Phong cách kiến trúc Chămpa
Tháp Champa, là một dạng công trình thuộc thể loại kiến
trúc đền tháp Champa, thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc
Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm, sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam
ngày nay. Có thể thấy vị trí phân bố các đền tháp là những nơi từng là
nơi ở của người Champa, xa hơn nữa còn có những ngôi tháp có thể coi là
tháp Champa trên đất nước Camphuchia như tháp Damray Krap.
Ngược lại, những yếu tố Java hay Khmer cũng được thấy trên các tháp Champa như ở Khương Mỹ, Hưng Thanh, Dương Long, hay có cả những ngôi tháp còn được người Champa gọi là "tháp Khmer" như tháp Champa Hoà Lai.
Tháp Chàm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Mặt bằng tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng Mặt Trời mọc). Trần được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Các viên gạch liên kết với nhau rất rắn chắc, bền vững tới hàng chục thế kỷ.
Lịch sử
Tháp Chàm Pôshanư tọa lạc tại phường Phú Hải, Thành phố Phan Thiết. Lịch sử xây dựng các đền tháp Champa kéo dài từ cuối thế kỷ thứ 7 đến đầu thế kỷ 17. Trong khoảng thời gian này, những người Champa xưa đã để lại một số lượng lớn các công trình kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc. Hiện tại có trên hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp và rất nhiều phế tích kiến trúc. Các di tích này có giá trị đặc sắc, mang tính toàn cầu, xứng đáng nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Một trong những sự quan tâm ấy là việc tổ chức UNESCO đã công nhận Mỹ Sơn là di sản văn hoá thế giới cũng chính là việc đánh giá cao thành quả nghiên cứu về kiến trúc Champa nói chung.
Thần Siva làm bằng đá cát, cuối thế kỷ 12. Tháp Mẫm. An Nhơn. Bình Định. Hình trang trí trên cửa chính. Hiện vật tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam
Sự giao thoa văn hoá Champa - Đại Việt
Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì nghệ thuật Champa cổ và nghệ thuật Việt cổ có nhiều nét tương đồng. Nhìn chung thì nghệ thuật Champa có trước nghệ thuật Việt và đã đạt đỉnh cao ngay khi nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.
Xét về mặt kiến trúc: các tháp Champa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc núi thấp, được xây dựng thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương khí thì chùa, tháp Việt Nam thời Lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi và sườn núi, tạo nên cả một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón dương khí. Tháp Việt Nam cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Champa và có bình diện vuông gần với các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Champa cũng như tháp Lý - Trần về cơ bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành phần bằng đá. Có điều, tháp Champa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây, còn ở tháp Lý - Trần thì hình trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau đó mới mang nung, xây đến đâu là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.
Các phong cách kiến trúc Champa
Phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương (thế kỷ thứ 9)
Những ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những cửa vòm khoẻ khoắn. Những băng trang trí cho công trình có rất nhiều họa tiết. Yếu tố tiêu biểu nhất cho phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ thứ 9) là các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong. Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở bên dưới các cột trụ ốp là các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi. Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát. Còn ở phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ thứ 9) thì các trang trí cây lá được biến thành những hình hoa hướng ra ngoài. Cái nhận thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất và các tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn.
Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1. Những cột ốp trên mặt tường đứng thành đôi một. Đứng giữa hai cột ốp là các bức tượng người. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc gì. Bộ diềm kép, các hình đá trang trí góc được khoét thủng. Thân chính của tháp được xây dựng có hình dáng cao vút lên và các tầng thu nhỏ dần lại. Những đặc trưng của phong cách Hoà Lai và Đồng Dương không còn thấy ở các tháp thuộc phong cách Mỹ Sơn A1.
Sau hàng loạt những biến động về chính trị từ đầu thế kỷ 11, trung tâm chính trị của Champa được chuyển vào Bình Định và từ đó, phong cách nghệ thuật tháp Champa mới đã xuất hiện: phong cách Bình Định. Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật chính của các tháp Champa thuộc phong cách trước là thành phần kiến trúc đều đi vào đường nét thì ở phong cách này đó lại là mảng khối: vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng cuộn lại thành các khối đậm, khỏe, các trụ ốp thu vào thành một khối phẳng, mặt tường có các gân sống.
Tháp Bình Lâm (Bình Định)
Tháp Dương Long (Bình Định)
Tháp Đôi (Bình Định) Đặc trưng của các ngôi tháp Champa
- Mọi ngôi tháp đều được xây bằng gạch hoặc chủ yếu bằng gạch. Gạch có màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không có mạch vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.
- Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các phần của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.
- Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.
- Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng dạng, đăng đối.
- Đa phần các tháp có cửa quay ra hướng Đông, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đăng đối với cửa chính.
- Trong tháp theo nguyên mẫu có thờ thần Siva, biểu trưng là bộ ngẫu tượng Yoni và Linga được làm bằng sa thạch.
- Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người dân sinh sống.
Tháp Hoà Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận) Các công đoạn xây dựng tháp:
- Chuẩn bị chất kết dính.
- Đúc gạch theo khuôn đã định sẵn.
- Nhúng gạch vào chất kết dính.
- Xếp gạch theo mô hình tháp.
- Lấp đất xung quanh tháp.
- Nung tháp.
- Gạt đất ra để làm dàn giáo trang trí và điêu khắc.
- Gọt dũa và hoàn chỉnh toàn bộ khối tháp.
Tháp PorXahinu (Bình Thuận) Giá trị của kiến trúc đền tháp Champa
Các đền tháp Champa phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hoá Champa từ những giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến những giai đoạn thích nghi. Tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc liền kề.
Giá trị nghệ thuật của các hình trang trí ngoài việc giúp cho các đền tháp đẹp hơn, còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn về niên đại, phong cách và chức năng của các đền tháp.
Tháp Swallow (Phú Yên)
--------------------------------------------------------------
Tháp
Chàm, hay còn gọi là tháp Champa, là một dạng công trình thuộc thể loại
kiến trúc đền tháp Champa, thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân
tộc Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm, sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt
Nam ngày nay. Có thể thấy vị trí phân bố các đền tháp là những nơi từng
là nơi ở của người Champa, xa hơn nữa còn có những ngôi tháp có thể coi
là tháp Champa trên đất nước Campuchia như tháp Damray Krap. Ngược lại,
những yếu tố Java hay Khmer cũng được thấy trên các tháp Champa như ở
Khương Mỹ, Hưng Thanh, Dương Long, hay có cả những ngôi tháp còn được
người Champa gọi là "tháp Khmer" như tháp Champa Hoà Lai.Tháp
Chàm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ
đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Mặt bằng
tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa
duy nhất mở về hướng Đông (hướng Mặt Trời mọc). Trần được cấu tạo vòm
cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc,
đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện
trên mặt tường ngoài của tháp. Các viên gạch liên kết với nhau rất rắn
chắc, bền vững tới hàng chục thế kỷ.)
Lịch
sử xây dựng các đền tháp Champa kéo dài từ cuối thế kỷ thứ 7 đến đầu
thế kỷ 17. Trong khoảng thời gian này, những người Champa xưa đã để lại
một số lượng lớn các công trình kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác
phẩm điêu khắc. Hiện tại có trên hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp
và rất nhiều phế tích kiến trúc. Các di tích này có giá trị đặc sắc,
mang tính toàn cầu, xứng đáng nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc
tế. Một trong những sự quan tâm ấy là việc tổ chức UNESCO đã công nhận
Mỹ Sơn là di sản văn hoá thế giới cũng chính là việc đánh giá cao thành
quả nghiên cứu về kiến trúc Champa nói chung.
Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì nghệ thuật Champa cổ và nghệ thuật Việt cổ có nhiều nét tương đồng. Nhìn chung thì nghệ thuật Champa có trước nghệ thuật Việt và đã đạt đỉnh cao ngay khi nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.
Xét về mặt kiến trúc: các tháp Champa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc núi thấp, được xây dựng thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương khí thì chùa, tháp Việt Nam thời Lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi và sườn núi, tạo nên cả một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón dương khí. Tháp Việt Nam cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Champa và có bình diện vuông gần với các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Champa cũng như tháp Lý - Trần về cơ bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành phần bằng đá. Có điều, tháp Champa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây, còn ở tháp Lý - Trần thì hình trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau đó mới mang nung, xây đến đâu là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.
Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các apsara, đa số thuộc đỉnh cao của điêu khắc Champa thuộc thế kỷ thứ 10. Các nhân vật kết hợp người với chim hoặc với thú đều có cả trong nghệ thuật Champa và nghệ thuật Việt.
Các phong cách kiến trúc Champa
Phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương (thế kỷ thứ 9)
Những ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những cửa vòm khoẻ khoắn. Những băng trang trí cho công trình có rất nhiều họa tiết. Yếu tố tiêu biểu nhất cho phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ thứ 9) là các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong. Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở bên dưới các cột trụ ốp là các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi. Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát. Còn ở phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ thứ 9) thì các trang trí cây lá được biến thành những hình hoa hướng ra ngoài. Cái nhận thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất và các tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn.
Phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ thứ 10)
Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1. Những cột ốp trên mặt tường đứng thành đôi một. Đứng giữa hai cột ốp là các bức tượng người. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc gì. Bộ diềm kép, các hình đá trang trí góc được khoét thủng. Thân chính của tháp được xây dựng có hình dáng cao vút lên và các tầng thu nhỏ dần lại. Những đặc trưng của phong cách Hoà Lai và Đồng Dương không còn thấy ở các tháp thuộc phong cách Mỹ Sơn A1.
Sau hàng loạt những biến động về chính trị từ đầu thế kỷ 11, trung tâm chính trị của Champa được chuyển vào Bình Định và từ đó, phong cách nghệ thuật tháp Champa mới đã xuất hiện: phong cách Bình Định. Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật chính của các tháp Champa thuộc phong cách trước là thành phần kiến trúc đều đi vào đường nét thì ở phong cách này đó lại là mảng khối: vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng cuộn lại thành các khối đậm, khỏe, các trụ ốp thu vào thành một khối phẳng, mặt tường có các gân sống.
Đặc trưng của các ngôi tháp Champa
Mọi ngôi tháp đều được xây bằng gạch hoặc chủ yếu bằng gạch. Gạch có màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không có mạch vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.
Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các phần của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.
Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng dạng, đăng đối.
Đa phần các tháp có cửa quay ra hướng Đông, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đăng đối với cửa chính.
Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người dân sinh sống.
Các công đoạn xây dựng tháp
Chuẩn bị chất kết dính.
Đúc gạch theo khuôn đã định sẵn. Nung gạch lần 1.
Xếp gạch theo mô hình tháp bằng chất kết dính.
Nung tháp.
Gọt dũa, trang trí và điêu khắc và hoàn chỉnh toàn bộ khối tháp.
Giá trị của kiến trúc đền tháp Champa
Các đền tháp Champa phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hoá Champa từ những giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến những giai đoạn thích nghi, tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc liền kề.
Giá trị nghệ thuật của các hình trang trí ngoài việc giúp cho các đền tháp đẹp hơn, còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn về niên đại, phong cách và chức năng của các đền tháp. (Theo wikipedia)
Danh sách đền tháp Chăm Pa
Thứ tự Tên di tích Địa điểm Niên đại
http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_%C4%91%E1%BB%81n_th%C3%A1p_Champa
Tháp Bình Lâm (Bình Định)Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng tháp Chăm phục vụ trùng tu và phát huy giá trị di tích.
Mã số đề tài: RD 21.
Chủ nhiệm đề tài: TS.Trần Bá Việt.
Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện KHCN xây dựng-BXD.
Địa chỉ tài liệu: KQNC.1086. Thư viện KHCN-Bộ Xây dựng.
Mục tiêu đề tài:
Theo các tài liệu được biết cho đến nay thì lịch sử xây dựng các đền tháp Chămpa kéo dài từ cuối thế kỷ VII đến đầu thế kỷ XVII. Trong khoảng thời gian chín thế kỷ xây dựng và sáng tạo, những người Chăm cổ đã để lại một số lượng lớn các di tích kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc…Đó là sản phẩm văn hoá của tài năng và trí tuệ Chămpa trong suốt chặng đường dài lịch sử. Với trên 20 cụm di tích kiến trúc đền tháp còn lại và rất nhiều phế tích kiến trúc, bên cạnh đó là vô vàn hiện vật điêu khắc giá trị, đã minh chứng cho một nền văn hoá Chămpa rực rỡ, góp pầhn không nhỏ vào vào nền văn hoá Việt Nam phong phú, giàu bản sắc. Các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa còn có giá trị đặc sắc nổi bật mang tính toàn cầu, xứng đáng nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Một trong những sự quan tâm ấy là sự công nhân Mỹ Sơn là di sản văn hoá thế giới của tổ chức UNESCO…
Mặc dù các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa luôn được quan tâm nghiên cứu, nhưng do đã trải qua thời gian dài tồn tại dưới tác động bất lợi của thiên nhiên khắc nghiệt và chiến tranh, nên phần lớn các di tích đã bị huỷ hoại, xuống cấp, mất mát ở nhiều mức độ khác nhau. Vì vậy, công việc nghiên cứu về các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa cần phải luôn được thường xuyên, nhằm không ngừng bổ sung những thông tin khoa học về di tích làm cơ sở cho các giải pháp giữ gìn và phát huy giá trị di tích.
Thực tế công tác bảo tồn tu bổ trong những năm qua có bước tiến và thành tựu đáng kể, song vấn đề cốt lõi xác định kỹ thuật xây dựng của người Chăm vẫn chưa được tập trung nghiên cứu.
Đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng tháp Chăm phục vụ trùng tu và phát huy giá trị di tích” sẽ đóng góp thêm những hiểu biết về kỹ thuật xây dựng các đến tháp Chămpa, kết hợp với việc khảo sát thực trạng kiến trúc và nghiên cứu lịch sử, nghệ thuật…nhằm đạt được mục tiêu của đề tài là:
- Nghiên cứu công nghệ xây dựng các tháp Chăm để phục vụ một cách tốt nhất cho công tác tu bổ, phát huy giá trị của di tích kiến trúc của nền văn hoá Chăm trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Đề xuất các quy trình về công nghệ vật liệu phục chế để trùng tu bảo tồn các tháp Chăm, trong quá trình chuẩn mực hoá công tác bảo tồn di tích ở nước ta.
Nội dung đề tài:
Chương I: Lược sử, khảo cổ, kiến trúc Chămpa.
Chương II: Thực trạng các di tích, phế tích kiến trúc đền tháp Chăm.
Chương III: Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng: Kỹ thuật xử lý nền, kỹ thuật xây dựng móng, kỹ thuật xây dựng đền tháp Chăm dưới góc độ kỹ thuật kiến trúc, kỹ thuật xây gạch theo phương pháp mài chập, nghiên cứu xác định các thông số kỹ thuật của gạch trên các đền tháp Chăm, nghiên cứu thành phần pha và thành phần khoáng của gạch và của chất kết dính bằng phương pháp nhiễu xạ Rơnghen; nghiên cứu xác định thành phần hữu cơ có trong chất kết dính; nghiên cứu cấu trúc thô của gạch qua kính phóng đại quang học; nghiên cứu vi cấu trúc của gạch bằng kính hiển vi điện tử quét; nghiên cứu xác định lực liên kết giữa các viên xây; xác định cường độ chịu nén của khối xây; nghiên cứu sự ăn mòn vi sinh trên khói xây đền tháp Chăm; nghiên cứu khả năng chịu lực của kết cấu khối xây đến tháp Chăm; nghiên cứu kỹ thuật điêu khắc.
Chương IV: Nghiên cứu công nghệ phục chế khối xây mài chập.
Chương V: Định hướng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các đền, tháp Chăm.
Kết quả đề tài:
Đã nghiên cứu phục hồi được công nghệ chế tạo gạch Chăm phục chế có tính chất giống như gạch Chăm, có thể gia công cưa cắt mài chập, đục chạm điêu khắc được.
Đề tài đã thành công trong việc sản xuất và chế tạo nhớt cây ô dước, gạch và kỹ thuật xây mài chập để triển khai phục chế tháp Bình Thạnh từ năm 1999 đến nay đảm bảo chất lượng tốt, chưa thấy hiện tượng hư hỏng.
Kết quả đề tài cũng khẳng định được rằng loại gạch đặc biệt nung giảm lửa, có chất đôn là thích hợp cho trùng tu tháp Chăm.
Kỹ thuật phục chế khối xây gạch Chăm có thể kết hợp với kỹ thuật gia cường, neo, đai giằng bằng thép hoặc bê tông để bảo tồn tối đa giá trị gốc, chân xác của di tích tháp Chăm, đồng thời kéo dài tuổi thọ cho di tích.
Đây là một bước tiến đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các tháp Chăm về lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng suốt hơn một thế kỷ qua.
Đề tài đã đạt loại xuất sắc.
Tìm hiểu kỹ thuật xây dựng tháp cổ Chăm Pa tại miền trung Việt Nam
Ðối với các tháp Chăm, kỹ thuật xây dựng tháp thực chất là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ của công nghệ xây dựng và điêu khắc. Mà biểu hiện vật chất của nó chính là tỷ lệ kiến trúc và nghệ thuật kết hợp kiến trúc với các dạng điêu khắc trang trí, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng không mạch vữa. Qua đó nó thể hiện giá trị phi vật thể là nội dung thờ tự, tâm linh và cao hơn là ý nghĩa triết học của các đền tháp Chăm. Theo đó, việc nghiên cứu xác định được đúng kỹ thuật xây dựng tháp Chăm của người Chăm xưa sẽ giúp cho việc trùng tu được chuẩn xác, đưa ra được những phương tiện và phương pháp để bảo tồn trùng tu được tối đa các giá trị chân xác của di tích. Phương pháp tu bổ đó vừa đảm bảo được tính nguyên gốc, chính xác, phù hợp, cụ thể cho mỗi tháp và từng bộ phận chi tiết của các tháp Chăm. Ðồng thời qua đó có thể mở ra hướng trong nghiên cứu, tìm ra phương pháp xây mới có nhiều ưu điểm hơn phục vụ cho ngành xây dựng, thay thế cho lối xây bằng vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát như hiện nay cũng như lý giải những ẩn số xung quanh các vấn đề như kỹ thuật, triết học, tâm linh... của người Chăm xưa. Ðiều này nhằm góp phần cho công cuộc trùng tu và phát huy các giá trị tại Mỹ Sơn nói riêng và các tháp có giá trị tại miền Trung nói chung.Như chúng ta đã biết, trong công tác trùng tu, đối với các tháp Chăm, yêu cầu bắt buộc của việc trùng tu ngoài nhiệm vụ hàng đầu là tu sửa khẩn cấp để bảo tồn kịp thời di tích và giá trị lịch sử của công trình cổ, còn đòi hỏi phải xây gạch theo kiểu cổ truyền của người Chăm xưa, tức là kỹ thuật thế nào đó để kết dính các viên gạch lại với nhau. Ngoài yêu cầu của độ bền vững ra, không còn để lộ khe hở, cũng như không để lộ cho thấy mạch hồ vữa của chất kết dinh (nếu có). Như thế, ngôi đền tháp sau khi phục chế mới không có sự khác biệt và giữ được nét đặc thù của tháp Chăm, đồng thời giữ được nét thẩm mỹ của màu sắc và hoa văn điêu khắc trên mặt tường ngôi tháp. Trên cơ sở đó, nhiều giả thuyết về kỹ thuật xây cất các ngôi tháp cổ của người Chăm xưa đã được đưa ra. Tuy nhiên một số luận cứ trong các giả thiết đó vẫn còn chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi, mâu thuẫn làm vấn đề chưa ngã ngũ và đi đến tiếng nói chung. Vì vậy, qua nghiên cứu phân tích các thành phần hóa lý cũng như dấu tích còn lại trên bề mặt các Tháp cổ, cá nhân tôi và Cha là nhà nghiên cứu văn hóa Chămpa - Hồ Xuân Em (đã mất) đưa ra một giả thuyết riêng. Giả thuyết có thể còn nhiều vấn đề cần tranh cãi và kiểm chứng, nhưng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra để cùng trao đổi nhằm góp phần vào tiếng nói chung trong công việc nghiên cứu và trùng tu các tháp.
Người Chăm xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống, trong đó có chứa một ít cát (khoảng 10% - đây có thể là do nguồn đất sét làm gạch đặc thù hoặc cũng có thể do người ta pha vào khi làm gạch) nhúng nước rồi xát và ép chặt vào nhau để kết dính (điều này đã tạo nên một lớp vữa “giả tạo”. Thành ra cách xây này không vữa mà như là có vữa) rồi nung toàn khối. Trong đó, người Chăm xưa đã nghĩ tới phương pháp xây tháp theo nguyên tắc tạo ra một tổng thể đồng chất với bề dày tường lớn để có được lực liên kết bền vững nhất, đồng thời dễ dàng tạo ra được những tác phẩm điêu khắc có đường nét mỹ thuật cao. Nhưng vì đất sét là vật liệu lâu khô, lại phải nung qua lửa, đòi hỏi độ ẩm phải còn 20% trước khi nung nên người Chăm không thể đổ đất sét lỏng như hiện nay ta đổ bêtông mà trước tiên phải làm nên những viên gạch mộc, phơi qua vài ngày để gạch se lại, sau đó nhúng nước, xát và ép để viên này dính sát với viên kia, chồng lên và so le mí với nhau. Khi ngôi tháp xây xong thì toàn bộ ngôi tháp, nền và móng đã trở thành một tổng thể đất sét đồng chất (ngoại trừ một ít lanh tô hoặc trụ đá phải dùng trong kỹ thuật xây và có thể được xử dụng để gia cường sau khi xây). Tổng thể đất sét này được nung chín, tất nhiên sẽ có độ bền vững hơn là xây bằng gạch đã nung trước với hồ vữa, là 2 chất liệu khác nhau. Và cách xây và nung tháp của người Chiêm Thành thì bắt buộc phải “xây từ dưới lên trên và nung từ trên xuống dưới” nhằm tránh cho tháp khỏi bị đổ vì xây bằng gạch mộc.
Phần
đỉnh tháp luôn luôn được xây nhỏ hơn phần đế và thân tháp để trọng tâm
khó đổ ra ngoài. Vì vậy người Chăm xưa phải xây tường tháp rất dày từ 1m
đến gần 2m. Cùng với việc xây từng đoạn xong để trong một ít thời gian
cho gạch se cứng lại thì những yếu tố này góp phần làm giảm tải trọng
bản thân của tháp lên các viên gạch. Xây tháp tới đâu thì đổ đầy đất ở
trong lẫn ngoài lên tới đó, ngang với mặt tường đang xây, ém đất thật
chặt để giữ tháp cho vững đồng thời để người thợ có điều kiện làm việc
dễ dàng trong lúc xây và chạm khắc. Ðó cũng chính là một loại, vừa giàn
giáo, vừa cốp pha (Scaffold and framework) trong ngành xây dựng, nhưng
ngày nay thì người ta làm bằng gỗ và sắt. Sau đó thực hiện việc điêu
khắc, trang trí trên gạch còn mềm ướt của Tháp. Xây tới đâu thì chạm
khắc, trang trí tới đó. Có một điều, khi xây tháp phải đổ đất ở trong và
ngoài ngôi tháp để giữ tháp cho vững, đồng thời làm phương tiện cho
người thợ xây ngồi làm việc và lên xuống, ví dụ muốn xây một ngôi tháp
có chiều cao 20m thì phải có diện tích mặt bằng để làm việc với đường
kính là 30m, một ngôi tháp có chiều cao 10m thì phải có diện tích mặt
bằng với đường kính 15m (vào khoảng 2/3 chiều cao), do đó nó có nhược
điểm là ở những khu có tháp quây quần nằm gần sát nhau như ở Mỹ Sơn thì
những ngôi tháp xây sau thường không được cao lắm.
