Cách viết đề cương
nghiên cứu khoa học
Nguyễn Văn Tuấn
GS ĐH New South Wales, Sydney
www.udn.vn/app/.../GS_NVTuan_Cachviet_decuong_NCKH.doc
Đối với
những người như tôi, viết đề cương nghiên cứu gần như là một … nghề. Năm nào
cũng phải viết ít nhất 3 đề cương, có khi là đơn xin đề bạt, cũng có khi là đơn
xin tái bổ nhiệm. Viết rất nhiều và thất bại cũng rất nhiều. Thất bại nhiều đến
nổi khó đếm hết! Thất bại gần như là một … qui luật! Nhưng cũng có thành công,
dù số lần thành công ít hơn số lần thất bại. Chính qua những thất bại, tôi mới
học được những bài học đau lòng, và đó là lí do tại sao tôi muốn chia sẻ cùng
các bạn trẻ hơn, hay các bạn chưa có kinh nghiệm (hay có ít kinh nghiệm) về
cách viết đề cương nghiên cứu. Cố nhiên, tôi không dám hứa nếu các bạn tuân
theo những gì tôi hướng dẫn là sẽ thành công, nhưng tôi dám hứa là xác suất
thành công sẽ cao hơn là không làm theo những hướng dẫn ở đây. :-)
Trong cuộc
sống hàng ngày, kể cả công việc chuyên môn, bất cứ ai trong chúng ta thường gặp
những vấn đề đáng tìm hiểu, có khi rất lí tưởng cho nghiên cứu khoa học. Có những
vấn đề không hẳn là phức tạp, nhưng có khi lại rất đơn giản. Thường, những vấn
đề đơn giản là những vấn đề khó nhất, và có thể dẫn đến những khám phá quan trọng.
Tại sao nam giới hay chết sớm hơn nữ giới? Tại sao người dân vùng nông thôn thường
có làn da sậm hơn người dân thành thị? Tại sao phụ nữ Việt Nam thích có làn da trắng trong khi
phụ nữ Âu châu thích làn da bánh ít? Tại sao các nam phẫu thuật viên hay chửi
thề? Tần số chửi thề của phẫu thuật viên có khác nhau giữa các bộ môn? Tại sao
bệnh nhân tử vong nhiều trong hai ngày cuối tuần? Chất lượng cuộc sống của những
bệnh nhân sau khi xạ trị ra sao?
Đó là những
vấn đề tuy đơn giản những đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, tìm câu trả lời, và
trong vài trường hợp, tìm giải pháp. Những câu trả lời có khi đã hình thành từ
cảm nhận cá nhân hoặc lương năng bình dân. Một nhà phẫu thuật, qua kinh nghiệm
lâu năm, có thể tự tin rằng phương pháp điều trị của mình là có hiệu quả. Nhưng
cũng có những câu trả lời xuất hiện một cách bất ngờ. Theo suy luận bình thường,
nếu một người hàng xóm mắc bệnh ung thư và bác sĩ cho biết sẽ sống trong vòng 3
tháng nhưng trong thực tế sống đến 3 năm sau khi dùng một loại thảo dược, thì
người ta sẽ nghĩ ngay đến thảo dược đó là có ích cho điều trị ung thư. Những
kinh nghiệm cá nhân, những phát hiện tình cờ, tuy có thể là chứng cứ nhưng chưa
phải là chứng cứ khoa học, và khó có thể đóng góp vào kho
tàng tri thức y học, bởi vì chưa được hệ thống hoá. Một cách hệ thống hoá vấn đề
là qua nghiên cứu khoa học.
1. Suy
nghĩ như nhà khoa học
Do đó, đứng
trước một vấn đề, một hiện tượng, chúng ta phải tập cách suy nghĩ như một nhà
khoa học. Nhà khoa học suy nghĩ có phần khác với người thường, vì họ ít khi nào
chịu sự chi phối của cảm tính. Một ca bệnh chưa đủ thuyết phục họ về một liệu
pháp điều trị. Có trường hợp nhiều ca bệnh cũng chưa đủ để thuyết phục, bởi vì
họ cần phải so sánh với nhóm không được điều trị (trong khoa học, thường được gọi
là “nhóm chứng” – control group). Ngoài ra, nhà khoa học còn phải phát biểu giả
thuyết (dựa trên câu hỏi) và kiểm định giả thuyết qua thí nghiệm. Trong trường
hợp ung thư và dược thảo, trước khi đi đến kết luận nhà khoa học phải tìm hiểu
cơ chế sinh học của dược thảo, đặt giả thuyết về hiệu quả, và tiến hành nghiên
cứu để thu thập dữ liệu xem có phù hợp với giả thuyết hay không. Nói một cách
ngắn gọn, nhà khoa học suy nghĩ qua 3 bước: đặt câu hỏi, phát biểu giả thuyết, và tiến hành thí nghiệm.
Câu hỏi
nghiên cứu (research
question) là một phát biểu mang tính bất định về một vấn đề. Vì mang tính bất định,
nên nhà khoa học phải tìm hiểu những yếu tố nào dẫn đến sự bất định. Cần phải
phân biệt một câu hỏi nghiên cứu tốt với một câu hỏi dở. Câu hỏi nghiên cứu tốt
phải đáng ứng ít nhất 3 trong 5 tiêu chuẩn mà tôi tạm gọi là FINER.
- F là viết tắt của feasibility, tức tính khả thi. Một câu hỏi nghiên cứu tốt phải khả thi, tức nhà khoa học có kinh nghiệm chuyên môn, có thể tuyển dụng đầy đủ bệnh nhân hay đối tượng nghiên cứu, có phương tiện đo lường và thí nghiệm, v.v.
- I là interesting, tức thú vị. Một câu hỏi nghiên cứu tốt phải thú vị đối với nhà khoa học, xứng đáng để theo đuổi. Có nhiều nhà khoa học bỏ ra cả đời người chỉ theo đuổi một phân tử rất nhỏ.
- N là novelty, tức có cái mới. Làm nghiên cứu là một việc làm sản sinh ra thông tin mới, phương pháp mới, hay ý tưởng mới. Một nghiên cứu chỉ lặp lại y chang những gì người khác đã làm thì không có cái gì mới, và được xếp vào nhóm “me too”.
- E là ethics, tức đạo đức. Một nghiên cứu y khoa phải tôn trọng quyền con người, không làm hại người, phải bảo mật tuyệt đối (không được tiết lộ thông tin cá nhân ra ngoài). Một nghiên cứu y khoa còn phải đáp ứng những tiêu chuẩn về y đức. Nếu không đáp ứng tiêu chuẩn đạo đức / y đức thì dù câu hỏi có thú vị cỡ nào cũng phải bỏ đi!
- R là relevant, tức liên đới. Thật ra, chữ “liên quan” ở đây có nghĩa là có ảnh hưởng. Một câu hỏi nghiên cứu mà nếu tìm được câu trả lời và có thể làm thay đổi chuyên ngành là một câu hỏi quan trọng. “Tác động” ở đây phải hiểu là có tác động tích cực đến thực hành lâm sàng, đến chính sách y tế của Nhà nước, hay có đóng góp một định hướng mới. Chẳng hạn như câu hỏi “Các chương trình truy tầm ung thư vú có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong?” là một câu hỏi tốt vì câu trả lời sẽ làm thay đổi nhận thức của phụ nữ và thay đổi chính sách y tế. Những câu hỏi nghiên cứu, mà nếu có câu trả lời cũng chẳng thay đổi gì cho chuyên ngành hay chẳng đóng góp thêm gì về thông tin thì không đáng theo đuổi.
Giả thuyết đối với nhà khoa học rất khác với câu hỏi nghiên cứu. Giả
thuyết xuất phát từ câu hỏi nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu xuất phát từ quan
sát thực tế. Một câu hỏi nghiên cứu tốt sẽ dẫn đến giả thuyết khoa học
hay. Giả thuyết khoa học là một phát biểu mang tính tiên lượng giữa hai hay nhiều biến. Hai chữ tiên
lượng ở đây rất quan trọng! Một phát biểu như “Có mối liên hệ giữa ung thư vú
và loãng xương” không phải là giả thuyết vì không có tính tiên lượng. Nhưng một
phát biểu như “Bệnh nhân ung thư vú có nguy cơ loãng xương thấp hơn bệnh không
bị ung thư vú” thì được xem là một giả thuyết khoa học (vì có tính tiên lượng).
Cũng nên phân biệt giả thuyết khoa học với giả thuyết thống
kê. Giả thuyết thống kê chỉ là một cách phát biểu giả thuyết khoa học để tiện
cho việc kiểm định thống kê. Nếu giả thuyết khoa học là “bệnh nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡ cao hơn người không bị tiểu đường”,
thì giả thuyết thống kê là “bệnh
nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡ bằng người không bị tiểu đường”. Giả thuyết thống
kê vừa đề cập còn có khi gọi là giả
thuyết vô hiệu (null
hypothesis). Bên cạnh giả thuyết vô hiệu, nhà khoa học còn phát biểu một giả
thuyết đảo (alternative
hypothesis): bệnh nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡ khác với người không bị tiểu đường. Một cách nghiêm túc, không có giả thuyết
vô hiệu thì tất cả phân tích thống kê gần như vô nghĩa (bởi vì phần lớn các
phương pháp thống kê được phát triển lấy giả thuyết vô hiệu làm chuẩn). Một
trong những nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là dùng dữ liệu để bác bỏ giả thuyết vô
hiệu (và bác bỏ giả thuyết vô hiệu là gián tiếp chấp nhận giả thuyết đảo), bởi
vì theo nhà triết học khoa học Karl Popper, chúng ta không thể nào chứng minh
được một giả thuyết khoa học.
