LỜI MỞ ĐẦU.
1) Môi trường Thiên nhiên:
Ngược dòng Đồng Nai- Vùng đất đầu nguồn sông suối. Cảnh quan thiên nhiên ban sơ.
2) Quy hoạch đô thị- Cảnh quan đô thị- .
•Thành phố nghỉ dưỡng.
•Thành phố cảnh quan.
3)
Di sản đô thị và Di sản Kiến trúc.
•Bảo tàng ngoài trời Kiến trúc địa phương Pháp.
4) Nhận định.
---------------------------
LỜI MỞ ĐẦU.
Đà Lạt có môi trường thiên nhiên vốn là một vùng cảnh quan rừng thông tự nhiên
miền núi, bao phủ vùng địa hình đồi dốc nhẹ,
với khí hậu trong lành mát mẻ quanh năm, cư
dân bản địa sơ khai,được quy hoạch khởi đầu với chức năng là một nơi nghỉ dưỡng, và chức năng này luôn gắn liền theo tiến trình phát triển của Thành phố.
“ Dat Aliis Lactiam, Aliis Temperiam”.
« Elle donne aux uns la jolie, aux autres la santé ».
« Cho người này niềm vui, cho người khác sức khỏe ».
1) MÔI
TRƯỜNG THIÊN NHIÊN, ĐẤT NƯỚC,
Địa hình miền núi tạo thành nhiều lớp phong cảnh hồ nước rừng cây thảm cỏ phong phú đa dạng.
Cảnh quan ban sơ.
Tháng 6 năm 1893, khi thực hiện chuyến du hành thám hiểm trên vùng thượng nguồn sông Đồng Nai, bác sĩ Yersin, đã bất ngờ diện kiến với cao nguyên Lang Biang (Lâm Viên) có cảnh quan hấp dẫn đặc biệt và khí hậu mát mẻ trong lành. Ông đã viết lại rằng:
“ Khoảng từ 15 đến 20 km trước khi đến gần ngọn núi ta bước ra khỏi rừng thông và nhìn thấy một vùng đất hoàn toàn trơ trụi, được che phủ bởi lớp cỏ ngắn. Thế đất dợn sóng kéo dài làm cho ta tưởng chừng như đang đi trên mặt biển sóng dậy ba đào. Núi Lang Biang sừng sững ở giữa như một hòn đảo trông gần mà xa…
…Vùng này dân cư thưa thớt, vài làng người Lát quần tụ dưới chân núi. Họ đã làm lúa nước rất tốt. Ở đây là đầu nguồn sông Đồng Nai, chỉ là con suối rộng chừng 3 mét. Vượt qua suối, theo con đường làng nhỏ là đến làng Dankia. Dankia là trung tâm của vùng, không một làng người Kinh nào trong vòng 100km. Do vậy khung cảnh của ngôi làng trông rất mộc mạc, hoang sơ, nghèo nàn”.
Bác sĩ Yersin
1) Thiên nhiên.
Cảnh quan ban sơ.
Một con đường mòn, một biển đồi cỏ trải dài tận chân trời có rặng núi Lang Biang hùng vĩ (2163), đây đó vài túp lều, Dalat ban sơ như vậy đó…
Cư dân bản địa:
•Cao nguyên Lang Biang rộng lớn là địa vực cư trú của các bộ tộc Lat, Chill... và để tồn tại theo phương cách từ ngàn xưa để lại, người dân tộc phải đốt rừng làm rẫy hàng bao thế kỷ đã phần nào làm thay đổi bộ mặt Cao nguyên. Giữa thảm rừng thông bạt ngàn bao phủ khắp cao nguyên, lại có một vùng rộng lớn trên cao chỉ toàn là đồi cỏ trơ trọi mấp mô, không có cây mọc. Phải chăng đây là kết quả của việc tác động vào thiên nhiên! Và may thay, thiên nhiên đã tự tái tạo thành vùng cảnh quan độc đáo, có không gian trống đủ rộng, thuận tiện cho việc tính toán xây dựng thành phố của con người sau này.
2) Cảnh quan đô thị- Quy hoạch đô thị.
Lịch sử phát triển Đà Lạt luôn gắn bó với sự phát triển nghệ thụât quy hoạch đương đại của thế giới.