Khi
tháp xây lên tới đỉnh xong rồi lúc đó đỉnh tháp vẫn chừa lỗ trống chưa
gắn vật trang trí vào. Người Chăm xưa để như vậy vài ngày cho gạch khô,
se lại. Việc để cho gạch se khô lại (độ ẩm còn khoảng 20%) và việc pha
thành phần cát vào trong gạch cũng là một kỹ thuật góp phần cho công
đoạn nung tránh được sự nứt vỡ của vật liệu tại các mối liên kết. Sau đó
bới dần đất ở phần đỉnh Tháp ra, chất cây khô chung quanh đốt cháy lên
để nung phần đỉnh tháp cho chín. Khi phần đỉnh tháp đã được nung xong
thì người ta bới đất để đốt lửa nung phần tháp tiếp theo ở dưới. Cứ thế,
người ta đốt lửa nung dần từng phần cho đến hết phần chân tháp. Ðến
đây, tháp đã khá vững chắc, người ta bới đất ở trong tháp ra để chất củi
đốt lên nung thêm ở phần trong cho hoàn chỉnh, kết thúc công đoạn nung
tháp. Ðối với đền tháp thì người Chăm xưa dùng phương pháp xây như trên.
Còn đối với thành luỹ kiến trúc nhà ở, giếng nước và mồ mả thì người
Chăm vẫn xây bằng gạch đã nung hoặc đá với vữa vôi + cát hoặc vôi với
mật của đường mía. Trước đây ở Hội An, Thanh Chiêm và quanh tháp Bằng An
có một đoạn thành và nhiều mồ mả của người Chăm xưa xây theo cách đó.
Hiện nay, chỉ còn lại một ít giếng nước như giếng Bá Lễ, giếng Cô Tiên
được xây bằng gạch nung với vữa vôi + đường.
Và cuối cùng, sau khi nghiên cứu để đưa ra giả thiết đó, tôi đã kiểm chứng bằng giải pháp thực nghiệm và thu được kết quả khả quan. Quá trình tiến hành thực nghiệm từ mô hình như sau: Tôi cho tiến hành xây và nung thử một ngôi tháp nhỏ bằng gạch mộc, có tỷ lệ gần đúng với tỷ lệ của ngôi tháp thật: cao 0,6m; rộng 0,3m; gạch cỡ :7cm x 4cm x 2cm. Ðịa điểm nung tại nhà Ông Lê Quốc Tuấn ở khối 5, Phường Thanh Hà, Hội An. Quá trình thực hiện xây và nung mô hình tháp đã được tôi thực hiện ghi hình lại. Kỹ thuật xây dựng được tiến hành theo đúng nguyên mẫu của giả thiết được đặt ra. Chúng tôi đã dùng những viên gạch mộc pha cát có kích thước như vậy nhúng nước rồi xát và ép để kết dính chúng lại với nhau. Sau đó thực hiện điêu khắc, trang trí trên mô hình của tháp, đợi vài ngày cho gạch se khô lại rồi nung toàn bộ ngôi tháp theo đúng phương pháp giả định đã được đặt ra. Ðó là chúng tôi cho nung phía bên ngoài và phía bên trong ngôi Tháp. Kết quả của quá trình thực nghiệm:
Công việc thực hiện điêu khắc cũng như việc xử lý, tạo hình các chi tiết trên Tháp được tiến hành khá dễ dàng trước khi nung vì được thực hiện trên gạch mộc.
Tháp sau khi nung nói chung là không khác biệt với Tháp Chăm cổ, rất vững chắc, không nghiêng, không đổ.
Cả ngôi tháp gần như không xuất hiện mạch vữa, tạo thành một khối gần như đồng nhất, có tính thẩm mỹ cao.Ðể góp phần gìn giữ, tôn tạo, nghiên cứu và phát huy các giá trị của khu di tích Mỹ Sơn, việc tìm hiểu kỹ thuật xây dựng các tháp Chăm cổ là một việc làm cần thiết không những cho hiện tại mà cũng cho cả tương lai. Do vậy, kính mong các nhà khoa học, nghiên cứu và các nghành liên quan:
Tiếp tục khảo sát thực địa, nghiên cứu, phân tích để kiểm chứng lại phương pháp xây tháp đã gợi ý.
Nếu thấy cần thiết, các nghành chức năng có thể tiến hành xây và nung thử một ngôi tháp lớn trên thực tế.Nếu với việc xác định đúng phương pháp, kỹ thuật xây dựng như vậy thì nó sẽ mở ra một phương pháp xây mới phục vụ cho ngành xây dựng, có nhiều ưu điểm hơn, thay thế cho lối xây bằng vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát như hiện nay đồng thời điều đó sẽ là cơ sở rất quan trọng cho công tác trùng tu và là một bước tiến đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các tháp Chăm về lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng suốt hơn một thế kỷ qua. Trên cơ sở thực hiện công việc nghiên cứu và thực nghiệm, mô hình về phương pháp và kỹ thuật xây dựng tháp bằng gạch mộc (gạch chưa nung, có pha cát) được thực hiện bằng cách nhúng nước rồi xát ép với nhau và thực hiện điêu khắc, trang trí trên gạch còn ướt đó, đợi cho gạch se khô lại rồi sau đó tháp được nung toàn bộ theo hình thức “Xây từ dưới lên và nung từ trên xuống” là một đề xuất. Rất có thể đó chỉ là một giả thuyết, còn nhiều vấn đề cần phải kiểm chứng và cũng vì rằng Chămpa là một phức hệ gồm nhiều tiểu quốc khác nhau nên từ ngày xưa cũng có thể có những kỹ thuật xây dựng khác nhau và cũng đã trải qua nhiều lần trùng tu trong quá trình tồn tại. Tuy nhiên, hy vọng giả thuyết này sẽ góp phần giúp các nhà khoa học và nghiên cứu có thể mở ra thêm một hướng mới trong công tác nghiên cứu xác định kỹ thuật xây dựng tháp.
http://mag.ashui.com/index.php/congdong/kysu/43-kysu/634-tim-hieu-ky-thuat-xay-dung-thap-co-cham-pa-tai-mien-trung-viet-nam.html
NHỮNG BÍ ẨN THÁP CHĂM
Ngang dọc miền Trung rất nhiều lần và lần nào cũng thế … tháp Chăm luôn gợi cho tôi những cảm xúc khó tả. Và thành thói quen, cứ có dịp về miền Trung tôi lại tìm đến tháp Chăm, bắt chuyện với những người đang trùng tu tháp, hỏi thăm các vị lo việc hương sự để mong được khám phá phần nào những bí ẩn của tháp. Không ít lần như thế tôi lại ra về và mang theo một bí ẩn khác của những ngôi tháp hầu như không đổi màu trước thời gian.
1. Những viên gạch kỳ lạ.Với mắt thường thì đó chỉ là những viên gạch mà chúng ta vẫn thường gặp nhưng chúng là nỗi băn khoăn triền miên của nhiều nhà nghiên cứu tháp Chăm. Là chất liệu duy nhất tính bằng đơn vị dùng để xây tháp nhưng các viên gạch này mang trong nó quá nhiều bí ẩn. Cùng một kích thước nhưng những viên gạch được đúc thí nghiệm theo quy trình thủ công hiện nay sẽ nặng hơn viên gạch Chăm cổ 1,3 lần. Độ bền chịu nén, độ dai va đập cùng những tính chất khác của gạch Chăm đều cao hơn gạch thông thường rất nhiều. Khi tạt nước vào một mặt bất kỳ của viên gạch Chăm thì các mặt còn lại thoát nước ra gần hết (điều này không xảy ra đối với gạch xây dựng thông thường). Một hướng dẫn viên du lịch “sống” lâu năm với tháp Chăm Mỹ Sơn cho biết nhiều viên gạch khi bị vỡ ra để lộ phần đất sống bên trong. Điều này có nghĩa là gạch chỉ được nung chín đều phần bên ngoài, bên trong vẫn còn “sống”. Điều kỳ lạ là phần “đất sống” bên trong những viên gạch gãy vỡ qua thời gian dài, dù nằm ngoài trời, chịu mưa chịu nắng vẫn không bị rả ra. Vậy, thành phần của chúng ngoài đất sét ra còn có những gì? Quy trình sản xuất gạch có gì khác thường? Các viên gạch này có góp phần vào quá trình làm tháp Chăm nhanh khô ráo sau những cơn mưa dầm?
2. Một thứ hỗn hợp kết dính chưa rõ thành phần.Điều dễ nhận thấy là những viên gạch tháp Chăm như được dán chặt vào nhau vì giữa chúng không có một đường lằn chứng tỏ có sự diện diện của vôi vữa. Đến nay người ta vẫn chưa biết rõ về chất kết dính này? Thành phần của nó gồm những gì? Phương thức tạo ra nó như thế nào? Khi dùng kỹ thuật “dán” chặt những viên gạch lại bằng chất kết dính thì, ngoài mục đích làm tháp vững chắc người ta còn có mục đích gì khác? Vì sao phải cần loại hỗn hợp kết dính này mà không dùng vôi vữa để xây tháp?
3. Một loại hình nghệ thuật tạo hình “rất ít xuất hiện” ở Đông Nam Á”.
Những hình trang trí ở tháp Chăm được tạo tác ngay trên gạch của thân tháp hoặc được đắp bằng sa thạch. Những hình tượng nghệ thuật sống động đó thể hiện một cách sinh động các nhân vật trong thế giới thần thoại Ấn. Điều này cho thấy sự tinh vi đến tuyệt diệu của nghệ thuật điêu khắc Chăm, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình trên gạch. Có phải các nghệ nhân Chăm thực hiện kỹ thuật chạm trổ sau khi các tường gạch đã xây xong? Nếu như thế, những sai sót mắc phải trong quá trình tạo tác được giải quyết như thế nào? Những nghệ nhân điêu khắc là người kiêm luôn công việc xây dựng hay có hai nhóm thực hiện hai công đoạn nối tiếp nhau: xây dựng và trang trí? Phù điêu, tuợng trên tháp được tạo tác như thế nào? Giữa hỗn hợp kết dính “bí ẩn” với nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật tạo hình Chăm có liên quan gì không?
4. Những khối gạch khổng lồ nhưng không bị nghiêng lún.Các tháp Chăm cao sừng sững nhưng dáng dấp thanh thoát; chỉ khi đến gần người ta mới thấy hết được vẻ đồ sộ của nó. Tháp hầu như là một khối đặc vì khoảng trống bên trong hầu như không đáng kể. Phần “ruột” của đa số các tháp chỉ vừa đủ chỗ cho một người hành lễ (một số tháp lớn thì bên trong cũng chỉ có một khoảng trống vừa đủ để người hành lễ đi một vòng quanh tuợng thần). Với chất liệu gạch và kiểu kiến trúc như thế chắc chắn sức nặng dồn lên nền móng là rất lớn. Thế nhưng các nhà kiến trúc Chăm đã xử lý móng như thế nào để giữ tháp đứng vững qua hàng trăm năm mà độ từ biến không biểu hiện ra ngoài thành sự cố nghiêng lún?
5. Những đền tháp qua hàng trăm năm bị thiên nhiên bào mòn nhưng không bị lộ chân móng?
Khu di tích thánh địa Mỹ Sơn nằm trong lòng chảo nên vấn đề này không khó lý giải. Riêng các tháp Chăm rải rác từ Bình Định đến Phan Thiết đều tọa lạc trên đồi cao nên chân móng của chúng đã đặt ra nghi vấn. Các ngôi tháp trên đồi này được xây dựng cách đây hơn năm trăm năm, thời kỳ các vị vua Chăm chuyển kinh đô từ Trà Kiệu vào Đồ Bàn. “Đất thánh của vương quyền Chămpa sau thế kỷ XIII có lẽ đã được dời vào vùng Đồ Bàn. Tuy nhiên vì tính chất đặc biệt quan trọng của nó, nên Mỹ Sơn hẳn không bị bỏ phế một cách đột ngột … sớm nhất cũng phải đến thế kỷ XV thì khu đất thánh này mới hoàn toàn bị bỏ hoang. Ấy là lúc vương quyền Chămpa đã dời đô về miền Phan Rang” [2: tr.20]. Qua mấy trăm năm trơ vơ giữa trời, hứng chịu biết bao trận mưa xối xả và những cơn gió mùa thổi tứ bề, chắc chắn đỉnh đồi phải bị bào mòn dữ dội, chân tháp theo đó cũng liên tục bị mài mòn, thế nhưng tháp Chăm vẫn không thấy dấu hiệu lộ ra chân móng. Phải chăng các nhà kiến trúc Chăm đã tính được độ lún của tháp theo thời gian để tháp không bị “tróc” ra khỏi ngọn đồi? Đều này khó có khả năng xảy ra vì trong xây dựng không ai dám phiêu lưu như thế? Vậy tháp Chăm “bình chân như vại” trên những đỉnh đồi bằng cách nào?
6. Một câu hỏi đặt ra từ kiểu dáng kiến trúc: Có phải Chăm pa đã từng giao lưu với phương Tây?Có vài trụ chống đỡ trong số các tháp của di tích Mĩ Sơn có kiểu dáng của kiến trúc Hi – La, đó là kết quả tiếp xúc văn hoá Chăm với văn hoá phương Tây hay chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên? Nếu có sự tiếp biến giữa văn hoá Chăm với văn hoá Hy La thì đó là sự tiếp biến do giao lưu trực tiếp hay thông qua lăng kính của văn hoá Ấn Độ?
7. Vì sao người ta “sợ hãi, kiêng dè khi nói đến hay đi qua” Tháp Chăm?
Vào cuối thế kỷ thứ VI, Đàn Hoà Chí, một vị tướng nhà Đường đánh được vào Mỹ Sơn nhưng khi trở về thì bị điên.
Trong đời sống dân gian hầu hết những câu chuyện kể lên quan đến tháp Chăm đều gieo nỗi ám ảnh và sợ hãi cho ngươi nghe.
Cho đến nay người ta vẫn còn sơ tháp Chăm: “người Jrai ở quanh khu vực này rất sợ Bang Keng. Họ (người dân buôn Jú và những vùng phụ cận) gọi đó là yang sang ia - nhà (của) thần nước. Tin theo tín ngưỡng cổ truyền, không chỉ có những người thuộc lớp tuổi trên 50 (trường hợp ơi Trinh) mà ngay cả những người còn trẻ, có học vấn, nhận thức nhất định (ama Trăng, 34 tuổi, cán bộ xã) cũng đều sợ hãi, kiêng dè khi nói đến hay đi qua Bang Keng(3).
8. Những điều nghe, thấy, đọc được về tháp Chăm.
* Về những viên gạch tự “rút nước”.
Trong dân gian, người miền Trung gọi gạch Chăm là “gạch vồ” có lẽ vì nó lớn như cái chày vồ. Những phát hiện gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau để làm gạch, kích cỡ các viên gạch ở mỗi nơi cũng khác nhau. Tại tháp Bang Keng thuộc địa phận buôn Jú, xã Krông Năng “gạch xây tháp có kích thước chủ yếu là rộng: 21,2cm; dài: 40,9cm; dày: 8,5cm; nặng: 14kg, nhưng đôi khi cũng có những viên nhỏ, mỏng hơn chút ít. Bằng mắt thường có thể nhận ra hai loại đất làm gạch khác nhau: loại thứ nhất pha cát nhiều hơn, viên gạch trắng, thớ có vẻ xơ; loại thứ hai được làm bắng đất đỏ, da mịn hơn và lòng trong đỏ”(3). Quanh khu vực tháp Yang Mum thuộc điạ phận Ayun Pa, Gia Lai các nhà điền dã đã được một linh mục cho xem “2 viên gạch đều có màu nâu đỏ, một viên hình vuông và một viên hình chữ nhật. Viên thứ nhất có kích thước 20 x 20 x 2,5cm. Viên thứ hai chúng tôi đo được: 24 x 12 x 7cm” cũng ở khu vực này họ đã tìm gặp được viên gạch “còn nguyên vẹn nhất, khoảng 85%, có kích cỡ rộng: 13cm; dài: 32cm; dày: 7,5cm; nặng: 5,5kg” (3). So sánh sơ bộ dưới đây cho phép chúng ta kết luận: gạch tháp Chăm không có một kích cỡ chung.
Có lẽ do những điều trên đây mà tháp Chăm mau khô và không bị rêu bám?
* Về hỗn hợp kết dính cổ xưa và nghệ thuật trang trí độc đáo.
Người ra đoán rằng thành phần chính của hỗn hợp kết dính đó là dầu Rái. “Về kỹ thuật xây dựng đền tháp, xưa kia, người Champa đã dùng một loại nhựa cây, mà cư dân địa phương ngày nay gọi là dầu Rái, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb., để kết dính những viên gạch lại với nhau trong kết cấu tường tháp. Cây dầu Rái được trồng thành rừng tại miền Trung, thân cây tròn và thẳng; loại nhựa cây này có thể khai thác hàng năm với dung lượng lớn; có độ kết dính rất chặt và bền; hoàn toàn không thấm nước. Nhựa cây này rất dễ xử dụng, đem trộn dầu Rái với đất sét khô hay bột gạch, chúng sẽ tạo thành một loại vữa dễ khô cứng dưới nắng” [2: tr.14]. Một người thợ trùng tu tháp Nhạn (Phú Yên) cho biết thứ hỗn hợp đó gồm nhựa cây, xỉ mật, vỏ các loại sò, ốc và vài thứ khác chưa rõ. Nhựa cây ở đây có thể là nhựa dầu Rái, xỉ mật có thể lấy được trong quá trình ép mía làm đường vì khu vực miền Trung có nhiều vùng đất thích hợp cho cây mía. Tuy nhiên bí quyết làm thế nào để các chất liệu trên trở thành hỗn hợp kết dính thì hầu như chưa được phổ biến. Cũng theo lời những người thợ trùng tu tháp Nhạn, hiện nay họ phải dùng xi măng Nhật thay cho hỗn hợp kết dính cổ truyền này. Nói chưa được phổ biến vì ở Mỹ Sơn, người ta vẫn còn trông thấy một số thợ người Chăm nối các phiến đá có phương ngang theo kỹ thuật móc chữ T kết hợp đổ một thứ keo “bí mật” có độ kết dính cao vào; khi khô thì loại keo này “cứng như sắt”.
Độ kết dính giữa các viên gạch không chỉ do hỗn hợp kết dính mà còn do một kỹ thuật khác nữa - kỹ thuật mài chập. Các viên gạch được mài vào nhau đến khi mặt tiếp xúc thật khít và sau khi cho hỗn hợp kết dính vào giữa người ta còn tiếp tục mài vài lần nữa để tạo sự kết dính hoàn toàn trên bề mặt các viên gạch. Như vậy, có thể xác đoán hỗn hợp kết dính đó phải là chất lỏng sền sệt giống như hồ hoặc keo lỏng. Có nhà nghiên cứu gọi đó là “keo thực vật”.
Sở dĩ người Chăm dùng thứ hỗn hợp kết dính trên thay cho vôi vữa là có lý do. Vấn đề này liên quan đến kỹ thuật xây dựng và trang trí tháp. Về kỹ thuật xây dựng tháp, hỗn hợp kết dính (kết hợp kỹ thuật mài chập) tăng sự vững chãi và độ bền của tháp. Quy trình xây tháp và trang trí trên tháp được tiến hành gần như song song, tức là xây đến đâu là trang trí đến đó. Giả thiết cho rằng người ta xây lên một khối gạch lớn rồi nung thành ngôi tháp là không có sức thuyết phục. Theo những người làm gạch thủ công thì điều này không thể làm được vì khó có thế nung chín đều cả khối gạch mà chỗ mỏng nhất 6 tấc, chỗ dày nhất đến 3 mét và cao trên chục mét. Đó là chưa kể những viên gạch chưa nung ở lớp dưới cùng khó có thể chịu đưng được trọng lượng của cả khối gạch khổng lồ ở bên trên. Giả thiết khác cho rằng “sau khi tường tháp đã được xây lên, những nhà điêu khắc mới bắt đầu chạm trổ hoa lá, hình người…” [2: tr.24] cũng đặt ra một số nghi vấn như đã nêu ở mục 3. Để tạo tác hình tượng trên tháp, người thợ phải tiến hành khắc gọt các chi tiết hình khối của hình tượng nghệ thuật trên từng viên gạch rồi lắp dần vào. Tất cả những viên gạch (ở mỗi tháp) được làm giống nhau về kích cỡ và chất lượng. Quy trình xây tháp được tiến hành từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài. Công đoạn tạo hình chỉ thực hiện ở lớp ngoài cùng của tháp. Tất cả các khuôn mẫu của phù điêu và tượng nằm trong tâm thức của những nghệ nhân tạo hình. Chỉ những người thợ lành nghề và am hiểu nghệ thuật tạo hình của văn hoá Chăm mới tham gia phần trang trí vì chỉ có họ mới có thể phát hiện những viên gạch bị tạo tác lỗi và dứt khoát vứt nó đi để tạo tác viên khác. Từng viên, từng viên được lắp kế tiếp nhau, và cũng chỉ có loại hỗn hợp kết dính “đặc biệt” mới giúp các nghệ nhân lắp ghép chính xác các mẩu mảnh rời rạc thành hình khối sinh động. Rõ ràng, việc lựa chọn “keo thực vật” còn do yêu cầu của kỹ thuật trang trí chứ phải không chỉ do yêu cầu của kỹ thuật xây dựng. Bằng cách này, các tháp Chăm có được “những kiểu thức kiến trúc đa dạng, những kiểu cách hoa văn trang trí độc đáo”, thể hiện tài hoa của “những bậc thầy” về nghệ thuật xây gạch. Chúng ta thử tưởng tượng, nếu các phù điêu, các tuợng trên thành tháp, nóc tháp mà lồ lộ ra những mạch hồ thì còn gì là nghệ thuật! Lại nữa nếu như thế thì các mạch hồ làm sao có thể chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt của miền Trung qua hàng trăm năm.
* Về nền móng vững chãi của tháp.
Trong thuật ngữ xây dựng, khái niện từ biến để chỉ sự biến đổi hình dạng, trạng thái của công trình dưới sức nặng của khối vật liệu được sử dụng. Hầu hết các công trình kiến trúc đều có hiện tượng từ biến, nhưng do tính toán trước nên người ta không để xảy ra sự cố đáng tiếc. Với tháp Chăm, các nhà kiến trúc Chăm đã xử lý móng như thế nào để tránh hiểm hoạ của hiện tượng từ biến. Nói rõ hơn, trong khi một số tháp ở Thái Lan có hiện tượng nghiêng thì nhờ đâu mà các tháp Chăm ở Việt Nam không bị nghiêng lún. Theo những người trùng tu tháp Chăm ở Phú Yên và Khánh Hoà thì trước khi xây tháp, các nhà kiến trúc Chăm đã “khảo sát địa chất” một cách kỹ lưỡng. Vị trí xây tháp lý tưởng là phía dưới chân tháp có một khối đá tảng to lớn. Một khối gạch dù nặng nề đến mấy cũng chẳng gây được hiệu ứng từ biến khi được đặt trên khối đá Granit bệ vệ, vững chãi. Ở những nơi không tìm được khối đá tảng phía dưới thì người ta phải gia cố móng theo cách tạo “khối đá” nhân tạo. Những vùng có đá tổ ong cũng được xem là “địa thế tốt” để xây tháp. Có lẽ đây là một trong những nguyên do mà đa số tháp Chăm dọc miền Trung và Tây Nguyên được xây dựng trên vùng đồi núi hoặc nơi chỗ đất cao có đá tổ ong.
