Vài điều về chuyên ngành kiến trúc cảnh quan.
LTS- Kiến Việt nhận được một bài viết khá thú vị về kiến trúc cảnh
quan, do Thạc sỹ, Kiến trúc sư Nguyễn Trường Phúc, một chuyên gia về
kiến trúc cảnh quan được đào tạo ở Hà Lan, gửi tới. Kiến Việt xin đăng
tải và chia sẻ cùng các bạn độc giả quan tâm. Mong nhận được những phản
hồi, góp ý và các bài viết của tất cả các bạn. Trân trọng cảm ơn.
————————————————
Chuyên ngành kiến trúc cảnh quan
Trước tiên, chúng ta hãy bàn về khái niệm “kiến trúc cảnh
quan” – landscape architecture. Về mặt ngữ nghĩa thì có sự mâu thuẫn ở
đây, trong khi “cảnh quan” là 1 phạm trù luôn biến đổi theo không gian
và thời gian thì “kiến trúc” lại đề cao tính ổn định, lâu dài (cái này
cũng giống như khái niệm phát triển bền vững vậy). Chuyên ngành kiến
trúc cảnh quan thường bị mọi người hiểu lầm là chỉ liên quan đến thiết
kế vườn và cảnh quan vườn.
Kiến trúc cảnh quan mang ý nghĩa rộng hơn như vậy, nó tham
gia vào việc quy hoạch môi trường, thiết kế, quy hoạch đô thị…và tạo
dựng môi trường sống cho con người và thiên nhiên.
Chuyên ngành kiến
trúc cảnh quan kết hợp tính đa dạng về mục tiêu và thể loại của đồ án
thiết kế cảnh quan với sự biến đổi không ngừng của các điều kiện môi
trường. Kiến trúc cảnh quan, có thể nói là 1 chuyên ngành rộng nhất liên
quan đến việc xây dựng môi trường sống cho con người.
Các nhà thiết kế được trang bị những kiến thức về cảnh quan
sinh thái, cảnh quan văn hoá để thực hiện nhiều loại đồ án khác nhau
như: quản lý cảnh quan ở quy mô toàn cầu, đất nước, vùng, địa phương,
quy hoạch vùng, quy hoạch và thiết kế sinh thái, quy hoạch đất đai, quy
hoạch và thiết kế đô thị, quy hoạch và thiết kế khu ở, xây dựng cảnh
quan và điều hành các hoạt động liên quan đến môi trường.
Nhiệm vụ của
kiến trúc sư cảnh quan liên quan đến nhiều chuyên ngành khác, phụ thuộc
vào phạm vi của đồ án và tính chất thực hiện.
Kiến trúc sư cảnh quan có thể tham gia vào nhiều việc trong
quá trình thiết kế như: xác định vị trí, hình thức sơ bộ của ngoại thất
công trình, định dạng thế đất, quản lý môi trường nước, thiết kế hệ
thống cơ sở hạ tầng, xây dựng, thiết kế cây xanh. Kiến trúc sư cảnh quan
cũng có thể đứng ra điều hành dự án và kết hợp các bộ môn trong việc
thiết kế 1 đồ án (Motloch, 2001)
. Theo quan điểm trên thì kiến trúc
cảnh quan là chuyên ngành quá rộng. Nó bao gồm cả quy hoạch đô thị, nông
thôn, quy hoạch không gian, phân tích xã hội và thiết kế đô thị… Tuy
nhiên,
điều khác biệt cơ bản từ khi kiến trúc cảnh quan ra đời
(giữa thế kỷ XIX), theo tôi, đó là nó đặt khái niệm “môi trường” làm
trung tâm nghiên cứu (environment is the core concept), khác với quan điểm của nhà quy hoạch và kiến trúc sư (human is the core concept).
Chú thích: Vườn hoa Keukenhof, Hà lan
Nguồn gốc của chuyên ngành kiến trúc cảnh quan
Theo quan điểm của ASLA (American society of landscape
architects), nguồn gốc của chuyên ngành bắt đầu từ sự phát triển không
gian công cộng bên ngoài ngôi nhà xuất hiện từ thời Trung cổ và được
khôi phục lại trong các thiết kế vườn, biệt thự, quảng trường thời kỳ
Phục Hưng. Sự hoàn thiện của chuyên ngành thiết kế cảnh quan được thể
hiện rõ trong các thiết kế vườn kiểu Pháp thế kỷ XVII. Rất nhiều nhà
thiết kế vườn kiểu Anh thế kỷ XVIII đã loại bỏ tính công thức cứng nhắc
của hình học Euclid ( French formal style) để hướng đến 1 phong cách mới
mang âm hưởng thiên nhiên hơn. Tất cả những trào lưu này của Châu Âu
bao gồm: Italian renaissance garden style thế kỷ XVI, French formal
garden style thế kỷ XVII và English landscape garden-picturesque thế kỷ
XVIII, XIX đã tác động đến hình thức và phong cách của kiến trúc cảnh
quan của Bắc Mỹ (nơi ra đời của khái niệm kiến trúc cảnh quan-landscape
architecture)
Chú thích: Frederick Law Olmsted
Chú thích: Calvert Vaux
Tên gọi kiến trúc sư cảnh quan được dùng đầu tiên bởi
Frederick Law Olmsted, người Mỹ. Những đồ án của Olmsted kết hợp với
Calvert Vaux xuất hiện vào cuối những năm 1850, đó là thiết kế Công viên
trung tâm ở New York (Các bạn có thể tham khảo ảnh vệ tinh trên
googlearth) và vào những năm 1870 là đồ án thiết kế khu vực ngoại thất
của toà nhà Capitol-Washington. Đồ án thiết kế Columbian Exposition của
Olmsted năm 1893 đã đánh dấu 1 sự nhìn nhận rõ ràng hơn của công luận về
1 chuyên ngành mới trong thiết kế: Kiến trúc cảnh quan.
Những thiết kế của Olmsted có quan điểm chủ đạo là sử dụng
những không gian xanh công cộng (Central Park, Prospect Park, Franklin
Park, Chicago South Park) làm nơi nghỉ ngơi, thư giãn, tách biệt với sự
ngột ngạt, thiếu không khí, ánh sáng của các nhà máy, công xưởng (sản
phẩm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá) đáp ứng nhu cầu của đa
phần tầng lớp lao động (tầng lớp mang tính đa số, mới xuất hiện)
.
Trong nửa cuối thế kỷ XIX, chuyên ngành kiến trúc cảnh quan phát triển
khá chậm về chuyên sâu nhưng lại rất mở rộng về phạm vi ảnh hưởng.
Những nhu cầu đang tăng lên không ngừng của xã hội Mỹ bấy
giờ như: quy hoạch, thiết kế môi trường đô thị, hệ thống công viên, các
không gian công cộng của văn phòng, khu công nghiệp, trường học, các
cộng đồng khu ở ở ngoại ô… đã tạo ra 1 sự phát triển toàn diện cho
chuyên ngành kiến trúc cảnh quan. Nó giữ vai trò chính trong việc thiết
kế và quy hoạch đô thị với mong muốn tạo dựng những thành phố đẹp, tiện
nghi của nước Mỹ. Những kiến trúc sư cảnh quan như Olmsted, Jens Jensen,
và Horace Cleveland là những người đi đầu trong quá trình định hướng
phát triển của hệ thống công viên, cảnh quan của cả nước Mỹ.
Chú thích: Central Park, Manhattan, New York
Chú thích: Central Park, Manhattan, New York
Chú thích: Central Park, Manhattan, New York
Chú thích: Prospect Park, Brooklyn, New York
Vào năm 1899, Olmsted và vài đồng nghiệp đã thành lập
‘Hiệp hội kiến trúc sư cảnh quan Hoa Kỳ’. Một năm sau đó, 1900, khoá học
đầu tiên về kiến trúc cảnh quan ra đời và được giảng dạy ở đại học tổng
hợp Harvard do Omlsted đứng đầu.
Chuyên ngành kiến trúc cảnh quan đã
nhanh chóng tác động đến việc tạo dựng những thành phố kiểu mẫu trong
những năm đầu của thế kỷ XX. Những khoá kiến trúc sư cảnh quan được đào
tạo bài bản đã góp phần quan trọng trong việc thiết kế, quy hoạch hệ
thống công viên quốc gia, công viên tiểu bang, công viên thành phố…cũng
như hệ thống không gian công cộng của toàn nước Mỹ.
