squares fermés, ont la particularité à Le Rheu de
porter le nom des arbres qui y sont plantés, ainsi on retrouve la place des
Acacias ou encore la place des Tilleuls. Gaston Bardet a marqué durablement le
paysage et l’identité de la commune.
Tôi mong bạn, nếu bạn đang ở trong khu vực hoặc đi thăm Anh, để khám phá những phát triển 60 và tiếp tục đi bộ của bạn trong phát triển đương đại của chung ... bảo hành Nostalgia ...
- See more at: http://amenagement-et-territoires.blogspot.com/2012/05/urbanisme-gaston-bardet-et-les-cites.html#.UpwKgCf65k
http://blog.yahoo.com/tch5757/articles/112846/index
http://blog.yahoo.com/tch5757/articles/819253/category/URBANISM
Urbanisme
- Gaston Bardet et les cités-jardins
La
cité-jardin de Bardet à Le Rheu : un urbanisme novateur et humain
Aujourd’hui, c’est dans la commune
de Le Rheu à proximité de la métropole Rennaise que je vous propose de
découvrir une « cité-jardin » réalisée dans les années 60. Expérience
singulière et novatrice à son époque, cette réalisation est le résultat d’une
rencontre et d’une complicité entre un élu, Jean Chatel, et un urbaniste,
Gaston Bardet
Thành phố vườn của Bardet ở Le Rheu: một quy hoạch sáng tạo vì con người
Ngày nay, ở trong thị trấn Le Rheu gần vùng đô thị Rennaise, chúng tôi mời bạn khám phá một "thành phố vườn" được thực hiện trong thập niên 60. Kinh nghiệm riêng và sáng tạo Độc đáo vào thời đó, thành tựu này là kết quả của sự hợp tác giữa Jean Chatel, và một quy hoạch gia, Gaston Bardet..
Ngày nay, ở trong thị trấn Le Rheu gần vùng đô thị Rennaise, chúng tôi mời bạn khám phá một "thành phố vườn" được thực hiện trong thập niên 60. Kinh nghiệm riêng và sáng tạo Độc đáo vào thời đó, thành tựu này là kết quả của sự hợp tác giữa Jean Chatel, và một quy hoạch gia, Gaston Bardet..
Le
concept de "Cité Jardin"
|
Les cités-Jardins sont nées à la
fin du XIXe siècle, pour répondre aux différents problèmes de pollution ainsi
qu'aux problèmes sociaux des villes industrielles.
Thành phố vườn được sinh ra trong những năm cuối thế kỷ XIX, để đáp ứng vấn đề ô nhiễm khác nhau cũng như các vấn đề xã hội của thành phố công nghiệp.
Si c’est un certain Raymond
Unwin qui réalise les premières cités-jardins à proximité de Londres au début
du XXème siècle, c’est Ebenezer Howard qui va théoriser cette conception de
cité-jardin en 1898 dans son ouvrage « Tomorow: a peaceful path to real
reform ».
Nếu Raymond Unwin nhất định người thực hiện các thành phố vườn đầu tiên gần London vào những năm đầu thế kỷ XX, Ebenezer Howard sẽ đưa ra giả thuyết thiết kế này Garden City vào năm 1898 trong cuốn sách "Sáng
mai: một con đường hòa bình để cải cách thực sự. "
Ce nouveau concept de cité-jardin
a pour objectif de créer un nouveau type de ville planifiée et amener la
campagne à la ville.
Khái niệm mới này của thành phố vườn nhằm mục đích tạo ra một loại mới của thành phố lên kế hoạch và đưa đất nước đến thành phố.
Pensées en Angleterre, ces cités
vont apparaître en France rapidement avant la première guerre mondiale et
connaître un nouvel essor après ce premier conflit dans les années 20.
Suy nghĩ ở Anh, các thành phố sẽ xuất hiện ở Pháp một cách nhanh chóng trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất và trải nghiệm một sự hồi sinh sau khi cuộc xung đột đầu tiên trong độ tuổi 20.
|
Les
lotissements des années 60
Témoignages d'habitants des grands
ensembles de Mont Mesly à Créteil - 1970
|
A la libération en 1945, la France se reconstruit et se modernise à travers un nouveau mode architectural et une nouvelle politique urbaine : le logement collectif et « Les grands ensembles ».