Sau khi đã có giả thuyết, bước kế tiếp là làm thí nghiệm (experiment). Thí nghiệm ở đây nên hiểu
một cách rộng hơn, chứ không đơn thuần có nghĩa thí nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial –
RCT) mà theo đó một nhóm bệnh nhân được chia thành hai nhóm nhỏ (nhóm được điều
trị và nhóm chứng không được điều trị) được xem là một thí nghiệm – thí nghiệm
lâm sàng. Một nghiên cứu bệnh chứng cũng là một thí nghiệm. Thí nghiệm là một
bước cực kì quan trọng để thu thập và phân tích dữ liệu, đi đến kết luận liên
quan đến câu hỏi nghiên cứu.
Do đó, có thể nói rằng nghiên cứu là một chu trình khép
kín. Bắt đầu từ câu hỏi nghiên cứu, nhà khoa học phát biểu giả thuyết, rồi tiến
hành thí nghiệm để kiểm định giả thuyết đó. Một công trình nghiên cứu tốt thường
mở ra một định hướng mới, và nhiều câu hỏi nghiên cứu mới. Chẳng hạn như câu hỏi
“Tại sao người nông thôn có làn da sậm hơn người thành thị”, sau khi có câu trả
lời (ví dụ) là do vitamin D, thì nó sẽ mở ra hàng loạt nghiên cứu mới: tại sao
người thành thị hay thiếu vitamin D; yếu tố nào quyết định nồng độ vitamin D
trong máu; vitamin D ảnh hưởng đến bệnh nào; nồng đồ vitamin D tối ưu là bao
nhiêu; v.v. Một công trình nghiên cứu không mở ra một hướng mới là một công
trình không xứng đáng để theo đuổi.
2. Đề cương nghiên cứu và văn phong
Thí nghiệm cần phải có qui trình và kế hoạch. Những qui
trình và kế hoạch này phải được hoạch định (trước khi tiến hành nghiên cứu)
trong một tài liệu mà tiếng Anh gọi là Research
Proposal, và dịch sang tiếng Việt là “Đề cương nghiên cứu”. Tôi muốn hiểu
hai chữ đề cương như sau: “Đề” là đề nghị, đề xuất; và “cương” là cương lĩnh. Đề
cương nghiên cứu, do đó, là một tài liệu mà trong đó nhà khoa học đề nghị cương
lĩnh hay chương trình làm việc. Đây là tài liệu quan trọng nhất trong một công
trình nghiên cứu, vì qua đó mà cơ quan tài trợ có thể xét duyệt cấp kinh phí.
Tôi nghĩ có thể xem đề cương nghiên cứu như một bản vẽ của
kiến trúc sư. Thật vậy, có thể xem nhà khoa học như là một kiến trúc sư. Kiến
trúc sư phác hoạ chi tiết xây dựng một công trình trong bản vẽ. Nhà khoa học
phác hoạ những chi tiết về qui trình làm nghiên cứu để thu thập và phân tích dữ
liệu. Nếu bản vẽ là một tác phẩm của kiến trúc sư, thì chúng ta cũng có thể xem
đề cương nghiên cứu như là một tác
phẩm chữ nghĩa khoa học nhằm
đi tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu.
Đã là tác phẩm chữ nghĩa, thì cách viết đề cương nghiên cứu đóng vai trò rất
quan trọng. Quan trọng là vì người đọc (có thể là nhà tài trợ, hay hội đồng xét
duyệt) dựa vào đó mà quyết định cung cấp tài trợ hay không. Do đó, người viết
(tức nhà khoa học) cần phải suy nghĩ rất cẩn thận, có hệ thống, và sử dụng ngôn
ngữ cho chính xác. Nói thì có lẽ dễ, nhưng thực hành thì không dễ chút nào. Tài
liệu này có mục đích khiêm tốn là chia sẻ cùng các bạn những kinh nghiệm về cách
viết đề cương nghiên cứu y khoa sao cho thuyết phục và nâng cao xác suất được
tài trợ.
Viết đề cương nghiên cứu khác với viết bài báo khoa học.
Trước đây, tôi đã viết một loạt bài về cách viết một bài báo khoa học (có thể
xem ở trang nguyenvantuan.net trong phần “Kĩ năng khác”). Nhưng
phương pháp viết bài báo khoa học không thể áp dụng cho viết đề cương nghiên cứu.
Những khác biệt chính là mục tiêu và thời gian tính. Mục tiêu của viết đề cương
nghiên cứu là thuyết phục nhà tài trợ hay hội đồng xét duyệt
rằng chúng ta có ý tưởng tốt, có cách tiếp cận hay, có phương tiện để thực hiện
nghiên cứu. Mục tiêu của viết bài báo khoa học là để báo cáo những phát hiện rất
cụ thể trong một nghiên cứu và những phát hiện này có ý nghĩa gì. Về thời gian
tính, viết đề cương là phản ảnh về tương lai, còn viết bài báo khoa học là báo
cáo những gì đã làm trong quá khứ. Viết đề cương mang tính hứa hẹn, nhưng hứa hẹn một cách
khoa học (tức có bằng chứng), do đó rất khác với viết báo cáo khoa học thường
mang tính biện minh và biện luận.
Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy viết đề cương nghiên cứu
cung cấp cho mình nhiều cơ hội rất hay. Thứ nhất là cơ hội để sắp xếp ý tưởng
mình một cách có hệ thống, có trước, có sau. Những ý tưởng hỗn độn, khi được mô
tả trên trang giấy sẽ làm cho chúng ta suy nghĩ logic hơn. Thứ hai, viết đề
cương cũng là một cơ hội để cập nhật hoá thông tin, vì chúng ta cần phải tìm hiểu
trong y văn xem các đồng nghiệp khác đã làm gì. Thứ ba, từ đó, viết đề cương
nghiên cứu cũng có nghĩa là tìm đồng nghiệp mới. Nhìn nhận như thế, viết đề
cương có nhiều lợi ích, chứ không phải chỉ là “vẽ vời” theo cách nói mỉa mai của
người ngoài cuộc.
Viết đề cương (hay viết văn nói chung) là một cách suy
nghĩ. Có lẽ chúng ta đều đồng ý rằng viết văn là một phương tiện để chia sẻ
thông tin với những người quan tâm. Người quan tâm có thể là đồng nghiệp của
mình, nhưng cũng có thể là người không cùng chuyên ngành. Nhưng tôi muốn nghĩ rằng
viết văn cũng là một cách thức hoàn thiện ý tưởng, và hiểu theo cách đó, viết
chính là một phương tiện hay một công cụ để suy nghĩ. Suy nghĩ cũng cần phải có
phương tiện, và theo tôi viết xuống những câu chữ do mình lựa chọn chính là một
phương tiện. Có lẽ chính vì thế mà Nhà văn [và cũng là bác sĩ] Verghese từng
nói một câu bất hủ, “I write to understand what I think” (tôi viết để hiểu
những gì tôi suy nghĩ). Tôi rất đồng ý với câu này.
Thế thì câu hỏi đặt ra là tiêu chuẩn gì để đánh giá cách
viết đề cương nghiên cứu là “tốt” hay “dở”. Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy có
5 tiêu chuẩn: trong sáng, đơn
giản, chính xác, khách quan, và cấu
trúc logic.
Trong sáng có nghĩa là tránh những câu văn rườm rà, những từ khó hiểu.
Nếu viết “Nồng độ insulin ở nhóm điều trị cao hơn” thì sẽ không rõ ràng,
vì người đọc không biết cao hơn nhóm nào. Ngay cả cách viết “Nồng độ insulin
ở nhóm điều trị cao hơn nhóm chứng” cũng
có thể nói là chưa đạt, bởi vì câu văn đó hàm ý nói rằng tất cả bệnh nhân trong
nhóm điều trị đều có nồng độ insulin cao hơn nhóm chứng – một tình huống rất
khó xảy ra. Trong thực tế thì “Tính trung bình, nồng độ insulin ở nhóm điều
trị cao hơn nhóm chứng” có lẽ
rõ ràng hơn.
Văn phong khoa học rất khác với thơ. Tôi thường nói đùa
[và hay lấy làm ví dụ] về câu thơ của một tác giả tôi rất mến mộ (Lê Đạt): Tôi tha thẩn giữa chùa Quán Ngữ / Lời chuộc tuổi mình nói thật khai
sinh. Câu đó trích trong
tập thơ Đường Chữ. Đó là một
câu văn rất khó hiểu! Một thi sĩ khác tôi cũng rất ngưỡng mộ là Hoàng Cầm, người
sáng tác thơ một cách siêu thoát. Ông có sáng tác bài Tình Cầm, trong đó có hai câu rất
du dương: Nếu anh còn trẻ như
năm cũ / Quyết đón em về sống với anh. Có
thể nói đó là những câu thơ độc đáo, gieo vần tuyệt vời, âm điệu rất nhạc tính,
nhưng nhà khoa học không thể viết như thế được. Nhà khoa học phải viết văn
trong sáng. Chẳng hạn như nếu nói còn
trẻ thì phải định lượng rõ
ràng bao nhiêu tuổi là trẻ; nếu nói năm
cũ thì phải nói năm nào; nếu
nóivề sống với anh thì phải
nói sống ở đâu. Văn phong khoa học không thể chung chung được. Nhà khoa học
không phải nhà thơ. Nhưng rất tiếc, nhiều khi tôi bắt gặp những câu rất thơ
trong những bài báo khoa học từ đồng nghiệp Việt Nam. Một triết gia Đức từng
phê bình người Á đông rằng chúng ta [người Á đông] hay lẫn lộn giữa thơ và khoa
học!