Để bảo vệ chân móng của tháp không bị “tróc” ra khỏi mặt đất trước sự bào mòn của mưa gió, các nhà kiến trúc Chăm đã làm phép tính có giá trị đến hàng nghìn năm. Năm 1998, khi đến tháp Nhạn (Phú Yên), một nghệ nhân gốc Chăm đang trùng tu tháp cho chúng tôi biết phần móng nằm rất sâu trong lòng đất, có nơi bằng hoặc hơn “phần bảy, phần mười” chiều cao lộ thiên của tháp. Nếu sự thực như vậy thì tháp phải được xử lý thoát nước tốt để phần chìm không bị hủy hoại. Trong thực tế, những ngôi tháp ở Mỹ Sơn cũng luôn nằm ở vị trí cao nhất trong thung lũng. Năm 2002, khi đến Mỹ Sơn, một hướng dẫn viên “tiết lộ” phần móng của các tháp ở đây cũng sâu từ 1,5m đến 2m. Tháp vững chãi và không nghiêng còn do chân tháp có một hệ thống trợ lực ngoại vi. Điều này đã được xác nhận qua lần khai quật mới đây (tháng 8/2008) tại tháp Bình Lâm (Bình Định). “Đặc biệt kết quả khai quật khảo cổ đã làm xuất lộ hệ thống bó chân tháp bằng gạch dày 1,25m, phần cao nhất hiện còn 0,8m. Bó chân tháp được xây giật cấp và bẻ góc từ hai bên cửa giả phía Nam và phía Bắc ôm vòng qua trước tiền sảnh của vòm cửa chính…. Phần bó chân tháp bị chôn sâu trong lòng đất khoảng 1,5m. Đây là một phát hiện mới đối với kiến trúc tháp cổ Champa ở Bình Định” (4). Như vậy, lời của những người thợ trùng tu tháp Nhạn nói cách đây hơn 10 năm là có cơ sở! Và có thể họ còn biết nhiều điều bí ẩn khác nữa về tháp Chăm.
* Về các trụ có kiểu dáng kiến trúc Hy La ở khu thánh địa Mỹ Sơn.
Thật khó xác định những cây trụ này hiện diện ở khu thánh địa Mỹ Sơn bằng cách nào. Nếu có sự giao lưu trực tiếp giữa Chăm pa với phương Tây (chỉ có thể bằng đường biển) thì hiện tượng tiếp biến văn hoá có tính đơn lẻ như vậy thật hiếm thấy trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ. Nếu tiếp biến qua lăng kính văn hoá Ấn Độ thì các trụ này phải thuộc phong cách kiến trúc “phi Ấn”.
Chúng ta đã biết, trong vòng 7 thế kỷ xây dựng (từ TK. VII đến TK. XIII), Mỹ Sơn dung hợp nhiều kiểu kiến trúc truyền thống trong khu vực. Nghệ thuật kiến trúc ở đây thể hiện rất rõ quá trình chuyển hóa của nghệ thuật Champa. Đầu tiên và rõ nét nhất là phong cách kiến trúc Ấn Độ, tiếp đó là phong cách Indonesia qua kiểu dáng đền Pravanan, kiến trúc Campuchia với kiểu dáng Ăng co vat, kiến trúc Phật giáo đại thừa Việt Nam thời Lý Trần qua hình tượng các đài sen, và sau cùng là kiến trúc Hồi giáo. Các đền tháp thuộc khu thánh địa Mỹ Sơn, do vậy, được xây dựng theo các kiểu dáng một cách có hệ thống. Nhóm Mỹ Sơn E1 và F1 theo kiểu cổ đại hay kiểu Mỹ Sơn E1 (thế kỷ 8). Nhóm Mỹ Sơn A2, C7 và F3 theo kiểu Hòa Lai (cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9. Nhóm Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12 theo kiểu Đồng Dương (cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10). Nhóm Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4 kiểu Mỹ Sơn A1 (thế kỷ 10). Nhóm Mỹ Sơn E4, F2, nhóm K theo kiểu chuyển tiếp Mỹ Sơn A1-Bình Định (đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 13). Nhóm Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H kiểu Bình Định (cuối thế kỷ 11 - cuối 3). (Các chũ cái La tinh A, B, C dùng để đánh dấu đền tháp nhằm giúp cho quá trình khảo sát được dễ dàng chứ không hàm nghĩa xếp loại thứ tự nào cả). “Ðền - tháp ở Mỹ Sơn được xây dựng và tu bổ liên tục từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 13 … Các vương triều Champa sau khi lên ngôi thường xây dựng thêm hoặc tu bổ lại các đền thờ của các triều vua trước để tỏ lòng kính ngưỡng tiền nhân và chư thần hộ trì vương quốc” (5). Những cứ liệu này cho phép suy luận: hiện tượng tiếp thu và tổng hợp các kiểu kiến trúc gắn với tôn giáo, tín ngưỡng trong khu vực Mỹ Sơn là lẽ đương nhiên. Hơn nữa, Chăm pa nằm ở vị trí “trung lộ” của Đông Tây nên sự hiện diện của một trong các phong cách kiến trúc vừa nêu là điều dễ hiểu. Vấn đề còn lại là xác định các trụ trên thuộc phong cách kiến trúc nào? Ấn, Indonesia, Hồi hay Hy La?
Trước hết, hình bát giác của các trụ tự “khai nhận” mình không thuộc nhóm trụ tròn hoặc vuông của các đền chùa Đông Nam Á. Hình dáng đó gần với nhóm trụ Hy La. Nhưng nếu trụ La Mã thì vát bản to hình tròn, nếu trụ Hy lạp thì phần đáy tum như hình thoi; còn ở đây trụ lộ những góc hình tam giác và đặc biệt là sự hiện hiện của ngôi sao (một biểu tượng trên quốc kỳ Thổ Nhĩ Kỳ - vùng đất mà có thể kiến trúc Hy-La “quá cảnh” trên đường đến Ấn Độ). Về mặt trang trí thì các trụ này trụ chỉ được trang trí một ít lá và hoa ở phần chân và đỉnh, không trang trí trên toàn thân cột. Đây là kiểu trang trí theo quy luật Hồi giáo. Kiểu trang trí này cũng có thể bắt gặp ở những khoảng tường trơn (không trang trí) trên một số tường tháp gần đó (có người cho rằng những khoảng trơn đó là “khoảng vắng” của nghệ thuật nhưng biết đâu lại là chỗ đánh dấu sự hiện diện của mỹ thuật Hồi giáo).
Đa số các trường hợp giao thoa, tiếp biến văn hoá thời trung cổ, đền đài là nơi thể hiện đặc điểm kiến trúc của nền văn hoá được tiếp nhận. Thánh địa Mỹ Sơn cũng nằm trong số đó. Tuy nhiên, đối với các trụ có kiểu dáng không thuộc phong cách Hy-La, cũng không hoàn toàn mang phong cách Hồi giáo như đã khảo sát thì phong cách kiến trúc mà người Chăm pa tiếp nhận ở đây thuộc nền văn hoá nào? Có lẽ phải chấp nhận tên gọi các trụ trên là “Hy - La - Hồi” như một số nhà nghiên cứu đã từng gọi. Và như vậy, các trụ đó thuộc một phong cách kiến trúc mà yếu tố Hồi giáo đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ Hy-La qua Thổ Nhĩ Kỳ đến Ấn Độ. Khi đến Chăm pa yếu tố này vẫn giữ nguyên tính chưa ổn định về bản sắc của nó.
* Về sự linh thiêng của Tháp Chăm.
Có nhiều lý do đưa đến sự linh thiêng của tháp Chăm. Đối với người Chăm ở miền Trung thì tháp vừa là kiến trúc tôn giáo vừa là lăng mộ (kalan). “Ðền-tháp ở Mỹ Sơn được xem như tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo Champa. Ngôi đền chính hay Kalan là kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể đền-tháp. Kalan tượng trưng cho một tiểu vũ trụ. Theo quan niệm của Ấn Ðộ giáo, Kalan có 3 phần:
Ðế tháp gọi là Bhurloka tượng trưng cho thế giới trần tục.
Thân tháp gọi là Bhuwarloka tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi con người tự thanh tịnh chính mình để có thể tiếp xúc với tổ tiên đã hòa nhập với thần linh;
Mái tháp gọi là Swarloka tượng trưng cho thế giới thần linh, nơi chư thần tụ tập”(5).
Trong Hin-đu giáo, Bàlamôn được xem là hình thức phát triển tiếp theo của đạo Vêđa. Bàlamôn giáo giữ vai trò đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Chăm. Bàlamôn giáo đi tìm chân lý đưa đến sự giải thoát. Chân lý đó là sự gặp gỡ giữa linh hồn cá thể (Atma) với linh hồn vũ trụ (Brahma). Linh hồn vũ trụ (Brahma) còn có nghĩa là Đại Hồn, là nguồn gốc của vũ trụ, là chúa tể của các vị thần, là đấng Tuyệt Đối. Brahma có quyền năng tối cao, hiện thân trong một thể gồm 3 ngôi: Thần Sáng Tạo (Brahma), Thần Bảo Tồn (Visnu), Thần Phá Hủy (Siva). Con người được giải thoát khi linh hồn cá thể tìm gặp được Đại Hồn, tức là đã nhập thân vào linh hồn vũ trụ.
Các tháp Chăm dọc miền Trung toạ lạc trên những đỉnh đồi cao, chung quanh có phong cảnh đẹp đẽ. Toàn cảnh tháp Chăm toát lên vẻ đẹp thanh thoát, tĩnh lặng. Tháp vừa là lăng mộ vừa là đền thờ thần, và là nơi tiến hành các nghi lễ thần thánh. Tất cả những yếu tố đó cho thấy tháp không chỉ là công trình kiến trúc tôn giáo nghệ thuật mà còn là hiện thân của triết lý giải thoát. Tháp là cầu nối giữa cuộc sống trần thế với đấng toàn năng Brahma. Tháp là nơi chuyển tiếp để linh hồn cá thể hoá thân vào linh hồn vũ trụ. Đó là “không gian thiêng” để con người từ biệt cõi trần, đi vào thế giới của đấng toàn năng.
Thung lũng Mỹ Sơn được người Chăm gọi là vùng đất thiêng, là vùng đất đã dâng cho thần (vì vậy trong suốt quá trình xây 72 đền tháp ở đây, vật liệu không được lấy trong thung lũng mà phải chuyển từ ngoài vào). Thực chất quần thể di tích kiến trúc Mỹ Sơn là “thánh địa” của các thầy tu (tăng lữ) và giới quý tộc. Giới này tin (và phải tin) rằng có Brahma - hiện thân của quyền năng tuyệt đối mà bất cứ ai cũng phải nể sợ. Trong vùng đất thiêng này có núi thiêng; trong núi thiêng có suối thiêng, trong suối thiêng có nước thiêng. Nước thiêng để dâng cúng và “tắm” cho tượng thần. Không ai được đến gần hay “dẫm” lên những cái thiêng ấy.
Đồng bào ‘Cao Nguyên’ sợ tháp Chăm vì tin rằng đó là nơi cư ngụ của thần nước; ở đó có Yang hay Yàng tức là Trời.
Đàn Hoà Chí bị điên sau khi giáp mặt với Mỹ Sơn có lẽ cũng do khủng hoảng tư tưởng. Đó là sự bế tắc không sao giải toả nổi trong tâm thần của một “trí nhân quân tử” vốn được lĩnh hội một cách bài bản nền văn hoá (Trung Hoa) trừu tượng lại bất ngờ đối diện với một nền văn hoá (Chăm) cụ thể đến “ghê hồn”.
Người chuyên trùng tu đền tháp Chăm Pa
Đó
là ông Lý Văn Huân hơn 60 năm tuổi đời, trên 30 năm tuổi nghề và 21 năm
gắng bó với các dự án gia cố, chống xuống cấp, trùng tu, tôn tạo tháp
cổ, ông là bên B duy nhất thi công gia cố, trùng tu toàn bộ tháp Chăm
Bình Định.
Vốn kiệm lời không thích nói về mình, nghiêm khắc, đôi khi hơi khó tính, “nói như đinh đóng cột” và nói đi đôi với làm, nhưng ông là người rất có uy tín không chỉ trong giới thầu xây dựng, trong đội ngũ công nhân lao động, mà còn được tín nhiệm cao đối với các chủ đầu tư công trình xây dựng dân dụng, công sở đến công trình cấp thoát nước… đặc biệt trong lĩnh vực gia cố, chống xuống cấp, trùng tu, tôn tạo tháp cổ Chăm Pa.
Công việc bảo tồn, gia cố, chống xuống cấp tháp cổ Chăm Pa Bình Định đã được chính quyền Sài Gòn triển khai từ những năm 1960, và có một số tháp đã được gia cố như: tháp Bánh Ít, tháp Cánh Tiên. Thế nhưng, công tác bảo tồn những di sản quý giá ấy thực sự được quan tâm đúng mực kể từ khi xí nghiệp tu bổ di tích Trung ương phối hợp với các chuyên gia Ba Lan khảo sát, nghiên cứu toàn bộ hệ thế tháp cổ Chăm Pa vào năm 1984 và bắt đầu thi công gia cố, chống xuống cấp năm 1985.
Từ những ngày đầu tiên, ông Lý Văn Huân đã tham gia cùng với chuyên gia Ba Lan và xí nghiệp tu bổ di tích Trung ương chống xuống cấp tháp Đôi, tháp Dương Long bằng cách neo thép POK các khối điêu khắc đá dễ bị rơi đổ và gia cố chân tháp bị sạt lở. Ngoại trừ tháp Hòn Chuông nằm trên đỉnh núi Bà (Cát Tài - Phù Cát) chưa được trùng tu, còn lại 7 cụm 13 tháp Chăm Bình Định đều do bàn tay ông gia cố trùng tu trong suốt hơn 20 năm qua. Hiện nay, ông đang giữ kỷ lục người có thời gian tham gia vào số lượng dự án thi công gia cố, trùng tu tháp cổ Chăm Pa nhiều nhất nước.
Việc thất truyền kỹ thuật xây dựng tháp Chăm Pa đã dẫn đến không ít khó khăn trong công tác trùng tu. Hai cơ quan Trung ương tư vấn thiết kế trùng tu tháp cổ là: Xí nghiệp tu tổ di tích Trung ương và Trung tâm Triển khai và tư vấn xây dựng Miền Trung – Viện Khoa học Công nghệ xây dựng đã có những luận chứng khoa học khác nhau về giải pháp trùng tu (khác nhau về chất keo dính, về chất phụ gia, kích cỡ gạch, và cả nguyên tắc trùng tu).
Do vậy, trên cơ sở thiết kế dự toán của các cơ quan tư vấn Trung ương, mỗi tỉnh có một phương pháp trùng tu khác nhau. Trong nhưng năm qua, cả hai cơ quan tư vấn thiết kế trung ương đều chưa lập được một thiết kế, dự toán trùng tu cụ thể, đầy đủ một cách tương đối trong điều kiện có thể, đôi khi còn thiết kế trùng tu sai lệch nguyên gốc di tích. Do vậy, thiết kế trùng tu cần được hoàn chỉnh trong quá trình thi công. Nếu thiếu lương tâm nghề nghiệp, người trùng tu có thể dựa trên thiết kế chưa chuẩn xác ấy thi công sai lệch nguyên gốc di tích hoặc làm gian dối để có lợi nhuận cao hơn. Đó là điều tối kỵ trong nguyên tắc trùng tu di tích.
Nhiều năm qua cố chống xuống cấp các tháp, sáu năm trùng tu tháp Đôi, (1991 - 1996), tám năm trùng tu cụm tháp Bánh Ít (1997 - 2004), “nghề dạy nghề”, ông đã có nhiều tìm tòi, sáng kiến trong kỹ thuật trùng tu tháp cổ. Cho đến hiện nay. Bình Định được các nhà nghiên cứu Chăm Pa và các chuyên gia bảo tồn di sản văn hóa đánh giá là địa phương trùng tu tháp cổ Chăm Pa tốt nhất. Nhiều đoàn cán bộ của các tình Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa… đã đến tham quan học tập phương pháp trùng tu tháp Chăm Bình Định. Để có được thành công ấy, không thể không nhắc đến sự đóng góp rất lớn cả tâm và lực của ông Lý Văn Huân.
Hai bố con anh Trần Văn Châu - thợ chạm đá, có 10 năm làm việc cho ông Huân và vợ chồng ông Hồ Sỹ Hùng – thợ hồ, gần 30 năm đi theo ông Huân thi công từ các công trình dân dụng đến trùng tu tháp đều nhận xét rằng: “Ông là người chắc thiệt, và luôn chính xác như đồng hồ – tháng nào cũng vậy, ngày 15 làm lương là ngày 16 nhận tiền”.
Với tuổi U70 (dưới 70), lẽ ra ông đã “nghĩ hưu” sau khi hoàn thành dự án trùng tu cụm tháp Bánh Ít. Thế nhưng, được sự tín nhiệm của ngành Văn Hóa - Thông tin yêu cầu ông tiếp túc công tác, và có lẽ “ma Hời” vẫn chưa muốn cho ông nghĩ ngơi. Nên ông lại nhận thầu trùng tu, tôn tạo tháp Cánh Tiên. Hằng ngày (ngoại trừ ngày chủ nhật), từ tờ mờ sáng ông chạy xe máy gần 30 cây số từ Qui Nhơn lên tháp Cánh Tiên, trèo lên giàn giáo cao gần 30 mét để kiểm tra công việc ngày hôm trước và hướng dẫn thi công ngày hôm sau. Hiện nay, ông đang tư vấn thi công trùng tu cụm tháp Dương Long đợt một với kinh phí là 4 tỷ đồng. Tổng kinh phí thực hiện dự án trùng tu, tôn tạo hoàn chỉnh tháp Dương Long khoảng 10 tỷ đồng.
Ông Đặng Hữu Thọ - giám đốc bảo tàng tổng hợp, phó ban trực bên chủ đầu tư các dự án trùng tu tháp cổ Chăm Pa Bình Định cho rằng: “về trùng tu tháp cổ Chăm Pa Bình Định, khó mà tìm được một B thứ hai am hiểu và tận tâm như ông Lý Văn Huân”.
Phong cách kiến trúc Champa
http://www.zenarch.vn/home/detail.php?iCat=39&iNew=82&module=newshttp://www.vanhoahoc.com/site/index.php?option=com_content&task=view&id=1132&Itemid=73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Thị Được Điêu khắc Chăm và thần thoại Ấn Độ, NXB. Đà Nẵng, 2005.
2. Trần Kỳ Phương Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm, NXB. Đà Nẵng, 1988.
3.http://inrasara.com/index.php/2008/03/08/nguy%E1%BB%85n-quang-tu%E1%BB%87-phat-hi%E1%BB%87n-them/
4.http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tintuc_chitiet.asp?TTID=1830
5.http://www.vanhoahoc.com/index.php?option=com_content&task=viewid=851&Itemid=73
6.http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_S%C6%A1n
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành
phố Đà Nẵng khoảng 69 km và cách thành cổ Trà Kiệu khoảng 20 km, là tổ
hợp bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính
khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của
vương triều Chăm pa cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm pa hay hoàng
thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung
tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy
nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Thông thường người ta hay so sánh thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan (Myanma), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan). Từ năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất.Mỹ Sơn có lẽ được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ 4. Trong nhiều thế kỷ, thánh địa này được bổ sung thêm các ngọn tháp lớn nhỏ và đã trở thành khu di tích chính của văn hóa Chămpa tại Việt Nam. Ngoài chức năng hành lễ, giúp các vương triều tiếp cận với các thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn hóa và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn cất các vị vua, thầy tu nhiều quyền lực. Những di vật đầu tiên được tìm thấy ghi dấu thời đại vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây dựng một thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia.
Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng có một đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ 4. Hơn 2 thế kỷ sau đó, ngôi đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ 7, vua Sambhuvarman (Phạm Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng gạch để xây dựng lại ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay (có lẽ sau khi dời đô từ Khu Lật về Trà Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ ký ức của một dân tộc kỳ bí và kỹ thuật xây dựng tháp của người Chàm cho tới nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng.
Những ngọn tháp và lăng mộ có niên đại từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 14, nhưng các kết quả khai quật cho thấy các vua Chăm đã được chôn cất ở đây từ thế kỷ 4. Tổng số công trình kiến trúc là trên 70 chiếc. Thánh địa Mỹ Sơn có thể là trung tâm tôn giáo và văn hóa của nhà nước Chăm pa khi thủ đô của quốc gia này là Trà Kiệu hay Đồng Dương.Sau khi vương quốc Chiêm Thành lụi tàn, thánh địa Mỹ Sơn đã chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến năm 1885, nó mới được phát hiện. Mười năm sau, các nhà nghiên cứu bắt đầu thực hiện các cuộc phát quang, nghiên cứu khu di tích này.
Có thể chia việc nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp về Mỹ Sơn thành hai giai đoạn:
Từ năm 1898 đến 1899: Louis de Finot và Launet de Lajonquere nghiên cứu các văn bia.
Từ năm 1901 đến 1902: Henri Pamlentier nghiên cứu về nghệ thuật, năm 1904 ông cùng Olrpeaus tổ chức khai quật khảo cổ học tại đây.
Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được L. Finot và H. Pamlentier công bố. Từ công trình nghiên cứu của H. Pamlentier, người ta biết cách đây hơn 100 năm Mỹ Sơn còn 68 công trình kiến trúc, và ông đã chia chúng thành các nhóm từ A, A’ đến N.Nhà nghiên cứu nghệ thuật F.S. Tern chia di tích Chăm Việt Nam thành 7 phong cách nghệ thuật theo quá trình tiến triển của nó. Mỹ Sơn có đủ đại biểu các phong cách, trong đó có 2 phong cách xuất phát từ Mỹ Sơn. Đặc biệt phong cách Mỹ Sơn A1 với xuất phát là đền A1 thường được gọi là kiệt tác kiến trúc của di tích Chăm.
Các nhà khảo cổ học Pháp chia các công trình kiến trúc ở Mỹ Sơn ra làm 10 nhóm chính: A, A', B, C, D, E, F, G, H, K để đặt tên cho mỗi lăng mộ theo kiểu ghép chữ cái và số.Về mặt kiến trúc thì các đền tháp, lăng mộ ở Mỹ Sơn là nơi hội tụ của các kiểu dáng khác nhau, từ những kiểu cổ đại hay kiểu Mỹ Sơn E1 (thế kỷ 8, Mỹ Sơn E1 và F1), kiểu Hòa Lai (cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, Mỹ Sơn A2, C7 và F3), kiểu Đồng Dương (cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12), kiểu Mỹ Sơn A1 (thế kỷ 10, Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4), kiểu chuyển tiếp Mỹ Sơn A1-Bình Định (đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12, Mỹ Sơn E4, F2, nhóm K) và kiểu Bình Định (cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14, Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H).Nghệ thuật và kiến trúc qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Độ. Khu thánh địa có một tháp chính (kalan) và nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc xung quanh. Các tháp đều có hình chóp, biểu tượng của đỉnh Meru thần thánh, nơi cư ngụ của các vị thần Hindu. Cổng tháp thường quay về phía đông để tiếp nhận ánh sáng Mặt Trời. Nhiều tháp có kiến trúc rất đẹp với hình những vị thần được trang trí với nhiều loại hoa văn. Phần lớn những kiến trúc này hiện nay đã bị suy tàn, nhưng đây đó vẫn còn sót lại những mảng điêu khắc mang dấu ấn hoàng kim của các triều đại Chăm pa huyền thoại. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ linga hoặc hình tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Chăm pa. Những người cầu nguyện thời trước thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ.
Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn từ Ấn Độ giáo, song biểu tượng của Phật giáo cũng tìm thấy ở Mỹ Sơn, vì đạo Phật Đại Thừa (Mahayana) đã trở thành tín ngưỡng chính của người Chăm vào thế kỷ 10. Một số đền đài đã được xây dựng trong thời gian này, tuy nhiên vào thế kỷ 17 nhiều tòa tháp ở Mỹ Sơn đã được tu sửa và xây dựng thêm.Tại thánh địa Mỹ Sơn có một đền xây dựng bằng đá, nó cũng là đền đá duy nhất của các di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234. Ngày nay, ngôi đền này đã bị sập (có lẽ do bom Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, vì ngay sát tháp là một hố bom sâu hoắm vẫn dấu tích) nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30 m và đây là ngôi đền cao nhất của thánh địa này. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây là vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ 4.Công việc bảo tồn đầu tiên diễn ra năm 1937 bởi các nhà khoa học người Pháp. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến 1938, đền A1 và các đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ năm 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Tuy nhiên, nhiều tháp và lăng mộ (bao gồm tổ hợp A với tháp A1 đã từng rất tráng lệ - gồm tháp chính A1 cao 24 mét và 6 tháp phụ xung quanh, bị hủy diệt năm 1969) đã bị hủy diệt trong Chiến tranh Việt Nam. Phần lớn các đền đài trong các nhóm khu vực trung tâm như B, C và D còn tồn tại, và mặc dù rất nhiều pho tượng, bệ thờ và linga đã bị lấy về Pháp trong thời kỳ thực dân hay gần đây được chuyển tới các viện bảo tàng như Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng, vẫn có một viện bảo tàng tạm thời đã được thiết lập trong 2 ngôi đền với sự trợ giúp của người Đức và Ba Lan để trưng bày các mô hình các lăng mộ và hiện vật còn lại. Ngày 24 tháng 3 năm 2005, tỉnh Quảng Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà trưng bày, giới thiệu di tích Mỹ Sơn với diện tích 5.400 m² với nhà trưng bày chính rộng 1.000 m² ngay lối dẫn vào di tích (khoảng 1 km) do Nhật Bản tài trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều lo ngại về tình trạng của các công trình kiến trúc, một số trong đó có khả năng sập đổ. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam đã chi khoảng 7 tỷ VNĐ (USD 440.000) cho dự án phục chế khẩn cấp thánh địa Mỹ Sơn; một dự án của UNESCO được hỗ trợ bởi chính phủ Ý với số tiền là USD 800.000 và các cố gắng phục chế có nguồn vốn từ Nhật Bản hiện nay cũng đang góp phần ngăn chặn tình trạng xuống cấp của chúng. Các công việc phục chế tại đây cũng được World Monuments Fund (WMF) góp vốn.
(Theo:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1nh_%C4%91%E1%BB%8Ba_M%E1%BB%B9_S%C6%A1n).
Nằm trong một thung lũng kín đáo thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70km về hướng Tây Nam, cách kinh thành Trà Kiệu 10km về hướng Tây, Mỹ Sơn – Thánh địa Ấn Độ giáo của Vương quốc Chăm pa xa xưa là quần thể di tích đầy hoài niệm về một thời quá khứ, một trong những di sản văn hóa thế giới rất được quan tâm.
Nhận
thấy nguy cơ sập đổ, việc trùng tu tạm dừng và họ cho dựng các giàn
chống bằng sắt quanh thân tháp và dùng các dây cáp neo giữa chống tình
trạng ngã đổ. Hơn ba năm sau, giàn sắt chống đỡ được tháo dỡ. Việc trùng
tu chỉ tiến hành đến đó rồi dừng. Một cán bộ của ngành chức năng cho
biết do thiếu kinh phí nên việc trùng tu tạm dừng.
Sẽ trùng tu Tháp F1, Mỹ Sơn vào năm 2006
Ông Lê Thành Vinh, Viện trưởng Viện bảo tồn di tích đã có công văn gửi cho huyện Duy Xuyên cho biết việc gia cố trùng tu tháp F1 chỉ có thể tiến hành vào 2006 bởi mùa mưa năm nay đang đến gần.Từ năm 2003 đến nay, Tháp F1 Mỹ Sơn đã được che bằng mái kim loại khi công tác khai quật đã hoàn thành, dẫn đến tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, biến dạng màu sắc gạch, gạch rơi ra khỏi thân tháp, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Sau khi báo phát hành, huyện Duy Xuyên đã làm văn bản gửi Viện BTDT-Bộ VHTT, đề nghị cơ quan này tham gia trùng tu tháp. Công văn của Viện này do ông Lê Thành Vinh, viện trưởng, vừa gửi cho huyện Duy Xuyên, khẳng định: Việc làm nhà mái che không phù hợp với điều kiện khí hậu, đặc điểm vật liệu, cấu trúc liên kết của tháp, nên mức độ hư hại của F1 hiện rất nghiêm trọng, lớn gấp nhiều lần so với các tháp chưa khai quật. Việc gia cố trùng tu F1 chỉ có thể tiến hành vào 2006 bởi mùa mưa năm nay đang đến gần. Với tháp F1, liên kết trên đã bị tách làm đôi, đảm nhận việc khai quật là đội ngũ khác, Viện không tham gia nên không có thông tin gì cả về khai quật, điều này sẽ gây khó khăn trong công tác thiết kế, trùng tu.
Cần tiếp tục khám phá Mỹ Sơn?
Kết quả khai quật ở Di sản thế giới Mỹ Sơn giữa tuần qua do Viện khảo cổ học VN tiến hành đã làm bừng lên hy vọng khám phá lại và tìm kiếm một Mỹ Sơn ẩn sâu trong lòng đất.
Hiện vật cổ nhất của Mỹ Sơn được phát hiện như thế nào?
Sau khi phát hiện ra Mỹ Sơn vào năm 1889, người ta đã làm những cuộc thống kê khảo tả về hiện trạng của chúng. Trong một đợt khai quật sau đó các nhà khảo cổ người Pháp đã tìm thấy hai di vật là một đài thờ và một cái mi cửa. Hai di vật này không chỉ được xem là nhưng kiệt tác điêu khắc, mà còn minh chứng cho một phong cách nghệ thuật cổ nhất của Chăm.
* Bằng mắt thường người ta thấy Mỹ Sơn gồm những ngọn tháp gạch cổ kính. Nhưng cuộc khai quật lại tìm thấy một kiến trúc ngói, phải chăng tháp cổ Mỹ Sơn lợp ngói?
- Điều đó không có gì là lạ cả: Các tháp ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu trước đây đều sử dụng ngói để lợp trên những phần kiến trúc nhất định (thí dụ các gian tiền tế thậm chí còn dùng cả tranh, tre, nứa lá. Nhưng do thời gian, nên các vật liệu kém bền vững đó đã bị sập hết.
Ngược lại, những yếu tố Java hay Khmer cũng được thấy trên các tháp Champa như ở Khương Mỹ, Hưng Thanh, Dương Long, hay có cả những ngôi tháp còn được người Champa gọi là "tháp Khmer" như tháp Champa Hoà Lai.
Tháp Chàm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Mặt bằng tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng Mặt Trời mọc). Trần được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Các viên gạch liên kết với nhau rất rắn chắc, bền vững tới hàng chục thế kỷ.
Mỹ Sơn
Ngày 1 tháng 10 năm 2006, Trung tâm Quản lý di tích-di sản tỉnh Quảng
Nam chính thức công bố thông tin: các nhà khoa học của Đại học Milan, Ý
khi đang làm việc trùng tu nhóm tháp G-thuộc Thánh địa Mỹ Sơn đã nhận
biết được loại vật liệu kết dính để xây tháp Champa cách đây vài trăm
năm. Đó là loại keo được tinh chế từ một loài thực vật vốn có rất nhiều
trong khu vực quanh di sản Mỹ Sơn, mà người dân địa phương thường gọi là
cây dầu rái. Ngoài ra, họ cũng đã phát hiện ra một loại hợp chất có
nguồn gốc từ thực vật bản địa nói trên có trong gạch sử dụng để xây
tháp. Như vậy, những điều bí ẩn xung quanh vật liệu được người Chăm sử
dụng để xây dựng các công trình tôn giáo ở Việt Nam sau hơn 100 năm đã
được giải mã. Trước đó, một người thợ thủ công tên là Lê Văn Chỉnh
(thuộc tỉnh Quảng Nam) cũng đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu phương
pháp xây dựng tháp Chăm đã phát hiện được hợp chất dầu rái trong gạch để
xây tháp và chất kết dính, nhưng chưa được ai quan tâm thừa nhận.Lịch sử
Tháp Chàm Pôshanư tọa lạc tại phường Phú Hải, Thành phố Phan Thiết. Lịch sử xây dựng các đền tháp Champa kéo dài từ cuối thế kỷ thứ 7 đến đầu thế kỷ 17. Trong khoảng thời gian này, những người Champa xưa đã để lại một số lượng lớn các công trình kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc. Hiện tại có trên hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp và rất nhiều phế tích kiến trúc. Các di tích này có giá trị đặc sắc, mang tính toàn cầu, xứng đáng nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Một trong những sự quan tâm ấy là việc tổ chức UNESCO đã công nhận Mỹ Sơn là di sản văn hoá thế giới cũng chính là việc đánh giá cao thành quả nghiên cứu về kiến trúc Champa nói chung.
Tháp Chàm Pôshanư - Phường Phú Hải, Thành phố Phan Thiết
Theo tiếng Chăm, các đến tháp Champa này được gọi là kalan, nghĩa là
"lăng". Các lăng này được các đời vua Chăm xây dựng để thờ cúng các vị
thần. Các vị thần được thờ phụng có thể là các vị thần Ấn Độ giáo tiêu
biểu như Siva (thần hủy diệt), Ganesha (phúc thần đầu người mình voi)...
hoặc đấy còn có thể là các vị Phật. Điều này tùy thuộc vào lòng tin và
kính mộ của mỗi vì vua ở các triều đại khác nhau. Ở thánh địa Mỹ Sơn
hiện nay phần lớn là công trình kiến trúc tôn giáo thờ các vị thần thuộc
Ấn Độ giáo và Bà la môn giáo. Nhưng ở thánh địa Đồng Dương (thuộc địa
phận huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) đây là kinh đô Phật giáo lớn nhất
của Champa.Thần Siva làm bằng đá cát, cuối thế kỷ 12. Tháp Mẫm. An Nhơn. Bình Định. Hình trang trí trên cửa chính. Hiện vật tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam
Sự giao thoa văn hoá Champa - Đại Việt
Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì nghệ thuật Champa cổ và nghệ thuật Việt cổ có nhiều nét tương đồng. Nhìn chung thì nghệ thuật Champa có trước nghệ thuật Việt và đã đạt đỉnh cao ngay khi nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.
Xét về mặt kiến trúc: các tháp Champa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc núi thấp, được xây dựng thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương khí thì chùa, tháp Việt Nam thời Lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi và sườn núi, tạo nên cả một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón dương khí. Tháp Việt Nam cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Champa và có bình diện vuông gần với các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Champa cũng như tháp Lý - Trần về cơ bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành phần bằng đá. Có điều, tháp Champa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây, còn ở tháp Lý - Trần thì hình trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau đó mới mang nung, xây đến đâu là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.
Tháp Ponaga (Khánh Hoà)
Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các apsara,
đa số thuộc đỉnh cao của điêu khắc Champa thuộc thế kỷ thứ 10. Các nhân
vật kết hợp người với chim hoặc với thú đều có cả trong nghệ thuật
Champa và nghệ thuật Việt.Các phong cách kiến trúc Champa
Phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương (thế kỷ thứ 9)
Những ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những cửa vòm khoẻ khoắn. Những băng trang trí cho công trình có rất nhiều họa tiết. Yếu tố tiêu biểu nhất cho phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ thứ 9) là các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong. Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở bên dưới các cột trụ ốp là các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi. Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát. Còn ở phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ thứ 9) thì các trang trí cây lá được biến thành những hình hoa hướng ra ngoài. Cái nhận thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất và các tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn.
Tháp Ponaga (Tháp Bà)
Phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ thứ 10)Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1. Những cột ốp trên mặt tường đứng thành đôi một. Đứng giữa hai cột ốp là các bức tượng người. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc gì. Bộ diềm kép, các hình đá trang trí góc được khoét thủng. Thân chính của tháp được xây dựng có hình dáng cao vút lên và các tầng thu nhỏ dần lại. Những đặc trưng của phong cách Hoà Lai và Đồng Dương không còn thấy ở các tháp thuộc phong cách Mỹ Sơn A1.
Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam)
Phong cách Bình Định (thế kỷ 11-13)Sau hàng loạt những biến động về chính trị từ đầu thế kỷ 11, trung tâm chính trị của Champa được chuyển vào Bình Định và từ đó, phong cách nghệ thuật tháp Champa mới đã xuất hiện: phong cách Bình Định. Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật chính của các tháp Champa thuộc phong cách trước là thành phần kiến trúc đều đi vào đường nét thì ở phong cách này đó lại là mảng khối: vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng cuộn lại thành các khối đậm, khỏe, các trụ ốp thu vào thành một khối phẳng, mặt tường có các gân sống.
Tháp Bình Lâm (Bình Định)
Tháp Dương Long (Bình Định)
Tháp Đôi (Bình Định) Đặc trưng của các ngôi tháp Champa
- Mọi ngôi tháp đều được xây bằng gạch hoặc chủ yếu bằng gạch. Gạch có màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không có mạch vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.
- Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các phần của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.
- Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.
- Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng dạng, đăng đối.
- Đa phần các tháp có cửa quay ra hướng Đông, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đăng đối với cửa chính.
- Trong tháp theo nguyên mẫu có thờ thần Siva, biểu trưng là bộ ngẫu tượng Yoni và Linga được làm bằng sa thạch.
- Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người dân sinh sống.
Tháp Hoà Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận) Các công đoạn xây dựng tháp:
- Chuẩn bị chất kết dính.
- Đúc gạch theo khuôn đã định sẵn.
- Nhúng gạch vào chất kết dính.
- Xếp gạch theo mô hình tháp.
- Lấp đất xung quanh tháp.
- Nung tháp.
- Gạt đất ra để làm dàn giáo trang trí và điêu khắc.
- Gọt dũa và hoàn chỉnh toàn bộ khối tháp.
Tháp PorXahinu (Bình Thuận) Giá trị của kiến trúc đền tháp Champa
Các đền tháp Champa phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hoá Champa từ những giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến những giai đoạn thích nghi. Tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc liền kề.
Giá trị nghệ thuật của các hình trang trí ngoài việc giúp cho các đền tháp đẹp hơn, còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn về niên đại, phong cách và chức năng của các đền tháp.
Tháp Swallow (Phú Yên)
------------------------------
Theo: Wikipedia
------------------------------------
Huyền bí tháp Pô Sah Inư, Bình Thuận
Huyền bí tháp Pô Sah Inư, Bình Thuận
Quần thể tháp Pô Sah Inư có kiến trúc đơn giản, nhưng
mang đậm dấu ấn một thời thịnh vượng của Vương quốc Champa xưa. Quần thể
các tháp này đang được bảo vệ rất tốt. Hàng năm, cộng đồng Chăm ở Bình
Thuận đến đây làm lễ Ka-tê tạo một sản phẩm du lịch độc đáo phục vụ du
khách...
Hoàng hôn trên tháp Po Sah Inư
Quần thể tháp Pô Sah Inư nằm trên đồi Bà Nài (phường Phú
Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) về hướng Mũi Né. Theo các
nghiên cứu và khai quật khảo cổ, nhóm tháp này được xây dựng từ khoảng
cuối thế kỷ thứ VIII, đầu thế kỷ thứ IX. Không cầu kỳ với những họa tiết
trên bề mặt, không có cửa vòm nhưng những ngôi tháp đã tạo được những
ấn tượng mang đậm văn hóa của người Chăm xưa. Trong quần thể các tháp
này, các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều nền móng của một ngôi đền bị sụp
đổ. Hiện nay, quần thể này chỉ còn 3 tháp. Trong đó, tháp lớn nhất còn
khá nguyên vẹn, thờ thần Shiva với bộ Linga-Yoni làm bằng đá đen nguyên
khối. Gần đó là 2 ngôi tháp nhỏ, bị hư hỏng khá nặng. Tháp nhỏ nhất, nằm
sát tháp lớn thờ thần Lửa. Cách đó khoảng 50 m là tháp thờ thần Bò và
thần Nandin.
Riêng gạch nền và ngói được khai quật xung quanh các
ngôi tháp này cho thấy có niên đại từ khoảng thế kỷ XV. Phần nền gạch
này cho thấy công trình kiến trúc rộng lớn như một ngôi đền với nhiều
tầng bậc. Ngôi đền này thờ Pô Sah Inư - con gái của vua Para Chanh.
Tương truyền rằng, công chúa Pô Sah Inư là một người tài sắc vẹn toàn.
Bà có công dạy cho người dân cách ứng xử, dạy nghề đánh cá, làm gốm, dệt
vải cho cư dân Champa ở Pajai tức Phú Hài ngày nay. Từ những công trạng
đó, người dân rất tôn kính bà. Khi mất đi, bà được nhân dân thần thánh
hóa và lập đền thờ để ghi công... Ngày 03/4/1991, nhóm đền tháp này được
công nhận di tích cấp Quốc gia, lấy tên gọi chung là Quần thể tháp Pô
Sah Inư. Từ năm 1994-2000, tỉnh Bình Thuận trùng tu tôn tạo thêm cảnh
quan cho khu vực này phục vụ du lịch.
Vị trí ngọn đồi Bà Nài khá lý tưởng. Đỉnh cao nhất là
lầu Ông Hoàng được nhiều người biết đến qua thi ca Hàn Mặc Tử. Từ đây,
có thể nhìn xung quanh. Hai mặt là trùng khơi xanh thẳm. Còn lại là
hướng núi và hướng nhìn về thành phố Phan Thiết. Tại đây có thể nhìn
ngắm bình minh mọc lên từ mặt biển và hoàng hôn sau những rặng núi mờ
xa. Vì vậy, nhiều du khách rất thích thú khi chọn cho mình thời điểm đến
tham quan điểm du lịch này. Cũng với vị trí này, du khách từ nhiều nước
trên thế giới đến đây để xem nhật thực toàn phần hoàn thiện nhất vào
năm 2000.
Di tích nằm trên đường từ Phan Thiết ra Mũi Né, nên rất
thuận tiện để du khách ghé tham quan. Khu vực này vẫn còn giữ được vẻ
hoang sơ vốn có của nó từ bao đời nay, dù cách thành phố khoảng 7 km.
Ban quản lý khu du lịch chỉ đầu tư xây dựng những bậc thang để lên đồi
và sân bãi đậu xe. Riêng khu vực tháp và lầu Ông Hoàng đều giữ lại nét
hoang sơ, thơ mộng. Những đêm trăng sáng, đứng ở Đồi Dương trung tâm
thành phố vẫn thấy rõ ngôi tháp thờ thần Shiva và lầu Ông Hoàng trên
đỉnh đồi. Ban ngày, hai công trình này có thể nhìn thấy ở khoảng cách
10-15 km.
Vào các dịp lễ lớn của đất nước, các nghệ nhân người
Chăm đến đây tổ chức múa hát, phục vụ du khách. Tiếng trống Ba-ra-nưng,
tiếng kèn Sa-ra-nai của những K’lu (con trai) rộn ràng bên những điệu
múa uyển chuyển của những Kamei Tàrà (con gái). Vào khoảng tháng 10
dương lịch, người Chăm từ khắp plêy (làng) trong tỉnh về đây dự lễ Ka-tê
để cúng bái thần linh, tổ tiên, cầu mưa thuận gió hòa. Công chúa Pô Sah
Inư được xem như một vị thần linh của xứ sở Pajai như Bà Chúa Xứ, Bà
Thiên Hậu trong tín ngưỡng dân gian của người Việt. Lễ hội Ka-tê diễn ra
theo truyền thống, có thầy cúng với nhiều lễ tắm tượng Linga-Yoni và
rước kiệu thỉnh sắc, dâng y phục cho công chúa Pô Sah Inư...
--------------------------------
Theo: Báo Hậu Giang
http://vn.360plus.yahoo.com/mr-love/article?mid=27--------------------------------------------------------------
Tháp Chàm
Tháp Đôi (Bình Định)
Ngày
1 tháng 10 năm 2006, Trung tâm Quản lý di tích-di sản tỉnh Quảng Nam
chính thức công bố thông tin: các nhà khoa học của Đại học Milan, Ý khi
đang làm việc trùng tu nhóm tháp G-thuộc Thánh địa Mỹ Sơn đã nhận biết
được loại vật liệu kết dính để xây tháp Champa cách đây vài trăm năm. Đó
là loại keo được tinh chế từ một loài thực vật vốn có rất nhiều trong
khu vực quanh di sản Mỹ Sơn, mà người dân địa phương thường gọi là cây
dầu rái. Ngoài ra, họ cũng đã phát hiện ra một loại hợp chất có nguồn
gốc từ thực vật bản địa nói trên có trong gạch sử dụng để xây tháp. Như
vậy, những điều bí ẩn xung quanh vật liệu được người Chăm sử dụng để xây
dựng các công trình tôn giáo ở Việt Nam sau hơn 100 năm đã được giải
mã. Trước đó, một người thợ thủ công tên là Lê Văn Chỉnh (thuộc tỉnh
Quảng Nam) cũng đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu phương pháp xây dựng
tháp Chăm đã phát hiện được hợp chất dầu rái trong gạch để xây tháp và
chất kết dính, nhưng chưa được ai quan tâm thừa nhận.
Tháp Hoà Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận)
Theo
tiếng Chăm, các đến tháp Champa này được gọi là kalan, nghĩa là "lăng".
Các lăng này được các đời vua Chăm xây dựng để thờ cúng các vị thần.
Các vị thần được thờ phượng có thể là các vị thần Ấn Độ giáo tiêu biểu
như Siva (thần hủy diệt), Ganesha (phúc thần đầu người mình voi)... hoặc
đấy còn có thể là các vị Phật. Điều này tùy thuộc vào lòng tin và kính
mộ của mỗi vì vua ở các triều đại khác nhau. Ở thánh địa Mỹ Sơn hiện nay
phần lớn là công trình kiến trúc tôn giáo thờ các vị thần thuộc Ấn Độ
giáo và Bà la môn giáo. Nhưng ở thánh địa Đồng Dương (thuộc địa phận
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) đây là kinh đô Phật giáo lớn nhất của
Champa.Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì nghệ thuật Champa cổ và nghệ thuật Việt cổ có nhiều nét tương đồng. Nhìn chung thì nghệ thuật Champa có trước nghệ thuật Việt và đã đạt đỉnh cao ngay khi nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.
Xét về mặt kiến trúc: các tháp Champa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc núi thấp, được xây dựng thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương khí thì chùa, tháp Việt Nam thời Lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi và sườn núi, tạo nên cả một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón dương khí. Tháp Việt Nam cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Champa và có bình diện vuông gần với các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Champa cũng như tháp Lý - Trần về cơ bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành phần bằng đá. Có điều, tháp Champa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây, còn ở tháp Lý - Trần thì hình trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau đó mới mang nung, xây đến đâu là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.
Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các apsara, đa số thuộc đỉnh cao của điêu khắc Champa thuộc thế kỷ thứ 10. Các nhân vật kết hợp người với chim hoặc với thú đều có cả trong nghệ thuật Champa và nghệ thuật Việt.
Các phong cách kiến trúc Champa
Phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương (thế kỷ thứ 9)
Những ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những cửa vòm khoẻ khoắn. Những băng trang trí cho công trình có rất nhiều họa tiết. Yếu tố tiêu biểu nhất cho phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ thứ 9) là các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong. Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở bên dưới các cột trụ ốp là các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi. Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát. Còn ở phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ thứ 9) thì các trang trí cây lá được biến thành những hình hoa hướng ra ngoài. Cái nhận thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất và các tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn.
Phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ thứ 10)
Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1. Những cột ốp trên mặt tường đứng thành đôi một. Đứng giữa hai cột ốp là các bức tượng người. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc gì. Bộ diềm kép, các hình đá trang trí góc được khoét thủng. Thân chính của tháp được xây dựng có hình dáng cao vút lên và các tầng thu nhỏ dần lại. Những đặc trưng của phong cách Hoà Lai và Đồng Dương không còn thấy ở các tháp thuộc phong cách Mỹ Sơn A1.