Sau khi giải phóng vào năm 1945, Pháp được xây dựng lại và hiện đại hóa thông qua một phong cách kiến trúc mới và
một chính sách đô thị mới : " . Bộ lớn " các tập thể và nhà ở
Cette nouvelle politique urbaine
répond à l’explosion démographique et à l’exode rural que connaît le pays à
cette époque. Cependant, elle est rapidement critiquée par les populations et
crainte par les hommes politiques car il apparaît dans ces quartiers, un
risque de contestation et d’explosion.
Chính
sách đô thị mới này đáp ứng sự bùng nổ dân số và sự di cư nông thôn trong cả nước tại thời điểm đó . Tuy nhiên , cô nhanh chóng chỉ trích của người dân và các chính trị gia lo ngại khi nó xuất hiện trong các khu phố, thách thức và nguy cơ bùng nổ .
Enfin, l’augmentation du niveau de
vie des Français va se traduire par la volonté de plus en plus d’habiter une
maison individuelle. Les villages en proximité immédiate des zones urbaines
vont alors connaître une vague d'urbanisation. Celle-ci va s’opérer souvent
sous la forme de lotissements uniformes, c’est-à dire une simple division
parcellaire répartie de chaque côté de plusieurs rues parallèles.
Cuối cùng, tăng mức sống của Pháp sẽ dịch sẽ ngày càng sống trong một căn nhà tách ra. Các làng trong vùng
lân cận của khu vực đô thị sau đó sẽ trải nghiệm một làn sóng đô thị hóa. Nó thường sẽ hoạt động theo hình thức phân thống nhất, đó là để nói một bộ phận compartmental đơn giản phân phối trên mỗi bên của một số đường phố song song
C’est ce type de lotissements qui va voir le
jour dans un premier temps à Le Rheu. Cependant, le maire très déçu du
résultat va chercher à créer un modèle d’urbanisation plus adapté à son
projet.
. Đây là loại phát triển mà sẽ xuất hiện trong trường hợp đầu tiên Le Rheu . Tuy nhiên , rất thất vọng với thị trưởng kết quả sẽ tìm cách tạo ra một mô hình thích nghi hơn với dự án đô thị hóa của nó . |
|||||
La
cité jardin du Rheu, l'oeuvre d'une rencontre
C’est en 1953 que Jean Chatel
devient maire de la commune Le Rheu. A cette époque, la capitale bretonne
Rennes connaît un développement économique exceptionnel. Elle voit s’implanter
à l’ouest de la ville une usine de fabrication automobile « Citroën ». Ce développement
économique s’accompagne d’un afflux de main-d’œuvre qu’il faut loger. Naît
alors les quartiers de grands ensembles Rennais tels que Cleunay, Maurepas,
Villejean, puis le Blosne.
Thành phố vườn của Rheu , làm việc một cuộc họp.
Đó là
vào năm 1953 Jean Chatel đã trở thành
thị trưởng của thị trấn Le Rheu . Tại thời điểm này,
Rennes vốn
Breton thưởng thức một sự phát
triển kinh tế đặc biệt. Cô
nhìn thấy để giải quyết phía
tây của thành phố một chiếc ô tô
sản xuất " Citroën " . Phát triển kinh tế này được đi kèm với một dòng của nhà ở cần lực lượng lao động . Sau đó phát sinh các vùng lân cận của các nhóm lớn như Rennes Cleunay Maurepas Villejean , sau đó Blosne .
A cette même époque, Jean Chatel
réalise son premier lotissement selon un modèle classique mais il est
rapidement déçu par le résultat. Le maire réfléchit à d’autres solutions et
découvre l’œuvre « Le nouvel urbanisme » de Gaston Bardet. Il prend rapidement
contact avec cet urbaniste. Gaston Bardet est avant tout un théoricien reconnu
qui a rarement eu l'occasion de mettre en application ses idées. C’est la
naissance d’une collaboration de 10 ans qui débute, lorsque Gaston Bardet
accepte la proposition du maire de Le Rheu et s’installe dans sa commune en
1956. Quand Gaston Bardet pose le pied pour la première fois à Le Rheu, ce
petit bourg rural ne compte alors que 900 habitants. En accord avec le maire de
la commune, Gaston Bardet devient rapidement l'urbaniste conseil de la commune
et propose un schéma d’urbanisation pour la commune.