BA, MLP. Nguyễn Trường Phúc
Tài liệu tham khảo
-Motloch J.2001. Introduction to landscape
design
-Laurie M.1985. Introduction to landscape architecture
-Rogers
E.B.2001. Landscape design; a cultural and architectural
history
-Jellicoe Geoffrey and Susan.2004. The Landscape of Man; shaping
the environment from prehistory to the present day
-Thacker C.1985. The
history of gardens
-http://www.asla.org/
http://kienviet.net/2010/02/01/vai-dieu-ve-chuyen-nganh-kien-truc-canh-quan/
QUY HOẠCH CẢNH QUAN ĐÔ THỊ- HÌNH ẢNH ĐÔ THỊ
Paul D.Spreiregen
Summary
Architectural design begins with the
preparation of a building program and site analysis. So, too, do plans for
designing or redesigning a portion of a city, In the case of a city, the
analysis is a diagnosis of the city’s component pieces, to see the relations
between these pieces and to assess their condition, A visual surveyin urban
design is an examination of the form, appearance, and composition of a city—an
evaluation of its assets and liabilities. A visual survey also enables the
urban designer to see where the city needs reshaping.
Key words
actvity, density, district, image,
route, scale, skyline, traffic pattern,
urban structure, visual survey,
vocabulary of urban form
Credits: This article is a chapter of
the author’s writings, Urban Design, published by the American Institute of
Architects and McGraw-Hill, 1965, and first appeared in AIA
Journal,S 1964. Drawings are by the
author.
Making a visual survey
A Working Vocabulary of Urban Form
Architectural design begins with the
preparation of a building program and site analysis. So, too, do plans for
designing or redesigning a portion of a city. In the case of a city, the
analysis is a diagnosis of the city’s component pieces, to see the relations
between these pieces and to assess their condition. A visual survey in urban
design is an examination of the form, appearance, and composition of a city—an
evaluation of its assets and liabilities. A visual survey also enables us to see
where the city needs reshaping.
Thiết kế kiến trúc bắt đầu bằng việc
chuẩn bị một chương trình xây dựng và phân tích địa điểm. Vì vậy, làm kế hoạch
cho việc thiết kế hoặc tái thiết kế lại một phần của một thành phố. Trong trường
hợp của một thành phố, các phân tích là một chẩn đoán từng mảnh thành phần của
thành phố, để xem các mối quan hệ giữa các miếng và để đánh giá tình trạng của
nó. Một cuộc khảo sát trực quan trong thiết kế đô thị là một xét nghiệm hình thức,
sự xuất hiện, và bố cục của một thành phố- một đánh giá của các tài sản và nợ
phải trả của nó. Một cuộc khảo sát trực quan cũng cho phép chúng ta nhìn thấy
nơi mà thành phố cần định hình lại.
A visual survey can be made of any
city or town, regardless of size. It can also be made at different scales—a
neighborhood, the center, a suburban area, or a small group of buildings.
Furthermore, it can be made for a built-up part of the city which is going to
be altered very slightly or for a part of the city which is going to be rebuilt
entirely. The process of making a visual survey is not complicated, nor need it
be done with a high degree of precision. As a matter of fact, it is best done
in general terms, for to deal with the city on a large scale we must think
broadly.
Một cuộc khảo sát trực quan có thể được
làm từ bất kỳ thành phố hay thị trấn, bất kể kích thước. Nó cũng có thể được thực
hiện ở các quy mô khác nhau, một khu phố, trung tâm, khu vực ngoại ô, hoặc một
nhóm nhỏ của tòa nhà. Hơn nữa, nó có thể được thực hiện cho một phần xây dựng
lên các thành phố đó là sẽ được thay đổi rất nhẹ hoặc đối với một phần của
thành phố đó là sẽ được xây dựng lại hoàn toàn. Quá trình thực hiện một cuộc khảo
sát trực quan không phức tạp, cũng không cần nó được thực hiện với một mức độ
chính xác cao. Như một vấn đề của thực tế, nó được thực hiện tốt nhất trong điều
kiện chung, cho đến đối phó với các thành phố trên một quy mô lớn chúng ta phải
suy nghĩ một cách rộng rãi.
To conduct a visual survey, one must
have a basic idea of the elements of urban form. These necessitate a
descriptive vocabulary.
Next, one must examine the city and
describe it in terms of this vocabulary. It is also necessary to relate the
elements, in order to understand its workings, its form, and its consequent
appearance. While making a visual survey, it is important to constantly
evaluate. Certain discordant elements must be noted as faults to be corrected;
certain appropriate elements must be noted as assets to be protected. A good
urban design survey will also disclose a number of specific ideas for
improving, correcting, or replacing parts of the city, for a good survey leads
to ideas for action.
Để tiến hành một cuộc khảo sát trực
quan, người ta phải có một ý tưởng cơ bản của các yếu tố của hình thái đô thị.
Những đòi hỏi một vốn từ vựng mô tả. Tiếp theo, người ta phải kiểm tra thành phố
và mô tả nó trong điều kiện của từ vựng này. Nó cũng là cần thiết để liên hệ
các yếu tố, để hiểu được hoạt động của nó, hình thức của nó, và sự xuất hiện hậu
quả của nó. Trong khi thực hiện một cuộc khảo sát trực quan, điều quan trọng để
liên tục đánh giá là. Một số yếu tố nghịch cần phải được ghi lỗi được sửa chữa;
những yếu tố thích hợp phải được ghi nhận là tài sản phải được bảo vệ. Một cuộc
khảo sát tốt thiết kế đô thị cũng sẽ tiết lộ một số ý tưởng cụ thể để cải thiện,
sửa chữa, hoặc thay thế các bộ phận của thành phố, trong một cuộc khảo sát tốt
dẫn đến ý tưởng cho hành động.
The Image of the City.
People’s impressions of a building, a
particular environment, or a whole city, are, of course, more than visual.
Within the city lie many connotations, memories, experiences, smells, hopes,
crowds, places, buildings, the drama of life and death, affecting each person
according to his particular predilections. From his environment each person
constructs his own mental picture of the parts of the city in physical
relationship to one another. The most essential parts of an individual’s mental
image, or map, overlap and complement those of his fellows. Hence we can assume
a collective image-map or impressions-map of a city: a collective picture of
what people extract from the physical reality of a city. That extracted picture
is the image of the city.
Diện nhân dân của một tòa nhà, một
môi trường cụ thể, hoặc một thành phố hoàn toàn, là, tất nhiên, trực quan hơn.
Trong thành phố nói dối nhiều ý nghĩa, những kỷ niệm, kinh nghiệm, mùi, hy vọng,
đám đông, địa điểm, các tòa nhà, các bộ phim truyền hình về cuộc sống và cái chết,
ảnh hưởng đến mỗi người theo Lòng yêu thích đặc biệt của mình. Từ môi trường của
mỗi người xây dựng hình ảnh tinh thần riêng của mình trong các bộ phận của
thành phố trong mối quan hệ vật lý với nhau. Các bộ phận quan trọng nhất của một
cá nhân hình ảnh tinh thần, hoặc bản đồ, chồng chéo lên nhau và bổ sung cho những
nghiên cứu sinh của ông. Do đó chúng ta có thể giả định một bản đồ ảnh tập thể
hoặc số hiển thị bản đồ của một thành phố: một bức ảnh tập thể của những gì mọi
người trích xuất từ các thực thể vật lý của một thành phố. Đó là hình ảnh
trích ra là hình ảnh của thành phố.
Every work of architecture affects
the details and often the whole of the collective image. The collective mental
picture—the image of the city—is largely formed by many works of architecture
seen in concert or in chaos, but definitely seen together.
Mỗi tác phẩm kiến trúc ảnh hưởng đến
các chi tiết và thường toàn bộ hình ảnh tập thể. Các tập tinh thần hình ảnh-hình
ảnh của thành phố, phần lớn được hình thành bởi nhiều công trình kiến trúc hiện
trong buổi hòa nhạc hoặc trong hỗn loạn, nhưng chắc chắn nhìn thấy nhau.
Several years ago, Prof. Kevin Lynch
conducted a study of what people mentally extract from the physical reality of
a city. He reported the results in a book called The Image of the City, and his
findings are a major contribution to understanding urban form and to
architecture as component parts of that form. Professor Lynch is one of the
country’s leading investigators of urban form. Many of the ideas in this book
were derived from his studies. In his examination of the form of the city,
Professor Lynch found that there are five basic elements which people use to
construct their mental image of a city:
Vài năm trước đây, Giáo sư Kevin
Lynch đã tiến hành một nghiên cứu về những gì mọi người tinh thần trích xuất từ
các thực thể vật lý của một thành phố. Ông đã báo cáo kết quả trong một cuốn
sách được gọi là The ảnh của thành phố, và kết quả của ông là một đóng góp lớn
cho sự hiểu biết dạng đô thị và kiến trúc như là bộ phận cấu thành của hình
thức đó. Giáo sư Lynch là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu của đất nước
hình thái đô thị. Rất nhiều ý tưởng trong cuốn sách này đã được bắt nguồn từ
các nghiên cứu của mình. Trong kỳ thi của mình trong những hình thức của thành
phố, Giáo sư Lynch tìm thấy rằng có năm yếu tố cơ bản mà mọi người sử dụng để
xây dựng hình ảnh tinh thần của họ về một thành phố:
Pathways: These are the major and
minor routes of circulation which people use to move about. A city has a
network of major routes and a neighborhood network of minor routes. A building
has several main routes which people use to get to it and from it. An urban
highway network is a network of pathways for a whole city. The footpaths of a
college campus are pathways for the campus.