Tháp PorXahinu (Bình Thuận)
Phong cách Bình Định (thế kỷ 11-13)Sau hàng loạt những biến động về chính trị từ đầu thế kỷ 11, trung tâm chính trị của Champa được chuyển vào Bình Định và từ đó, phong cách nghệ thuật tháp Champa mới đã xuất hiện: phong cách Bình Định. Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật chính của các tháp Champa thuộc phong cách trước là thành phần kiến trúc đều đi vào đường nét thì ở phong cách này đó lại là mảng khối: vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng cuộn lại thành các khối đậm, khỏe, các trụ ốp thu vào thành một khối phẳng, mặt tường có các gân sống.
Đặc trưng của các ngôi tháp Champa
Mọi ngôi tháp đều được xây bằng gạch hoặc chủ yếu bằng gạch. Gạch có màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không có mạch vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.
Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các phần của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.
Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng dạng, đăng đối.
Đa phần các tháp có cửa quay ra hướng Đông, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đăng đối với cửa chính.
Tháp Swallow (Phú Yên)
Trong tháp theo nguyên mẫu có thờ thần Siva, biểu trưng là bộ ngẫu tượng Yoni và Linga được làm bằng sa thạch.Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người dân sinh sống.
Các công đoạn xây dựng tháp
Chuẩn bị chất kết dính.
Đúc gạch theo khuôn đã định sẵn. Nung gạch lần 1.
Xếp gạch theo mô hình tháp bằng chất kết dính.
Nung tháp.
Gọt dũa, trang trí và điêu khắc và hoàn chỉnh toàn bộ khối tháp.
Giá trị của kiến trúc đền tháp Champa
Các đền tháp Champa phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hoá Champa từ những giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến những giai đoạn thích nghi, tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc liền kề.
Giá trị nghệ thuật của các hình trang trí ngoài việc giúp cho các đền tháp đẹp hơn, còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn về niên đại, phong cách và chức năng của các đền tháp. (Theo wikipedia)
Danh sách đền tháp Chăm Pa
Tháp Dương Long (Bình Định)
Sau đây là danh sách một số di tích đền tháp Champa (không xét đến các phế tích)Thứ tự Tên di tích Địa điểm Niên đại
1 | Nhóm tháp Liễu Cốc | xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế | thế kỷ XIII |
2 | Nhóm tháp Mỹ Khánh | xã Phú Diên, Huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế | thế kỷ XIII - IX |
3 | Nhóm tháp Bằng An | làng Bằng An, xã Vĩnh Diện, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam | thế kỷ IX - X |
4 | Nhóm tháp Mỹ Sơn | xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam | |
5 | Nhóm tháp Chiên Đàn | làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam | thế kỷ XI - XII |
6 | Nhóm tháp Khương Mỹ | làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam | thế kỷ X |
7 | Nhóm tháp Cánh Tiên | xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định | thế kỷ XII - XIII |
8 | Nhóm tháp Phú Lốc | xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định | thế kỷ XIII |
9 | Nhóm tháp Bánh Ít | thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định | thế kỷ XI - XII |
10 | Nhóm tháp Thủ Thiện | xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định | thế kỷ XII - XIII |
11 | Nhóm tháp Dương Long | xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định | thế kỷ XII - XIII |
12 | Nhóm tháp Bình Lâm | xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định | thế kỷ XII |
13 | Nhóm tháp Đôi | thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định | thế kỷ XII |
14 | Nhóm tháp Nhạn | thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên | thế kỷ XII |
15 | Nhóm tháp Po Nagar | thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà | thế kỷ X - XIII |
16 | Nhóm tháp Hòa Lai | làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận | thế kỷ IX |
17 | Nhóm tháp Po Klong Garai | phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận | thế kỷ XIII - XIV |
18 | Nhóm tháp Po Rome | làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận | thế kỷ XVII |
19 | Nhóm tháp Po Dam | làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận | thế kỷ IX |
20 | Nhóm tháp Po Sah Inư | phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận | thế kỷ VIII |
21 | Nhóm tháp Yang Praong | Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk | thế kỷ XIII |
http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_%C4%91%E1%BB%81n_th%C3%A1p_Champa
Tháp Bình Lâm (Bình Định)Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng tháp Chăm phục vụ trùng tu và phát huy giá trị di tích.
Mã số đề tài: RD 21.
Chủ nhiệm đề tài: TS.Trần Bá Việt.
Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện KHCN xây dựng-BXD.
Địa chỉ tài liệu: KQNC.1086. Thư viện KHCN-Bộ Xây dựng.
Mục tiêu đề tài:
Theo các tài liệu được biết cho đến nay thì lịch sử xây dựng các đền tháp Chămpa kéo dài từ cuối thế kỷ VII đến đầu thế kỷ XVII. Trong khoảng thời gian chín thế kỷ xây dựng và sáng tạo, những người Chăm cổ đã để lại một số lượng lớn các di tích kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc…Đó là sản phẩm văn hoá của tài năng và trí tuệ Chămpa trong suốt chặng đường dài lịch sử. Với trên 20 cụm di tích kiến trúc đền tháp còn lại và rất nhiều phế tích kiến trúc, bên cạnh đó là vô vàn hiện vật điêu khắc giá trị, đã minh chứng cho một nền văn hoá Chămpa rực rỡ, góp pầhn không nhỏ vào vào nền văn hoá Việt Nam phong phú, giàu bản sắc. Các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa còn có giá trị đặc sắc nổi bật mang tính toàn cầu, xứng đáng nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Một trong những sự quan tâm ấy là sự công nhân Mỹ Sơn là di sản văn hoá thế giới của tổ chức UNESCO…
Mặc dù các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa luôn được quan tâm nghiên cứu, nhưng do đã trải qua thời gian dài tồn tại dưới tác động bất lợi của thiên nhiên khắc nghiệt và chiến tranh, nên phần lớn các di tích đã bị huỷ hoại, xuống cấp, mất mát ở nhiều mức độ khác nhau. Vì vậy, công việc nghiên cứu về các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa cần phải luôn được thường xuyên, nhằm không ngừng bổ sung những thông tin khoa học về di tích làm cơ sở cho các giải pháp giữ gìn và phát huy giá trị di tích.
Thực tế công tác bảo tồn tu bổ trong những năm qua có bước tiến và thành tựu đáng kể, song vấn đề cốt lõi xác định kỹ thuật xây dựng của người Chăm vẫn chưa được tập trung nghiên cứu.
Đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng tháp Chăm phục vụ trùng tu và phát huy giá trị di tích” sẽ đóng góp thêm những hiểu biết về kỹ thuật xây dựng các đến tháp Chămpa, kết hợp với việc khảo sát thực trạng kiến trúc và nghiên cứu lịch sử, nghệ thuật…nhằm đạt được mục tiêu của đề tài là:
- Nghiên cứu công nghệ xây dựng các tháp Chăm để phục vụ một cách tốt nhất cho công tác tu bổ, phát huy giá trị của di tích kiến trúc của nền văn hoá Chăm trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Đề xuất các quy trình về công nghệ vật liệu phục chế để trùng tu bảo tồn các tháp Chăm, trong quá trình chuẩn mực hoá công tác bảo tồn di tích ở nước ta.
Nội dung đề tài:
Chương I: Lược sử, khảo cổ, kiến trúc Chămpa.
Chương II: Thực trạng các di tích, phế tích kiến trúc đền tháp Chăm.
Chương III: Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng: Kỹ thuật xử lý nền, kỹ thuật xây dựng móng, kỹ thuật xây dựng đền tháp Chăm dưới góc độ kỹ thuật kiến trúc, kỹ thuật xây gạch theo phương pháp mài chập, nghiên cứu xác định các thông số kỹ thuật của gạch trên các đền tháp Chăm, nghiên cứu thành phần pha và thành phần khoáng của gạch và của chất kết dính bằng phương pháp nhiễu xạ Rơnghen; nghiên cứu xác định thành phần hữu cơ có trong chất kết dính; nghiên cứu cấu trúc thô của gạch qua kính phóng đại quang học; nghiên cứu vi cấu trúc của gạch bằng kính hiển vi điện tử quét; nghiên cứu xác định lực liên kết giữa các viên xây; xác định cường độ chịu nén của khối xây; nghiên cứu sự ăn mòn vi sinh trên khói xây đền tháp Chăm; nghiên cứu khả năng chịu lực của kết cấu khối xây đến tháp Chăm; nghiên cứu kỹ thuật điêu khắc.
Chương IV: Nghiên cứu công nghệ phục chế khối xây mài chập.
Chương V: Định hướng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các đền, tháp Chăm.
Kết quả đề tài:
Đã nghiên cứu phục hồi được công nghệ chế tạo gạch Chăm phục chế có tính chất giống như gạch Chăm, có thể gia công cưa cắt mài chập, đục chạm điêu khắc được.
Đề tài đã thành công trong việc sản xuất và chế tạo nhớt cây ô dước, gạch và kỹ thuật xây mài chập để triển khai phục chế tháp Bình Thạnh từ năm 1999 đến nay đảm bảo chất lượng tốt, chưa thấy hiện tượng hư hỏng.
Kết quả đề tài cũng khẳng định được rằng loại gạch đặc biệt nung giảm lửa, có chất đôn là thích hợp cho trùng tu tháp Chăm.
Kỹ thuật phục chế khối xây gạch Chăm có thể kết hợp với kỹ thuật gia cường, neo, đai giằng bằng thép hoặc bê tông để bảo tồn tối đa giá trị gốc, chân xác của di tích tháp Chăm, đồng thời kéo dài tuổi thọ cho di tích.
Đây là một bước tiến đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các tháp Chăm về lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng suốt hơn một thế kỷ qua.
Đề tài đã đạt loại xuất sắc.
Ðối với các tháp Chăm, kỹ thuật xây dựng tháp thực chất là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ của công nghệ xây dựng và điêu khắc. Mà biểu hiện vật chất của nó chính là tỷ lệ kiến trúc và nghệ thuật kết hợp kiến trúc với các dạng điêu khắc trang trí, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng không mạch vữa. Qua đó nó thể hiện giá trị phi vật thể là nội dung thờ tự, tâm linh và cao hơn là ý nghĩa triết học của các đền tháp Chăm. Theo đó, việc nghiên cứu xác định được đúng kỹ thuật xây dựng tháp Chăm của người Chăm xưa sẽ giúp cho việc trùng tu được chuẩn xác, đưa ra được những phương tiện và phương pháp để bảo tồn trùng tu được tối đa các giá trị chân xác của di tích. Phương pháp tu bổ đó vừa đảm bảo được tính nguyên gốc, chính xác, phù hợp, cụ thể cho mỗi tháp và từng bộ phận chi tiết của các tháp Chăm. Ðồng thời qua đó có thể mở ra hướng trong nghiên cứu, tìm ra phương pháp xây mới có nhiều ưu điểm hơn phục vụ cho ngành xây dựng, thay thế cho lối xây bằng vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát như hiện nay cũng như lý giải những ẩn số xung quanh các vấn đề như kỹ thuật, triết học, tâm linh... của người Chăm xưa. Ðiều này nhằm góp phần cho công cuộc trùng tu và phát huy các giá trị tại Mỹ Sơn nói riêng và các tháp có giá trị tại miền Trung nói chung.Như chúng ta đã biết, trong công tác trùng tu, đối với các tháp Chăm, yêu cầu bắt buộc của việc trùng tu ngoài nhiệm vụ hàng đầu là tu sửa khẩn cấp để bảo tồn kịp thời di tích và giá trị lịch sử của công trình cổ, còn đòi hỏi phải xây gạch theo kiểu cổ truyền của người Chăm xưa, tức là kỹ thuật thế nào đó để kết dính các viên gạch lại với nhau. Ngoài yêu cầu của độ bền vững ra, không còn để lộ khe hở, cũng như không để lộ cho thấy mạch hồ vữa của chất kết dinh (nếu có). Như thế, ngôi đền tháp sau khi phục chế mới không có sự khác biệt và giữ được nét đặc thù của tháp Chăm, đồng thời giữ được nét thẩm mỹ của màu sắc và hoa văn điêu khắc trên mặt tường ngôi tháp. Trên cơ sở đó, nhiều giả thuyết về kỹ thuật xây cất các ngôi tháp cổ của người Chăm xưa đã được đưa ra. Tuy nhiên một số luận cứ trong các giả thiết đó vẫn còn chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi, mâu thuẫn làm vấn đề chưa ngã ngũ và đi đến tiếng nói chung. Vì vậy, qua nghiên cứu phân tích các thành phần hóa lý cũng như dấu tích còn lại trên bề mặt các Tháp cổ, cá nhân tôi và Cha là nhà nghiên cứu văn hóa Chămpa - Hồ Xuân Em (đã mất) đưa ra một giả thuyết riêng. Giả thuyết có thể còn nhiều vấn đề cần tranh cãi và kiểm chứng, nhưng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra để cùng trao đổi nhằm góp phần vào tiếng nói chung trong công việc nghiên cứu và trùng tu các tháp.
Người Chăm xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống, trong đó có chứa một ít cát (khoảng 10% - đây có thể là do nguồn đất sét làm gạch đặc thù hoặc cũng có thể do người ta pha vào khi làm gạch) nhúng nước rồi xát và ép chặt vào nhau để kết dính (điều này đã tạo nên một lớp vữa “giả tạo”. Thành ra cách xây này không vữa mà như là có vữa) rồi nung toàn khối. Trong đó, người Chăm xưa đã nghĩ tới phương pháp xây tháp theo nguyên tắc tạo ra một tổng thể đồng chất với bề dày tường lớn để có được lực liên kết bền vững nhất, đồng thời dễ dàng tạo ra được những tác phẩm điêu khắc có đường nét mỹ thuật cao. Nhưng vì đất sét là vật liệu lâu khô, lại phải nung qua lửa, đòi hỏi độ ẩm phải còn 20% trước khi nung nên người Chăm không thể đổ đất sét lỏng như hiện nay ta đổ bêtông mà trước tiên phải làm nên những viên gạch mộc, phơi qua vài ngày để gạch se lại, sau đó nhúng nước, xát và ép để viên này dính sát với viên kia, chồng lên và so le mí với nhau. Khi ngôi tháp xây xong thì toàn bộ ngôi tháp, nền và móng đã trở thành một tổng thể đất sét đồng chất (ngoại trừ một ít lanh tô hoặc trụ đá phải dùng trong kỹ thuật xây và có thể được xử dụng để gia cường sau khi xây). Tổng thể đất sét này được nung chín, tất nhiên sẽ có độ bền vững hơn là xây bằng gạch đã nung trước với hồ vữa, là 2 chất liệu khác nhau. Và cách xây và nung tháp của người Chiêm Thành thì bắt buộc phải “xây từ dưới lên trên và nung từ trên xuống dưới” nhằm tránh cho tháp khỏi bị đổ vì xây bằng gạch mộc.
Và cuối cùng, sau khi nghiên cứu để đưa ra giả thiết đó, tôi đã kiểm chứng bằng giải pháp thực nghiệm và thu được kết quả khả quan. Quá trình tiến hành thực nghiệm từ mô hình như sau: Tôi cho tiến hành xây và nung thử một ngôi tháp nhỏ bằng gạch mộc, có tỷ lệ gần đúng với tỷ lệ của ngôi tháp thật: cao 0,6m; rộng 0,3m; gạch cỡ :7cm x 4cm x 2cm. Ðịa điểm nung tại nhà Ông Lê Quốc Tuấn ở khối 5, Phường Thanh Hà, Hội An. Quá trình thực hiện xây và nung mô hình tháp đã được tôi thực hiện ghi hình lại. Kỹ thuật xây dựng được tiến hành theo đúng nguyên mẫu của giả thiết được đặt ra. Chúng tôi đã dùng những viên gạch mộc pha cát có kích thước như vậy nhúng nước rồi xát và ép để kết dính chúng lại với nhau. Sau đó thực hiện điêu khắc, trang trí trên mô hình của tháp, đợi vài ngày cho gạch se khô lại rồi nung toàn bộ ngôi tháp theo đúng phương pháp giả định đã được đặt ra. Ðó là chúng tôi cho nung phía bên ngoài và phía bên trong ngôi Tháp. Kết quả của quá trình thực nghiệm:
Công việc thực hiện điêu khắc cũng như việc xử lý, tạo hình các chi tiết trên Tháp được tiến hành khá dễ dàng trước khi nung vì được thực hiện trên gạch mộc.
Tháp sau khi nung nói chung là không khác biệt với Tháp Chăm cổ, rất vững chắc, không nghiêng, không đổ.
Cả ngôi tháp gần như không xuất hiện mạch vữa, tạo thành một khối gần như đồng nhất, có tính thẩm mỹ cao.Ðể góp phần gìn giữ, tôn tạo, nghiên cứu và phát huy các giá trị của khu di tích Mỹ Sơn, việc tìm hiểu kỹ thuật xây dựng các tháp Chăm cổ là một việc làm cần thiết không những cho hiện tại mà cũng cho cả tương lai. Do vậy, kính mong các nhà khoa học, nghiên cứu và các nghành liên quan:
Tiếp tục khảo sát thực địa, nghiên cứu, phân tích để kiểm chứng lại phương pháp xây tháp đã gợi ý.
Nếu thấy cần thiết, các nghành chức năng có thể tiến hành xây và nung thử một ngôi tháp lớn trên thực tế.Nếu với việc xác định đúng phương pháp, kỹ thuật xây dựng như vậy thì nó sẽ mở ra một phương pháp xây mới phục vụ cho ngành xây dựng, có nhiều ưu điểm hơn, thay thế cho lối xây bằng vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát như hiện nay đồng thời điều đó sẽ là cơ sở rất quan trọng cho công tác trùng tu và là một bước tiến đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các tháp Chăm về lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng suốt hơn một thế kỷ qua. Trên cơ sở thực hiện công việc nghiên cứu và thực nghiệm, mô hình về phương pháp và kỹ thuật xây dựng tháp bằng gạch mộc (gạch chưa nung, có pha cát) được thực hiện bằng cách nhúng nước rồi xát ép với nhau và thực hiện điêu khắc, trang trí trên gạch còn ướt đó, đợi cho gạch se khô lại rồi sau đó tháp được nung toàn bộ theo hình thức “Xây từ dưới lên và nung từ trên xuống” là một đề xuất. Rất có thể đó chỉ là một giả thuyết, còn nhiều vấn đề cần phải kiểm chứng và cũng vì rằng Chămpa là một phức hệ gồm nhiều tiểu quốc khác nhau nên từ ngày xưa cũng có thể có những kỹ thuật xây dựng khác nhau và cũng đã trải qua nhiều lần trùng tu trong quá trình tồn tại. Tuy nhiên, hy vọng giả thuyết này sẽ góp phần giúp các nhà khoa học và nghiên cứu có thể mở ra thêm một hướng mới trong công tác nghiên cứu xác định kỹ thuật xây dựng tháp.
http://mag.ashui.com/index.php/congdong/kysu/43-kysu/634-tim-hieu-ky-thuat-xay-dung-thap-co-cham-pa-tai-mien-trung-viet-nam.html
NHỮNG BÍ ẨN THÁP CHĂM
Ngang dọc miền Trung rất nhiều lần và lần nào cũng thế … tháp Chăm luôn gợi cho tôi những cảm xúc khó tả. Và thành thói quen, cứ có dịp về miền Trung tôi lại tìm đến tháp Chăm, bắt chuyện với những người đang trùng tu tháp, hỏi thăm các vị lo việc hương sự để mong được khám phá phần nào những bí ẩn của tháp. Không ít lần như thế tôi lại ra về và mang theo một bí ẩn khác của những ngôi tháp hầu như không đổi màu trước thời gian.
1. Những viên gạch kỳ lạ.Với mắt thường thì đó chỉ là những viên gạch mà chúng ta vẫn thường gặp nhưng chúng là nỗi băn khoăn triền miên của nhiều nhà nghiên cứu tháp Chăm. Là chất liệu duy nhất tính bằng đơn vị dùng để xây tháp nhưng các viên gạch này mang trong nó quá nhiều bí ẩn. Cùng một kích thước nhưng những viên gạch được đúc thí nghiệm theo quy trình thủ công hiện nay sẽ nặng hơn viên gạch Chăm cổ 1,3 lần. Độ bền chịu nén, độ dai va đập cùng những tính chất khác của gạch Chăm đều cao hơn gạch thông thường rất nhiều. Khi tạt nước vào một mặt bất kỳ của viên gạch Chăm thì các mặt còn lại thoát nước ra gần hết (điều này không xảy ra đối với gạch xây dựng thông thường). Một hướng dẫn viên du lịch “sống” lâu năm với tháp Chăm Mỹ Sơn cho biết nhiều viên gạch khi bị vỡ ra để lộ phần đất sống bên trong. Điều này có nghĩa là gạch chỉ được nung chín đều phần bên ngoài, bên trong vẫn còn “sống”. Điều kỳ lạ là phần “đất sống” bên trong những viên gạch gãy vỡ qua thời gian dài, dù nằm ngoài trời, chịu mưa chịu nắng vẫn không bị rả ra. Vậy, thành phần của chúng ngoài đất sét ra còn có những gì? Quy trình sản xuất gạch có gì khác thường? Các viên gạch này có góp phần vào quá trình làm tháp Chăm nhanh khô ráo sau những cơn mưa dầm?
2. Một thứ hỗn hợp kết dính chưa rõ thành phần.Điều dễ nhận thấy là những viên gạch tháp Chăm như được dán chặt vào nhau vì giữa chúng không có một đường lằn chứng tỏ có sự diện diện của vôi vữa. Đến nay người ta vẫn chưa biết rõ về chất kết dính này? Thành phần của nó gồm những gì? Phương thức tạo ra nó như thế nào? Khi dùng kỹ thuật “dán” chặt những viên gạch lại bằng chất kết dính thì, ngoài mục đích làm tháp vững chắc người ta còn có mục đích gì khác? Vì sao phải cần loại hỗn hợp kết dính này mà không dùng vôi vữa để xây tháp?
3. Một loại hình nghệ thuật tạo hình “rất ít xuất hiện” ở Đông Nam Á”.
Những hình trang trí ở tháp Chăm được tạo tác ngay trên gạch của thân tháp hoặc được đắp bằng sa thạch. Những hình tượng nghệ thuật sống động đó thể hiện một cách sinh động các nhân vật trong thế giới thần thoại Ấn. Điều này cho thấy sự tinh vi đến tuyệt diệu của nghệ thuật điêu khắc Chăm, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình trên gạch. Có phải các nghệ nhân Chăm thực hiện kỹ thuật chạm trổ sau khi các tường gạch đã xây xong? Nếu như thế, những sai sót mắc phải trong quá trình tạo tác được giải quyết như thế nào? Những nghệ nhân điêu khắc là người kiêm luôn công việc xây dựng hay có hai nhóm thực hiện hai công đoạn nối tiếp nhau: xây dựng và trang trí? Phù điêu, tuợng trên tháp được tạo tác như thế nào? Giữa hỗn hợp kết dính “bí ẩn” với nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật tạo hình Chăm có liên quan gì không?
4. Những khối gạch khổng lồ nhưng không bị nghiêng lún.Các tháp Chăm cao sừng sững nhưng dáng dấp thanh thoát; chỉ khi đến gần người ta mới thấy hết được vẻ đồ sộ của nó. Tháp hầu như là một khối đặc vì khoảng trống bên trong hầu như không đáng kể. Phần “ruột” của đa số các tháp chỉ vừa đủ chỗ cho một người hành lễ (một số tháp lớn thì bên trong cũng chỉ có một khoảng trống vừa đủ để người hành lễ đi một vòng quanh tuợng thần). Với chất liệu gạch và kiểu kiến trúc như thế chắc chắn sức nặng dồn lên nền móng là rất lớn. Thế nhưng các nhà kiến trúc Chăm đã xử lý móng như thế nào để giữ tháp đứng vững qua hàng trăm năm mà độ từ biến không biểu hiện ra ngoài thành sự cố nghiêng lún?