Đồng thời , Jean Chatel đã phân khu đầu tiên của mình trong một mô hình thông thường nhưng nhanh chóng thất vọng bởi kết quả. Thị trưởng thành phố xem xét lựa chọn thay thế và phát hiện ra tác phẩm " The New nghĩa đô thị " Gaston Bardet . Anh nhanh chóng liên lạc với kế hoạch . Gaston Bardet chủ yếu là lý thuyết công nhận người hiếm khi có cơ hội để thực hiện ý tưởng của mình . Đây là sự ra đời của một sự hợp tác 10 năm bắt đầu từ khi Gaston Bardet chấp nhận đề nghị của Thị trưởng thành phố Le Rheu và định cư ở quê nhà vào năm 1956. Khi Gaston Bardet đặt chân lần đầu tiên trong Le Rheu , thị trấn này nhỏ nông thôn Chỉ có 900 cư dân . Phù hợp với thị trưởng của thị trấn, Gaston Bardet nhanh chóng trở thành kế hoạch và hội đồng thành phố cung cấp một chương trình đô thị hóa cho thị trấn.
Gaston
Bardet, théoricien de l'urbanisme "culturaliste"
Gaston Bardet, nhà lý luận 'culturalist "quy hoạch
|
Urbaniste français de niveau
international, Gaston Bardet est diplômé de l’institut d’urbanisme de Paris
en 1936. En 1940, il devient directeur du laboratoire d’enquêtes et
d’analyses urbaines. C’est à cette époque qu’il développe des méthodes pour
analyser des structures sociales. Fait prisonnier en 1940, il s’évade trois
jours après sa capture. Dès 1941, Bardet rédige et publie son premier ouvrage
« Problèmes d’urbanisme ». Cet ouvrage sera suivi après la guerre de « Pierre
sur pierre » en 1947, « Le nouvel urbanisme » en 1948, et « Mission de
l’urbanisme » en 1949. Tous ces ouvrages expriment les bases d’une nouvelle
vision de l’urbanisme, un urbanisme humain. En 1948, Gaston Bardet dirige un
groupe de réflexion sur l'Habitat, l'Urbanisme et l'Aménagement des Campagnes
pour l’Organisation des Nations unies. Par la suite, il enseignera « le nouvel
urbanisme » dans différents pays du monde et dirigera jusqu’en 1973, les
études de l’Institut international et supérieur d’urbanisme appliqué de
Bruxelles. Toute sa vie, Gaston Bardet s’opposera au modernisme et à
l’aliénation qui découle de l’urbanisme fonctionnaliste promu par Lecobusier.
Quy hoạch đô thị gia Pháp tầm
quốc tế , Gaston Bardet tốt nghiệp Học viện Kế hoạch của Paris vào năm 1936. Năm 1940, ông trở thành giám đốc điều tra trong phòng thí nghiệm và phân tích đô thị. Đó là vào thời điểm này mà ông đã phát triển các phương pháp để phân tích cấu trúc xã hội . Bắt làm tù binh vào năm 1940 , ông trốn thoát ba ngày sau khi anh ta bị bắt . Năm 1941, Bardet đã viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình " vấn đề đô thị . " Công việc này sẽ được tiếp nối
sau khi cuộc
chiến tranh của " Đá trên đá " vào năm 1947
, "The New nghĩa đô thị
" năm 1948 và "Mission Kế hoạch
" vào năm 1949. Tất cả những tác phẩm này thể hiện nền tảng của một tầm nhìn mới về quy hoạch đô thị , quy hoạch của con người. Năm 1948, Gaston Bardet dẫn đầu một nhóm công tác về nhà ở , Kế hoạch không gian và Chiến dịch cho Liên Hiệp Quốc. Sau đó, ông đã dạy các " đô thị mới " ở các nước khác nhau trên thế giới và dẫn đến những năm 1973, các nghiên cứu về lập kế hoạch quốc tế và cao cấp áp dụng Viện Brussels . Trong suốt cuộc đời của mình, Gaston Bardet phản đối hiện đại và xa lánh từ việc đô thị chức năng luận thúc đẩy bởi Lecobusier .
|
La
cité-jardin de Gaston Bardet à Le Rheu
La première étape du travail de
Bardet va être de stopper l’urbanisation croissante autour de l’axe routier principale
traversant la commune (N24) et de reconcentrer son développement autour de son
bourg. Ainsi, le schéma de développement du bourg réalisé par Bardet va
permettre à la commune de Le Rheu de redonner une forme urbaine originale, avec
autour d’un centre bourg respecté, une ville pavillonnaire en «
échelons-gigognes » qui encadrent des équipements collectifs. L’objectif
fondamental de Gaston Bardet est de maîtriser le développement urbain sur la
commune et ainsi éviter le désordre urbain. Son second objectif est de
favoriser et de concilier le lien social, l'aménagement intelligent des axes de
circulation, et la mise en place d'un cadre de verdure.