•Chương trình phát triển năm 1900 của Toàn quyền Paul Doumer,
•Đồ án phân khu chức năng (Zoning) đầu tiên, của Thị trưởng Champourdy- 1906 .
•Đồ án kiến tạo nguồn nước- 1919 của Ô. O’Neill.
•Đồ án Quy hoạch Thành phố nghỉ dưỡng (Sanatorium) của KTS Đô thị gia Hébrard- 1923; Thành phố vườn trên địa hình cao nguyên.
•Đồ án Thành phố nghỉ ngơi (Ville de Repos) của KTS Pineau- 1933;
•Đồ án Chỉnh trang của KTS Mondet năm 1940;
•Đồ án Quy hoạch năm 1943 của KTS Lagisquet làm rõ nét dấu ấn của Thành phố vườn…;
• Đồ án Chỉnh trang của Tổng Nha Kiến thiết.
•Các đồ án Quy hoạch sau 75’s …. nay…
Chương trình phát triển năm 1900 của Toàn quyền Paul Doumer
•Toàn quyền Paul Doumer quan tâm thiết lập một hay nhiều
điểm nghỉ mát (Sanatorium) trên cao ở Đông Dương, có khí hậu tốt như ở Châu Âu
để xây dựng những trại huấn luyện và dưỡng quân. Những điều kiện cần thiết ban đầu để lựa chọn địa điểm đã
được Toàn quyền đặt ra như sau:
- Cao độ tối
thiểu: 1200m.
- Cung cấp
nước thuận lợi.
- Đất đai có
thể canh tác được.
- Khả năng
thiết lập đường giao thông dễ dàng.
(...une
altitude de 1200m au minimum, de l’eau abondance, une terre cultivable, la
possibilité d’établir des communications faciles.).
Thư của Toàn quyền Paul
Doumer gửi cho Công sứ Bắc
kỳ- Trung kỳ ngày
23-07-1897.- Hồ sơ lưu trữ về Đông Dương.
TOÀN QUYỀN PAUL DOUMER
LỰA CHỌN ĐỊA ĐiỂM
Năm
1897, bác sĩ Yersin đã đề nghị chọn cao nguyên Lang Biang là nơi hội đủ điều
kiện cần thiết để thành lập điểm nghỉ mát trên cao. Toàn quyền P. Doumer nhanh
chóng đến cao nguyên Lang Biang xem xét thực tế, và quyết định triển khai thực
hiện. Ông ta nhận định: ” Với đường giao thông dễ dàng, Lang Biang có thể trở
thành một nơi không chỉ để nghỉ ngơi, hồi phục sức khoẻ cho binh lính và công
chức mệt mỏi, mà còn là một trung tâm hành chánh với các công sở quan trọng;
một trại lính qui tụ một phần quân đội dự bị, được huấn luyện tốt, dự phòng khi
hữu sự ”.
Một khi vị trí địa lý đã được xác
định, người ta cần chọn lựa địa điểm cụ thể để xây dựng trạm nghỉ dưỡng miền
núi tương lai. Những cuộc quan sát khí tượng đã được triển khai. Người ta đắn
đo nghiên cứu một thời gian, lựa chọn giữa các địa điểm có cao độ khác nhau:
Dran, Beneur, Đà Lạt và Dan Kia. Rồi thì chỉ còn Đà Lạt và Dan Kia được xem xét
bởi vì lý do về môi trường và vệ sinh.
Năm 1900, Bác sĩ Étienne Tardif đã phân tích những ưu điểm
của Đà Lạt so với Dan Kia:
•Về điều
kiện vệ sinh và giao thông: Đà
Lạt trống trãi và dễ làm đường do địa thế Đà Lạt kéo dài liên tục với độ dốc
thoai thoải.
•Về độ
cao: Đà Lạt có độ cao đều và
hơn Dan Kia 100m. Đà Lạt ở trên cao và Dankia nằm trong lòng chảo.
•Về không
khí: Không khí Đà Lạt thoáng
mát, trong lành và khô hơn; trong khi Dan Kia nằm trên sườn núi Lang Biang,
hứng gió ẩm và nhận mưa rào nhiều hơn.