Trong văn phong khoa học, một câu văn phải có thông tin.
Câu văn không có thông tin là câu văn thừa. Ví dụ tiêu biểu cho câu văn không
có thông tin là [hay thấy trong giới báo chí] “Công trình nghiên cứu có 2 mục
tiêu.” vì đọc xong câu văn người đọc không có bất cứ một nội dung nào cả;
người đọc kì vọng 2 mục tiêu đó là gì và tự hỏi tại sao tác giả không viết ra.
Nhưng nếu viết “Công trình nghiên cứu có 2 mục tiêu: xác định ảnh hưởng của
can thiệp, và xác định yếu tố nguy cơ” thì đó là một câu văn có thông tin.
Thử đọc 2 câu:
Ngoài ba khía cạnh trên, chúng tôi còn phân tích vấn đề dựa
trên lí thuyết văn hoá xã hội.
Ở đây, lại có nhiều khía cạnh khác.
Hai câu văn này có thể thích hợp cho báo chí, nhưng hoàn
toàn thất bại trong khoa học! Nói cách khác, trong văn cảnh khoa học, một câu
văn phải tồn tại một cách riêng lẻ (self-contained), có thông tin và có ý; đọc
câu văn như thế người đọc không hẳn cần phải đọc câu trước.
Đơn giản có
nghĩa là dùng từ ngữ dễ hiểu,
chính xác, và câu văn ngắn. Trong tiếng Việt có những câu chữ rất dài để mô tả
một ý, nhưng nếu đọc kĩ có thể viết ngắn gọn hơn. Thay vì dùng những danh từ gốc
Hán, chúng ta nên cố gắng dùng những danh từ gốc Việt.
Chính xác là định lượng hoá nội dung thông tin. Tránh những từ ngữ
mù mờ. Tiếng Việt ta (và tiếng Anh cũng thế) có những chữ như khoảng, xấp xỉ, độ, gần, đa số, phần lớn, nói chung,
v.v. không mang tính định lượng
cao. Khoa học là cân đo đong đếm, nên cố gắng viết một cách định lượng. Khó biết bao nhiêu là đa số, 80% hay 90% là đa số?
Thay vì viết “Đa số bệnh nhân …”, chúng ta nên viết (nếu có số liệu) “80% bệnh
nhân …” thì sẽ rõ ràng hơn. Trong khoa học không có chuyện “nói chung”. Viết đến
đây tôi nhớ có lần ông Nguyễn Bá Thanh chất vấn một giám đốc sở giao thông vận
tải thuộc Thành phố Đà Nẵng, và ông giám đốc trả lời “Thưa anh, nói chung là ….”, ông Thanh ngắt lời ngay: Nói riêng, chứ không nói chung. Hội trường cười xoà. Ông Nguyễn Bá
Thanh đã áp dụng tiêu chuẩn khoa học vậy.
Khách
quan là cách
viết phi cảm tính, và nhất là không “nhét chữ vào miệng người đọc”. Thay vì viết “Sự khác biệtrất có ý nghĩa lâm sàng”, thì nên viết “Sự
khác biệt có ý nghĩa lâm sàng” rồi trích dẫn con số hay dữ liệu để người đọc
phán xét. Khách quan cũng có nghĩa là tránh giả định (kiểu như Ai cũng biết rằng …). Tuân theo nguyên tắc khách quan
còn có nghĩa là tránh những câu văn không có chứng cứ.
Cấu trúc logic là phải cố gắng sắp xếp ý tưởng một cách có trước có sau,
khúc chiết. Có một thống kê [tôi không còn giữ nguồn] cho rằng 85% những hiểu lầm
là do cấu trúc đoạn văn, chỉ có 15% hiểu lầm là do nội dung. Do đó, có lẽ đây
là tiêu chuẩn quan trọng nhất trong cách viết đề cương. Bất cứ khái niệm gì mới
cần phải có giải thích trước đó. Nếu một đoạn văn xuất hiện cụm từ “chất lượng
cuộc sống” mà không được đề cập đến trong các đoạn văn trước là một cách viết rất
… dở (thiếu tính khúc chiết).
Cấu trúc câu văn và đoạn văn để nhấn mạnh một chủ đề.
Chúng ta thử đọc 4 câu văn sau đây:
- Mặc dù thuốc có hiệu quả cao, nhưng cũng gây tác hại đáng kể.
- Mặc dù thuốc gây tác hại đáng kể, nhưng có hiệu quả cao.
- Thuốc có tác hại đáng kể, nhưng rất hiệu quả.
- Thuốc có hiệu quả cao, nhưng gây tác hại đáng kể
Cái khác biệt chính giữa các câu văn có lẽ không phải nội
dung, mà là vị trí nhấn mạnh ý tưởng. Câu hỏi đặt ra là trong một câu văn, cần
nhấn mạnh phần nào: phần đầu, phần giữa, hay phần cuối? Các chuyên gia về viết
văn khuyến cáo rằng nên dùng phần đầu để nhấn mạnh điểm chính yếu. (Cũng có
chuyên gia đề nghị nên dùng phần cuối câu văn để nhấn mạnh). Nên mở đầu câu văn
với một từ khoá, nếu chúng ta muốn người đọc chú ý đến chủ đề đó. Trong câu loãng xương là một vấn đề y tế quan
trọng, ý tôi nhấn mạnh đến loãng xương. Tuy nhiên, nếu tôi viếtMột trong
những vấn đề y tế quan trọng nhất hiện nay là loãng xương, thì cũng nói lên
cái ý đó, nhưng có lẽ người đọc sẽ hiểu rằng tôi đang nhấn mạnh đến khía cạnh y
tế hơn là loãng xương.
Vị trí nhấn mạnh và cách dùng có khi làm cho người đọc hiểu
khác. Trong một cuốn sách về cách soạn câu hỏi trong nghiên cứu khoa học, tác
giả kể chuyện [vui] về 2 thầy tu, một người tu dòng Đa Minh (Dominican) và một
người tu dòng Tên (Jesuit), thảo luận xung quanh vấn đề tội và hút thuốc lá
trong khi cầu nguyện. Sau một lúc thảo luận hai người bất đồng ý kiến, và mỗi
người đi hỏi bề trên của mình. Tuần thứ hai, họ gặp lại, và có cuộc đối thoại
như sau:
Vị tu sĩ dòng Đa Minh hỏi vị tu sĩ dòng Tên: Thế bề trên của anh nói gì?
Vị tu sĩ dòng Tên: Ngài
nói ok.
Tu sĩ dòng Đa Minh: Vui
nhỉ! Bề trên của tôi nói rằng đó là một tội.
Tu sĩ dòng Tên: Thế
anh hỏi bề trên của anh như thế nào?
Tu sĩ dòng Đa Minh: Tôi
hỏi ngài rằng hút thuốc lá
trong khi cầu nguyện có ok
không?
Tu sĩ dòng Tên ồ lên rồi nói: Ah, còn tôi hỏi ngài rằng cầu nguyện trong khi hút thuốc lá có ok không.
Đó là một bài học đáng chú ý về cách đặt chữ vào vị trí
thích hợp. Chỉ cần thay đổi thứ tự của chữ là có thể thay đổi ý nghĩa của câu
văn, và làm cho người đọc có thể hiểu khác. Trong viết văn khoa học, tác giả
không nên để cho người đọc hiểu hai nghĩa!
Ngoài ra, nên tránh cách viết “đánh trống bỏ dùi”. Đó là
cách viết tuyên bố một chủ đề, nhưng những câu sau đó lại nói về chủ đề khác.
Thử đọc đoạn văn:
Gãy cổ xương đùi là hậu quả hay gặp đứng hàng thứ 3 của
loãng xương, bệnh có tỉ lệ tử vong và tàn phế cao, chất lượng sống của người bệnh
giảm đáng kể ngay cả khi đã được điều trị đứng đắn. Bệnh thường gặp ở người cao
tuổi với tỉ lệ nữ:nam là 3:1.
Câu đầu của đoạn văn trích dẫn trên có 3 ý chính: sự phổ
biến, hệ quả, và điều trị. Đọc xong câu văn đó, người đọc kì vọng tác giả sẽ
“chứng minh” ba ý đó bằng dữ liệu ra sao. Nhưng câu thứ hai thì tác giả không
cung cấp thêm thông tin để bổ nghĩa cho câu đầu, mà chuyển sang một ý khác. Đối
với tác giả có kinh nghiệm, đoạn văn trên chưa đạt. Đó là chưa nói đến cách
dùng chữ và ý nghĩa còn khá mù mờ (ví dụ: “đứng hàng thứ 3 của loãng xương” có
nghĩa là gì). Trong văn phong khoa học, mỗi câu văn chỉ nói lên 1 ý mà thôi;
tham vọng quá sẽ không chuyển tải hết ý nghĩa.