Đại: Đây là các tuyến đường chính và
phụ lưu thông mà người dân sử dụng để di chuyển về. Một thành phố có một mạng
lưới các tuyến đường chính và một mạng lưới khu vực của các tuyến đường nhỏ. Một
tòa nhà có một số tuyến đường chính mà mọi người sử dụng để có được nó và từ
đó. Một mạng lưới đường cao tốc đô thị là một mạng lưới các đường cho một thành
phố hoàn toàn. Các lối đi bộ của một trường đại học là con đường cho khuôn viên
trường.
Districts: A city is composed of
component neighborhoods or districts; its center, uptown, midtown, its in-town
residential areas, trainyards, factory areas, suburbs, college campuses, etc.
Sometimes they are distinct in form and extent—like the Wall Street area of
Manhattan. Sometimes they are considerably mixed in character and do not have
distinct limits—like the midtown area of Manhattan.
Các huyện: Một thành phố gồm các khu
phố thành phần hoặc các huyện; trung tâm, khu, Midtown, trong thị trấn, khu dân
cư, trainyards, khu vực nhà máy, ngoại ô, các trường đại học, vv Đôi khi họ rất
khác biệt về hình thức và mức độ như-khu vực Wall Street ở Manhattan. Đôi khi
chúng được trộn đáng kể trong tính cách và không có giới hạn như biệt khu vực
Midtown Manhattan.
Edges: The termination of a district
is its edge. Some districts have no distinct edges at all but gradually taper
off and blend into another district. When two districts are joined at an edge
they form a seam. Fifth Avenue is an eastern edge for Central Park. A narrow
park may be a joining seam for two urban neighborhoods.
Edges: Việc chấm dứt của một huyện là
cạnh của nó. Một số huyện không có cạnh rõ rệt ở tất cả nhưng dần dần giảm dần
và pha trộn vào quận, huyện khác. Khi hai huyện được tham gia vào một cạnh
chúng tạo thành một đường may. Fifth Avenue là một rìa phía đông cho Central
Park. Một công viên hẹp có thể là một đường may nối cho hai khu vực thành thị.
Landmarks: The prominent visual
features of the city are its landmarks.
Some landmarks are very large and are
seen at great distances, like the Empire State Building or a radio mast. Some
landmarks are very small and can only be seen close up, like a street clock, a
fountain, or a small statue in a park. Landmarks are an important element of
urban form because they help people to orient themselves in the city and help
identify an area. A good landmark is a distinct but harmonious element in its
urban setting.
Địa danh: Các tính năng trực quan nổi
bật của thành phố là địa danh của nó. Một số điểm mốc là rất lớn và được nhìn
thấy ở khoảng cách rất xa, như tòa nhà Empire State hoặc một cột radio. Một số
điểm mốc là rất nhỏ và chỉ có thể được nhìn thấy gần lên, giống như một chiếc đồng
hồ đường phố, một đài phun nước, hay một bức tượng nhỏ trong một công viên. Địa
danh là một yếu tố quan trọng của dạng đô thị bởi vì chúng giúp mọi người tự định
hướng trong thành phố và giúp xác định một khu vực. Một mốc tốt là một yếu tố
khác biệt nhưng hài hòa trong bối cảnh đô thị của nó.
Nodes: A node is a center of
activity. Actually it is a type of landmark but is distinguished from a
landmark by virtue of its active function. Where a landmark is a distinct visual
object, a node is a distinct hub of activity. Times Square in New York City is
both a landmark and a node.
Nút: Nút mạng là một trung tâm hoạt động.
Trên thực tế nó là một loại mốc nhưng được phân biệt với một mốc nhờ chức năng
hoạt động của nó. Trường hợp một mốc là một đối tượng thị giác khác biệt, một
nút là một trung tâm hoạt động mạnh. Times Square ở thành phố New York là cả một
bước ngoặt và một nút.
These five elements of urban form
alone are sufficient to make a useful visual survey of the form of a city.
Their importance lies in the fact that people think of a city’s form in terms
of these basic elements. To test them, sketch a map of your own city, or better
still, ask someone else to do it, taking only a few minutes. The result will be
two fold: a picture of the most salient features of a city’s form—its image—and
a map of the sketcher’s particular interests as they relate to the city. The
result will also be akin to the cartoon maps of the United States as seen
through the eyes of a Texan or a New Yorker. The features will be distorted and
probably exaggerated, the degree of distortion reflecting the hierarchy of
values of the sketcher. The more “imageable” a city, the easier it is to find
one’s way about in it, even if its street pattern is not clear. In designing a
city, it is important to consider how a new development will affect the total
urban image. A new development can be made to tie visibly into a city’s path
system; to form or help reinforce a district; if on an edge, to strengthen the
edge; and if at a seam, to maintain continuity. It can also become a good
landmark and an active node.
Những năm yếu tố của hình thái đô thị
một mình là đủ để thực hiện một cuộc khảo sát trực quan hữu ích của các hình thức
của một thành phố. Tầm quan trọng của họ nằm trong thực tế là mọi người nghĩ về
một hình thức city,Äôs về những yếu tố cơ bản. Để kiểm tra chúng, phác họa một
bản đồ thành phố của riêng bạn, hay vẫn tốt hơn, hãy hỏi một người nào khác để
làm điều đó, chỉ trong vài phút. Kết quả sẽ là hai lần: một hình ảnh của những
tính năng nổi bật nhất của một city,Äôs form,Äîits image,Äîand một bản đồ của
sketcher,Äôs lợi ích cụ thể có liên quan đến thành phố. Kết quả này cũng sẽ giống
như các bản đồ phim hoạt hình của Hoa Kỳ như nhìn qua con mắt của một người
Texas hay New Yorker. Các tính năng này sẽ bị méo mó và có thể phóng đại, mức độ
biến dạng phản ánh hệ thống các giá trị của các Sketcher. Càng nhiều càng
Äúimageable,Äù một thành phố, dễ dàng hơn là tìm cách one,Äôs về trong nó, ngay
cả khi mô hình đường phố của nó là không rõ ràng. Trong việc thiết kế một thành
phố, điều quan trọng là phải xem xét làm thế nào một sự phát triển mới sẽ ảnh
hưởng đến hình ảnh tổng đô thị. Một phát triển mới có thể được thực hiện để buộc
rõ ràng vào một hệ thống đường dẫn city,Äôs; thành lập hoặc giúp củng cố một
huyện; nếu trên một cạnh, để tăng cường cạnh đó; và nếu ở một đường may, để duy
trì tính liên tục. Nó cũng có thể trở thành một mốc tốt và một nút hoạt động.
Paths, landmarks, nodes, districts,
and edges are the skeletal elements of a city form. Upon that basic framework
hangs a tapestry of embellishing characteristics which all together constitute
the personality of a city. To build a broader vocabulary upon this basic
framework we must consider landform, natural verdure, climate, several aspects
of urban form itself, certain details and several lesser facets of form.
Paths, mốc, các nút, huyện, và các cạnh
là những yếu tố khung sườn của một hình thức thành phố. Khi mà khuôn khổ cơ bản
có treo một tấm thảm thêu dệt đặc điểm mà tất cả cùng nhau tạo thành nhân cách
của một thành phố. Để xây dựng một vốn từ vựng rộng lớn hơn trên khung cơ bản
này, chúng ta phải xem xét địa hình, cây xanh tự nhiên, khí hậu, một số khía cạnh
của hình thái đô thị riêng của mình, một số chi tiết và một số khía cạnh nhỏ
hơn của mẫu.
Landform and Nature
Every city is built on a piece of
land. The form of this land and its features are the foremost determinants of a
city’s form. In speaking of landform, we are speaking primarily of topography.
In looking at landscape, we are
seeking its character. As urban designers we observe the form of the
terrain—flat, gently rolling, hilly, mountainous—in relation to the
architecture and the cities which are set in it. A flat site may suggest either
vertical architecture or assertive horizontals. A slightly hilly site may call
for vertical architecture at the summits with a flow of cubes on the slopes, or
may suggest a termination of architecture just below the crests. A steep
hillside or valley may lend itself to terracing, with orientation to the sun.
In every case we must assess the qualities of the terrain, including the design
relationships they express. The prominent features of a landscape should be
carefully noted— cliffs, mountain peaks, ranges of hills on the horizon,
plateaus, rivers, or lakes. These are accenting landscape features which can be
employed actively as sites or passively as vistas, supplementing architectural
and urban form. They can be used as major vista objectives from points within
the city or as special sites for buildings. Some are better left in their
natural state.