•Về thảo
mộc: Dan Kia nhiều đồi cỏ xanh trong khi Đà Lạt lại có
nhiều rừng thông mênh mông, tạo thành một hình bán nguyệt ở Đông Nam cao
nguyên, do đó không khí đầy mùi hương nhựa thông trong lành.
•Về đất
đai: Dan Kia có lớp đất sét
quá dầy, làm đất ít thấm nước, trong khi lớp đất sét tại Đà Lạt mỏng vừa đủ
điều kiện cho việc trồng trọt.
•Nguồn
vật liệu xây dựng: Ở gần Đà Lạt và xa Dan Kia.
•Về cảnh
quan: Đà Lạt nằm ở vị trí
tuyệt diệu có tầm nhìn toàn cảnh bao quát
cả cao nguyên với rặng núi Lang
Biang hùng vĩ trải rộng đến cuối chân trời. Trong khi đó từ lòng chảo Dan Kia,
tầm nhìn bị giới hạn chỉ thấy ánh mặt trời và đồi cỏ xanh bao quanh”... (La mission du Lang-Bian 1899-1900).
Ngày 5-1-1906, Hội đồng Quốc phòng Đông
Dương họp ở Đà Lạt quyết định chọn cao nguyên Lang Biang để xây dựng nơi nghỉ dưỡng vì hội đủ điều kiện về quân sự
và vệ sinh. Lúc đầu, người ta chọn Dan Kia, cuối cùng là chọn Đà Lạt
.
CAO NGUYÊN ĐÀ LẠT NHÌN TỪ ĐỈNH LANG BIANG
( Henri Maitre 1901 / 1902))
•Toà
nhà đầu tiên được xây dựng tại Đà Lạt có lẽ là đồn lính (post Commandé par un
garde principal de la milice), do ông Garnier - Công sứ tại Phan Thiết cho dựng
vào năm 1898. Kế tiếp là toà nhà sàn bằng gỗ, mái lợp tôle, được Công sứ tỉnh
Đồng Nai Thượng là ông Outrey cho xây dựng năm 1900, sau là Toà Thị sảnh của
Đốc lý Công sứ (l’hotel de M. Le
Résident- Maire). Hiện nay là khu vực đồi Dinh tỉnh trưởng cũ.
Deux ans chez les Moïs par le Capitaine Baudesson 1901
/ 1902
Sơ phác Đà Lạt- Croquis de Dalat, Champoudry,1906
Géomètres: Puyt và Chabellard
•Năm
1906, ông Paul Champoudry làm Thị trưởng
Đà Lạt, đã thiết lập một họa đồ tổng quát cho Đà Lạt (Plan général de
Dalat-) kèm theo Dự án chỉnh trang và
phân lô cho thành phố trong tương lai
(Projet d’aménagement et lotissement de la ville future. Un plan joint).
Tombeau de M. O' Neill à Camly, Dalat
Tombeau de M. O' Neill à Camly, Dalat
1929 – Hauts plateaux – Concession O’Neil-Ancel- AP3520-Bonnet-301
Sallet-Emergence-de-la-ville-1919
1919
1929
1929- Toàn cảnh Hồ lớn Dalat, La Grenouilliere, Dinh Thị trưởng- Résidence de l' Administrateur Mairie.
1929- La Grenouilliere- D_S Logo- Dalat Sport Logo?
KTS Louis Georges Pineau?
1932-1933. Plan d'aménagement de la ville de Dalat (Vietnam) : vue de la Grenouillère, n.d. (cliché anonyme). (PINLO-32-02)
Annam, Dalat, 1929 – Villa « Cochinchine »
1929- Biệt
thự "Nam Kỳ" là nơi nghỉ ngơi của các quan chức cao cấp của Pháp.
Đồ án quy hoạch Hébrard (1923):
Đà Lạt là một trong những thành phố được thiết kế theo lý thuyết thành phố vườn (Garden city- Cité
Jardin) đầu tiên trên thế giới.
Đà Lạt sẽ là một thành phố nghỉ mát trên cao (Station d’altitude) kiểu mẫu; thành phố được thiết kế theo quan điểm của các nguyên tắc về: “Quy hoạch thành phố vườn“ và “ Quy hoạch Thuộc địa”. Lần đầu tiên các vấn đề phức tạp để phát triển đô thị Đà Lạt đã được đặt ra, được nghiên cưú một cách tổng hợp và nhiều giải pháp có ý nghĩa trong định hướng phát triển thành phố đã được đề xuất.