4. Nội
dung một đề cương nghiên cứu
Một đề
cương nghiên cứu bao gồm những gì? Trả lời câu hỏi này còn tuỳ thuộc vào “văn
hoá” và qui định địa phương. Ở Việt Nam, những đề cương nghiên cứu thường
có những đề mục sau đây:
- Mục tiêu của đề tài;
- Tổng quan tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài ;
- Nội dung nghiên cứu;
- Phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề;
- Hợp tác quốc tế (nếu có) ;
- Tiến độ thực hiện;
- Dạng kết quả dự kiến của đề tài;
- Yêu cầu khoa học đối với những sản phẩm dự kiến tạo ra;
- Kế hoạch triển khai;
- Lợi ích mang lại và tác động của kết quả nghiên cứu;
- Các tổ chức tham gia nghiên cứu; và
- Kinh phí.
Những đề
mục của một đề cương nghiên cứu trên đây không có vấn đề gì, nhưng cách tổ chức
và sắp xếp thông tin thì hơi khác so với nước ngoài. Những đề mục như các tổ chức
tham gia nghiên cứu, kinh phí là vấn đề hành chính, đáng lẽ phải trình bày
trong một tài liệu riêng. Ở nước ngoài (cụ thể là Úc, Anh, Đức, Thái Lan, Mĩ,
v.v., những nơi mà tôi có kinh nghiệm) thì nội dung một đề cương nghiên cứu thường
đơn giản hơn Việt Nam.
Ở những nước đó, một đề cương nghiên cứu bao gồm những phần sau đây:
- Tóm lược (synopsis): giống như một tóm tắt cho một dự án nghiên cứu. Thường thường chỉ 1-2 trang giấy;
- Mục tiêu cụ thể (specific aims);
- Bối cảnh và tầm quan trọng (background & significance);
- Kết quả nghiên cứu sơ khởi (preliminary results);
- Kế hoạch nghiên cứu và phương pháp (research design and methods); và
- Tài liệu tham khảo.
Tuy những
đề mục của đề cương Việt Nam
có vẻ hơi nhiều, nhưng số trang thường chỉ dao động trong khoảng 10 đến 20
trang. Ở nước ngoài, như NIH (Viện Y tế của Mĩ chuyên cấp tài trợ cho nghiên cứu
y sinh học – và cũng là một trung tâm nghiên cứu) thì có qui định số trang rất
rõ ràng. Một đề cương của NIH tối đa là 30 trang (hiện nay thì có thay đổi và
giảm xuống còn 20 trang?) Tôi có làm một so sánh giữa một đề cương tiêu biểu của
VN và của NIH thì thấy như sau:
So sánh số trang của một đề cương VN và NIH
Đề mục
|
Việt Nam
|
Mĩ
(NIH)
|
Tổng
quan tài liệu
|
10
|
2
|
Mục tiêu
|
1
|
1
|
Kết quả
sơ khởi
|
0
|
6-8
|
Phương
pháp
|
5
|
10-20
|
Nói cách
khác, đề cương nghiên cứu của VN viết dài về bối cảnh và tổng quan tài liệu,
nhưng rất ngắn về phương pháp. Ngược lại, ở nước ngoài (tiêu biểu là NIH của
Mĩ), một đề cương nghiên cứu chủ yếu là phần phương pháp (rất dài) nhưng phần tổng
quan tài liệu thì ngắn. Rất nhiều đề cương nghiên cứu từ VN mà tôi đọc qua,
trong phần tổng quan tài liệu, tác giả viết dài nhưng chẳng liên quan gì đến chủ
đề và mục tiêu nghiên cứu! Hầu như đề cương nghiên cứu y khoa nào cũng viết
theo một công thức, trong đó có cả phác đồ điều trị, những định nghĩa rất căn bản
về bệnh, những yếu tố nguy cơ (mà có lẽ ai trong ngành cũng biết). Có khi đề
cương nghiên cứu tìm hiểu tỉ lệ mắc bệnh, nhưng tác giả phải điểm qua một cách
khá dài dòng về phương pháp điều trị! Phần lớn những thông tin này thật ra là
tác giả dịch từ sách giáo khoa, hoặc dịch từ những bài tổng quan trên các tập
san ở nước ngoài (và không buồn sửa biểu đồ tiếng Anh hay ghi nguồn!) chứ tác
giả cũng chưa hẳn am hiểu.
Một điểm
khác biệt đáng chú ý là đề cương nghiên cứu ở nước ngoài phải có phần “Kết quả
sơ khởi”, còn ở Việt Nam
thì không có hoặc không yêu cầu. Ở Úc và Mĩ, một đề cương mà không có kết quả
sơ khởi (hay những nghiên cứu trước đây cùng chủ đề mà nhà khoa học đã làm) thì
không bao giờ được qua vòng đầu xét duyệt, rất rất khó có khả năng được tài trợ.
Trong các phần sau đây, tôi sẽ trình bày cách viết 4 phần quan trọng nhất: mục
tiêu, bối cảnh, nghiên cứu sơ khởi, và phương pháp nghiên cứu. Tôi sẽ cố gắng
đưa vài ví dụ cụ thể từ những đề cương trước đây của tôi và của các đồng nghiệp
khác. Vì bài này cũng nhắm đến các bạn nghiên cứu sinh đang hay sắp đi học nước
ngoài, nên tôi cũng trình bày vài ví dụ bằng tiếng Anh để các bạn có thể tham
khảo.
4.1 Phần
mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu
nghiên cứu là phần quan trọng của một đề cương nghiên cứu, vì đó là “bộ mặt” mà
người đọc sẽ nhìn qua. Khi người đọc thấy mục tiêu nghiên cứu có cái gì mới hay
thú vị thì họ sẽ đọc tiếp; nếu không, họ có thể xếp lại đề cương và thế là tác
giả đã thất bại. Do đó, có thể xem phần mục tiêu nghiên cứu như là một cái test
cho người đọc. Chỉ khi nào cái test này được qua thì tác giả mới thành công một
phần trong việc thuyết phục người đọc.
Phần mục
tiêu nghiên cứu nên được cấu trúc 3 phần như sau:
- Một đoạn văn tổng quát về vấn đề chung;
- Phát biểu về mục tiêu chung (tiếng Anh gọi là goal);
- Phát biểu về mục tiêu chuyên biệt (specific aims), và mỗi mục tiêu nên kèm theo một giả thuyết.
Đoạn văn
tổng quát phải nói được vấn đề
lớn mà nhà nghiên cứu quan
tâm. Đó là một đoạn văn mang tính holistic,hay
bối cảnh nghiên cứu mà đề cương này sẽ đóng góp một phần tri thức.
Mục tiêu
chung hay mục tiêu tổng quát là mục tiêu lâu dài mà nhà nghiên cứu muốn đạt được. Có thể
nghiên cứu hiện nay chưa đạt được, nhưng sẽ đóng góp một phần trong định hướng
giải quyết vấn đề về lâu về dài. Trong bóng đá, mục tiêu tối hậu và tổng quát
là phá lưới; tương tự, trong nghiên cứu khoa học, mục tiêu tổng quát là nhắm đến
giải quyết một vấn đề chung cho chuyên ngành.
Mục tiêu
chuyên biệt là những tâm điểm cụ thể. Cụ thể hiểu theo nghĩa có thế đo lường được,
có thể kiểm định được. Người viết đề cương kinh nghiệm thường viết mỗi mục tiêu
chuyên biệt kèm theo một giả thuyết. Thỉnh thoảng, nếu có “đất”, nhà nghiên cứu
nên kèm theo những kết quả dự kiến cho từng mục tiêu. Thông thường chỉ cần 2-3
mục tiêu chuyên biệt là đủ. Nhiều mục tiêu quá sẽ khó thực hiện; ít quá sẽ
không đáp ứng tiêu chuẩn của một dự án nghiên cứu khoa học.
Trong thực
tế, tôi đã từng thấy nhiều đề cương thất bại (kể cả của chính tôi) vì cách phát
biểu mục tiêu chưa đạt. Những sai lầm phổ biến trong cách viết mục tiêu chuyên
biệt bao gồm:
- Mục tiêu phi thực tế, tức thiếu tính khả thi;
- Mục tiêu không có lí do chính đáng (giống như từ “trên trời rơi xuống”);
- Mục tiêu mang tính quá mô tả (như tìm hiểu bao nhiêu nam và nữ có hội chứng chuyển hoá);
- Mục tiêu quá phức tạp, mà đọc lên người ta không hiểu tác giả muốn làm gì;
- Mục tiêu quá phụ thuộc lẫn nhau (sẽ bàn dưới đây).
Ví dụ 1: Đây là
trích dẫn đề cương nghiên cứu về loãng xương của một đồng nghiệp và có sự đồng
ý của tác giả.
[Đoạn
văn tổng quát để “dìu dắt” độc giả rằng đây là vấn đề quan trọng]: Loãng
xương là một bệnh mà lực của xương bị suy giảm, chất lượng xương xuống cấp, và
hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương. Hệ quả của loãng xương là gãy xương. Chẩn
đoán loãng xương dựa vào đo lường mật độ xương. Tuy nhiên, ở Việt Nam
chưa có giá trị tham chiếu cho việc chẩn đoán loãng xương.