Thành phố vườn của Gaston Bardet
Le Rheu.
Giai đoạn đầu của công việc sẽ dừng lại Bardet đô thị hóa ngày càng tăng xung quanh các đường cao tốc chính qua thị trấn (N24) và tái tập trung phát triển xung quanh thị trấn. Như vậy, mô hình phát triển của làng do Bardet sẽ cho phép các đô thị của Le Rheu để khôi phục lại một hình thức đô thị ban đầu, với khoảng một trung tâm thị trấn đáp ứng, một thị trấn "cấp kéo" ngoại chi phối các tiện ích công cộng. Mục tiêu cơ bản của Gaston Bardet là để kiểm soát phát triển đô thị trong thị trấn và tránh rối loạn thị. Mục tiêu thứ hai của nó là thúc đẩy hòa giải và trái phiếu xã hội, quản lý thông minh của các tuyến đường giao thông và việc thành lập một màu xanh lá cây.
|
Il organise son schéma de
développement en cinq projets d’urbanisation. Seulement les trois premières
étapes de son schéma seront réalisées par lui, à savoir : le lotissement
Ouest, Est et Nord.
Sa première réalisation est la
création du lotissement Ouest en 1959.Il poursuit son travail en 1964 avec le
lotissement Est et réalise le lotissement Nord dit « le lotissement des
sports », en lien avec ses équipements en 1967 avant de quitter Le Rheu.
Thành tích đầu tiên của ông là việc tạo ra các phân khu Tây 1959.Il tiếp tục công việc của mình trong năm 1964 với các phân khu và chỉ đạo các phân khu Đông Bắc gọi là "phân khu thể thao" trong kết nối với các thiết bị của nó vào năm 1967 trước khi rời khỏi Le Rheu. |
Ces trois lotissements ont été
fondés autour de plusieurs principes:
Les axes de circulation ont un rôle
majeur et structurant dans la réalisation de ces lotissements. La mise en place
de voies rayonnantes à partir du centre bourg et circulaire entre les
différents lotissements doit permettre une fluidité et la création de liens
entre ces différents espaces de vie. De plus, Gaston Bardet réfléchit à la
place du piéton dans la commune et réalise un réseau de sentiers piétons
traversant les îlots bâtis et reliant les nouveaux quartiers au bourg de la
commune.
Ba phát triển dựa trên một
số nguyên tắc:
Các tuyến đường chính có một vai trò quan trọng và then chốt trong việc đạt
được các giao khoán. Việc
thành lập tỏa ra từ trung
tâm thị trấn và các tuyến
đường vòng tròn giữa các phân khu nên cho phép dòng chảy
và mối
liên kết giữa các không gian sống khác nhau. Ngoài ra, Gaston Bardet
nghĩ thay vì đi bộ trong
thành phố và có một mạng lưới các lối đi bộ qua các đảo và xây dựng kết
nối các khu dân cư mới
của làng xã.
En ce qui concerne la réalisation
des maisons, Gaston Bardet privilégie les matériaux locaux. Il organise ces
constructions en rangées avec un souci de mixité sociale. En effet, il propose
dans ses lotissements, des parcelles plus grandes avec des maisons plus cossues
à l’angle des rues. Son objectif est de réussir à faire cohabiter différentes
catégories sociales autour des équipements collectifs et des espaces publics
afin de favoriser la vie de voisinage.
Về thành tích của nhà ở, Gaston Bardet ủng hộ vật
liệu địa phương. Nó tổ chức các công trình xây dựng trong hàng với một mối
quan tâm đối với sự
đa dạng xã hội. Thật
vậy, nó cung cấp trong phân của nó, âm mưu lớn
hơn với ngôi nhà đắt
tiền hơn ở
góc đường phố. Mục tiêu của
nó là để thực hiện
thành công sống chung loại xã hội khác nhau trên cơ sở
cộng đồng và không gian công cộng để
thúc đẩy cuộc sống
khu phố.