Vấn đề bảo vệ, tôn tạo cảnh quan và bố cục không gian mỹ cảm cho thành phố, đã được tác giả quan tâm đặc biệt. Ý tưởng chính xuyên suốt là: xây dựng cho được một “Thành phố trong cây cỏ và cỏ cây trong thành phố “”. (Gaston
Bardet-
L’ Urbanisme), một thành phố sinh thái không có ống khói của nghành công nghiệp.
•Trên một vùng thiên nhiên rộng lớn của cao nguyên Lang Biang, thành phố được bố trí trong môt phạm vi có diện tích vừa phải khoảng 3.000 ha (bề ngang 7 km theo hướng đông– tây, bề sâu 4,3 km theo hướng bắc– nam). Đây là một diện tích hợp lý cho một thành phố vườn với quy mô dân số từ 30.000 đến 50.000 dân ( lúc đó dân số Đà Lạt khoảng 1.500 người ). Việc cho phép xây dựng chỉ gói gọn trong ranh giới này (zône urbain).
Nét nổi bật của đồ án là cách giải quyết vấn đề tạo dựng cảnh quan cho thành phố nghỉ dưỡng du lịch. Dòng suối tự nhiên Cam Ly được tôn tạo tích cực để trở thành một trục cảnh quan trung tâm hấp dẫn cho thành phố, với hệ thống các hồ cảnh nhân tạo lớn nhỏ, uyển chuyển theo địa hinh, có các tuyến đường dạo bao quanh, men theo sườn dốc, nối kết liền lạc với nhau theo sơ đồ hình mạng nhện.
Bố cục chính của thành phố nghỉ mát và thủ đô tương lai, được tổ chức quanh trục cảnh quan này, mỗi hồ là nhân cảnh quan của các công trình trong một phân khu chức năng.
1928 MAP
Đồ án Chỉnh trang Dalat của KTS-ĐTG Pineau, năm 1932-1933,
Đồ án Chỉnh trang Dalat của KTS-ĐTG Pineau, năm 1932-1933
Sử dụng đất năm 1932.
Công viên
Sông suối, Vùng ngập 4-5-1932, ĐẤT XD.
Garage Lê Khánh- Cầu Nhà đèn.
Vùng Bất trúc tạo.
Công viên và Khoáng địa.
Ngoạn cảnh
Đường sá.
KTS Louis Georges Pineau
1932. Aménagement du parc de la propriété de M. Bourgery, Dalat (Việt Nam) : vue d'une perspective, n.d. (cliché anonyme). (PINLO-32-01)
1932-1933. Plan d'aménagement de la ville de Dalat (Vietnam) : vue de la Grenouillère, n.d. (cliché anonyme). (PINLO-32-02)
1932-1933. Plan d'aménagement de la ville de Dalat (Vietnam) : vue d'un plan de Dalat "Ville de repos", n.d. (cliché anonyme). (PINLO-32-02)
1934 Map
-----------------
1943
Dalat Plan- KTS Lagisquet
1943 Map
1945 Map.
----------------------------
KIẾN TRÚC DALAT
Tham khảo:
Le petit Paris
Le marché de Dalat au début des année 50.
Dalat
La ville de l'éternet printemps
Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem
Sa devise latine est "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem", (elle forme les initiales de cette ville) qui signifie : "Elle donne aux uns la joie, aux autres le bon temps".
Le site fut découvert en 1893 par le célèbre médecin français Alexandre Yersin (médecin et biologiste français de l'Institut Pasteur, d'origine suisse) lors d'une de ses premières expéditions. Sous son initiative que fut créé un sanatorium, avec l'aide du Gouverneur Paul Doumer, permettant ainsi aux fonctionnaires français de se reposer du climat tropical et de profiter ainsi des conditions météorologiques tonique durant la période estivale.
Dalat le Petit Paris
Située à près de 1500 mètres d'altitude, Dalat était une jolie ville "française" du milieu du XXème siècle.