[Mục
tiêu tổng quát đáp ứng vấn đề chung]: Mục tiêu lâu dài của nghiên cứu này
là phát triển tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương cho người Việt (nam và nữ) và
xây dựng mô hình tiên lượng gãy xương. Hoàn thành mục tiêu này sẽ giúp cho việc
chẩn đoán loãng xương chính xác hơn, và nhận dạng những cá nhân có nguy cơ gãy
xương cao để can thiệp sớm và giảm qui mô loãng xương trong cộng đồng.
[Mục
tiêu chuyên biệt] Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi đề nghị theo đuổi các
mục tiêu cụ thể như sau:
- Mục tiêu 1: Xây dựng giá trị tham chiếu mật độ xương đùi và xương cột sống ở nam và nữ; và qua đó, xác định chỉ số T cho chẩn đoán loãng xương ở người Việt.
- Giả thuyết 1: Mật độ xương ở người Việt thấp hơn mật độ xương ở người Âu Mĩ; do đó, chỉ số T của người Việt cũng khác với chỉ số T của Tổ chức Y tế Thế giới.
- Kết quả kì vọng: Giá trị tham chiếu về mật độ xương (trung bình, độ lệch chuẩn, chỉ số T) có thể sử dụng cho việc chẩn đoán loãng xương ở nam và nữ Việt Nam.
- Mục tiêu 2: Xác định tỉ lệ lưu hành loãng xương và gãy xương ở nam và nữ;
- Giả thuyết 2: Nữ giới có nguy cơ loãng xương và gãy xương cao hơn nam giới, nhưng độ khác biệt sẽ giảm dần trong độ tuổi trên 70.
- Kết quả kì vọng: Kết quả là tần số loãng xương và gãy xương theo giới và độ tuổi. Những kết quả này sẽ cung cấp chứng cứ về qui mô loãng xương và gãy xương ở người cao tuổi và sau mãn kinh (nữ).
- Mục tiêu 3: Xác định yếu tố nguy cơ liên quan đến loãng xương và gãy xương, kể cả các markers chu chuyển xương, và qua đó phát triển mô hình tiên lượng loãng xương và gãy xương.
- Giả thuyết 3: Marker chu chuyển xương tăng theo độ tuổi, và chu chuyển xương cao tương quan với sự suy giảm mật độ xương ở nam và nữ.
- Kết quả kì vọng: Giá trị tham chiếu về marker chu chuyển xương, và mô hình tiên lượng gãy xương cho người Việt. Với mô hình này, các bác sĩ có thể ước tính nguy cơ gãy xương ngay cả trong điều kiện không có máy DXA.
Ví dụ 2: Trong
ví dụ này, tác giả viết phần mục tiêu rất “bài bản”.
[Mở đầu
là vấn đề chung]. Exposure to pathogenic microbial lipids, like
lipopolysaccharide (LPS), triggers a complex and coordinated protective
response by the immune system. A growing body of evidence indicates that
triglyceride-rich lipoproteins and apolipoprotein E (apoE) play an integral
role in host defense against bacterial infection. Yet, how these non-
traditional elements of the immune system contribute to host immunocompetence
is unclear. Published data indicate that apoE is protective against bacterial
infection and injury. Accordingly, infusion of apoE has been shown to decrease
LPS-induced morbidity and mortality in rodents. [2, 3] Also, apoE-deficient
mice have an increased susceptibility to lethal infection when injected with
live bacteria. [4, 5] But, unexpectedly, our laboratory has recently discovered
that infusion of apoE increased rather than decreased mortality after
cecal ligation and puncture, an in
vivo model of polymicrobial
sepsis. [1] We believe that this discordant observation highlights a novel
activity for apoE in regulating the host response to pathogenic microbial lipid
antigens through activation of thymus-derived lymphocytes (T cells).
Consequently, uncovering the role that triglyceride-rich lipoproteins, apoE and
T cells play in the mammalian response to infection simultaneously assigns
important new biological functions to plasma lipoproteins, further blurs the
boundary separating innate and adaptive immunity, and provides unique insights
into the host response to infection that could yield innovative therapies for
sepsis. [dùng gạch dòng để nhấn mạnh mục tiêu chung] This proposal will investigate how
apoE and natural killer T (NKT) cells, a sub-population of T lymphocytes,
contribute to the host response to severe sepsis following cecal ligation and
puncture in mice. Furthermore, we will test the hypothesis that modifying the
expression or activity of apoE can protect against sepsis.
[Phát
biểu giả thuyết chung] Our working hypothesis that triglyceride-rich
lipoproteins are integral components of the immune system is supported by the
following observations. First, the synthesis and secretion of triglyceride-rich
lipoproteins is dramatically increased during clinically significant
infections, an observation termed “lipemia of sepsis.” Second,
triglyceride-rich lipoproteins bind various microbial lipids and thus protect
against shock and death in rodent models of sepsis. [6-9] Third,
triglyceride-rich lipoproteins clear LPS from the circulation and deliver it to
the liver [7, 10], where lipoprotein-LPS complexes subsequently modulate the
hepatic immune response to infection. [11-14] And, fourth, apoE has recently
been shown to bind and deliver microbial lipids to antigen-presenting cells, a
critical step in activating NKT cells and the immune system.
[Phát
biểu giả thuyết chuyên biệt] The
specific hypothesis driving the proposed research is that apoE, a key
constituent of triglyceride- rich lipoproteins, regulates the host response to
severe infection through its effects on NKT cell activation and cytokine
production. By examining the effect
of apoE on an in vivo model of polymicrobial sepsis in
mice, we aim to uncover the regulatory impact of apoE on the immune response to
infection.Our long term goal is
to identify how plasma lipoproteins contribute to host immunocompetence and
apply this knowledge to the development of novel and effective treatments for
severe bacterial infections.
[Mục
tiêu chuyên biệt, dùng tô đậm để nhấn mạnh và gây chú ý. Trong mỗi mục tiêu,
tác giả chỉ ra họ sẽ có kết quả gì] The specific aims of the proposal are
therefore:
1. To
demonstrate that serum apolipoprotein E (apoE) concentrations correlate with
morbidity and mortality in a murine model of polymicrobial sepsis.
A. show
that apoE increases mortality following cecal ligation and puncture (CLP)
sepsis in mice in a dose-dependent manner;
B. show
that apoE increases CLP-induced morbidity via changes in Th1 cytokine
secretion, liver injury and bacterial clearance;
2. To
demonstrate that apoE promotes the activation of natural killer T (NKT) cells
during CLP-induced sepsis.
A.
delineate the effect of apoE on NKT cell frequency, proliferation, cytokine
expression and cytotoxic effector functions in the liver, spleen and thymus
following CLP in mice;
B. show
that apoE-mediated immune regulation during sepsis is dependent on NKT cell
activation using
immunodeficient
mice;
3. To
test the hypothesis that inhibition of apoE activity protects against the
morbidity and mortality of sepsis.
A. show
that the biochemical, immunologic or genetic inhibition of apoE activity protects
against sepsis;
B.
examine the effect of modifying apoE activity during the early versus late
phase of sepsis.
Ví dụ 3: Đây là
một đề cương nghiên cứu lâm sàng ở Mĩ. Tác giả có cách viết cô đọng hơn. Mở đầu,
tác giả mô tả một cách ngắn gọn về nội dung của nghiên cứu. Sau đó, tác giả
phát biểu mục tiêu chính (primary aim) và mục tiêu phụ (secondary aim).
[Mở đầu,
mô tả ngắn gọn về công trình IRIS và giả thuyết] The Insulin Resistance
Intervention after Stroke Trial (IRIS) is a randomized,
double-blind, placebo-controlled trial that
will test the hypothesis that
reducing insulin resistance and its sequelae with thiazolidinedione therapy
will prevent stroke and myocardial infarctionamong patients with a
recent ischemic stroke. Eligible subjects are men and women over 44 years
of age without diabetes mellitis who have insulin resistance and a non-
disabling ischemic stroke. During 3 years of recruitment, 3136 patients will be
randomly assigned to pioglitazone, a thiazolidinectone, or placebo.
[Mục
tiêu chuyên biệt] The specific
aims are as follows. 1. Primary Aim. To determine if
pioglitazone, compared to placebo, will reduce the overall risk for fatal or non-fatal
stroke or fatal or non-fatal MI among
non-diabetic men and women over age 44 years with insulin resistance and a
recent ischemic stroke.
Among
diabetics with insulin resistance, we hypothesize that pioglitazone will reduce
the occurrence of any primary endpoint (fatal or non-fatal stroke or MI) within
four years from 27% to 22%. The
basis of this hypothesis is
research showing... (details
about studies associating insulin resistance with increased risk for stroke,
MI, etc.)...Bythese and other mechanisms, we hypothesize that pioglitazone
will protect patients with ischemic stroke and insulin resistance against
recurrent vascular events.