On remarque chez Gaston Bardet un
grand souci du détail, cela se traduit par plusieurs éléments dans ses
lotissements. Tout d’abord, il va dessiner les plaques de rue et utiliser comme
support la céramique. De même, il va choisir une palette de couleurs pour les
volets des maisons et va dessiner les clôtures qui délimitent les parcelles. De
la verdure va être intégrée à ses lotissements tout en conservant au maximum
les haies bocagères et les arbres existants.
En 1967, intervient un changement au
sein de la municipalité, Gaston Bardet est mis à l’écart et ne peut terminer
son programme. Quelques mois plus tard, il décidera de quitter Le Rheu. La
suite de son travail sera réalisée par un autre urbaniste mais tournera le dos
aux concepts de Bardet.
Lớn sự chú ý đến từng chi
tiết , chúng tôi thông báo
trong Gaston Bardet , điều này
có nghĩa là một số mặt hàng trong phân của nó . Đầu tiên, nó sẽ vẽ dấu hiệu đường phố và gốm sứ được sử dụng như hỗ trợ . Tương tự như vậy , nó sẽ chọn một bảng màu cho các nhà chớp và sẽ thu hút hàng rào phân định rằng lô. Cây
xanh sẽ được tích hợp vào phân của nó trong khi duy trì hàng rào tối đa và cây hiện có.
Cuối cùng, nó vay mượn từ các khái niệm thành phố vườn tiếng Anh " gần gũi" là một nhỏ được bao bọc bởi khối nhà và cung cấp yên tĩnh , cây xanh và an ninh cho các âm mưu người . Các hình vuông đóng cửa, có tính đặc thù để Le Rheu mang tên của các cây được trồng , và tìm thấy nơi des Acacias hoặc thay vì chanh . Gaston Bardet đã làm cháy cảnh quan và bản sắc của thành phố.
Năm 1967, một sự thay đổi xảy ra trong thành phố, Gaston Bardet là ngồi ngoài và không thể hoàn thành chương trình . Một vài tháng sau đó, ông quyết định rời khỏi Le Rheu . Sau công việc của mình sẽ được thực hiện bởi kế hoạch khác nhưng quay lưng lại với các khái niệm về Bardet .
Cuối cùng, nó vay mượn từ các khái niệm thành phố vườn tiếng Anh " gần gũi" là một nhỏ được bao bọc bởi khối nhà và cung cấp yên tĩnh , cây xanh và an ninh cho các âm mưu người . Các hình vuông đóng cửa, có tính đặc thù để Le Rheu mang tên của các cây được trồng , và tìm thấy nơi des Acacias hoặc thay vì chanh . Gaston Bardet đã làm cháy cảnh quan và bản sắc của thành phố.
Năm 1967, một sự thay đổi xảy ra trong thành phố, Gaston Bardet là ngồi ngoài và không thể hoàn thành chương trình . Một vài tháng sau đó, ông quyết định rời khỏi Le Rheu . Sau công việc của mình sẽ được thực hiện bởi kế hoạch khác nhưng quay lưng lại với các khái niệm về Bardet .
Les réalisations de Gaston Bardet
démontrent à l’époque que le pavillon n’est pas synonyme de gaspillage foncier
et que ce type d’urbanisation peut-être maîtrisé. Aujourd’hui, le thème de
cité-jardin n’est plus employé, cependant ce concept demeure la base de
l’idéologie de la ville nature ou de la ville archipel, une forme de continuité
des principes d’urbanisme de Gaston Bardet.
Je vous incite, si vous êtes de la
région ou de passage en Bretagne, à venir découvrir ces lotissements des années
60 et de poursuivre votre ballade dans les autres lotissements plus
contemporains de la commune…Nostalgie garantie...
Những thành tựu của Gaston Bardet chứng minh tại thời
điểm đó lá cờ là không đồng nghĩa với đất thải và loại đô thị
hóa có
thể được kiểm
soát. Hôm
nay, chủ đề của Garden City không còn được sử
dụng, tuy nhiên, khái niệm vẫn
là cơ sở của bản
chất ý thức hệ của
thành phố hoặc thị
trấn quần đảo, một
hình thức của nguyên tắc
quy hoạch liên tục Gaston Bardet.