5. Những đền tháp qua hàng trăm năm bị thiên nhiên bào mòn nhưng không bị lộ chân móng?
Khu di tích thánh địa Mỹ Sơn nằm trong lòng chảo nên vấn đề này không khó lý giải. Riêng các tháp Chăm rải rác từ Bình Định đến Phan Thiết đều tọa lạc trên đồi cao nên chân móng của chúng đã đặt ra nghi vấn. Các ngôi tháp trên đồi này được xây dựng cách đây hơn năm trăm năm, thời kỳ các vị vua Chăm chuyển kinh đô từ Trà Kiệu vào Đồ Bàn. “Đất thánh của vương quyền Chămpa sau thế kỷ XIII có lẽ đã được dời vào vùng Đồ Bàn. Tuy nhiên vì tính chất đặc biệt quan trọng của nó, nên Mỹ Sơn hẳn không bị bỏ phế một cách đột ngột … sớm nhất cũng phải đến thế kỷ XV thì khu đất thánh này mới hoàn toàn bị bỏ hoang. Ấy là lúc vương quyền Chămpa đã dời đô về miền Phan Rang” [2: tr.20]. Qua mấy trăm năm trơ vơ giữa trời, hứng chịu biết bao trận mưa xối xả và những cơn gió mùa thổi tứ bề, chắc chắn đỉnh đồi phải bị bào mòn dữ dội, chân tháp theo đó cũng liên tục bị mài mòn, thế nhưng tháp Chăm vẫn không thấy dấu hiệu lộ ra chân móng. Phải chăng các nhà kiến trúc Chăm đã tính được độ lún của tháp theo thời gian để tháp không bị “tróc” ra khỏi ngọn đồi? Đều này khó có khả năng xảy ra vì trong xây dựng không ai dám phiêu lưu như thế? Vậy tháp Chăm “bình chân như vại” trên những đỉnh đồi bằng cách nào?
6. Một câu hỏi đặt ra từ kiểu dáng kiến trúc: Có phải Chăm pa đã từng giao lưu với phương Tây?Có vài trụ chống đỡ trong số các tháp của di tích Mĩ Sơn có kiểu dáng của kiến trúc Hi – La, đó là kết quả tiếp xúc văn hoá Chăm với văn hoá phương Tây hay chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên? Nếu có sự tiếp biến giữa văn hoá Chăm với văn hoá Hy La thì đó là sự tiếp biến do giao lưu trực tiếp hay thông qua lăng kính của văn hoá Ấn Độ?
7. Vì sao người ta “sợ hãi, kiêng dè khi nói đến hay đi qua” Tháp Chăm?
Vào cuối thế kỷ thứ VI, Đàn Hoà Chí, một vị tướng nhà Đường đánh được vào Mỹ Sơn nhưng khi trở về thì bị điên.
Trong đời sống dân gian hầu hết những câu chuyện kể lên quan đến tháp Chăm đều gieo nỗi ám ảnh và sợ hãi cho ngươi nghe.
Cho đến nay người ta vẫn còn sơ tháp Chăm: “người Jrai ở quanh khu vực này rất sợ Bang Keng. Họ (người dân buôn Jú và những vùng phụ cận) gọi đó là yang sang ia - nhà (của) thần nước. Tin theo tín ngưỡng cổ truyền, không chỉ có những người thuộc lớp tuổi trên 50 (trường hợp ơi Trinh) mà ngay cả những người còn trẻ, có học vấn, nhận thức nhất định (ama Trăng, 34 tuổi, cán bộ xã) cũng đều sợ hãi, kiêng dè khi nói đến hay đi qua Bang Keng(3).
8. Những điều nghe, thấy, đọc được về tháp Chăm.
* Về những viên gạch tự “rút nước”.
Trong dân gian, người miền Trung gọi gạch Chăm là “gạch vồ” có lẽ vì nó lớn như cái chày vồ. Những phát hiện gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau để làm gạch, kích cỡ các viên gạch ở mỗi nơi cũng khác nhau. Tại tháp Bang Keng thuộc địa phận buôn Jú, xã Krông Năng “gạch xây tháp có kích thước chủ yếu là rộng: 21,2cm; dài: 40,9cm; dày: 8,5cm; nặng: 14kg, nhưng đôi khi cũng có những viên nhỏ, mỏng hơn chút ít. Bằng mắt thường có thể nhận ra hai loại đất làm gạch khác nhau: loại thứ nhất pha cát nhiều hơn, viên gạch trắng, thớ có vẻ xơ; loại thứ hai được làm bắng đất đỏ, da mịn hơn và lòng trong đỏ”(3). Quanh khu vực tháp Yang Mum thuộc điạ phận Ayun Pa, Gia Lai các nhà điền dã đã được một linh mục cho xem “2 viên gạch đều có màu nâu đỏ, một viên hình vuông và một viên hình chữ nhật. Viên thứ nhất có kích thước 20 x 20 x 2,5cm. Viên thứ hai chúng tôi đo được: 24 x 12 x 7cm” cũng ở khu vực này họ đã tìm gặp được viên gạch “còn nguyên vẹn nhất, khoảng 85%, có kích cỡ rộng: 13cm; dài: 32cm; dày: 7,5cm; nặng: 5,5kg” (3). So sánh sơ bộ dưới đây cho phép chúng ta kết luận: gạch tháp Chăm không có một kích cỡ chung.
Nơi lấy mẫu Kích thước gạch
|
Dài
|
Rộng
|
Dày
|
Mỹ Sơn
|
31cm
|
17cm
|
5cm
|
Tháp Bang Keng, Gia Lai
|
40,9cm
|
21,2cm
|
8,5cm
|
Tháp Yang Mun, Gia Lai
|
20cm
|
20cm
|
2,5cm
|
24cm
|
12cm
|
7cm
| |
32cm
|
13cm
|
7,5cm
|
Tại
Mỹ Sơn “gạch Chăm có độ nung rất đều, không rắn lắm nhưng cũng không
non. Có kích thước rất lớn khoảng 31cm x 17cm x 5cm. Chúng được xếp nằm
khít nhau, không hề thấy mạch hồ dù rất mỏng” [2: tr.23]. Đoạn văn này
đã nêu rõ một số đặc điểm của viên gạch Chăm. Điều đáng lưu ý ở đây là
gạch “có độ nung rất đều, không rắn lắm nhưng cũng không non”. Do nung
chín đều (tất nhiên chỉ quan sát bên ngoài) nên màu gạch giống nhau, sắc
đỏ tươi. “Gạch không rắn lắm” sẽ có khả năng hút nước mạnh và tự rút
nước nhanh. Một giả thuyết cho rằng sở dĩ tháp nhanh khô ráo là do trong
quá sản xuất gạch, ngoài thành phần chính là đất sét ruộng, người ta
còn gia thêm vỏ trấu cùng một ít vôi nung từ vỏ sò, vỏ ốc. Do có vỏ trấu
nên khi nung xong, vỏ trấu cháy đi để lại những lỗ rỗng, viên gạch nhờ
thế mà dễ thoát nước nhưng vẫn đủ độ chắc bảo đảm cho việc xây dựng
tháp. Cũng có người cho rằng đất không lạ (vì khi xây thánh địa Mỹ Sơn
người ta đã mang đất nhiều nơi về đó) nhưng kỹ thuật thì lạ. Chính kỹ
thuật “đặc biệt” đã làm cho gạch Chăm có thành phần silic cao hơn gạch
xây dựng thông thường rất nhiều và điều khác đáng lưu ý nữa là: bã thực
vật trong những viên gạch Chăm cũng khá nhiều. Những viên gạch bị rơi
ra, bị gãy vỡ thì dẫu không còn nằm trong cơ chế rút nước của tháp nhưng
do thành phần cấu tạo đặc biệt nên tự thân chúng cũng nhanh khô ráo. Vì
vậy, các mảnh vỡ của gạch dù nằm ngoài trời nhiều năm vẫn không bị mục
rả. Liên quan đến hiện tượng tháp Chăm mau khô ráo sau những cơn mưa,
nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương cho rằng chỉ mối tường tháp được xây bằng
gạch nguyên vẹn, phần bên trong, giữa hai lớp tường “thường xây độn bằng
gạch vụn được kết chặt lại bằng dầu Rái”. Nếu đúng như vậy thì nước mưa
không thể thấm sâu vào thân tháp do dầu rái ngăn chận được nước. Như
vậy, sau cơn mưa nước sẽ truyền theo thành tháp và rút xuống chân tháp
khiến tháp nhanh chóng khô ráo. Một lý do khác nữa là kết cấu móng của
tháp gồm đá tổ ong, sỏi, cát, tức toàn những vật liệu rút nước nhanh.
Tháp Drang Lai ở Cheo Reo, “được nhắc đến như là một dấu tích về đền
tháp của người Chăm… cái còn lại là “một cái nền đá ong và một chồng
gạch” (3). Trên nền đất cũ của tháp Yang Mum “có rất nhiều mảnh gạch
Chàm dùng để xây tường và rất nhiều mảnh đá ong thường được dùng để xây
chân tháp… Tháng 6/1902, H. Parmentier đã đến và thấy các tháp ở khu
rừng gần đấy bị che phủ bởi cây cối rậm rạp. Tháp (Yang Mum) được xây
dựng trên nền đất đá ong; còn có một có bia, chữ còn đọc được và một
hình Siva cưỡi trên con Nandin…”(3). Tương tự, trên nền cũ tháp Drang
Lai (Drang Glai), “nay nằm trong nền nhà của ông Hà Văn Hồng (70 tuổi),
khu phố 1 thị trấn Ayun pa… Người viết đã tìm thấy tại đây “9 viên đá
ong khá nguyên vẹn, trong đó có 2 viên có 1 cạnh dọc được cắt lõm vào
chừng 4cm để tạo gờ nối với những viên khác. Các viên đá ong này có kích
cỡ tương đương nhau: 70 x 40 x 22cm”(3).
* Về hỗn hợp kết dính cổ xưa và nghệ thuật trang trí độc đáo.
Người ra đoán rằng thành phần chính của hỗn hợp kết dính đó là dầu Rái. “Về kỹ thuật xây dựng đền tháp, xưa kia, người Champa đã dùng một loại nhựa cây, mà cư dân địa phương ngày nay gọi là dầu Rái, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb., để kết dính những viên gạch lại với nhau trong kết cấu tường tháp. Cây dầu Rái được trồng thành rừng tại miền Trung, thân cây tròn và thẳng; loại nhựa cây này có thể khai thác hàng năm với dung lượng lớn; có độ kết dính rất chặt và bền; hoàn toàn không thấm nước. Nhựa cây này rất dễ xử dụng, đem trộn dầu Rái với đất sét khô hay bột gạch, chúng sẽ tạo thành một loại vữa dễ khô cứng dưới nắng” [2: tr.14]. Một người thợ trùng tu tháp Nhạn (Phú Yên) cho biết thứ hỗn hợp đó gồm nhựa cây, xỉ mật, vỏ các loại sò, ốc và vài thứ khác chưa rõ. Nhựa cây ở đây có thể là nhựa dầu Rái, xỉ mật có thể lấy được trong quá trình ép mía làm đường vì khu vực miền Trung có nhiều vùng đất thích hợp cho cây mía. Tuy nhiên bí quyết làm thế nào để các chất liệu trên trở thành hỗn hợp kết dính thì hầu như chưa được phổ biến. Cũng theo lời những người thợ trùng tu tháp Nhạn, hiện nay họ phải dùng xi măng Nhật thay cho hỗn hợp kết dính cổ truyền này. Nói chưa được phổ biến vì ở Mỹ Sơn, người ta vẫn còn trông thấy một số thợ người Chăm nối các phiến đá có phương ngang theo kỹ thuật móc chữ T kết hợp đổ một thứ keo “bí mật” có độ kết dính cao vào; khi khô thì loại keo này “cứng như sắt”.
Độ kết dính giữa các viên gạch không chỉ do hỗn hợp kết dính mà còn do một kỹ thuật khác nữa - kỹ thuật mài chập. Các viên gạch được mài vào nhau đến khi mặt tiếp xúc thật khít và sau khi cho hỗn hợp kết dính vào giữa người ta còn tiếp tục mài vài lần nữa để tạo sự kết dính hoàn toàn trên bề mặt các viên gạch. Như vậy, có thể xác đoán hỗn hợp kết dính đó phải là chất lỏng sền sệt giống như hồ hoặc keo lỏng. Có nhà nghiên cứu gọi đó là “keo thực vật”.
Sở dĩ người Chăm dùng thứ hỗn hợp kết dính trên thay cho vôi vữa là có lý do. Vấn đề này liên quan đến kỹ thuật xây dựng và trang trí tháp. Về kỹ thuật xây dựng tháp, hỗn hợp kết dính (kết hợp kỹ thuật mài chập) tăng sự vững chãi và độ bền của tháp. Quy trình xây tháp và trang trí trên tháp được tiến hành gần như song song, tức là xây đến đâu là trang trí đến đó. Giả thiết cho rằng người ta xây lên một khối gạch lớn rồi nung thành ngôi tháp là không có sức thuyết phục. Theo những người làm gạch thủ công thì điều này không thể làm được vì khó có thế nung chín đều cả khối gạch mà chỗ mỏng nhất 6 tấc, chỗ dày nhất đến 3 mét và cao trên chục mét. Đó là chưa kể những viên gạch chưa nung ở lớp dưới cùng khó có thể chịu đưng được trọng lượng của cả khối gạch khổng lồ ở bên trên. Giả thiết khác cho rằng “sau khi tường tháp đã được xây lên, những nhà điêu khắc mới bắt đầu chạm trổ hoa lá, hình người…” [2: tr.24] cũng đặt ra một số nghi vấn như đã nêu ở mục 3. Để tạo tác hình tượng trên tháp, người thợ phải tiến hành khắc gọt các chi tiết hình khối của hình tượng nghệ thuật trên từng viên gạch rồi lắp dần vào. Tất cả những viên gạch (ở mỗi tháp) được làm giống nhau về kích cỡ và chất lượng. Quy trình xây tháp được tiến hành từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài. Công đoạn tạo hình chỉ thực hiện ở lớp ngoài cùng của tháp. Tất cả các khuôn mẫu của phù điêu và tượng nằm trong tâm thức của những nghệ nhân tạo hình. Chỉ những người thợ lành nghề và am hiểu nghệ thuật tạo hình của văn hoá Chăm mới tham gia phần trang trí vì chỉ có họ mới có thể phát hiện những viên gạch bị tạo tác lỗi và dứt khoát vứt nó đi để tạo tác viên khác. Từng viên, từng viên được lắp kế tiếp nhau, và cũng chỉ có loại hỗn hợp kết dính “đặc biệt” mới giúp các nghệ nhân lắp ghép chính xác các mẩu mảnh rời rạc thành hình khối sinh động. Rõ ràng, việc lựa chọn “keo thực vật” còn do yêu cầu của kỹ thuật trang trí chứ phải không chỉ do yêu cầu của kỹ thuật xây dựng. Bằng cách này, các tháp Chăm có được “những kiểu thức kiến trúc đa dạng, những kiểu cách hoa văn trang trí độc đáo”, thể hiện tài hoa của “những bậc thầy” về nghệ thuật xây gạch. Chúng ta thử tưởng tượng, nếu các phù điêu, các tuợng trên thành tháp, nóc tháp mà lồ lộ ra những mạch hồ thì còn gì là nghệ thuật! Lại nữa nếu như thế thì các mạch hồ làm sao có thể chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt của miền Trung qua hàng trăm năm.
* Về nền móng vững chãi của tháp.
Trong thuật ngữ xây dựng, khái niện từ biến để chỉ sự biến đổi hình dạng, trạng thái của công trình dưới sức nặng của khối vật liệu được sử dụng. Hầu hết các công trình kiến trúc đều có hiện tượng từ biến, nhưng do tính toán trước nên người ta không để xảy ra sự cố đáng tiếc. Với tháp Chăm, các nhà kiến trúc Chăm đã xử lý móng như thế nào để tránh hiểm hoạ của hiện tượng từ biến. Nói rõ hơn, trong khi một số tháp ở Thái Lan có hiện tượng nghiêng thì nhờ đâu mà các tháp Chăm ở Việt Nam không bị nghiêng lún. Theo những người trùng tu tháp Chăm ở Phú Yên và Khánh Hoà thì trước khi xây tháp, các nhà kiến trúc Chăm đã “khảo sát địa chất” một cách kỹ lưỡng. Vị trí xây tháp lý tưởng là phía dưới chân tháp có một khối đá tảng to lớn. Một khối gạch dù nặng nề đến mấy cũng chẳng gây được hiệu ứng từ biến khi được đặt trên khối đá Granit bệ vệ, vững chãi. Ở những nơi không tìm được khối đá tảng phía dưới thì người ta phải gia cố móng theo cách tạo “khối đá” nhân tạo. Những vùng có đá tổ ong cũng được xem là “địa thế tốt” để xây tháp. Có lẽ đây là một trong những nguyên do mà đa số tháp Chăm dọc miền Trung và Tây Nguyên được xây dựng trên vùng đồi núi hoặc nơi chỗ đất cao có đá tổ ong.
Để bảo vệ chân móng của tháp không bị “tróc” ra khỏi mặt đất trước sự bào mòn của mưa gió, các nhà kiến trúc Chăm đã làm phép tính có giá trị đến hàng nghìn năm. Năm 1998, khi đến tháp Nhạn (Phú Yên), một nghệ nhân gốc Chăm đang trùng tu tháp cho chúng tôi biết phần móng nằm rất sâu trong lòng đất, có nơi bằng hoặc hơn “phần bảy, phần mười” chiều cao lộ thiên của tháp. Nếu sự thực như vậy thì tháp phải được xử lý thoát nước tốt để phần chìm không bị hủy hoại. Trong thực tế, những ngôi tháp ở Mỹ Sơn cũng luôn nằm ở vị trí cao nhất trong thung lũng. Năm 2002, khi đến Mỹ Sơn, một hướng dẫn viên “tiết lộ” phần móng của các tháp ở đây cũng sâu từ 1,5m đến 2m. Tháp vững chãi và không nghiêng còn do chân tháp có một hệ thống trợ lực ngoại vi. Điều này đã được xác nhận qua lần khai quật mới đây (tháng 8/2008) tại tháp Bình Lâm (Bình Định). “Đặc biệt kết quả khai quật khảo cổ đã làm xuất lộ hệ thống bó chân tháp bằng gạch dày 1,25m, phần cao nhất hiện còn 0,8m. Bó chân tháp được xây giật cấp và bẻ góc từ hai bên cửa giả phía Nam và phía Bắc ôm vòng qua trước tiền sảnh của vòm cửa chính…. Phần bó chân tháp bị chôn sâu trong lòng đất khoảng 1,5m. Đây là một phát hiện mới đối với kiến trúc tháp cổ Champa ở Bình Định” (4). Như vậy, lời của những người thợ trùng tu tháp Nhạn nói cách đây hơn 10 năm là có cơ sở! Và có thể họ còn biết nhiều điều bí ẩn khác nữa về tháp Chăm.
* Về các trụ có kiểu dáng kiến trúc Hy La ở khu thánh địa Mỹ Sơn.
Thật khó xác định những cây trụ này hiện diện ở khu thánh địa Mỹ Sơn bằng cách nào. Nếu có sự giao lưu trực tiếp giữa Chăm pa với phương Tây (chỉ có thể bằng đường biển) thì hiện tượng tiếp biến văn hoá có tính đơn lẻ như vậy thật hiếm thấy trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ. Nếu tiếp biến qua lăng kính văn hoá Ấn Độ thì các trụ này phải thuộc phong cách kiến trúc “phi Ấn”.
Chúng ta đã biết, trong vòng 7 thế kỷ xây dựng (từ TK. VII đến TK. XIII), Mỹ Sơn dung hợp nhiều kiểu kiến trúc truyền thống trong khu vực. Nghệ thuật kiến trúc ở đây thể hiện rất rõ quá trình chuyển hóa của nghệ thuật Champa. Đầu tiên và rõ nét nhất là phong cách kiến trúc Ấn Độ, tiếp đó là phong cách Indonesia qua kiểu dáng đền Pravanan, kiến trúc Campuchia với kiểu dáng Ăng co vat, kiến trúc Phật giáo đại thừa Việt Nam thời Lý Trần qua hình tượng các đài sen, và sau cùng là kiến trúc Hồi giáo. Các đền tháp thuộc khu thánh địa Mỹ Sơn, do vậy, được xây dựng theo các kiểu dáng một cách có hệ thống. Nhóm Mỹ Sơn E1 và F1 theo kiểu cổ đại hay kiểu Mỹ Sơn E1 (thế kỷ 8). Nhóm Mỹ Sơn A2, C7 và F3 theo kiểu Hòa Lai (cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9. Nhóm Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12 theo kiểu Đồng Dương (cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10). Nhóm Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4 kiểu Mỹ Sơn A1 (thế kỷ 10). Nhóm Mỹ Sơn E4, F2, nhóm K theo kiểu chuyển tiếp Mỹ Sơn A1-Bình Định (đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 13). Nhóm Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H kiểu Bình Định (cuối thế kỷ 11 - cuối 3). (Các chũ cái La tinh A, B, C dùng để đánh dấu đền tháp nhằm giúp cho quá trình khảo sát được dễ dàng chứ không hàm nghĩa xếp loại thứ tự nào cả). “Ðền - tháp ở Mỹ Sơn được xây dựng và tu bổ liên tục từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 13 … Các vương triều Champa sau khi lên ngôi thường xây dựng thêm hoặc tu bổ lại các đền thờ của các triều vua trước để tỏ lòng kính ngưỡng tiền nhân và chư thần hộ trì vương quốc” (5). Những cứ liệu này cho phép suy luận: hiện tượng tiếp thu và tổng hợp các kiểu kiến trúc gắn với tôn giáo, tín ngưỡng trong khu vực Mỹ Sơn là lẽ đương nhiên. Hơn nữa, Chăm pa nằm ở vị trí “trung lộ” của Đông Tây nên sự hiện diện của một trong các phong cách kiến trúc vừa nêu là điều dễ hiểu. Vấn đề còn lại là xác định các trụ trên thuộc phong cách kiến trúc nào? Ấn, Indonesia, Hồi hay Hy La?
Trước hết, hình bát giác của các trụ tự “khai nhận” mình không thuộc nhóm trụ tròn hoặc vuông của các đền chùa Đông Nam Á. Hình dáng đó gần với nhóm trụ Hy La. Nhưng nếu trụ La Mã thì vát bản to hình tròn, nếu trụ Hy lạp thì phần đáy tum như hình thoi; còn ở đây trụ lộ những góc hình tam giác và đặc biệt là sự hiện hiện của ngôi sao (một biểu tượng trên quốc kỳ Thổ Nhĩ Kỳ - vùng đất mà có thể kiến trúc Hy-La “quá cảnh” trên đường đến Ấn Độ). Về mặt trang trí thì các trụ này trụ chỉ được trang trí một ít lá và hoa ở phần chân và đỉnh, không trang trí trên toàn thân cột. Đây là kiểu trang trí theo quy luật Hồi giáo. Kiểu trang trí này cũng có thể bắt gặp ở những khoảng tường trơn (không trang trí) trên một số tường tháp gần đó (có người cho rằng những khoảng trơn đó là “khoảng vắng” của nghệ thuật nhưng biết đâu lại là chỗ đánh dấu sự hiện diện của mỹ thuật Hồi giáo).