Trong
các ví dụ trên đây, dễ dàng thấy rằng các mục tiêu chuyên biệt tuy nhắm đến một
mục tiêu tổng quát, nhưng không lệ thuộc vào nhau. Đây là một chiến lược trong
việc soạn đề cương nghiên cứu. Nếu mục tiêu 2 tuỳ thuộc vào sự thành bại của mục
tiêu 1, và mục tiêu 3 phụ thuộc vào kết quả của mục tiêu 2, thì đề án sẽ rất …
nguy hiểm. Nguy hiểm là vì nếu mục tiêu trước thất bại, thì tất cả các mục tiêu
khác đều không thể thành hiện thực, và do đó, công trình nghiên cứu sẽ không khả
thi. Bài học ở đây là cần phải thiết kế nghiên cứu sau cho các mục tiêu chuyên
biệt ít phụ thuộc vào nhau.
4.2 Phần
bối cảnh và tầm quan trọng
Phần bối
cảnh và tầm quan trọng, như tên gọi, có chức năng “dàn dựng sân khấu” cho công
trình nghiên cứu. Không chỉ dàn dựng, mà còn phải nói lên được tầm quan trọng của
công trình nghiên cứu. Không ai muốn đầu tư vào những công trình nghiên cứu
không gây ảnh hưởng hay tác động tích cực. Có 2 phần chính là bối cảnh
(background) và tầm quan trọng (significance):
Trong phần bối cảnh, tác giả cần phải viết
theo phong cách kể chuyện. Nhưng kể chuyện một cách khoa học, sao cho đồng nghiệp
không cùng chuyên ngành vẫn có thể hiểu được vấn đề. Mỗi một mục tiêu chuyên biệt
trong phần đầu cần phải được lí giải trong phần bối cảnh. Phải viết và thuyết
phục người đọc sẽ đọc tiếp, và muốn đạt mục đích đó, tác giả cần phải viết theo
công thức chung:
Cái gì đã
biết --> cái gì chưa biết --> câu hỏi
Known
--> unknown --> question
Nói cách
khác, tác giả phải điểm qua những nghiên cứu trước (đã biết), và chỉ ra cho được
khoảng trống tri thức (chưa biết), để đặt thành câu hỏi cho nghiên cứu. Ví dụ
chúng ta đã biết tình trạng thiếu vitamin D ở các tỉnh miền Nam, nhưng vì miền
Bắc có thời tiết khí hậu khác và chưa ai biết tần số thiếu vitamin D ngoài Bắc,
nên câu hỏi là tỉ lệ thiếu hụt vitamin D ở cư dân phía Bắc là bao nhiêu.
Về cách
viết, không chỉ đơn giản liệt kê những nghiên cứu trước, mà phải dùng “phương
pháp 4C”. Phương pháp này viết tắt từ 4 động từ:
- Compare – so sánh: tác giả cần phải so sánh những thông tin từ những nghiên cứu trước;
- Contrast – đối chiếu: sau đó đối chiếu và giải thích tại sao có sự khác biệt;
- Cite – trích dẫn: điều bắt buộc là nếu dùng dữ liệu của đồng nghiệp thì phải trích dẫn; và
- Critique – phê bình: “Phê bình” ở đây có nghĩa là phê bình một cách kính trọng, chứ không mang tính đánh đổ đồng nghiệp. Cách viết hay nhất là thay vì phê phán, tác giả có thể trình bày một cách hiểu, cách diễn giải khác để xem như là một cách đóng góp vào y văn.
Trong phần tầm quan trọng (significance),
tác giả cần phải “giải trình” rằng công trình nghiên cứu sẽ có tác động đến:
- Chuyên ngành;
- Chính sách y tế hay thực hành lâm sàng;
- Phương pháp mới; và
- Tri thức sẽ rút ra được từ công trình nghiên cứu.
Phần tầm
quan trọng có khi phải dùng đến kĩ thuật “pitch” (lên giọng). Nói cách khác, cần
viết sao cho người khác có thể trích dẫn một câu từ đề cương. Chẳng hạn như nếu
là nghiên cứu về di truyền, tôi có thể viết
“The
studies in this proposal will provide a basis for understanding allelic
heterogeneity influencing clinical endpoints, ultimately impacting on disease
development” (những nghiên cứu mô tả trong đề cương này sẽ cung cấp nền tảng để
hiểu biết về sự đa dạng alen có ảnh hưởng đến kết cục lâm sàng, và sau cùng là
tác động đến sự tiến triển của bệnh).
Một câu
như thế đối với vài đồng nghiệp ở Việt Nam sẽ gọi là “nổ”, nhưng ở nước ngoài
thì hoàn toàn có thể chấp nhận được. Vấn đề còn tuỳ thuộc vào vị trí của tác giả
và uy tín trong chuyên ngành. Nghiên cứu sinh có lẽ không nên viết khiêm tốn
hơn, nhưng với người đã có “tên tuổi” thì một câu pitch như thế hoàn toàn bình
thường. Nên nhớ rằng viết đề
cương là một cách bán ý tưởng, nên tác giả cần phải thuyết phục tầm
quan trọng của nghiên cứu.
Ví dụ 4: Trong đề
cương cứu dưới đây, tác giả muốn thuyết phục người đọc về tầm quan trọng của
công trình nghiên cứu:
Loãng xương và gãy xương là một vấn đề y tế cộng
đồng lớn ở nước ta, vì hàng năm có khoảng 200.000 người gãy xương, dẫn đến giảm
tuổi thọ và hạn chế lao động. Mật độ xương là một chỉ số lâm sàng quan trọng vì
MĐX có thể tiên lượng nguy cơ gãy xương cho một cá nhân. Vì thế, MĐX còn được sử
dụng để chẩn đoán loãng xương.
Công trình nghiên cứu này có mục tiêu xây dựng
giá trị tham chiếu MĐX cho phụ nữ và đàn ông Việt Nam. Với giá trị tham chiếu này, việc
chẩn đoán loãng xương ở người Việt sẽ chính xác hơn và qua đó chúng ta có thể
biết được qui mô loãng xương ở nước ta.
Do đó, công trình
nghiên cứu mang tính cấp thiết, vì sự hiện diện của máy DXA nhiều ở nước ta
nhưng chưa có giá trị tham chiếu cho người Việt. Vì thế, kết quả nghiên cứu có
giá trị thực tiễn, có thể áp dụng ngay cho việc chẩn đoán loãng xương. Ý nghĩa
lý luận của công trình nghiên cứu là cung cấp những thông tin khoa học cho việc
hoạch định các chiến lược phòng chống bệnh loãng xương ở qui mô cộng đồng.
Ví dụ 5: Trong đề
cương dưới đây, tác giả viết ngắn gọn về bối cảnh và tầm quan trọng nghiên cứu,
bằng cách dùng các tiêu đề nhỏ để nhấn mạnh từng điểm:
Why Study Square Cell Disease in the Kidney?
Renal dysfunction commonly complicates square
cell disease and is a major cause of morbidity and mortality. Acute Renal
Syndrome is the leading cause of death in square cell disease and commonly
leads to acute renal failure (58), while chronic uremia, filtration insufficiency,
and renal vascular disease occur in 20-60% of adults with square cell disease
(46, 54). Despite its clinical importance, the kidney has rarely been the focus
of basic research in square cell disease. Current understanding of square cell
pathophysiology derives from studies performed in other organs or in vitro. Because mechanisms of
vaso-occlusion and inflammation in the kidney are likely to be different from
those in other organs, there is a critical need for basic research on square
cell disease that focuses on the
kidney.
Physiological Determinants of
Vaso-occlusion in the Kidney
Research on renal vaso-occlusion is limited
to two studies that suggest severe medullary hypertonia causes sequestration of
SQ RBCs in the kidney (3, 17). These studies did not adequately assess effects
of modest tubular hypertonia and no study has evaluated the importance of mixed
arterial hypertonia or inflammation to renal vaso-occlusion. InSpecific Aim
1, we adapt the isolated rat
kidney model used in these original studies (3, 17) to determine effects of
tubular hypertonia, and mixed arteriolar hypertonia and renal inflammation on
kidney micro vaso-occlusion...etc.
Summary and Clinical Significance
Studies performed in
vitro and in other organs have given important insights into the
pathophysiology of square cell disease, but have not yet defined the important
pathophysiology in the kidney. The studies we propose will attack the problem
directly using sensitive and specific techniques. These studies will lay the
experimental foundation for understanding square cell disease crises in the
kidney. The importance of these studies to the affected population cannot be
exaggerated.
4.3 Phần
nghiên cứu sơ khởi
Đề cương
nghiên cứu ở Việt Nam
thường không có phần này! Nhưng đối với các cơ quan tài trợ nghiên cứu khoa học
nước ngoài thì đây là phần không thể thiếu được. Tuy nói là “nghiên cứu sơ khởi”,
nhưng trong thực tế thì những nghiên cứu như thế đã công bố trên các tập san quốc
tế. Đây là những nghiên cứu làm nền tảng để tác giả làm cơ sở cho câu hỏi
nghiên cứu và phát biểu giả thuyết.
Phần kết
quả sơ khởi còn có mục đích quan trọng khác là thuyết phục người đọc rằng tác
giả có kinh nghiệm. Qua phần nghiên cứu sơ khởi, người đọc có thể đánh giá tác
giả hay nhóm nghiên cứu đã có sẵn kĩ thuật, phương pháp, hay công nghệ cần thiết
để thực hiện công trình nghiên cứu. Có lẽ quan trọng hơn là cơ quan tài trợ cảm
thấy thuyết phục rằng tác giả có thể thực hiện nghiên cứu (họ đã an tâm để “chọn
mặt gửi vàng”!) Thông thường, phần này chiếm khoảng 6-8 trang giấy, và như nói
trên, tác giả có thể đưa vào đó những công trình nghiên cứu liên quan đã công bố
trước đây.