Mỗi thành phố được xây dựng trên một
mảnh đất. Các dạng của vùng đất này và các tính năng của nó là những yếu tố quyết
định quan trọng nhất của hình thức của một thành phố. Khi nói về địa hình,
chúng ta đang nói chủ yếu của địa hình. Khi nhìn vào cảnh quan, chúng tôi đang
tìm kiếm nhân vật của mình. Là nhà thiết kế đô thị, chúng tôi quan sát các hình
thức của địa hình bằng phẳng, nhẹ nhàng lăn, đồi, núi, trong mối quan hệ với
các kiến trúc và các thành phố được đặt trong nó. Một trang web bằng phẳng có
thể đề nghị hoặc kiến trúc theo chiều dọc hoặc horizontals quyết đoán. Một
trang web hơi đồi có thể gọi cho kiến trúc thẳng đứng tại hội nghị thượng đỉnh
với một dòng chảy của khối trên sườn núi, hoặc có thể đề xuất một kiến trúc
chấm dứt ngay dưới đỉnh. Một sườn đồi dốc hoặc thung lũng có thể thích hợp với
ruộng bậc thang, định hướng đến mặt trời. Trong mọi trường hợp, chúng tôi phải
đánh giá những phẩm chất của địa hình, bao gồm cả các mối quan hệ thiết kế mà họ
thể hiện. Các tính năng nổi bật của một phong cảnh nên vách đá cẩn thận noted-,
đỉnh núi, dãy đồi trên đường chân trời, cao nguyên, sông, hồ, sông ngòi. Đây là
những tính năng accenting cảnh quan mà có thể được sử dụng tích cực như các
trang web hoặc thụ động như khung cảnh, bổ sung hình thức kiến trúc và đô thị.
Chúng có thể được sử dụng như là mục tiêu vista lớn từ các điểm trong thành phố
hoặc các trang web như đặc biệt cho các tòa nhà. Một số được tốt hơn còn lại
trong trạng thái tự nhiên của họ.
Indigenous greenery should be
assessed in terms of shape, size, character, practicability, and seasonal
change. An urban designer needs a working knowledge of the local flora and its
suitability in various uses. A thickly foliated tree, formally shaped, might be
proper for lining a road to shield the automobilist from a low sun. A spreading
shade tree of informal shape, might be quite appropriate as a restful sitting
place in the bustle of the city.
Cây xanh bản địa nên được đánh giá về
hình dạng, kích thước, nhân vật, thực tiễn, và thay đổi theo mùa. Một nhà thiết
kế đô thị cần có một kiến thức làm việc của hệ thực vật địa phương và phù hợp
trong sử dụng khác nhau. Một cây rậm lá lác, hình chính thức, có thể thích hợp
cho lát đường để che chắn các automobilist từ một mặt trời thấp. Một cây bóng
mát lan rộng của hình thức, có thể là khá thích hợp như là một nơi ngồi yên
tĩnh trong sự nhộn nhịp của thành phố.
Characteristic detail of the
landscape should be considered for possible use as architectural and urban
design embellishment: a native rock or gravel, a characteristic earth color,
the form of local streams, characteristic stands of trees. Indigenous
architecture should also be noted, particularly in older towns. These are the
result of evolution and may have achieved a mature relationship with their
environment.
Đặc điểm chi tiết của cảnh quan cần
được xem xét để có thể được sử dụng như thiết kế kiến trúc và đô thị chỉnh
trang: một tảng đá có nguồn gốc hoặc sỏi, một màu đất đặc trưng, hình thức của
suối địa phương, khán đài đặc trưng của cây. Kiến trúc bản địa cũng cần lưu ý,
đặc biệt là ở các thị trấn cũ. Đây là kết quả của quá trình tiến hóa và có thể
đã đạt được một mối quan hệ trưởng thành với môi trường của họ.
Certain areas of landscape should not
be touched, but preserved in their natural state. A survey of the natural
landscape may disclose areas which are better left as wilderness. These might
well be chosen with relation to nearby cities and towns so that they are
accessible as necessary complements to urban life, but not menaced by it.
Buildings and small towns can often be seen in their entirety in the framework
of nature. As such, they are accents or counterpoints to their natural
settings, elements of vitality in a setting of repose. A larger town, however,
can seldom be seen in its entirety, but only in part, from various viewing
places. Here we have a one-to-one relationship, nature being less a setting
than a major component of the whole scene—balancing the sight of the city
rather than acting as a setting for it. Raw nature sometimes exists within
large cities in the form of streams, rivers, shore lines, cliffs, etc. Here the
city is the setting for nature. Nature, in this circumstance, becomes a foil or
counterpoint to the urban surroundings.
Một số vùng của cảnh quan không nên
xúc động, nhưng được bảo quản trong trạng thái tự nhiên của họ. Một cuộc khảo
sát của cảnh quan tự nhiên có thể tiết lộ các khu vực bị tốt hơn trái là vùng
hoang dã. Những cũng có thể được lựa chọn liên quan đến các thành phố và thị trấn
lân cận để họ có thể truy cập được bổ sung khi cần thiết với cuộc sống đô thị,
nhưng không đe dọa bởi nó. Các tòa nhà và các thị trấn nhỏ thường có thể được
nhìn thấy trong toàn bộ của họ trong khuôn khổ của thiên nhiên. Như vậy, họ là
dấu trọng âm hoặc counterpoints đến môi trường tự nhiên của họ, các yếu tố của
sức sống trong một khung cảnh tạm. Một thị trấn lớn hơn, tuy nhiên, có thể hiếm
khi được nhìn thấy toàn bộ, nhưng chỉ một phần, từ những nơi khác nhau xem. Ở
đây chúng tôi có một mối quan hệ một-một, thiên nhiên ít được một thiết lập hơn
một thành phần chính của cảnh cân bằng tầm nhìn của thành phố hơn là hành động
như một thiết lập cho nó cả. Chất liệu đôi khi tồn tại trong các thành phố lớn ở
dạng suối, sông, đường bờ, vách đá, vv Ở đây thành phố là khung cảnh thiên
nhiên. Thiên nhiên, trong trường hợp này, trở thành một lá hoặc đối lập trong
môi trường xung quanh đô thị.
Thus, we might regard a small town as
an object in the embrace of nature, a larger town as being hand-in-hand with
nature, and finally, the large city as assuming the role of nature and becoming
the embracer.
A visual survey of nature in relation
to achitecture and urban design is threefold in scope. We first try to determine
the character of the surrounding landscape to which our architectural and urban
forms must respond esthetically and functionally. Second, we evaluate the
degree to which our existing architecture and cities enhance nature.
Như vậy, chúng ta có thể coi là một
thị trấn nhỏ như là một đối tượng trong vòng tay của thiên nhiên, một thị trấn
lớn hơn như là tay-trong-tay với thiên nhiên, và cuối cùng, các thành phố lớn
như đảm nhận vai trò của thiên nhiên và trở thành embracer. Một cuộc khảo sát
trực quan của thiên nhiên trong mối quan hệ với achitecture và thiết kế đô thị
là gấp ba lần trong phạm vi. Chúng tôi lần đầu tiên thử để xác định đặc tính của
cảnh quan xung quanh mà hình thức kiến trúc và đô thị của chúng ta phải đáp ứng
esthetically và chức năng. Thứ hai, chúng tôi đánh giá mức độ kiến trúc và
các thành phố hiện có của chúng tôi nâng cao chất.
Third, we must decide what natural
areas are to be left alone to act as complements to urban form. Throughout this
process we search for assets and liabilities, preserving and enlarging upon the
one and noting corrections to be made on the other.
Every work of architecture affects
the natural landscape either positively or negatively; so does every structure
and human settlement. Nature, in turn, as a setting for our constructions, is a
visual framework to which all our constructions must respond.
Thứ ba, chúng ta phải quyết định những
gì các khu vực tự nhiên là được ở một mình để hoạt động như bổ sung cho hình
thái đô thị. Trong suốt quá trình này, chúng tôi tìm kiếm các tài sản và nợ phải
trả, bảo quản và mở rộng khi có một trong các lưu ý và chỉnh sửa được thực hiện
trên các khác. Mỗi tác phẩm kiến trúc ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên hoặc
tích cực hoặc tiêu cực; do đó, hiện mỗi cấu trúc và định cư của con người.
Thiên nhiên, đổi lại, với một thiết lập cho công trình xây dựng của chúng tôi,
là một khung hình mà tất cả các công trình xây dựng của chúng tôi phải đáp ứng.
Local Climate
While on the subject of the natural
features of the terrain, it is wise to check on local climatological
conditions. Local climate determines much of the character and appearance of
the landscape and buildings.
The following aspects of climate can
be readily found in United States Weather Bureau publications. Temperature:
Seasonal temperature and humidity as averages and extremes which indicate the
periods of relative comfort, the extremes which must be ameliorated, and which
therefore determine architectural and urban form.