Dalat devint dans les années 40, la capitale d'été des Français de l'Indochine, on dénombrait à cette époque 1300 villas, on l'appelait autrefois "le Petit Paris".
"A la fin de 1952, Dalat compte 25.041 âmes dont 23.072 Vietnamiens et autochtones appartenant à la tribu des Lats, 1215 Européens (non compris les militaires) et 752 Chinois. Cependant le chiffre global est actuellement très inférieur à la réalité.
Au cours de l'année 1953, par suite du développement économique de la ville et de la simplification des conditions d'accès et de séjour aux Pays Montagnard du Sud, la population de Dalat s'était considérablement accrue. Un nombre important de travailleurs et les membres du Régiment de la Garde Impériale viennent s'ajouter ce qui constitue une augmentation d'au moins 5.000 personnes."
Nguyên Thiêu Nguyên
Indochine Sud Est Asiatique Juin 1954
La cathédrale Saint-Nicolas aussi appelée par les vietnamiens l'église du Coq (maintenant Nhà Tho Con Gà) est située sur la place du même nom, elle a été construite entre 1931 et 1942 grâce à la volonté d'un homme le Père Nicolas, elle est la possession des missions étrangères.
Les vitraux, fabriqués en France à Grenoble par Louis Balmet durant les années 40, représentent des scènes du Moyen-Age.
De couleur rose elle veille du haut de ses 47 mètres sur les paroissiens de Dalat la population qui vivait sur place ainsi que les familles françaises et vietnamiennes qui, pendant les mois de vacances, venaient respirer l'air frais des montagnes.
Derrière la cathédrale Saint-Nicolas se trouve un cimetière où reposent des prêtres français.
Kỷ niệm đình chiến 1939 tại chợ Đà Lạt La commémoration de l’armistice de 1918 au marché de Dalat
Samedi 11 novembre 1939 commémoration de l'armistice avec les militaires français et les dignitaires vietnamiens.
Thứ Bảy, ngày 11 tháng 11 năm 1939 kỷ niệm đình chiến, với quân đội Pháp và các chức sắc Việt Nam .
Le Marché de Dalat
Sur la photo de gauche une camionette Renault Goelette de Pierre Lich en excursion avec des marins français:
- Pierre Lich
Salon de thé, pâtisserie : 6, place du marché
Sur la photo de droite des producteurs vendant leurs produits.
- Pâtisserie Dauphinoise 2, place du Marché
- les "Plaisirs de France" tissus nouveautés 3, place du Marché
- Compagnie Aigle Azur 10 - 11, place du marché
- Bazar Saïgonnais (station-service Shell) 20, place du Marché
- Pharmacie Domart 32, place du Marché
- Pâtisserie " La Lune" 36, place du Marché
- Epicerie R. Fauconnier 41, place du Marché
Le bureau des P.T.T.
Le bureau des P.T.T. , receveur de la Poste était situé au 18, avenue Yersin - Tél : 51
- Guichets (renseignements) - Tél : 12
Le lycée Alexandre Yersin
Le lycée Alexandre Yersin a été inauguré en 1941
- (Grand Lycée) 13, rue Albert Sarrault
- (Petit Lycée) 1, rue Jean O'Neil
Le Lycée de Dalat, créé le 16 juillet 1927, prit le nom de "Lycée Yersin le 10 mai 1935 en l'honneur du savant, élève de Pasteur, qui découvrit en 1894 le bacille de la peste et attira l'attention sur le Langbian
L'établissement est divisé en Grand et Petit Lycée. Le Petit Lycée comprend toutes les classes primaires et l'internat de jeunes filles. Les bâtiments s'élèvent sur un plateau qui surplombe d'un côté l'une des extrémités du Grand Lac de Dalat, de l'autre la vallée où a été construite la gare.
L'on a reconstitué, depuis 1945, dans la mesure du possible, le matériel scolaire détérioré par les Japonais ; les laboratoires ont été organisés et le patrimoine de la bibliothèque classique a été accrue.
Le programme comporte toutes les classes depuis le cours enfantin jusqu'aux classes de philosophie et de mathématiques. Les langues vivantes enseignées sont l'anglais, l'espagnol et le vietnamien.