Tôi mong bạn, nếu bạn đang ở trong khu vực hoặc đi thăm Anh, để khám phá những phát triển 60 và tiếp tục đi bộ của bạn trong phát triển đương đại của chung ... bảo hành Nostalgia ...
A
voir...
Documentaire
"Rue des Mésanges" (2002)
Philippe Baron a toujours eu du mal
à dire d’où il vient. Est-ce la ville ? La campagne ? Il a grandi rue des
Mésanges, à Le Rheu, en Bretagne. Mais qui a pu avoir l’idée de donner un nom
d’oiseau à la rue où il a passé son enfance ? Pour répondre à ces questions,
vingt ans après, il revient vivre au Rheu et découvre qu’il y a eu là, dans les
années 60, une expérience d’aménagement périurbain…A travers des rencontres
avec ses voisins, des retrouvailles avec ses anciens camarades de lycée, en
utilisant des films super 8 inédits, Philippe Baron nous propose un portrait
intime d’une “ villette ” qui semblait ne pas avoir d’histoire.
Coproduction Vivement Lundi ! /
France 3 Ouest / TV Rennes
en association avec France 5 avec la
participation de la Région Bretagne, du CNC, de la DRAC Bretagne, du Conseil
général d’Ille-et-Vilaine et de la PROCIREP.
+d’infos sur le réalisateur : http://philippe-baron-realisateur.over-blog.com/
- See more at:
Urbanisme - Gaston Bardet et les cités-jardins
La cité-jardin de Bardet à Le Rheu : un urbanisme novateur et humain
Aujourd’hui, c’est dans
la
commune de Le Rheu à proximité de la métropole Rennaise que je vous
propose de
découvrir une « cité-jardin » réalisée dans les années 60. Expérience
singulière et novatrice à son époque, cette réalisation est le résultat
d’une
rencontre et d’une complicité entre un élu, Jean Chatel, et un
urbaniste,
Gaston Bardet.
Le concept de "Cité Jardin"
Les lotissements des années 60
Témoignages d'habitants des grands ensembles de Mont Mesly à Créteil - 1970
|
A la libération en 1945, la France se reconstruit et se modernise à travers un nouveau mode architectural et une nouvelle politique urbaine : le logement collectif et « Les grands ensembles ».
Cette nouvelle
politique urbaine répond à l’explosion démographique et à l’exode rural
que connaît le pays à cette époque. Cependant, elle est rapidement
critiquée par les populations et crainte par les hommes politiques car
il apparaît dans ces quartiers, un risque de contestation et
d’explosion. Enfin, l’augmentation du niveau de vie des Français va se
traduire par la volonté de plus en plus d’habiter une maison
individuelle. Les villages en proximité immédiate des zones urbaines
vont alors connaître une vague d'urbanisation. Celle-ci va s’opérer
souvent sous la forme de lotissements uniformes, c’est-à dire une simple
division parcellaire répartie de chaque côté de plusieurs rues
parallèles. C’est ce type de lotissements qui va voir le jour dans un
premier temps à Le Rheu. Cependant, le maire très déçu du résultat va
chercher à créer un modèle d’urbanisation plus adapté à son projet.
|
La cité jardin du Rheu, l'oeuvre d'une rencontre
C’est en 1953
que Jean Chatel devient maire de la commune Le Rheu. A cette époque, la
capitale bretonne Rennes connaît un développement économique
exceptionnel. Elle voit s’implanter à l’ouest de la ville une usine de
fabrication automobile « Citroën ». Ce développement économique
s’accompagne d’un afflux de main-d’œuvre qu’il faut loger. Naît alors
les quartiers de grands ensembles Rennais tels que Cleunay, Maurepas,
Villejean, puis le Blosne.
A cette même
époque, Jean Chatel réalise son premier lotissement selon un modèle
classique mais il est rapidement déçu par le résultat. Le maire
réfléchit à d’autres solutions et découvre l’œuvre « Le nouvel urbanisme
» de Gaston Bardet. Il prend rapidement contact avec cet urbaniste.
Gaston Bardet est avant tout un théoricien reconnu qui a rarement eu
l'occasion de mettre en application ses idées. C’est la naissance d’une
collaboration de 10 ans qui débute, lorsque Gaston Bardet accepte la
proposition du maire de Le Rheu et s’installe dans sa commune en 1956.