Local khí hậu Trong khi trên các chủ
đề của các đặc điểm tự nhiên của địa hình, nó là khôn ngoan để kiểm tra về điều
kiện khí hậu địa phương. Khí hậu địa phương xác định phần lớn các nhân vật và sự
xuất hiện của cảnh quan và các tòa nhà. Các khía cạnh sau của khí hậu có thể dễ
dàng tìm thấy trong các ấn phẩm Hoa Kỳ Cục thời tiết. Nhiệt độ: nhiệt độ theo
mùa và độ ẩm như là trung bình và cực đoan trong đó chỉ ra các giai đoạn tương
đối thoải mái, thái cực mà phải được cải thiện, và do đó mà xác định hình thức
kiến trúc và đô thị.
Light: The number of clear, partly
cloudy, and fully cloudy days, which conditions the light affecting the
appearance of the city and of buildings.
Precipitation: The amount of
precipitation in the form of rain and snow.
Sun: The angles of the sun in
different seasons, which affects viewing conditions and, thus, design. It is
useful to make a simple three-dimensional model to study these angles.
Winds: The prevailing seasonal winds
including the direction and intensity of cold winter winds, gentle or severe
fall and spring gusts, and cooling summer breezes. These affect design
considerably.
In addition to these quantitative
factors there are a number of qualitative aspects of climate which are as
important in urban design. Some cities are well oriented toward the rising sun
or the setting sun. Some cities have forms that derive almost directly from
their climates— arcaded cities in the sun, for example, Considerable research
or experimentation might be done to determine how cold winter winds could be
slackened and cooling summer breezes induced. The quality of light—sharp and
clear or cloudy and dull—should be a determinant in the design of building
facades including their degree of intricacy and their coloring. These are
always a matter of artistic consideration but a careful appraisal of actual
conditions can help a decision.
Shape
Every city has a general overall
shape. There are several classifications of shape.
Radiocentric: The most frequently
found urban form is the radiocentric, a large circle with radial corridors of
intense development emanating from the center.
Rectilinear: A variation on
radiocentric form is the rectangle, which usually has two corridors of intense
development crossing at the center. This variant of the radiocentric form is
found in small cities rather than large. It is the radiocentric form with right
angles.
Star: A star shape is a radiocentric
form with open spaces between the outreaching corridors of development.
Ring: A ring shape is a city built
around a large open space. The San Francisco Bay is such an open space for the
cities of the bay area. A ring and star may be found in combination,
particularly where a loop road is built around the outskirts of an expanding
metropolis.
Linear: The linear shape is usually
the result of natural topography which restricts growth or the result of a
transportation spine. Stalingrad in the Soviet Union was planned as a linear
city. The megalopolis on the East Coast has become a vast metropolitan area
with a linear configuration.
Branch: The branch form is a linear
spine with connecting arms.
Sheet: A vast urban area with little
or no articulation. Articulated Sheet: The articulated sheet form is accented
by one or more central clusters and several subclusters.
Constellation: The constellation is a
series of nearly equal-size cities in close proximity.
Satellite: The satellite is a
constellation of cities around a main center.
These classifications of form have
definite implications for a city’s function. They have advantages and
disadvantages related to circulation, proximity to open space, and articulation
of neighborhoods or districts. Further, these classifications may be applied to
the city as a whole or to parts of the city, isolated for study, like open
spaces or circulation. The open spaces of a city may be linear or branched; or
they may form a radiocentric pattern. The circulation networks may likewise be
described as one or another shape.
Size and Density
Closely related to a city’s shape is
its size, a quantitative aspect which can be approached several ways. We first
of all think of the physical extent of a city: so many miles across or so many
miles from center to outskirts. We can also describe size in terms of the
number of inhabitants. The relation between size and density is important, for
it indicates the distribution of people and the city’s urban massing.
Density can be computed
mathematically in several ways: the number of people per square mile; the
number of houses per acre or square mile; or the amount of building floor area
in a given section. It can also be expressed in terms of automobile population.
In 1962 Los Angeles, the country’s most auto-oriented city, had 2,220 cars per
square mile and Washington, D.C., had 4,100 cars per square mile. This comes as
a surprise to most people. One would think that those figures are
reversed—which suggests a note of caution in judging aspects of quality from
statistics of quantity. The gross size of a city in terms of its population is
also revealing.
Classifications according to size
alone are quite useful. A basic population of about 200,000 to 300,000 is
necessary to support basic public cultural facilities. Amsterdam, Holland, with
a population of about a million people, is of the maximum size that can be
traversed on foot by a hearty walker, from center to outskirts. Unless a city
is evenly built-up, studies of density are best made on separate sectors of a
city. Density figures indicate the relationship between built-up and open land;
therefore they can describe almost graphically the image of a suburban
residential area or an in-town row-house area. Densities have definite
implications for various forms of transportation. In making a visual survey, it
is helpful to determine the density of various areas and to relate the density
figures to physical patterns of land and buildings and, hence, the visible
form of the area.
Pattern, Grain, and Texture
Urban areas have distinct patterns.
Usually these are seen in their block and street layouts. Most American cities
have rectilinear block and street patterns. On rolling terrain, in outlying
areas, curvilinear streets and blocks form another type of pattern. A
cul-de-sac system forms a third pattern. Mixtures of open space and built-up
space constitute still another pattern. A basic design pattern can be very helpful
in planning a residential area or a campus area. An urban pattern is the
geometry, regular or irregular, formed by routes, open spaces, and buildings.
Grain is the degree of fineness or
coarseness in an urban area.
Texture is the degree of mixture of
fine and coarse elements. A suburban area with small houses on small plots has
a fine grain and a uniform texture. With small houses on varying size lots, it
could still have a fine grain but an uneven texture. In the city, large blocks
with buildings of varying sizes could be described as having a coarse and an
uneven texture. If the buildings are uniform in size, they could be described
as having a coarse grain but a uniform texture.
Such distinctions are easily
indicated on a sketch map. They are useful in evaluating an area’s form and in
making decisions about a design treatment for it. For example, a coarse-grained
unevenly textured area may be impersonal and repellent and could be treated
with some fine scale and unifying design elements, An extensive and
uniformly-grained area might well be treated with relieving accents.
Urban Spaces and Open Spaces
Urban shape, pattern, grain, size,
density, and texture are primarily aspects of solid form—the building masses of
the city, In architecture it is rather helpful to conceive of a building not
only as a solid but as spaces modeled by solids. It is also helpful to consider
a city this way. The spaces of the city range from the space of the street to
the space of a park system and, ultimately, to the vast space in which an
entire city exists. It is helpful to think of these spaces as two generic
types: formal or “urban spaces,” usually molded by building facades and the
city’s floor; and natural or “open spaces,” which represent nature brought
into, and around, the city.
Basically an urban space must be
distinguished by a predominant characteristic, such as the quality of its
enclosure, the quality of its detailed treatment or outfittings, and the
activity that occurs in it. An urban space should, ideally, be enclosed by
surrounding walls, have a floor which suits its purpose, and have a distinct
purpose to serve.
If, however, any one of these
qualities is sufficiently strong, it alone may establish the sense of urban
space.
A group of office buildings may
contain a space around a poorly designed plaza or a complex road intersection,
the floor space being devoted entirely to traffic. This is an urban space which
has a sense of place in the city. It is both a landmark and a traffic node, as
well as an office node. An urban square may be beautifully landscaped as a
restful urban park, but it may lack entirely the peripheral building facades
which are needed for a sense of enclosure.
Here we have a poorly enclosed space,
but a space nevertheless. In another instance, a particular place in the city
may function as the locale of an important activity while possessing neither
physical enclosure nor appropriate floor. Times Square in New York is such an
example.
In all these examples we have a sense
of space. Such spaces are islands or oases in the city. But urban spaces can
also be linear corridors.
Avenues and streets are linear urban
spaces if they are enclosed on two sides or have some element of unifying
character—trees or uniform buildings. Corridor spaces are spaces for linear
movement. Island or oasis spaces are stopping places. Of course the two can be
interconnected. In fact, a spatial structure for an entire city is exactly such
an arrangement at the city’s total scale. Open spaces, being nature brought into
the city or open expanses allowed to remain in their original state, cannot be
described in quite the same manner used for urban spaces. Their scale is given
by the trees, shrubs, rocks, and ground surface rather than their gross width
and length. Their appearance is characterized by the sight of natural verdure
rather than surrounding buildings. However, a vista of a distant building may
accent a particular spot and a bridge or pathway may complement nature’s forms.
Open spaces in the city have a wide variety of purposes. They are a complement
and foil to urban form. They are also reservoirs of land for future use. For an
urban design survey, one should study the spaces of the city as an overall
structure. In doing this it is helpful to classify spaces according to their
actual use and to consider formal urban spaces and the natural open spaces
together.