Professeurs du Lycée Yersin
Dalat possède de nombreux autres établissements, publics et privées :
- le lycée vietnamien
- le lycée Bao-Long
- l'école des Enfants de Troupe
- l'école militaire Inter-Armes
- l'Institution Nazareth
- le couvent des Oiseaux ou Notre-Dame du Lang-Bian
- l'école d'Adran
- l'école chinoise
Les admnistrations
- PTT 18, avenue Yersin
- Tribunal 10, rue Champoudry
Restaurants et Dancing de Dalat en 1953
- L'Auberge Savoisienne route de Prenn
- Bar Ambiance Dancing 5, rue du Duc de Long My
- Au Cabaret Dancing 4, rue du Général Leclerc
- Le Chat Botté 20-30, place du marché
- Night-Club 3, rue des Saigonnais
- La Mascotte 5, place du Marché
- Cabaret "La Lune" 36, place du Marché
Les Cinémas de Dalat
Eden (Société Indochine Films et Cinéma) : 42, boulevard Dong Khanh
Langbian : 61, route de Cauqueo
La résidence de Bảo Đại.- Dinh 3
La construction du Palais d'été de l'Empereur Bảo Đại débuta en 1933 sous la direction de l'architecte Paul Veysseyre. Après la seconde guerre mondiale le 28 avril 1949, S.M. Bảo Đại revenait à Dalat. Dalat accueillait Bao Dai le "dernier empereur" durant plusieurs étés (il décédera à Paris le 31 juillet 1997).
La résidence fut également occupé par le président sud-vietnamien Ngô Ðình Diem assassiné en novembre 1963.
Aujourd'hui c'est la résidence officielle du Gouvernement Vietnamien.
La résidence du Gouverneur Général à Dalat- Dinh 2
Quelques années plus tard le même architecte construisit en 1937 la résidence d'été du Gouverneur Général dans un plan similaire de même style "Art Déco" que celle de Bảo Đại.
L'architecte Paul Veysseyre de l'entreprise "Brossard et Mopin" qui a réalisé cette villa, fut également l'architecte des bâtiments à Saïgon de la Marine Nationale, boulevard Norodom, de la Banque de l'Indochine, quai de Belgique et des Brasseries et Glacières d'Indochine (BGI), rue Paul Blanchy.
Pendant la Seconde Guerre mondiale, Dalat sera la capitale de fait de l'Indochine durant l'occupation japonaise de la péninsule. L'amiral Jean Decoux séjourna à plusieurs reprises à Dalat, son épouse décédera dans cette ville le 6 janvier 1944.
Aujourd'hui la résidence du gouverneur général a été transformée en hôtel !
La Gare Ferroviaire de Dalat
Les travaux pour la construction de la ligne ferroviaire débutèrent en 1901 et sa mise en service en 1933 avec une longueur de 84 kilomètres dont 30 à crémaillière, raccordant ainsi Dalat à Tourcham au voisinage de Phan Rang, permettant ainsi la correspondance avec la ligne transindichinoise.
La gare de Dalat, conçue par deux architectes français Moncet et Revéront, a été construite en 1938, elle évoque celle de Deauville, depuis des décennies la ligne ne fonctionne que partiellement.
Des études sont acuellement à l'étude pour une réouverture complète de la ligne en 2016, un budget prévisionnel de 320 millions de dollars a été accordé par le gouvernement vietnamien.
A droite René Robin, secrétaire général du Gouvernement général de l'Indochine et l'empereur Bảo Đại inaugurant la ligne en 1936.
A gauche une des locomotives du "Chemin de fer de l'Indochine" (CFI), construite en Suisse à Winterthur entre 1923 et 1930 acheté par les Français (après l’électrification de la ligne suisse) pour l'exploitation de la ligne à crémaillère de Dalat. En 1990 des passionnés Suisses ont racheté deux ce ces locomotives : la VHX 31-302 (en gare de Song Pha) et la VHX 31-304 (en gare de Dalat) pour les ramener dans leur pays natal.
Elles ont été complétement restaurés et elles sont à nouveau en service en Suisse sur la ligne du chemin de fer à crémaillère du col de la Furka à Oberwald dans le Canton du Valais à 1 366 m d'altitude.