Quand Gaston Bardet pose le pied pour la première fois à Le Rheu, ce
petit bourg rural ne compte alors que 900 habitants. En accord avec le
maire de la commune, Gaston Bardet devient rapidement l'urbaniste
conseil de la commune et propose un schéma d’urbanisation pour la
commune.
Gaston Bardet, théoricien de l'urbanisme "culturaliste"
|
Urbaniste français de niveau international, Gaston Bardet est diplômé de l’institut d’urbanisme de Paris en 1936. En 1940, il devient directeur du laboratoire d’enquêtes et d’analyses urbaines. C’est à cette époque qu’il développe des méthodes pour analyser des structures sociales. Fait prisonnier en 1940, il s’évade trois jours après sa capture. Dès 1941, Bardet rédige et publie son premier ouvrage « Problèmes d’urbanisme ». Cet ouvrage sera suivi après la guerre de « Pierre sur pierre » en 1947, « Le nouvel urbanisme » en 1948, et « Mission de l’urbanisme » en 1949. Tous ces ouvrages expriment les bases d’une nouvelle vision de l’urbanisme, un urbanisme humain. En 1948, Gaston Bardet dirige un groupe de réflexion sur l'Habitat, l'Urbanisme et l'Aménagement des Campagnes pour l’Organisation des Nations unies. Par la suite, il enseignera « le nouvel urbanisme » dans différents pays du monde et dirigera jusqu’en 1973, les études de l’Institut international et supérieur d’urbanisme appliqué de Bruxelles. Toute sa vie, Gaston Bardet s’opposera au modernisme et à l’aliénation qui découle de l’urbanisme fonctionnaliste promu par Lecobusier. |
La cité-jardin de Gaston Bardet à Le Rheu
La première
étape du travail de Bardet va être de stopper l’urbanisation croissante
autour de l’axe routier principale traversant la commune (N24) et de
reconcentrer son développement autour de son bourg. Ainsi, le schéma de
développement du bourg réalisé par Bardet va permet
|
Il organise son
schéma de développement en cinq projets d’urbanisation. Seulement les
trois premières étapes de son schéma seront réalisées par lui, à savoir :
le lotissement Ouest, Est et Nord.
Sa première
réalisation est la création du lotissement Ouest en 1959.Il poursuit son
travail en 1964 avec le lotissement Est et réalise le lotissement Nord
dit « le lotissement des sports », en lien avec ses équipements en 1967
avant de
|
Ces trois lotissements ont été fondés autour de plusieurs principes:n réseau de sentiers piétons traversant les îlots bâtis et
reliant les nouveaux quartiers au bourg de la commune.
En ce qui concerne la réalisation des maisons, Gaston Bardet privilégie
les matériaux locaux. Il organise ces constructions en rangées avec un
souci de mixité sociale. En effet, il propose dans ses lotissements, des
parcelles plus grandes avec des maisons plus cossues à l’angle e
On remarque
chez Gaston Bardet un grand souci du détail, cela se traduit par
plusieurs éléments dans ses lotissements. Tout d’abord, il va dessiner
les plaques de rue et utiliser comme support la céramique. De même, il
va choisir une palette de couleurs pour les volets des mais
|
|
Les réalisations de Gaston Bardet démontrent à l’époque que le pavillon
n’est pas synonyme de gaspillage foncier et que ce type d’urbanisation
peut-être maîtrisé. Aujourd’hui, le thème de cité-jardin n’est plus
employé, cependant ce concept demeure la base de l’idéologie de la n
Je vous incite, si vous êtes de la région ou de passage en Bretagne, à
venir découvrir ces lotissements des années 60 et de poursuivre votre
ballade dans les autres lotissements plus contemporains de la
commune…Nostalgie garantie...
A voir...
Documentaire "Rue des Mésanges" (2002)
Philippe Baron a
toujours eu du mal à dire d’où il vient. Est-ce la ville ? La campagne ?
Il a grandi rue des Mésanges, à Le Rheu, en Bretagne. Mais qui a pu
avoir l’idée de donner un nom d’oiseau à la rue où il a passé son
enfance ? Pour répondre
Coproduction Vivement Lundi ! / France 3 Ouest / TV Rennes
en
association avec France 5 avec la participation de la Région Bretagne,
du CNC, de la DRAC Bretagne, du Conseil général d’Ille-et-Vilaine et de
la PROCIREP.
+d’infos sur le réalisateur : http://philippe-baron-realisateur.over-blog.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.