For example, one could start by
mapping all the recreational parks in the city, then the interconnected stream
parks. The center city urban parks could be mapped, and the main corridor
spaces that lead to them or connect them. The nodal spaces as well as the
connector spaces all together would form the spatial network. Such a survey
would disclose a need for creating spaces in certain areas, a need to improve
existing spaces, and some possibilities for connecting all of them. The survey
of spaces should disclose a hierarchy of spaces for rest and repose to spaces
for meeting and bustling activity.
A city’s entire system of public
lands—roadways, schools, parks, civic buildings, libraries, etc.—could be
thought of as an open space network possibly complemented here and there by
public buildings. In an urban design survey we look for the location, quality,
and amount of open space in relation to the city’s built-up areas.
Routes
Landscape, architecture, and cities
are seen as sequences as we travel along routes of movement. Routes of movement
affect considerably the appearance of the landscape through which they pass and
the architecture and cities which they serve. Routes of movement are a
principal determinant of urban form. In making an urban design survey of the
routes of a city, one should begin with the area well beyond the city limits,
far out in the country. The primary function of a highway is to allow traffic
to move, but a large part of that job depends on how clear the route is in
relation to the city. This aspect of highway engineering—the “image-ability” of
the highway—is a matter of revealing its clarity of form and direction to the
user. Too many highways have very poor physical relationships to the areas they
serve. Rather than helping to define these areas, they often slash through
them, actually acting as a blighting and disintegrating force.
Routes in the Countryside
In the open landscape, existing and
proposed routes should be examined and assessed with a view to how well they
relate to the natural terrain. How artfully or awkwardly do routes traverse the
landscape, revealing its prominent features? Are vistas taken advantage of, or
ignored? Some vistas might well be presented with dramatic suddenness; others
might be introduced gradually, or be seen only in part.
Are there dull areas which require
embellishment? Perhaps the introduction of a curve or rows of trees and shrubs
could give more visual interest. Are there obstructions to the enjoyment of the
prominent natural features? Does the road itself and its furniture mar the
landscape or add beauty to it?
The outlying routes of your city are
the first introductions which approaching visitors receive, giving them their
major impressions. In making a visual survey of routes, the routes should be
charted, noting the character of the terrain and the adaptation of the roads to
it, the artful dramatization of landscape features, the quality of added
features, the accenting of the route, its faults and possibilities for
improvement or correction. Every new route should be examined and
designed on these bases as a matter
of sound road engineering.
Approach Routes and Surface Arteries
Approach routes present cities to us.
They must satisfy the visual requirement of presenting architecture and cities
in their best light, while enabling us to find our destination readily. The two
requirements go hand in hand. An approach route must both inform us and conduct
us.
The major routes through the city are
surface arteries—highvolume traffic streets which carry buses and autos. They
can be evaluated according to how they tie into the expressway pattern, their
clarity of form, their relation to the cityscape, the shape of the building
sites they pass by, and the way they pass through existing districts.
Another consideration is the street
furnishings of the major surface streets. Can their design be improved and a
program for improving signs and traffic furniture be started? How well do the
through arteries tie into the pattern of slower-speed local streets? How well
do they tie into major garages and parking areas? How easy is it to find a
garage near your destination and to get into and out of it? Most important of
all, we must examine the relation between a street’s traffic and buildings. A
good index is the degree to which street traffic is actually serving the
buildings on the street, in contrast to traffic which is merely passing through
on the way to some other destination.
Local Streets
The through arteries serve an
intricate network of small streets, along which cars, buses, and delivery
trucks stop and go. These streets carry a mixture of vehicles and people. In
surveying them, we examine whether vehicular and pedestrian movement are in
conflict with each other or aiding one another. Where do they belong together
and where not? Are pedestrians forced to wait for long periods of time to cross
streets, or are pedestrians free to cross streets anywhere? Is safety achieved
by the use of stoplights or by grade-separated pedestrian crossings? Is the
vehicular traffic strictly local, or is much of it through traffic? Can this
through traffic be relocated? How can existing small streets be protected
against the intrusions of through traffic? What is the dimensional scale of the
intimate local streets? How do they relate to the size of their districts? Can
these patterns be improved and strengthened?
These comments illustrate that an
inquiring survey raises many questions and stimulates many ideas. As we
elaborate on the pathdistrict-edge-landmark-node framework, we find that some
of them require more attention than others. Degree of emphasis on one aspect or
another will depend on the size of the city or the urban sector being surveyed.
On the large-scale survey of the whole city, its paths, districts, and open
spaces, for example, may be the predominant elements. However, at all levels,
the examination of the districts of the city will probably require the greatest
effort.
The Districts of a City
Every city consists of a series of
parts which we refer to as districts or enclaves or sectors—or perhaps as
quarters, precincts, or areas. They are distinguishable in that they have
dominant and pervasive characteristic features. Our mental images of cities
consist, to a large extent, of the arrangement of these parts. Some are
distinct, some overlap others, some are uniform, some are very complex. Almost
all are in a process of change, which further affects their appearance and
their size. A very small town has at least several distinguishable areas; a
metropolis may have fifty or a hundred. The pattern of districts is closely
related to the pattern of routes. The size of a district may be determined by
the nature of the internal routes serving it. A commercial center, for example,
can usually be traversed on foot or by a short cab ride. A residential section
may often have local community facilities which can be reached on foot,
although its gross size may be far beyond the limits of pedestrian traverse.
The districts of a city vary
considerably in their strength of character. Districts which do have very
strong characters often develop identifying names—Wall Street, Georgetown,
Beacon Hill, Greenwich Village, the Loop. Other districts with less assertive
character often bear names related to their historic origin—Market Street or
Main Street, Foggy Bottom, Silver Spring, Brookline. American cities, like most
cities of the world, reflect their characteristics of culture, growth, and
development in an urban nomenclature.
In the United States this
nomenclature includes: “downtown,” the original center; “uptown,” the
enlargement of the original center; “midtown,” an offshoot of both; “Chinatown”
and “Harlem,” ethnic areas; “the other side of the tracks,” characterizing poor
residential areas in the shadow of factories; “the waterfront”; “the
outskirts.”
Basically, there are two things to
look for in discerning the various districts of a city: physical form and
visible activity. For example, in a commercial center the types of buildings,
the signs, the demolition and construction activity, the crowds of rushing
people, the cabs and buses, the parking facilities—all these identify the place
for us.
On the other hand, in a residential area
we have the houses, their spacing, the trees, the milk wagons, the parked cars,
the children playing, the occasional neighborhood stores and schools. The sum
impression of the individual parts and their relationships conveys to us the
existence of a particular district of a city—a part in relation to a whole.
Few, if any, cities can be neatly
compartmentalized in this way. The most prominent enclave may dissipate
visually at its periphery. Most urban enclaves lack outstandingly prominent
characteristics. Further, complexity in an urban enclave should not be mistaken
for confusion. Urban complexity—the intense intermixture of complementary
activities—is one of the major
reasons for cities and the spice of urban life. One must also distinguish
between uniformity amounting to dullness, and unifying architectural and
landscape elements. constituting visual cohesiveness, especially in the face of
great variety. We should search for answers to the following;
Components: What are the principal
component districts of the city? Where do they begin and end? What are their
characteristics, physically and as defined by activity? How apparent are they?
Size: What is the size of a
district—its shape, density, texture, landmarks, space?
Appearance: Regarding their physical
appearance, what are the characteristics of building forms, building density,
signs, materials, greenery, topography, route-pattern landmarks? What is the
nature of the mixture of different building types?
Activity: Regarding visible activity,
what are the principal clues of the activity of an area—the kinds of people,
when and how they move about? What are the key visual elements—the things
principally seen—which establish the character of a district?
Threats: What are the threats to a
district? What external elements, such as a through road, threaten the health
and survival of district? How is the district changing? Is it changing its
position? Is an edge decaying? Is an edge advancing, perhaps into a peripheral
district?
Emergence: Are there latent districts
struggling to emerge, such as a new in-town residential section?
Relation: How do all these parts
relate to each other and especially to the route patterns of the entire city?
Finally, what are the areas in a city that cannot be classified easily, that
lack cohesion in form and character? Are some of these targets for urban design
work?
The Anatomy of a District
Having distinguished the separate
parts of the city, it remains to go one step further and survey the parts
individually—to diagnose the districts, the parts which constitute the whole.
In surveying the visual aspects of a district or enclave we should be asking:
Form: What is the physical form of
the place—form and structure in three dimensions and in broad outline? What is
the density and character of the buildings? What is the spacing of the
buildings? How does it vary? What is the greenery of the place? How would you
describe the paving, the signs, the night lighting? How uniform or how varied
is the whole, or sections of it? Can a district be further dissected into
meaningful places within it? What are these places like? What are the physical
patterns of the place? What are the patterns and the linear and focal points or
urban spaces within the district?
Activity: What do people do there?
How well does architecture and the district serve people? What are the natural
groupings of different activities within the district? How does the activity
pattern change according to the time of day, week, or season? How lively are
the central city areas? How does the local climate affect life in the areas?