Đa số các trường hợp giao thoa, tiếp biến văn hoá thời trung cổ, đền đài là nơi thể hiện đặc điểm kiến trúc của nền văn hoá được tiếp nhận. Thánh địa Mỹ Sơn cũng nằm trong số đó. Tuy nhiên, đối với các trụ có kiểu dáng không thuộc phong cách Hy-La, cũng không hoàn toàn mang phong cách Hồi giáo như đã khảo sát thì phong cách kiến trúc mà người Chăm pa tiếp nhận ở đây thuộc nền văn hoá nào? Có lẽ phải chấp nhận tên gọi các trụ trên là “Hy - La - Hồi” như một số nhà nghiên cứu đã từng gọi. Và như vậy, các trụ đó thuộc một phong cách kiến trúc mà yếu tố Hồi giáo đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ Hy-La qua Thổ Nhĩ Kỳ đến Ấn Độ. Khi đến Chăm pa yếu tố này vẫn giữ nguyên tính chưa ổn định về bản sắc của nó.
* Về sự linh thiêng của Tháp Chăm.
Có nhiều lý do đưa đến sự linh thiêng của tháp Chăm. Đối với người Chăm ở miền Trung thì tháp vừa là kiến trúc tôn giáo vừa là lăng mộ (kalan). “Ðền-tháp ở Mỹ Sơn được xem như tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo Champa. Ngôi đền chính hay Kalan là kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể đền-tháp. Kalan tượng trưng cho một tiểu vũ trụ. Theo quan niệm của Ấn Ðộ giáo, Kalan có 3 phần:
Ðế tháp gọi là Bhurloka tượng trưng cho thế giới trần tục.
Thân tháp gọi là Bhuwarloka tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi con người tự thanh tịnh chính mình để có thể tiếp xúc với tổ tiên đã hòa nhập với thần linh;
Mái tháp gọi là Swarloka tượng trưng cho thế giới thần linh, nơi chư thần tụ tập”(5).
Trong Hin-đu giáo, Bàlamôn được xem là hình thức phát triển tiếp theo của đạo Vêđa. Bàlamôn giáo giữ vai trò đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Chăm. Bàlamôn giáo đi tìm chân lý đưa đến sự giải thoát. Chân lý đó là sự gặp gỡ giữa linh hồn cá thể (Atma) với linh hồn vũ trụ (Brahma). Linh hồn vũ trụ (Brahma) còn có nghĩa là Đại Hồn, là nguồn gốc của vũ trụ, là chúa tể của các vị thần, là đấng Tuyệt Đối. Brahma có quyền năng tối cao, hiện thân trong một thể gồm 3 ngôi: Thần Sáng Tạo (Brahma), Thần Bảo Tồn (Visnu), Thần Phá Hủy (Siva). Con người được giải thoát khi linh hồn cá thể tìm gặp được Đại Hồn, tức là đã nhập thân vào linh hồn vũ trụ.
Các tháp Chăm dọc miền Trung toạ lạc trên những đỉnh đồi cao, chung quanh có phong cảnh đẹp đẽ. Toàn cảnh tháp Chăm toát lên vẻ đẹp thanh thoát, tĩnh lặng. Tháp vừa là lăng mộ vừa là đền thờ thần, và là nơi tiến hành các nghi lễ thần thánh. Tất cả những yếu tố đó cho thấy tháp không chỉ là công trình kiến trúc tôn giáo nghệ thuật mà còn là hiện thân của triết lý giải thoát. Tháp là cầu nối giữa cuộc sống trần thế với đấng toàn năng Brahma. Tháp là nơi chuyển tiếp để linh hồn cá thể hoá thân vào linh hồn vũ trụ. Đó là “không gian thiêng” để con người từ biệt cõi trần, đi vào thế giới của đấng toàn năng.
Thung lũng Mỹ Sơn được người Chăm gọi là vùng đất thiêng, là vùng đất đã dâng cho thần (vì vậy trong suốt quá trình xây 72 đền tháp ở đây, vật liệu không được lấy trong thung lũng mà phải chuyển từ ngoài vào). Thực chất quần thể di tích kiến trúc Mỹ Sơn là “thánh địa” của các thầy tu (tăng lữ) và giới quý tộc. Giới này tin (và phải tin) rằng có Brahma - hiện thân của quyền năng tuyệt đối mà bất cứ ai cũng phải nể sợ. Trong vùng đất thiêng này có núi thiêng; trong núi thiêng có suối thiêng, trong suối thiêng có nước thiêng. Nước thiêng để dâng cúng và “tắm” cho tượng thần. Không ai được đến gần hay “dẫm” lên những cái thiêng ấy.
Đồng bào ‘Cao Nguyên’ sợ tháp Chăm vì tin rằng đó là nơi cư ngụ của thần nước; ở đó có Yang hay Yàng tức là Trời.
Đàn Hoà Chí bị điên sau khi giáp mặt với Mỹ Sơn có lẽ cũng do khủng hoảng tư tưởng. Đó là sự bế tắc không sao giải toả nổi trong tâm thần của một “trí nhân quân tử” vốn được lĩnh hội một cách bài bản nền văn hoá (Trung Hoa) trừu tượng lại bất ngờ đối diện với một nền văn hoá (Chăm) cụ thể đến “ghê hồn”.
Người chuyên trùng tu đền tháp Chăm Pa
Vốn kiệm lời không thích nói về mình, nghiêm khắc, đôi khi hơi khó tính, “nói như đinh đóng cột” và nói đi đôi với làm, nhưng ông là người rất có uy tín không chỉ trong giới thầu xây dựng, trong đội ngũ công nhân lao động, mà còn được tín nhiệm cao đối với các chủ đầu tư công trình xây dựng dân dụng, công sở đến công trình cấp thoát nước… đặc biệt trong lĩnh vực gia cố, chống xuống cấp, trùng tu, tôn tạo tháp cổ Chăm Pa.
Công việc bảo tồn, gia cố, chống xuống cấp tháp cổ Chăm Pa Bình Định đã được chính quyền Sài Gòn triển khai từ những năm 1960, và có một số tháp đã được gia cố như: tháp Bánh Ít, tháp Cánh Tiên. Thế nhưng, công tác bảo tồn những di sản quý giá ấy thực sự được quan tâm đúng mực kể từ khi xí nghiệp tu bổ di tích Trung ương phối hợp với các chuyên gia Ba Lan khảo sát, nghiên cứu toàn bộ hệ thế tháp cổ Chăm Pa vào năm 1984 và bắt đầu thi công gia cố, chống xuống cấp năm 1985.
Từ những ngày đầu tiên, ông Lý Văn Huân đã tham gia cùng với chuyên gia Ba Lan và xí nghiệp tu bổ di tích Trung ương chống xuống cấp tháp Đôi, tháp Dương Long bằng cách neo thép POK các khối điêu khắc đá dễ bị rơi đổ và gia cố chân tháp bị sạt lở. Ngoại trừ tháp Hòn Chuông nằm trên đỉnh núi Bà (Cát Tài - Phù Cát) chưa được trùng tu, còn lại 7 cụm 13 tháp Chăm Bình Định đều do bàn tay ông gia cố trùng tu trong suốt hơn 20 năm qua. Hiện nay, ông đang giữ kỷ lục người có thời gian tham gia vào số lượng dự án thi công gia cố, trùng tu tháp cổ Chăm Pa nhiều nhất nước.
Việc thất truyền kỹ thuật xây dựng tháp Chăm Pa đã dẫn đến không ít khó khăn trong công tác trùng tu. Hai cơ quan Trung ương tư vấn thiết kế trùng tu tháp cổ là: Xí nghiệp tu tổ di tích Trung ương và Trung tâm Triển khai và tư vấn xây dựng Miền Trung – Viện Khoa học Công nghệ xây dựng đã có những luận chứng khoa học khác nhau về giải pháp trùng tu (khác nhau về chất keo dính, về chất phụ gia, kích cỡ gạch, và cả nguyên tắc trùng tu).
Do vậy, trên cơ sở thiết kế dự toán của các cơ quan tư vấn Trung ương, mỗi tỉnh có một phương pháp trùng tu khác nhau. Trong nhưng năm qua, cả hai cơ quan tư vấn thiết kế trung ương đều chưa lập được một thiết kế, dự toán trùng tu cụ thể, đầy đủ một cách tương đối trong điều kiện có thể, đôi khi còn thiết kế trùng tu sai lệch nguyên gốc di tích. Do vậy, thiết kế trùng tu cần được hoàn chỉnh trong quá trình thi công. Nếu thiếu lương tâm nghề nghiệp, người trùng tu có thể dựa trên thiết kế chưa chuẩn xác ấy thi công sai lệch nguyên gốc di tích hoặc làm gian dối để có lợi nhuận cao hơn. Đó là điều tối kỵ trong nguyên tắc trùng tu di tích.
Nhiều năm qua cố chống xuống cấp các tháp, sáu năm trùng tu tháp Đôi, (1991 - 1996), tám năm trùng tu cụm tháp Bánh Ít (1997 - 2004), “nghề dạy nghề”, ông đã có nhiều tìm tòi, sáng kiến trong kỹ thuật trùng tu tháp cổ. Cho đến hiện nay. Bình Định được các nhà nghiên cứu Chăm Pa và các chuyên gia bảo tồn di sản văn hóa đánh giá là địa phương trùng tu tháp cổ Chăm Pa tốt nhất. Nhiều đoàn cán bộ của các tình Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa… đã đến tham quan học tập phương pháp trùng tu tháp Chăm Bình Định. Để có được thành công ấy, không thể không nhắc đến sự đóng góp rất lớn cả tâm và lực của ông Lý Văn Huân.
Hai bố con anh Trần Văn Châu - thợ chạm đá, có 10 năm làm việc cho ông Huân và vợ chồng ông Hồ Sỹ Hùng – thợ hồ, gần 30 năm đi theo ông Huân thi công từ các công trình dân dụng đến trùng tu tháp đều nhận xét rằng: “Ông là người chắc thiệt, và luôn chính xác như đồng hồ – tháng nào cũng vậy, ngày 15 làm lương là ngày 16 nhận tiền”.
Với tuổi U70 (dưới 70), lẽ ra ông đã “nghĩ hưu” sau khi hoàn thành dự án trùng tu cụm tháp Bánh Ít. Thế nhưng, được sự tín nhiệm của ngành Văn Hóa - Thông tin yêu cầu ông tiếp túc công tác, và có lẽ “ma Hời” vẫn chưa muốn cho ông nghĩ ngơi. Nên ông lại nhận thầu trùng tu, tôn tạo tháp Cánh Tiên. Hằng ngày (ngoại trừ ngày chủ nhật), từ tờ mờ sáng ông chạy xe máy gần 30 cây số từ Qui Nhơn lên tháp Cánh Tiên, trèo lên giàn giáo cao gần 30 mét để kiểm tra công việc ngày hôm trước và hướng dẫn thi công ngày hôm sau. Hiện nay, ông đang tư vấn thi công trùng tu cụm tháp Dương Long đợt một với kinh phí là 4 tỷ đồng. Tổng kinh phí thực hiện dự án trùng tu, tôn tạo hoàn chỉnh tháp Dương Long khoảng 10 tỷ đồng.
Ông Đặng Hữu Thọ - giám đốc bảo tàng tổng hợp, phó ban trực bên chủ đầu tư các dự án trùng tu tháp cổ Chăm Pa Bình Định cho rằng: “về trùng tu tháp cổ Chăm Pa Bình Định, khó mà tìm được một B thứ hai am hiểu và tận tâm như ông Lý Văn Huân”.
Phong cách kiến trúc Champa
http://www.zenarch.vn/home/detail.php?iCat=39&iNew=82&module=newshttp://www.vanhoahoc.com/site/index.php?option=com_content&task=view&id=1132&Itemid=73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Thị Được Điêu khắc Chăm và thần thoại Ấn Độ, NXB. Đà Nẵng, 2005.
2. Trần Kỳ Phương Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm, NXB. Đà Nẵng, 1988.
3.http://inrasara.com/index.php/2008/03/08/nguy%E1%BB%85n-quang-tu%E1%BB%87-phat-hi%E1%BB%87n-them/
4.http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tintuc_chitiet.asp?TTID=1830
5.http://www.vanhoahoc.com/index.php?option=com_content&task=viewid=851&Itemid=73
6.http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_S%C6%A1n
Mỹ Sơn
Thông thường người ta hay so sánh thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan (Myanma), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan). Từ năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất.Mỹ Sơn có lẽ được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ 4. Trong nhiều thế kỷ, thánh địa này được bổ sung thêm các ngọn tháp lớn nhỏ và đã trở thành khu di tích chính của văn hóa Chămpa tại Việt Nam. Ngoài chức năng hành lễ, giúp các vương triều tiếp cận với các thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn hóa và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn cất các vị vua, thầy tu nhiều quyền lực. Những di vật đầu tiên được tìm thấy ghi dấu thời đại vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây dựng một thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia.
Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng có một đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ 4. Hơn 2 thế kỷ sau đó, ngôi đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ 7, vua Sambhuvarman (Phạm Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng gạch để xây dựng lại ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay (có lẽ sau khi dời đô từ Khu Lật về Trà Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ ký ức của một dân tộc kỳ bí và kỹ thuật xây dựng tháp của người Chàm cho tới nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng.
Những ngọn tháp và lăng mộ có niên đại từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 14, nhưng các kết quả khai quật cho thấy các vua Chăm đã được chôn cất ở đây từ thế kỷ 4. Tổng số công trình kiến trúc là trên 70 chiếc. Thánh địa Mỹ Sơn có thể là trung tâm tôn giáo và văn hóa của nhà nước Chăm pa khi thủ đô của quốc gia này là Trà Kiệu hay Đồng Dương.Sau khi vương quốc Chiêm Thành lụi tàn, thánh địa Mỹ Sơn đã chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến năm 1885, nó mới được phát hiện. Mười năm sau, các nhà nghiên cứu bắt đầu thực hiện các cuộc phát quang, nghiên cứu khu di tích này.
Có thể chia việc nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp về Mỹ Sơn thành hai giai đoạn:
Từ năm 1898 đến 1899: Louis de Finot và Launet de Lajonquere nghiên cứu các văn bia.
Từ năm 1901 đến 1902: Henri Pamlentier nghiên cứu về nghệ thuật, năm 1904 ông cùng Olrpeaus tổ chức khai quật khảo cổ học tại đây.
Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được L. Finot và H. Pamlentier công bố. Từ công trình nghiên cứu của H. Pamlentier, người ta biết cách đây hơn 100 năm Mỹ Sơn còn 68 công trình kiến trúc, và ông đã chia chúng thành các nhóm từ A, A’ đến N.Nhà nghiên cứu nghệ thuật F.S. Tern chia di tích Chăm Việt Nam thành 7 phong cách nghệ thuật theo quá trình tiến triển của nó. Mỹ Sơn có đủ đại biểu các phong cách, trong đó có 2 phong cách xuất phát từ Mỹ Sơn. Đặc biệt phong cách Mỹ Sơn A1 với xuất phát là đền A1 thường được gọi là kiệt tác kiến trúc của di tích Chăm.
Các nhà khảo cổ học Pháp chia các công trình kiến trúc ở Mỹ Sơn ra làm 10 nhóm chính: A, A', B, C, D, E, F, G, H, K để đặt tên cho mỗi lăng mộ theo kiểu ghép chữ cái và số.Về mặt kiến trúc thì các đền tháp, lăng mộ ở Mỹ Sơn là nơi hội tụ của các kiểu dáng khác nhau, từ những kiểu cổ đại hay kiểu Mỹ Sơn E1 (thế kỷ 8, Mỹ Sơn E1 và F1), kiểu Hòa Lai (cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, Mỹ Sơn A2, C7 và F3), kiểu Đồng Dương (cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12), kiểu Mỹ Sơn A1 (thế kỷ 10, Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4), kiểu chuyển tiếp Mỹ Sơn A1-Bình Định (đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12, Mỹ Sơn E4, F2, nhóm K) và kiểu Bình Định (cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14, Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H).Nghệ thuật và kiến trúc qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Độ. Khu thánh địa có một tháp chính (kalan) và nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc xung quanh. Các tháp đều có hình chóp, biểu tượng của đỉnh Meru thần thánh, nơi cư ngụ của các vị thần Hindu. Cổng tháp thường quay về phía đông để tiếp nhận ánh sáng Mặt Trời. Nhiều tháp có kiến trúc rất đẹp với hình những vị thần được trang trí với nhiều loại hoa văn. Phần lớn những kiến trúc này hiện nay đã bị suy tàn, nhưng đây đó vẫn còn sót lại những mảng điêu khắc mang dấu ấn hoàng kim của các triều đại Chăm pa huyền thoại. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ linga hoặc hình tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Chăm pa. Những người cầu nguyện thời trước thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ.
Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn từ Ấn Độ giáo, song biểu tượng của Phật giáo cũng tìm thấy ở Mỹ Sơn, vì đạo Phật Đại Thừa (Mahayana) đã trở thành tín ngưỡng chính của người Chăm vào thế kỷ 10. Một số đền đài đã được xây dựng trong thời gian này, tuy nhiên vào thế kỷ 17 nhiều tòa tháp ở Mỹ Sơn đã được tu sửa và xây dựng thêm.Tại thánh địa Mỹ Sơn có một đền xây dựng bằng đá, nó cũng là đền đá duy nhất của các di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234. Ngày nay, ngôi đền này đã bị sập (có lẽ do bom Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, vì ngay sát tháp là một hố bom sâu hoắm vẫn dấu tích) nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30 m và đây là ngôi đền cao nhất của thánh địa này. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây là vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ 4.Công việc bảo tồn đầu tiên diễn ra năm 1937 bởi các nhà khoa học người Pháp. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến 1938, đền A1 và các đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ năm 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Tuy nhiên, nhiều tháp và lăng mộ (bao gồm tổ hợp A với tháp A1 đã từng rất tráng lệ - gồm tháp chính A1 cao 24 mét và 6 tháp phụ xung quanh, bị hủy diệt năm 1969) đã bị hủy diệt trong Chiến tranh Việt Nam. Phần lớn các đền đài trong các nhóm khu vực trung tâm như B, C và D còn tồn tại, và mặc dù rất nhiều pho tượng, bệ thờ và linga đã bị lấy về Pháp trong thời kỳ thực dân hay gần đây được chuyển tới các viện bảo tàng như Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng, vẫn có một viện bảo tàng tạm thời đã được thiết lập trong 2 ngôi đền với sự trợ giúp của người Đức và Ba Lan để trưng bày các mô hình các lăng mộ và hiện vật còn lại. Ngày 24 tháng 3 năm 2005, tỉnh Quảng Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà trưng bày, giới thiệu di tích Mỹ Sơn với diện tích 5.400 m² với nhà trưng bày chính rộng 1.000 m² ngay lối dẫn vào di tích (khoảng 1 km) do Nhật Bản tài trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều lo ngại về tình trạng của các công trình kiến trúc, một số trong đó có khả năng sập đổ. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam đã chi khoảng 7 tỷ VNĐ (USD 440.000) cho dự án phục chế khẩn cấp thánh địa Mỹ Sơn; một dự án của UNESCO được hỗ trợ bởi chính phủ Ý với số tiền là USD 800.000 và các cố gắng phục chế có nguồn vốn từ Nhật Bản hiện nay cũng đang góp phần ngăn chặn tình trạng xuống cấp của chúng. Các công việc phục chế tại đây cũng được World Monuments Fund (WMF) góp vốn.
(Theo:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1nh_%C4%91%E1%BB%8Ba_M%E1%BB%B9_S%C6%A1n).
Nằm trong một thung lũng kín đáo thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70km về hướng Tây Nam, cách kinh thành Trà Kiệu 10km về hướng Tây, Mỹ Sơn – Thánh địa Ấn Độ giáo của Vương quốc Chăm pa xa xưa là quần thể di tích đầy hoài niệm về một thời quá khứ, một trong những di sản văn hóa thế giới rất được quan tâm.
Theo
những dòng chữ ghi trên tấm bia sớm nhất ở Mỹ Sơn thì khu di tích này
có niên đại từ khoảng thế kỷ IV, khi vua Bhadresvara cho xây dựng một
ngôi đền để dâng cúng thần Siva nhưng sau hai năm tồn tại, ngôi đền này
đã bị một trận hỏa hoạn thiêu rụi. Vào
đầu thế kỷ VII, vua Sambhuvarman đã cho xây dựng lại ngôi đền mới với
những vật liệu bền vững hơn, bắt đầu cho một giai đoạn các vị vua sau
đều tu sửa và xây dựng những ngôi đền mới để dâng lên các vị thần của
họ. Và từ đó, Mỹ Sơn đã trở thành khu Thánh địa quan trọng nhất của dân
tộc Chăm suốt từ thế kỷ IV đến thế kỷ XV. Chỉ
bằng gạch nung và đá sa thạch cùng những kỹ thuật xây dựng bí ẩn mà các
kiến trúc sư vương quốc Chămpa đã mang xuống mộ sâu, những khu đền tháp
phủ đầy rêu phong vẫn tồn tại trong sự biến động không ngừng của thời
gian với biết bao thăng trầm, thay đổi. Các đền tháp gần như đều được
xây dựng trên một mặt bằng tứ giác, chia làm ba phần: Đế tháp biểu hiện
thế giới trần gian vững chắc. Thân
tháp tượng hình của thế giới thần linh, kỳ bí mê hoặc. Phần trên cùng
là hình người dâng hoa trái theo nghi lễ hoặc hình cây lá, chim muông…
những động vật gần gũi với tôn giáo và cuộc sống con người. Tất cả hiện
diện lên giúp con người đương đại phần nào tiếp cận những kiệt tác đánh
dấu thời hoàng kim của văn hóa kiến trúc Chăm pa trong sự phát triển chung của lịch sử nước ta. Với hơn 70 công trình kiến trúc
giờ đây phủ đầy bụi mờ rêu phong, Mỹ Sơn trở nên huyền diệu, kỳ bí hơn
bao giờ hết. Trong cái nắng chiều bảng lảng gợi nên biết bao ký ức xa
xăm, người dừng chân ở Mỹ Sơn sẽ có thể nghiêng mình bên những bóng
tháp, thả hồn về những hoài niệm của cuộc sống đã qua với rất nhiều
những thăng trầm biến chuyển. Rồi đừng quên ngắm nhìn những đường nét
tinh hoa của những họa tiết trang hoàng trên từng ngọn tháp mà ở đó chứa
đựng những ước mơ, khát vọng sống và vươn lên không ngừng của người
Chăm, là một minh chứng sống động cho một đời sống văn hóa phong phú của
một trong những dân tộc trên đất nước ta.
(Theo
http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsucacnuoc/thanhdiamyson.htm)(Theo
Trùng tu các tháp Chăm: Khai quật rồi để đó
Khu tháp Chăm Khương Mỹ được "trùng tu" bằng rào dây thép gai |
TTCN - Trong những năm qua, Quảng Nam triển khai các dự án trùng tu bảo quản nhiều di tích Chăm.
Thế
nhưng ở một số di tích, đơn vị nhận trách nhiệm thi công chỉ làm mỗi
một việc là đào lên, thu giữ các hiện vật rồi... để đó. Nhiều hố đào
khai quật tại chân các khu tháp bị bỏ mặc cho nắng mưa, cỏ mọc...
Khu
tháp Chăm Khương Mỹ (xã Tam Xuân, huyện Núi Thành) gồm ba tháp đang
xuống cấp nghiêm trọng: đứng từ xa có thể thấy lộ rõ những vết nứt từ
thân tháp và gạch ở từng mảng thân tháp đã bắt đầu phân hủy, vỡ vụn sâu
vào thân tháp.