Ví dụ 5: Một
cách trình bày hữu hiệu phần kết quả sơ khởi là trình bày theo từng mục tiêu
chuyên biệt. Trong ví dụ dưới đây, tác giả trình bày
Preliminary Data
This proposal is a collaboration between the
PI and Dr. Barry Hurlburt in the Department of Biochemistry and Molecular
Biology. The collaboration takes advantage of the expertise of the PI in the
molecular genetics of S. aureus and the biochemical expertise of Dr. Hurlburt
in transcription factor structure and function (14,15). The overall goals are
1) correlation of the expression of the sarA, sarB and sarC transcripts with
the production and activity of SarA, 2) characterization of the mechanism by
which sar regulates expression of the S. aureus collagen adhesin gene (cna) and
3) identification and characterization of additional S. aureus genes under the
direct regulatory control of SarA. We have assembled all of the experimental
tools required to accomplish these objectives. Specifically, we have (i)
purified SarA in a form capable of binding an appropriate DNA target, (ii)
generated an affinity-purified antibody against purified SarA, (iii)
constructed a xylE reporter plasmid that can be used to assess the functional
activity of SarA (Specific Aim #1) and define the sequence characteristics
required for the regulation of cna transcription (Specific Aim #2), (iv) cloned
the regions encoding the sarA, sarB and sarC transcripts for use in
complementation experiments, (v) demonstrated that SarA binds a DNA target
upstream of cna and begun the process of localizing the SarA binding site and
(vi) obtained or generated sar and agr mutants in both cna-positive and
cna-negative S. aureus strains. The experiments done to accomplish each of
these tasks are described in detail below.
Preliminary data for Aim #1. Cloning and
expression of sarA. The polymerase chain reaction (PCR) was used to amplify the
sarA coding region from S. aureus strain RN6390. Utilizing NdeI and BamHI
restriction sites incorporated into the oligonucleotide primers, the fragment
containing the sarA coding region was cloned into the E. coli expression vector
pET9A. Because the NdeI site (CATATG) in the vector overlaps an ATG start
codon, cloning of the sarA coding region into the NdeI site places the sarA
structural gene in perfect register with the vector-derived ribosome binding
site. Recombinant proteins are therefore expressed as full-length, wild type
proteins without fusions to exogenous peptide or protein tags. After cloning
the sarA PCR fragment into pET9A and confirming the identity of the cloned
fragment by DNA sequencing (data not shown), the recombinant plasmid (pETSarA)
was used to transform E. coli strain BL21(DE3)pLysS. Transformants were grown
to mid-log phase before inducing SarA expression by adding IPTG to a final
concentration of 0.4 mM. After two hours, cells were harvested and lysed by
sonication. The presence of SarA in the crude lysate was confirmed by SDS-PAGE
followed by Coomassie Brilliant Blue staining (Fig. 7).
Preliminary data for
Aim #2. Purification of SarA.
A 500 ml culture of the BL21(DE3)pLysS E. coli strain containing pETSarA was
induced and lysed as described above. After removing the insoluble material in
the crude lysate by centrifugation, the soluble fraction was subjected to a
series of ammonium sulfate precipitations culminating at 70% saturation. The
pellet from each precipitation was resuspended in SDS-PAGE buffer and examined
along with an aliquot of the supernatant (Fig. 8, left). The supernatant
remaining after the final precipitation was found to contain ~70% SarA.
4.4 Phần
phương pháp (reseach approach)
Sau phần Mục tiêu, Bối cảnh & tầm quan trọng,
Nghiên cứu sơ khởi, là phần Phương pháp. Đây là phần dài nhất vì chi tiết
nhất so với 2 phần trước. Mục đích của phần Phương
pháp là thuyết phục người đọc
rằng nhà nghiên cứu:
- Có kế hoạch tốt để kiểm định giả thuyết đặt ra trong phần Mục tiêu;
- Có kiến thức, kĩ năng, và phương tiện để thực hiện công trình nghiên cứu;
- Đã nghĩ đến những tình huống xấu sẽ gặp phải và đã có kế hoạch đối phó; và
- Diễn giải kết quả dự kiến một cách khách quan.
Nên nhớ rằng
trong phần phương pháp, tác giả phải dự
kiến tình huống bất lợi sẽ
xảy ra trong khi thực hiện nghiên cứu. Không một nghiên cứu nào đều được tiến
hành một cách “thuận bườm xuôi gió” cả. Bất cứ nghiên cứu nào cũng có vài trục
trặc, không lớn thì nhỏ, và có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu.
Chẳng hạn như trong nghiên cứu về loãng xương, có thể nhà nghiên cứu sẽ gặp khó
khăn nếu máy DXA hư hỏng, hoặc bệnh viện thay đổi kĩ thuật viên, hoặc các mẫu
sinh phẩm bị nhiễm gây khó khăn cho phân tích sinh hoá, hoặc các bệnh nhân từ
chối tham gia, v.v. Tất cả những tình huống này phải được chú ý đến trước khi
tiến hành nghiên cứu. Do đó, nhà nghiên cứu có kinh nghiệm phải suy nghĩ đến
tình huống xấu và có kế hoạch đối phó.
Cách viết
hiệu quả nhất cho phần phương pháp là viết cho từng mục tiêu. Nếu đề cương có 3
mục tiêu chuyên biệt, phần phương pháp phải có 3 phương pháp tương thích. Cấu
trúc phần phương pháp có thể là:
D. Kế hoạch thí nghiệm
D.1 Kế hoạch cho mục tiêu 1
D.1.1 Thiết
kế, lí do, tầm quan trọng
D.1.2
Phương pháp cho mục tiêu 1
D.1.2.1
Cái mới
D.1.2.2 Hạn
chế
D.1.2.3
Khó khăn có thể tiên đoán trước
D.1.2.4 Kế
hoạch để khắc phục
D.1.2.5 Hệ
quả
D.1.3
Phân tích dữ liệu
D.1.4 Diễn
giải kết quả tiên đoán trước
D.2 Kế hoạch cho mục tiêu 2
[…]
D.3 Kế hoạch cho mục tiêu 3
[…]
Ví dụ 6: Trong đề
cương dưới đây, tác giả mô tả phần phương pháp có thể nói là rất đầy đủ. Người
đọc gần như biết chính xác từng bước tác giả sắp làm gì, tại sao làm, làm như
thế nào, và kết quả dự kiến ra sao.
Research Design and
Methods:
The first specific aim of this grant
application is to use the HFIM system to show that monotherapy with amantadine
or oseltamivir carboxylate will lead to the emergence of resistance in
influenza virusinfected cells and to demonstrate that the resistant viruses
produced in the HFIM system under these conditions have the same mutations as
those that emerge when people are treated with these drugs. In the second
specific aim, we will use the HFIM system to optimize the dose and schedule of
administration of current antiviral compounds effective against influenza
viruses, delivered as monotherapy, to minimize the emergence of resistance.
Finally, in the third specific aim we will determine the optimal dose and
administration schedule of these anti-influenza virus drugs administered in
combination therapy to prevent virus infection and the emergence of resistance.
Specific Aim #1. Validate the HFIM as a model
experimental system for influenza virus infection and the generation of drug
resistant mutants.
A. Introduction. Treatment of patients
infected with type A influenza viruses with amantadine/rimantadine is known to
lead to the rapid emergence of resistant viruses in the treated population
(1-3). Treatment of patients with influenza with the neuraminidase inhibitors,
oseltamivir carboxylate or zanamivir, usually does not lead to the emergence of
resistant viruses (48). However, recent data have shown that treatment of
children with influenza with oseltamivir carboxylate has led to the emergence
of neuraminidase inhibitor-resistant influenza viruses (4-6). Data presented in
the preliminary results
section of this grant
application showed that treatment of MDCK cells infected with a clinical
isolate of influenza A virus in the HFIM system with amantadine can lead to the
emergence of resistant viruses within two to three days of initiation of
treatment. Phenotypic, but not genotypic, resistance was demonstrated when
influenza virus-infected MDCK cells were treated with the D-tartrate salt of
oseltamivir carboxylate in the HFIM system. The purpose of this portion of the
grant application is to confirm these observations with A/Albany/1/98 influenza
virus and to expand that observation for amantadine to additional influenza A
viruses and for oseltamivir carboxylate to additional influenza A and B
viruses.
B. Experimental Design. We will examine the
effect of amantadine and oseltamivir carboxylate on the replication of wild
type rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34 (a surrogate for avian H5N1 influenza
virus), A/Texas/36/91(H1N1), A/Sydney/5/97(H3N2), and A/Victoria/3/75(H3N2) in
the HFIM system. For comparison, we will also include our original clinical
isolate, A/Albany/1/98(H3N2), to be certain that our original observations are
reproducible for amantadine and oseltamivir carboxylate. Oseltamivir
carboxylate will be tested against B/Lee/40 and B/Memphis/20/96 viruses. […]
C. Expected results. Resistance will
emerge under monotherapy. Amantadine resistant strains will have mutations in
the M2 gene (residues 26, 27, 30, 31); neuraminidase inhibitor resistant
strains will have mutations in the NA gene (residues 274 and 292) and/or HA
genes (multiple residues).