What are the detrimental aspects of the place?
Features: What are the features of
the district—the major hubs or nodes, landmarks, and vistas? What are the major
magnets, generators, and feeders? In a busy center-city area, what are the
oases, the places of repose? In a quiet residential section, what are the hubs,
the places of community focus?
Paths: What are the principal paths
of movement in a district? How are they differentiated? How well do they serve
the people there? How well do they connect to the larger network of paths? Are
the actual physical dimensions of the paths adequate or excessive? How do they
determine the physical limits of the districts?
Centers: What are the features of a
district that serve a symbolic civic role? What are these places like? Are they
lively or lifeless? How can they be made lively? Are they integral parts of the
areas around them? Are they part of the life of the community, or are they
inanimate symbols?
Intrusions: What are the intrusions
and detrimental features of a district? What are the blighting features? Here
again one must be careful to distinguish between enlivening intermixtures and
truly harmful elements. How much traffic can be tolerated on a street before it
is impaired? How little before it is dead?
Change: How is the district changing,
both in internal character and the adjustment of its periphery to change? Is
there a direction of growth? In which direction is the center of gravity
moving? Is the edge decaying? How can a decaying edge be invigorated? How can a
district be stabilized?
Improvement: Finally, how can the
formation of a new district be aided? What are the new elements of the city
that are struggling to emerge? Which marginal districts can be protected and
improved as part of the complementary complexity of the whole city? How would
you analyze and depict the important districts in your city? What strengths do
you discern, what weaknesses? What differences do you find between districts?
Is there significance in their relative positions and character?
Activity Structure
An examination of districts and nodes
reveals that there are certain spots in the city that have characteristic
functions. Generally speaking, these districts fall into such categories as
places of living, working, shopping, traveling, leisure, recreation, and
learning. There is a logic to the location of these activities and there are
definite visual results in their deployment and interrelationships. Density,
topography, and transportation routes all affect an urban activity structure.
For example, a high-density
residential area will have a central shopping cluster which many of its clients
can reach on foot. A low density residential area will more likely be served by
a shopping center reached by automobile, its use shared with other lowdensity
areas. Topography can dictate the location of routes and therefore the location
of centers and subcenters. Topography can also dictate the location of
hospitals and airports.
New transportation patterns can alter
an existing urban structure by causing the relocation of facilities which
depend on a high degree of public access. Shopping centers on a city’s
periphery are in large measure a consequence of circumferential expressways. Small
neighborhood shopping centers on radial routes are approximate indicators of
the centers of residential districts.
A large-scale study of activity
structure will reveal the general centers of work and residence and a physical
correspondence between activity and district. When tied into an examination of
major routes of movement, the relation between activity and circulation access
becomes clear. So do points of conflict and areas in transition.
Orientation
If there is logic in the arrangement
of a city’s anatomy and if that arrangement is visibly evident—articulated—the
sense of orientation will be strong. If there is logic but little or no visible
articulation, a city can be confusing even to the point where it arouses a high
degree of frustration and anxiety, and the feeling of being lost. Landmarks are
a prime aid to orientation, On the overall scale of the city, prominent
landmarks are tall verticals like central skyscraper groups, natural features
such as rivers or shores, district edges, unique vistas, clear routes which
lead to and from a known place, and districts with strong visual
characteristics.
Orientation studies should be made on
the scale of the whole metropolis as well as small enclaves such as shopping
areas, commercial areas, or institutional groupings. Design programs to improve
the sense of orientation are particularly important where there are many
visitors, as at an airport, or downtown, or at a shopping center. The logic of
arrangement and its visible evidence, achieved through design, is the prime
device for improving orientation. Signs are a secondary device. Where signs are
relied on too heavily, they may add to the confusion or go unheeded.
Orientation studies can be made by
the urban design surveyor himself if he is unfamiliar with the area, but they
are best made by an interview-map technique.
Details
The appearance of small details, such
as cracks in the pavement, parking meters, tree trunks, doorways, are major
factors that characterize an area. They tell us of the area’s age, purpose,
upkeep, or decay. Signs are an important urban detail. A visual survey should
examine the types of signs in an area: for advertising a product; for giving
directions; and for marking a building, shop, theater, or hotel. It is
important to ascertain the intended audience of a particular sign. If the signs
in a shopping area—store names, goods on sale, etc.—are scaled entirely to the
pedestrian shopper, they will usually be appropriate. The signs on a highway
should be designed for the fast-moving automobilist. On an expressway, signs
other than traffic signs may be confusing, especially when seen together with
traffic signs. The signs in a busy commercial area that relate to driving
should be designed to be readily seen and to give information quickly and
clearly. Confusion with signs arises when an area has too many conflicting
uses. The solution to these conflicts lies not so much in trying to control the
signs as it does in removing the reasons for their mixture.
A visual survey of urban details
should, therefore, include sign studies.
More broadly, it includes the quality
and conditions of park benches, wastebaskets, streetlamps, pavements, curbs,
trees, fences, doorways, shopwindows, etc.—the street furniture and hardware of
the city.
Pedestrian Areas
A large part of the difficulty in our
cities arises because we have neglected the pedestrian. Walking will always
remain a prime mode of transportation. Some areas of the city depend on it
almost entirely as a means of communication and intermovement. Many new
shopping centers and college campuses are models of design for pedestrian
circulation. Older areas in the city need similar treatment. We must be
careful, however, in concluding that all the trouble comes from the mixture of
pedestrians and cars. Many city streets would be lifeless without cars. The
problem comes when cars prevent the free flow of pedestrians. It is possible to
have both—cars and pedestrians—in busy urban centers if the cars operate at
very low speeds and if through traffic is reduced to the utmost.
A good way to check the quality of
pedestrian movement in a busy area is first of all to examine the sidewalks for
their adequacy— width, paving, condition, protection from rain and hot sun, and
sidewalk outfittings such as benches. Second, one should walk through a
pedestrian area taking several different paths to locate the main points of
interrupted movement, generally speaking the intersections and crossovers. Too
many intersections in city centers are designed to allow a maximum flow of
traffic and to subjugate the pedestrian to long and annoying waiting periods.
An answer to this problem is pedestrian safety islands and reduced-speed
traffic, Pedestrian crossings should be frequent and convenient. A shopping
street which is difficult to cross cuts the pedestrian-shop contact in half.
The ideal answer to this problem is the separation of cars and people onto
different levels, the cars below and the people above. But this is impossible
in most cities. In smaller towns it is possible to make the downtown area a
pedestrian-oriented zone by providing a convenient bypass road for through
traffic and by providing adequate parking garages around the downtown area
itself. The essential approach to this problem lies in regarding a downtown
area, or any center for that matter, as a stopping place and not a place for
through traffic. In outlying areas the same principles of pedestrian flow can
be studied, to examine the pedestrian linkages between neighborhoods and their
centers. Children should not have to cross busy streets, and the centers
themselves should be at the center of a convenient walking as well as
auto-shopping radius.
Vista and Skyline
Every city has a few striking
vistas—of it and from it. Approaching Dallas, Texas, from the west, one sees a
towering cluster of skyscrapers rising from the plains. The approach to Chicago
along Lake Shore Drive is a dramatic urban entrance, as is the approach to New
York City from the West Side Highway, and Salt Lake City through a pass in the
Rockies. These are the major vistas of the city, and they must be protected
from intrusion. From the city, too, there are always a few dramatic outlooking
vistas. Sometimes these vistas are modest, but still of great importance in
characterizing the city. The slot views down the sloping streets of San
Francisco afford fine vistas of the bay. Similar slot views down the side
streets of Richmond, Virginia, afford glimpses of the surrounding countryside
across the river. The views into and out of a city are precious assets. They
are an important part of an urban design plan. Some views of the city are in
need of legal protection, like the shores of the Potomac across from Mount
Vernon. Other views can be complemented by well-poised pieces of architecture,
like the buildings of West Point on the palisades of the Hudson River. An urban
design survey should note the major views of the city and different points
around the city, particularly points of approach. It should also note the major
aspects of vista out of the city from points within. Evaluations should be made
of improvements needed in both types of vista.
A further study can be made of a
city’s skyline. The city’s skyline is a physical representation of its facts of
life. But a skyline is also a potential work of art. An urban skyline is its
collective vista. It is often the single visual phenomenon which embraces the
maximum amount of urban form. Every building that alters the urban skyline
should be studied for its effects on the overall view. Many skylines can be
improved, particularly by adding a small counterpoint tower at an outlying
location. It is interesting to compare the visual effect of a cluster of towers
with a single tower. A prominent single tower must be designed as a chef
d’oeuvre if it is to be admired. It is too much on display to be mediocre.
However, a cluster of towers, like a group of statues, can tolerate less
distinguished design, If a tower is to be built at a prominent outlying
location, it may be helpful to consider double or triple towers rather than a
single shaft. Twins or triplets can be more modestly designed, and their
profile as an ensemble can then be more assertive than the single shaft. On the
other hand, an elegant profile may be easier to achieve with the single shaft.