Le lac de Dalat
Le lac artificiel des Cygnes a été créé en plein coeur de la ville lors de la construction d’un barrage en 1919 par les français, elle porte désormais le nom du Parfum Printanier (Hô Xuân Huong) poétesse vietnamienne du XVIIème siècle.
La Grenouillère
Siège du Club Nautique
La Grenouillère, en bordure du lac des Cygnes, était le siège du "Club Nautique de Dalat", aujourd'hui il est devenu le restaurant "Thuy Ta".
Le Dalat Palace
Du haut de sa colline, le majestueux Dalat Palace domine le lac.
L'hôtel du Lac, situé au 3, avenue Pierre Pasquier, a été construit en 1922, il s'est appelé ensuite le Dalat Palace a été rénové une première fois en 1943, remis à neuf par le groupe hôtelier français Sofitel.
Le groupe hôtelier Accor s'est retiré en décembre 2010 de la gestion de cet établissement.
© La diapositive couleur a été prise en novembre 1963 devant le Dalat Palace avec le docteur américain Irwin S. Leinbach de l'association américaine CARE.
L'hôtel du Parc
L'hôtel du Parc est situé au 7, avenue Yersin.
Dans cet établissement se trouve également les bureaux et les studios de la "Radiodiffusion du Vietnam".
Centre de Repos "Amiral Courbet"
de la Marine Nationale
Les maisons de convalescence du Centre de Repos "Amiral Courbet" de la marine nationale à Dalat.
Les militaires français au Centre de Repos "Amiral Courbet".
Hôpital Militaire Catroux
Souvenirs de Dalat
Dalat en 1963
Le docteur américain Irwin S. Leinbach est un chirurgien orthopédiste qui a séjourné au Vietnam en novembre 1963 dans un hôpital Cho-Ray de Saïgon lors du Coup d'État contre le Président Diem pour soigner les victimes d'amputations dues aux actions de guerre au Sud-Vietnam.
Il s'est rendu ensuite à Dalat pour des actions humanitaires au titre de l'association CARE (association de solidarité internationale, non confessionnelle et apolitique).
Les derniers français ont déjà quitté Dalat bien avant 1963 et la ville semble être bien vide.
© ces photos font parties de la collection privée de M. Irwin S. Leinbach.
Le docteur américain Irwin S. Leinbach est un chirurgien orthopédiste qui a séjourné au Vietnam en novembre 1963 dans un hôpital Cho-Ray de Saïgon lors du Coup d'État contre le Président Diem pour soigner les victimes d'amputations dues aux actions de guerre au Sud-Vietnam.
Il s'est rendu ensuite à Dalat pour des actions humanitaires au titre de l'association CARE (association de solidarité internationale, non confessionnelle et apolitique).
Les derniers français ont déjà quitté Dalat bien avant 1963 et la ville semble être bien vide.
© ces photos font parties de la collection privée de M. Irwin S. Leinbach.
Les quelques 1300 villas coquettes et chalets de caractère ont été construits par les français durant les années 30 & 40.
Dà Lat : un lieu autrefois touristique le tombeau de Pierre Nguyen Huu-Hào, père de la première épouse de l'empereur Bao Daï.
Pierre Nguyen Huu-Hào était catholique, originaire de Gò Công dans le delta du Mékong.
Aujourd'hui ce tombeau est à l'abandon, semblant comme attendre désespérément une visite derrière ses hautes herbes et ses pins majestueux.
Citroën accidentée à Dalat en 1950
Une Citroën Traction avant et après un accident en 1950 à Dalat.
En promenade dans les environs de Dalat
Dalat, situé dans l'ancienne province de l'Annam, occupe un région parsemée de lacs, de cascades, de jardins et de forêts de pins.
La chute Gougah
thác Gougah
La chute Gougah est située à 38 km de Dalat.
© Les diapositives couleurs ont été prises par monsieur Emile Poizat en 1955.
© La diapositive couleur a été prise par le docteur américain Irwin S. Leinbach de l'association humanitaire CARE en novembre 1963.
La chute Bobla
La chute Pongour
La chute Pongour est la plus spectaculaire mais moins visitée car plus innacessible en cas de pluie.
A gauche sur la route d'Ankroet...
A droite la chute Liên Khang.