D. Potential problems. It is often difficult
to generate mutations in vitro in the neuraminidase genes in the presence of
neuraminidase inhibitors that resemble the mutations identified in the clinic.
This may be due to the use of MDCK cells which have inappropriate cell surface
receptors for influenza viruses. To address this potential problem, we will use
a variety of other cell lines which more closely reflect the surface
characteristic of lung epithelial cells such as A549 pulmonary alveolar
epithelial cells (82), St Jude porcine lung (SJPL) cells (83), ST6Gal I cells
(84) or SIATI cells (85) which express cell surface receptors with more
terminal sialic acid, and Mink lung cells (86) to perform these dose ranging
studies aimed at producing resistant viruses in the HFIM system. It is expected
that by using the appropriate cell lines, resistant strains will be produced
that more accurately reflect the neuraminidase inhibitor-resistant strains that
have been identified in the clinic.
E. Time frame. If this grant application is funded we
will be able to purchase 4 additional duet pumps for the hollow fiber
experiments thus doubling our capacity to perform these experiments. We plan to
perform dose ranging experiments for amantadine and oseltamivir carboxylate on
A/Victoria/3/75, A/Texas/36/91, rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34, and
A/Albany/1/98 and oseltamivir carboxylate for B/Lee/40 and B/Memphis/20/96 in
the HFIM system. Each experiment will be repeated at least 1 time. One hollow
fiber experiment takes approximately two weeks to perform from setup to take
down. Analysis of virus yield (plaque assay, TCID50 assay and real time
quantitative PCR) will take an additional two weeks. Therefore, each experiment,
including a repeat, will take approximately 2 months. We plan to study at least
the four type A and two type B viruses listed above for two drugs for a total
of 24 hollow fiber experiments. Since we can study two viruses at a time for
one drug or one virus for two drugs, Specific Aim 1 will take at least one year
to complete.
Đề cương
nghiên cứu được viết cho đối tượng là đồng nghiệp, nhưng là người đóng vai trò
bình duyệt. Câu hỏi đặt ra là người bình duyệt kì vọng gì khi đọc một đề cương
nghiên cứu. Biết được kì vọng của họ cũng là biết cách để đáp ứng. Tôi đặt mình
vào vai trò người duyệt đề cương, và tôi sẽ kì vọng những điều qua những câu hỏi
sau đây mà tôi muốn tìm câu hỏi:
- Ý tưởng thú vị, cách tân, có thể đóng góp cho chuyên ngành hay không?
- Dữ liệu sơ khởi có đủ “mạnh” hay đủ thuyết phục để tác giả tiến hành nghiên cứu này?
- Cách tiếp cận vấn đề của tác giả có khả thi không?
- Chứng cứ về khả năng và thành tựu của tác giả ra sao? Trong yếu tố này, tôi muốn xem qua thành tích trong thời gian 5 năm gần đây;
- Đề cương được soạn một cách rõ ràng, logic, và đủ chi tiết hay không?
- Cách viết trong sáng và gọn (vì điều này phản ảnh tư duy của tác giả).
Nghiên cứu
khoa học đòi hỏi suy nghĩ và tính tỉ mỉ. Khoa học không chấp nhận suy nghĩ hời
hợt. Những suy nghĩ mù mờ (muddle thinking) là yếu tố cho sự thất bại. Do đó,
trước khi dấn thân vào nghiên cứu, các bạn nên tự vấn để quyết định. Sau đây là
15 câu hỏi mà các bạn nên tự trả lời và quyết định:
- Lĩnh vực nghiên cứu này có quan trọng để tiêu thì giờ?
- Ý tưởng nghiên cứu có thể mở rộng và đóng góp vào sự nghiệp?
- Bộ môn tôi đang làm việc có phù hợp với ý tưởng của tôi?
- Ý tưởng có phản ảnh suy nghĩ của đồng nghiệp hiện nay?
- Tôi đã am hiểu về y văn trong lĩnh vực này, và lĩnh vực nào cần khai thác hay tìm hiểu thêm?
- Nghiên cứu của tôi có thể lấp vào khoảng trống tri thức?
- Đã có nhiều nghiên cứu về đề tài chưa, và tôi có đóng góp gì thêm?
- Thời điểm thích hợp cho nghiên cứu?
- Nghiên cứu của tôi có gây tác động trong chuyên ngành?
- Trình độ chuyên môn của tôi có phù hợp với mục tiêu?
- Tôi có kĩ năng cần thiết cho nghiên cứu?
- Tôi có thì giờ để theo đuổi dự án?
- Tôi quyết tâm vào dự án?
- Tôi có phương tiện trong tay để thực hiện?
- Tôi có đồng nghiệp có chuyên môn để hợp tác?
Tóm lại, viết đề cương nghiên cứu
là một kĩ năng rất quan trọng của một nhà khoa học. Xin nhấn mạnh là “rất quan
trọng” (chứ không phải “quan trọng”). Ở các nước phương Tây, khi một nhà khoa học
có khả năng viết một đề cương nghiên cứu, thì đó là một chứng cứ về sự trưởng
thành của nhà khoa học, và là một nấc thang để nhà khoa học trở nên độc lập.
Trước khi
kết thúc, tôi muốn kể các bạn một câu chuyện vui nhưng hoàn toàn có thật. Hôm nọ,
gặp anh bạn [già] đồng nghiệp ở Melbourne,
tôi hỏi anh dạo này ra sao, anh thở dài nói Thì vẫn chiến đấu với đề cương nghiên
cứu. Anh hỏi tôi, và tôi cũng nói cùng số phận. Anh ấy cười
nói sau khi xong cái bull fighting này chúng ta sẽ hợp tác trong một dự
án rất hào hứng. Anh bạn tôi xem việc viết viết đề cương nghiên cứu để có tài
trợ như là một cuộc đấu bò; tôi và anh ấy cùng
lên đấu trường. Có thể cả hai đều thất bại, cũng có thể cả hai đều thành
công, hoặc chỉ một trong hai thành công. Xin tài trợ quả thật là một cuốc đấu
tranh. Không chỉ đấu tranh trên "mặt trận" ý tưởng, mà còn mặt
trận chữ nghĩa! Có chữ là một chuyện, nhưng dùng chữ sao cho thuyết phục
là một kĩ năng có ý nghĩa sống còn trong cuộc đấu tranh xin tài trợ.
Xin nhắc
lại rằng đề cương nghiên cứu không phải là khoa học, mà là một cách tiếp thị
khoa học. Tiếp thị bằng chữ nghĩa. Ghi nhớ điểm quan trọng này để viết đề cương
sao cho thuyết phục (chứ không phải để “khoe”) và tăng xác suất được tài trợ.
Chúc các bạn may mắn!
Chú thích:
1. Đây là
bài tôi viết lại từ workshop về viết đề cương nghiên cứu được thực hiện ở Đại học
Quốc gia TPHCM (VNU) vào năm 2011. Trong workshop thì chỉ có những slides, chứ
chưa có bài viết chi tiết, và bài này là một bài “tài liệu đọc thêm” cho các bạn.
Tôi muốn nhân cơ hội này bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng nghiệp VNU, đặc biệt
là Trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực (nay là Viện đào tạo quốc tế),
đã tạo điều kiện thực hiện workshop, mà theo các học viên là đã giúp ích cho họ
nhiều. Một số còn “khoe” đã xin được tài trợ và học bổng nước ngoài. Xin cám ơn
các bạn học viên.
2. Các bạn
có thể copy và phân phối bài này cho các bạn khác (nếu cần). Nhưng tôi chỉ mong
muốn một điều: ghi nguồn. Có nhiều khi tôi thấy một số không ít bài viết và dữ
liệu của mình được sử dụng trong các hội nghị (và cả trên những trang báo) mà
tác giả không ghi nguồn, và điều này làm tôi thấy … hơi buồn. Công sức bỏ ra rất
nhiều, thu thập dữ liệu, sưu tầm những ca thú vị, rồi rút ruột và lao tâm để soạn,
mà người ta sử dụng một cách “vô tư”, không có đến một chữ ghi nhận chứ chưa
nói gì đến cám ơn. Nói thế thôi, chứ nếu các bạn sử dụng và có kết quả tích cực
là tôi vui rồi (không cần cám ơn đâu).
3. Ngày
1/10 và 2/10 này, nhân một chuyến công tác ở Hà Nội, tôi sẽ nói về cách viết đề
cương nghiên cứu ở Bệnh viện Đà Nẵng. Tôi sẽ có 6 bài giảng liên quan đến những
vấn đề bàn trong bài này. Nếu các bạn có dịp tham dự thì chắc vui lắm, vì có
nhiều cơ hội để thảo luận thêm. Bài này thật sự được soạn cho các học viên Đà Nẵng,
và soạn trong một thời gian rất ngắn (chỉ 4 tiếng đồng hồ). Vì quá vội, nên chắc
còn nhiều thiếu sót. Nếu các bạn phát hiện sai sót, xin gửi thư cho tôi biết và
chỉnh sửa sau này. Tôi hi vọng sẽ có dịp quay lại bổ sung nhiều chi tiết hơn, đặc
biệt là ví dụ từ VN (từ các bạn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.