Another aspect of vista and skyline
is night lighting. Few cities are more dramatic as overall views than when seen
at night. Twilight heightens the experience for it adds the drama of sunset to
the unified view of the three-dimensional forms of the city. Colored beacons
and the shafts of searchlights accent the scene with dots and thrusting lines.
A new tower, particularly if it stands alone, should be studied from this
aspect of appearance. The buildings of central Detroit are interesting examples
of just such studies. The night scene of the city, particularly its lights, is
to a large extent within the control of the public. Every city that is building
urban highways has a fine opportunity to add a ribbon of unifying illumination
to the city’s general appearance. The island of Manhattan is one of the most
interesting cities to study from this point of view.
Manhattan can be seen on its two long
sides and from the south across large expanses of water. It can be seen as a
whole composition of masses and lights. At night the highways that ring the
city are marked out by their evenly spaced and specially hued dots of highway
lighting—ribbons of dotlike lights against a splash of electric stars. Further,
Manhattan’s several suspension bridges now have their catenary cables strung
with lights. On a clear night several bridges can be seen simultaneously. The
random lights, the even ribbons, and the gracefully curved bridge lights are
one of the wondrous urban sights of the world. This illumination theme could well
be used as a model in principle for every city. A visual survey of a city at
night could suggest just when and how new lights could be added to achieve a
similar composition,
Nonphysical Aspects
There are many nonarchitectural
aspects of urban character: the New Year’s Day parade in Philadelphia, the Rose
Bowl parade in Los Angeles, Mardi Gras in New Orleans. These are a very large
part of the image of a city and a large part of its personality. Architects can
do much to improve the appearance and urban quality of cities by recognizing
them and making better provision for them. Every city has a history, linking it
to its origin, and present in the minds of its population. Visible signs of
that history can constitute a major aspect of its appearance. Architectural
provision can be made for public ceremonies and events, In new areas the
inclusion of some visible symbols of the old city’s personality give continuity
and character to the new. Every city has a particular purpose which should be
expressed architecturally. Boston is a center of learning as well as commerce.
New York is a center of culture as well as finance. Miami is a center of
leisure. Pittsburgh is a center of steel production. Detroit is our automobile
manufacturing center.
Problem Areas
As a result of the visual survey, it
is helpful to map the problem areas of a city alone. This map would stand as
the urban design diagnosis of ills. It would show points of conflict between
pedestrians and autotmobiles, areas with little or no sense of orientation,
nondescript or gray areas, ugliness, communities lacking form and definition,
areas with confusing signs, confusing circulation elements, incomplete routes,
marred vistas, etc. As a diagnosis of ills, such a map would be a direct source
of ideas for action programs.
Some Personal Techniques for
Surveying
Anyone who attempts a visual survey
of his city will undoubtedly develop his own technique and, very likely, a
personal vocabulary, In our discussion of this subject we mean primarily to suggest
the many different aspects of form that can be examined. But it is also
important to be able to link all of the separate aspects of form into a chain
of related aspects. One observer, therefore, might want to assemble his
vocabulary of form elements into a coherent whole, such as the following:
Paths, landmarks, nodes, districts, and edges are the skeletal elements of a
city form. On that basic framework stand embellishing characteristics which all
together constitute the personality of a city.
Suppose that we think of urban form
in the following way: A city or town is generally thought of in terms of
size—its population and physical extent. Size is closely linked to shape—the
physical outline in horizontal plan form and vertical profile or contour. Size
and shape are qualified by pattern—the underlying geometry of city form. Size,
shape, and pattern are further modified by density—the intensity of use of land
by people and buildings. Density is determined by urban texture and grain—the
degree of homogeneity or heterogeneity of use by people or buildings.
We can usually identify the parts of
a city by their dominant visible activities. Often these activities are
complementary, yet sometimes they are conflicting. It is important not to
mistake complexity for conflict; complexity is the spice of urban life. The
bustling urban centers are magnets of the city. People are the generators which
require magnets around which to rally. Feeders are the links and paths which
connect the two.
These areas of dominant visible
activity exist in sequence as linked accents. The periodic occurrence of
accents in sequence is rhythm. The disposition in a sequence has, of course,
visible manifestations. Thus, accents in a sequence produce a modulation of
visual intensity—varying degrees of richness of visual experience. Our use of
the various parts of a city depends upon their degree of accessibility. Demands
for accessibility produce channels of flow. Channels of flow vary in intensity,
according to the time of day, week, or season, and thereby establish patterns
of movement. Patterns of movement help define districts and act as links.
Visible activity, road signs, store
signs, building signs, and symbolic objects are messages to us which convey
purpose. They are clues to the organization of urban form.
The visual experience of a city is
enriched by major vistas—views of large portions and major elements of the
city, and of contrasting natural scenery. We are highly conscious of the nature
of land surface (generally thought of as topography). We are aware of going up,
going down, and the quality of the surface upon which we move. Natural
landscape features form important borders or edges in cities.
Buildings are the immobile masses of
a city. Arrangements of buildings form patterns of mass. Arrangements of
buildings also form urban spaces which exist as patterns of channels and
reservoirs.
Entrances to a city can be accented
by portals, the doorways to a city or a district in it. Pauses or relaxations
in an intense area are oases—places inducing repose. They are passive accents
which complement intense activity. Districts in a city are characterized by a
pervading continuity of use, purpose, and appearance, Some districts are
oriented to particular types of people or particular age groups. A fine
distinction can even be made between masculine and feminine districts.
Our knowledge of these visible
phenomena, the presence of visible landmarks, pattern, shape, etc., imparts a
sense of orientation— a sense of where we are and where things are in relation
to us. A sense of orientation is basic to our understanding, familiarity, and
well-being in a city. We are conscious of the age of a city and its parts, the
newness and oldness in buildings and places. We must avoid the danger of equating
oldness with decay, or newness with amenity. In his work, the urban designer
must transcend time and relate all parts of the city to each other. A major
objective of urban design is to relate different kinds of buildings, regardless
of differences in architectural style, age, or use.
Recording the Results
Visual surveys are most readily
recorded as simple maps accompanied by sketches, photographs, and brief notes.
The maps can be base maps of the city, at the scale or scales of the survey.
The sketches, photographs, and notes can be attached to the maps and the whole
study put on display or published as a report, The maps and their notations are
best done in a cartoon style and notations of certain features best indicated
as a graphic symbol.
Routes of movement can be indicated
by arrows, parking garages as a spiral, landmarks as large X’s, vistas as
sector lines, points of conflict in red, “gray areas” in gray, etc. One map
should show the sum total of the general form of the city and its features. The
remaining maps should complement this as a series of detailed aspects of the
city’s form.
A full set of survey maps might
include the following:
1. Topography
2. Microclimate—sun, wind, and storm
directions
3. Shape
4. Patterns, textures, and grains
5. Routes
6. Districts
7. Landmarks and nodes
8. Open spaces
9. Vistas
10. Magnets, generators, and linkages
11. Special activity centers and
overall activity structure
12. Hubs of intense visual experience
13. Strong and weak areas of
orientation
14. Sign areas
15. Points of conflict
16. Historic or special districts
17. Community structure
18. Areas for preservation, moderate
remodeling, and complete overhaul
19. Places needing clarifying design
elements
20. Sketch maps produced by the “man
on the street” to discern the urban features and forms prominent in the
public’s eye.
Each of these maps should be
illustrated by a few salient sketches or photos that show exactly what a map
symbol represents and also a series of pictures which characterize the area.
Conclusion
Music can be described and discussed
with considerable precision and insight because it has a vocabulary and a body
of literature. At present painting also enjoys this advantage. So does
architecture, to an extent. Up to now the complex modern city has lacked a
precise vocabulary for discussing its form and appearance. If we formulate such
a vocabulary we will be able to discuss urban form with clarity,
We will also be able to discuss the
effects of various actions and policies that affect the city in terms of its
buildings, parks, streets, and places. Therefore we will be better able to
discuss its design. While developing this language and engaging in
conversations on urban form, we must avoid overly abstract terms. Unlike the
complexities of modern music or painting, the city is familiar to everyone and
can always be described in simple terms. That may be the best test of any
vocabulary.
Robert Regis
Summary
The Piazza di Spagna and the Scala di
Spagna (Spanish Steps) are among the few and truly unique examples in urban
design where stairs, by themselves, serve as a visual and spatial focal center.
The sequence of space one experiences in this Late Baroque piazza and stairway
(1721–25) by Alessandro Specchi and Francesco dé Santis,
with its 137 steps, is a significant
city space in central Rome. The sketchbook—using visual notation and drawing to
explore formal, spatial relationships, details and activity of urban
places—provides the urban designer a method of observation, documentation and
understanding.
Key words
Rome, sketchbook, Spanish Steps,
visual analysis
--------------