Để
bảo tồn khẩn cấp cho khu tháp này, Quảng Nam đã lập dự án và tiến hành
trùng tu vào năm 2001. Khi dự án được phê duyệt, người ta thuê một nhóm
người đào bới dưới chân tháp phía nam và phát hiện nhiều hiện vật bị vùi
sâu trong một hố khai quật rộng khoảng 24m2, phát lộ một phần chân tháp
với nhiều họa tiết, hoa văn (đồng thời thuê một công ty xây dựng ở Tam
Kỳ dọn vệ sinh các lớp rong rêu và cây dại mọc bám trên thân tháp).
Khu tháp Chăm Chiên Đàn
|
Tuy
nhiên, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực trùng tu di tích Chăm cho biết
là do chưa tìm ra giải pháp và phương án. Cái được gọi là trùng tu, bảo
vệ khu tháp là xây dựng hàng rào bằng dây kẽm gai bao quanh và giao cho
một người bảo vệ. Hôm chúng tôi đến, cửa đóng then cài, cả khu tháp nằm
trong khu vườn mọc dày các loại cây ăn quả... Du khách có đến tham quan,
đành phải đứng ngoài nhìn vào rồi tiếc nuối ra đi.
Tháp
Chăm Chiên Đàn (xã Tam An, huyện Phú Ninh) cũng có số phận tương tự.
Hơn 11 năm sau lần khai quật vào năm 1989, người ta lại tiếp tục khai
quật và được triển khai phương án trùng tu khu tháp. Và rồi hơn năm năm
trôi qua, hố khai quật vẫn còn đó mặc cho mùa mưa nước ngập, còn mùa
nắng thì cỏ mọc ken dày.
Không
riêng gì hai khu tháp trên, khu di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn cũng
chịu cảnh đào lên để đó. Điển hình là khu tháp F1 Mỹ Sơn. Dự án trùng
tu, tu bổ cấp thiết F1 đã được triển khai vào năm 2001 với UBND huyện
Duy Xuyên làm chủ đầu tư. Theo hồ sơ thiết kế được phê duyệt, việc trùng
tu chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 là khai quật phần chìm của tháp.
Trên cơ sở tư liệu khảo cổ học, sẽ chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ thiết kế kỹ
thuật trình cấp có thẩm quyền phê duyệt mới chuyển sang giai đoạn 2 là
tu bổ.
Huyện Duy
Xuyên tiến hành khai quật khảo cổ và dọn vệ sinh cây dại mọc trên thân
tháp. Trong khi đào bới khai quật, khu tháp F1 có nguy cơ bị ngã đổ. Để
bảo vệ khu tháp, những người có trách nhiệm đã dùng các thanh sắt chống
đỡ và cho xây dựng mái che bằng tôn phía trên. Kể từ đó đến nay đã hơn
ba năm vẫn chưa có một phương án trùng tu nào được đưa ra.
Ông
Lê Thành Vinh, viện trưởng Viện Bảo tồn di tích, cho biết: “Khu tháp F1
ngày càng xuống cấp nghiêm trọng và có nguy cơ sập đổ bất kỳ lúc nào là
do nhiều nguyên nhân tác động. Trong đó có nguyên nhân lớp đất đá, cây
cỏ bao phủ phế tích F1 (tạm thời có tác dụng bảo vệ các thành phần
nguyên gốc) được bóc đi. Một nguyên nhân khác là do mái che bằng tôn
không phù hợp với đặc điểm vật liệu, cấu trúc liên kết của tháp Chăm.
Sau khi khai quật, khu tháp F1 đã bị xuống cấp nghiêm trọng, và mức độ
hư hại lớn gấp nhiều lần so với khi chưa khai quật...”.
Nhiều
chuyên gia về trùng tu di tích Chăm đã từng cảnh báo việc phát quang
cây cỏ, phát lộ di tích, khai quật khảo cổ học không thể tách biệt với
quá trình thi công bảo tồn, trùng tu di tích dạng phế tích như các khu
tháp Chăm ở Quảng Nam. Việc phát lộ, khai quật cần có sự chỉ đạo và phối
hợp chặt chẽ của những người lập dự án, thiết kế trùng tu.
Du khách tiếc nuối khi nhìn khu tháp F1 trong tình trạng đổ nát | Hố khai quật ở trước tháp Chiên Đàn hiện nay |
Ông Lê Thành Vinh, Viện trưởng Viện bảo tồn di tích đã có công văn gửi cho huyện Duy Xuyên cho biết việc gia cố trùng tu tháp F1 chỉ có thể tiến hành vào 2006 bởi mùa mưa năm nay đang đến gần.Từ năm 2003 đến nay, Tháp F1 Mỹ Sơn đã được che bằng mái kim loại khi công tác khai quật đã hoàn thành, dẫn đến tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, biến dạng màu sắc gạch, gạch rơi ra khỏi thân tháp, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Sau khi báo phát hành, huyện Duy Xuyên đã làm văn bản gửi Viện BTDT-Bộ VHTT, đề nghị cơ quan này tham gia trùng tu tháp. Công văn của Viện này do ông Lê Thành Vinh, viện trưởng, vừa gửi cho huyện Duy Xuyên, khẳng định: Việc làm nhà mái che không phù hợp với điều kiện khí hậu, đặc điểm vật liệu, cấu trúc liên kết của tháp, nên mức độ hư hại của F1 hiện rất nghiêm trọng, lớn gấp nhiều lần so với các tháp chưa khai quật. Việc gia cố trùng tu F1 chỉ có thể tiến hành vào 2006 bởi mùa mưa năm nay đang đến gần. Với tháp F1, liên kết trên đã bị tách làm đôi, đảm nhận việc khai quật là đội ngũ khác, Viện không tham gia nên không có thông tin gì cả về khai quật, điều này sẽ gây khó khăn trong công tác thiết kế, trùng tu.
Phát hiện mới trong lòng đất Mỹ Sơn
Mặc
dù đợt khai quật trong lòng đất tại khu vực đền tháp Mỹ Sơn chưa kết
thúc, nhưng các nhà khoa học đã phát hiện hơn 400 hiện vật ở một hố khai
quật có độ sâu 0,95 đến 1,1 m.Tại hố khai quật này đã phát lộ khu nền
của đền tháp với các hiện vật như: ngói cong, ngói vảy trút, các thanh
liên kết bằng gốm sứ có khắc chữ Trần bằng Hán tự… Theo các nhà khảo cổ
đang khai quật tại đây, nhiều phát hiện thú vị đang dần được hé lộ dưới
lòng đất của khu đền tháp Mỹ Sơn. Với những hiện vật tìm thấy, bước đầu
có thể cho kết luận là khu đền tháp này được xây dựng từ thế kỷ thứ 9 và
phát triển liên tục qua nhiều thế kỷ sau đó. Hiện công việc khai quật
đang được tiếp tục tiến hành, các nhà khảo cổ tập trung nghiên cứu để
đưa ra những dữ liệu làm cơ sở cho công tác trùng tu và bảo quản. Các
hiện vật tìm thấy đang được hoàn chỉnh hồ sơ và trưng bày ngoài trời tại
khu đền tháp Mỹ Sơn cho du khách tham quan tìm hiểu.Cần tiếp tục khám phá Mỹ Sơn?
Kết quả khai quật ở Di sản thế giới Mỹ Sơn giữa tuần qua do Viện khảo cổ học VN tiến hành đã làm bừng lên hy vọng khám phá lại và tìm kiếm một Mỹ Sơn ẩn sâu trong lòng đất.
Hiện vật cổ nhất của Mỹ Sơn được phát hiện như thế nào?
Sau khi phát hiện ra Mỹ Sơn vào năm 1889, người ta đã làm những cuộc thống kê khảo tả về hiện trạng của chúng. Trong một đợt khai quật sau đó các nhà khảo cổ người Pháp đã tìm thấy hai di vật là một đài thờ và một cái mi cửa. Hai di vật này không chỉ được xem là nhưng kiệt tác điêu khắc, mà còn minh chứng cho một phong cách nghệ thuật cổ nhất của Chăm.
Đây
là một chiếc mi cửa còn dang dở (còn những hình khối điêu khắc chưa
hoàn chỉnh), nhưng phong cách của nó tách biệt hẳn ra trong dòng nghệ
thuật Chăm, rất gần với nhiều mi cửa tiền Ăngco. Còn đài thờ thì là
những khối phù điêu và trang trí cực kỳ sinh động, diễn tả nhiều mặt
sinh hoạt, phong tục trong xã hội thời đó.
Mặc
dù không tìm được dòng bi ký nào, nhưng bằng phương pháp so sánh, các
nhà nghiên cứu đã khẳng dính đây là các di vật thuộc niên đại sớm nhất ở
Mỹ Sơn (TK 7-8), là nhưng dấu tích vật chất xưa nhất của Mỹ Sơn thuộc
về một kiến trúc dã đổ sập. Vì tầm quan trọng của nó mà khái niệm phong
cách Mỹ Sơn E1" đã ra đời, với ý nghĩa là 1 trong 7 phong cách nghệ
thuật chính của Chăm, và là phong cách đầu tiên, cổ nhất.
Sau
đây là cuộc trao đổi với các nhà khoa học - PGS- TS Ngô Văn Doanh (Phó
Viện trưởng Viện NC Đông - Nam Á), tác giả của hàng loạt công trình
nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật Mỹ Sơn.* Bằng mắt thường người ta thấy Mỹ Sơn gồm những ngọn tháp gạch cổ kính. Nhưng cuộc khai quật lại tìm thấy một kiến trúc ngói, phải chăng tháp cổ Mỹ Sơn lợp ngói?
- Điều đó không có gì là lạ cả: Các tháp ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu trước đây đều sử dụng ngói để lợp trên những phần kiến trúc nhất định (thí dụ các gian tiền tế thậm chí còn dùng cả tranh, tre, nứa lá. Nhưng do thời gian, nên các vật liệu kém bền vững đó đã bị sập hết.
Khu
tháp Ponagar ở Khánh Hòa vẫn còn những hàng cột, mà theo phỏng đoán của
các học giả người Pháp thì bên trên cũng từng lợp ngói.
*
Tiềm năng khảo cổ của Mỹ Sơn là vô cùng lớn. Khi người Pháp đặt chân
vào Mỹ Sơn thì nó vẫn còn tới 70 di tích. Vậy mà nay chỉ còn khoảng 30
đền tháp (có tường cao 1m trở lên). Như vậy, chắc chắn là có một Mỹ Sơn
nữa dưới lòng đất...
-
Đúng vậy. Việc khai quật khảo cổ học sẽ mang lại cơ hội tìm thấy hoặc
làm rõ hơn phế tích của những đền tháp đổ sập trong 100 năm qua. Thí dụ
phế tích của 16 tháp thuộc nhóm A, sáu tháp thuộc nhóm B, ba tháp thuộc
nhóm D, 6 tháp nhóm E, ba tháp nhóm H , và toàn bộ các tháp của nhóm L,
M, N, O (đã biến mất hoàn toàn). Mỹ Sơn hiện tại chỉ bằng 1/3 những gì
nhìn thấy cách đây 100 năm.
Còn phế tích xa hơn nữa, từ khi Mỹ Sơn hình thành dện trước khi người Pháp đến thì chỉ là hy vọng thôi...
* Các đền tháp Mỹ Sơn hiện còn trên mặt đất có niên đại như thế nào?
Niên
đại sớm nhất mà du khách có thể nhìn thấy ở Mỹ Sơn bây giờ là TK 9 -
tiêu biểu là tháp C7, một ngôi tháp nhỏ nằm tít góc phía Bắc của nhóm C
đã bị xuống cấp nặng nề. Người ta xếp tháp này vào phong cách Hòa Lai
(dầu TK 9), và Đồng Dương (cuối TK 9).
Tuy
nhiên, niên đại phổ biến nhất của các đền tháp hiện còn ở Mỹ Sơn là thế
kỷ 10. Rất nhiều nhà nghiên cứu đặt nghi vấn rằng, Mỹ Sơn đã thay đổi
ngoạn mục vào TK này. Chúng có chung một phong cách thống nhất được các
nhà khoa học gọi là phong cách Mỹ Sơn A1 (tên của ngôi đền thờ chính của
nhóm Mỹ Sơn. Ngôi đèn này khi phát hiện vẫn còn nguyên vẹn nhất, hoàn
hảo nhất, classic nhất, tuy nhiên, cách đây gần 40 năm (năm 1969) nó đã
bị bom đạn của Mỹ san phẳng, và nay chỉ còn lại phế tích.Sau TK 10 là
một giai đoạn chuyển tiếp khoảng 2 thế kỷ đến phong cách Bình Định (TK
14). Đó là các nhóm tháp H, G. Năm 1234, vị vua cuối cùng là Chăm dện Mỹ
Sơn "dựng lại các linga, dâng cúng một kosa (vỏ bọc linga) băng bạc
cùng tất cả các vật dụng bằng vàng và bạch tổng trị giá 100 thi/vàng.
Sau đó, Mỹ Sơn gần như bị quên lãng, và chỉ dược "tái sinh" hơn 6 thế kỷ
sau khi những người Pháp đầu tiên đặt chân vào Mỹ Sơn.
TS Lê Đình Phụng,
chủ trì cuộc khai quật bước đầu cho rằng, những phế tích vừa tìm thấy
chưa hề có trong các tư liệu Khảo tả vẻ Tháp Chăm cách dây 1 thế kỷ. Có
thể đó là một phần Mỹ Sơn hoàn toàn chưa được biết đến trước đây, chúng
đã dỗ sập trước khi được người Pháp phát hiện.
*
Vậy theo nghiên cứu của ông, còn những khoảng trống nào trong lịch sử
phát triển của Mỹ Sơn mả chúng ta hy vọng có thể tìm thấy dưới lòng đất?
-
Theo nội dung các bia ký, thi Mỹ Sơn dược khởi dựng vào khoảng TK 5, có
thể là bằng gỗ, sau đó bị cháy rụi, và được làm đi làm lại nhiều lần,
đến nay chưa tìm được bất cứ dấu vết nào.
Đến
TK 8 vẫn là mót khoảng trắng, tuy nhiên, được hai di vật điêu khắc vào
loại đẹp nhất của nghệ thuật Chăm liên quan là mi cửa và đài thờ (gọi là
phong cách Mỹ Sơn E1).
Tuy
nhiên chúng tôi vẫn chưa tìm được dấu vết kiến trúc nào thuộc giai đoạn
sớm này tại Mỹ Sơn. Song ở ngoài Mỹ Sơn thì có. Đó là tháp Mỹ Khánh
(Thừa Thiên- Huế) được tìm thấy vừa qua.
* Theo ông, xa hơn nữa, dưới Mỹ Sơn là gì? Chúng ta có thể hy vọng tìm thấy gì về thời kỳ "tiền Mỹ Sơn" hay không?
-
Chúng tôi đặt ra câu hỏi quá trình hình thành và phát triển của Chăm
như thế nào? Văn hóa Chăm được hình thành trên nền tảng của nền văn hóa
(khảo cổ) nào? Chưa đào ở Mỹ Sơn, nhưng ở Trà Kiệu, đã đào thấy lớp văn
hóa Sa Huỳnh, và cả các di vật thời kỳ đầu công nguyên. Việc tìm hiểu
mối liên hệ, hay quá trình từ Văn hóa Sa Huỳnh lên Chăm như thế nào đang
là vấn đề cần nghiên cứu, mà ở Trà Kiệu, Mỹ Sơn có thể có thêm những
lời giải đáp.
-------------------
Tháp Chàm Bình Định
Giải đất Việt Nam ngày hôm nay, chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, thuở trước thường tiếp nhận nền văn minh nghệ thuật của hai nước Trung Hoa (ở phía Bắc) và Ấn Ðộ (ở phía Tây). Con đường ranh giới có thể để phân biệt hai nền văn minh nghệ thuật đó tràn vào nước ta là dãy Trường Sơn.
Về phía Bắc dãy Trường Sơn, nền văn minh nghệ thuật thâu nhận của Trung Hoa đem xuống; còn về phía Nam dãy Trường Sơn thì tiếp nhận nền văn minh nghệ thuật của Ấn Ðộ đem sang. Tại sao vậy? Là vì nước Việt Nam thuở xưa chỉ gồm có đất Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt ngày nay, lấy đèo Ngang (1) (cao 256 mét, thuộc dãy Hoành Sơn, tỉnh Quảng Bình) làm giới hạn. Còn về phía trong dãy Hoành Sơn (thuộc rặng Trường Sơn) là của nước Chiêm Thành (tên đầu tiên của nước Chiêm Thành là Nô-sơ-oan-a-tì-cha-ná-chá sau đổi là Hồ Tôn cho đến cuối thế kỷ thứ II trước Tây lịch; rồi Lâm Ấp cho tới giữa thế kỷ thứ VII, rồi Hoàn Vương hay Hà Lương cho tới cuối thế kỷ XI, sau mới gọi là Chiêm Thành hay nước Chàm, Champa) chạy từ Quảng Bình đến Nam Việt ngày nay. Về sau, vì cuộc nam tiến không ngừng của dân tộc Việt mà đất đai Chiêm Thành bị thôn tính.
Thật vậy, năm 1069, nhà Lý thắng Chiêm Thành, vượt Hoành Sơn chiếm Quảng Bình, Quảng Trị.
Năm 1306, nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua Chàm, mở rộng bờ cõi thêm hai châu Ô - Lý (Thừa Thiên)
Năm 1470 đến Qui Nhơn...
Qua những đoạn sử trên, ta biết rằng nước Việt Nam và Chiêm Thành là hai cừu địch, nên không thể có những cuộc trao đổi văn hóa thân thiện cho nhau, mặc dù hai nước nằm sát cạnh. Và nhìn trên dư đồ Châu Á, ta thấy nước Việt có nước Trung Hoa khổng lồ trấn áp phương Bắc, nước Chiêm Thành có Ấn Ðộ vĩ đại phía Tây. Vì vậy, văn hóa của hai nước "đàn anh" kể trên thế nào cũng ảnh hưởng sâu rộng vào các nước "đàn em" nằm lân cận.
Chính thế, Việt Nam có văn minh nghệ thuật Trung Hoa; Chiêm Thành có văn minh nghệ thuật Ấn Ðộ. Ðây là xét theo mặt địa lý, còn về lịch sử thì ta thấy "người Chiêm Thành thuộc dòng dõi Mã Lai theo sông Cửu Long tiến vào chiếm dãy Hoành Sơn mà định cư lập nghiệp. Trong cuộc sống va chạm hàng ngày, dân tộc Chiêm đã chịu ảnh hưởng của các bộ lạc địa phương như giống Thái, Phi Châu, Khmer và Ấn Ðộ. Cho nên sau này tinh thần văn hóa trưởng thành, dân tộc Chiêm có lối sống như người Khmer, và kiến trúc như người Ấn (2).
Do sự kiện trên mà ta không lạ gì việc đất nước Việt Nam chúng ta có hai dòng văn minh nghệ thuật: một của Trung Hoa và một của Ấn Ðộ. Một điều dễ nhận thấy để phân biệt hai nền văn minh nghệ thuật đó là cách phân biệt lối kiến trúc như đền đài, chùa chiền, nét điêu khắc, y phục.
Lối kiến trúc của người Tàu thường thường có long, lân, qui, phụng hay phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thủy... Trái lại, kỹ thuật kiến trúc của Ấn Ðộ thì thường uốn nắn cong co (như các mái chùa) và thần tượng kỳ bí... "
Trong những kỹ thuật đó, chúng ta chú ý trước hết tới những cái vòm (arc, voute, cintre) của những tháp Chàm. Những vòm này không phải là vòm cuốn rẻ quạt (voute en éventail), mà là vòm lớp (voute étagée) mà trong đó những lớp gạch được xếp ngang và lần lần gằn lại với nhau, người Tây phương gọi là Voute à encorbellements successifs. Những vòm cuốn chịu ảnh hưởng Trung Hoa và những vòm lớp chịu ảnh hưởng Ấn Ðộ (3)
Do những lẽ trên mà ta nhận thấy những di tích tháp Chàm ở Bình Ðịnh phần nhiều đều theo lối kiến trúc của Ấn Ðộ. Di tích của người Chàm ở Bình Ðịnh rất nhiều, song hiện giờ đã bị phá hủy hoặc chỉ còn lưu lại vài dấu vết tang thương... nhưng đáng kể nhất là các ngọn tháp Chàm mà hiện nay vẫn còn tuế nguyệt. Ðại để ta có thể kể: Các tháp Chàm ở quận Tuy Phước, Các tháp Hời thuộc quận Bình Khê, và các Tháp Chàm trong Quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh
1- Quận Tuy Phước: Về phần quận Tuy Phước, ta thấy có cả thảy ba ngọn tháp : Tháp Ðôi, tháp Bình Lâm, tháp Bánh Ít.
THÁP ÐÔI (Tour Kmer):
Trên quốc lộ số một, đi từ Nam ra Bắc, Tháp Ðôi là tháp ta gặp đầu tiên ở Bình Ðịnh. Tháp nằm cạnh cầu Ðôi, thuộc khu V, ấp 11 của Thị Xã Qui Nhơn, cách trung tâm thành phố 2 km.Tháp Ðôi gồm hai ngọn tháp đứng song song với nhau, một ngọn cao và một ngọn thấp. Tháp xây trên một gồ đất cao giống như mu rùa, rộng vừa đủ để xây tháp. Chân tháp hình vuông, mỗi ngọn tháp có một cửa ra vào, cùng nằm về phía Ðông.
Tháp Ðôi còn có tên gọi là tháp Hưng Thạnh, vì nằm trong làng Hưng Thạnh, xã Phước Hậu, tên Pháp gọi là Tour Kmer, người Mỹ gọi là The Hung Thanh Tower. Về phía Tây tháp Ðôi có cầu Ðôi, vì có cầu xe lửa và cầu xe hơi đều bắt ngang sông Hà Thanh. Hai hình ảnh này nằm gần nhau, nên đã làm cho những người con trai Bình Ðịnh nào chưa có người yêu cảm thấy lòng mình cô đơn, trống trải, họ thầm trách thân:
Cầu Ðôi nằm cạnh tháp Ðôi
Vật vô tri còn biết đèo bòng duyên lứa
Huống chi tôi với nàng.
Vật vô tri còn biết đèo bòng duyên lứa
Huống chi tôi với nàng.
Hoặc có lắm khi tình yêu của họ đã thành tựu, song họ lại muốn trăm năm bền vững:
Tháp kia còn đứng đủ đôi
Cầu kia đủ cặp
Huống chi tôi với nường
Tháp ngạo nắng sương
Cầu nương sắt đá
Dù lời thiên hạ
Tiếng ngã lời nghiêng
Cao thâm đã chứng lòng nguyền
Còn cầu còn tháp còn duyên hai đứa mình
Non sông nặng gánh chung tình.
Cầu kia đủ cặp
Huống chi tôi với nường
Tháp ngạo nắng sương
Cầu nương sắt đá
Dù lời thiên hạ
Tiếng ngã lời nghiêng
Cao thâm đã chứng lòng nguyền
Còn cầu còn tháp còn duyên hai đứa mình
Non sông nặng gánh chung tình.
THÁP BÌNH LÂM:
Giữa một vùng quê, đồng ruộng bao la xanh rờn, xóm làng nối tiếp nhau với những lũy tre xanh chạy dài, lại mọc lên một ngọn tháp đứng sừng sững giữa trời trong cảnh non nước nên thơ ấy trông thú vị biết bao; đó là trường hợp tháp Bình Lâm.
Tháp Bình Lâm nằm phía trên tỉnh lộ Tuy Phước - Gò Bồi, ở vào làng Bình Lâm, xã Phước Hòa, cách Qui Nhơn 20 cây số. Tháp này còn có tên là tháp Long Triều.
Tháp Bình Lâm gồm có một ngọn tháp to, cao, xây trên đất liền. Tháp trông không đẹp mắt bằng những ngọn tháp Chàm khác trong tỉnh Bình Ðịnh.
Tháp Bình Lâm có tiếng là nhiều ma, dân địa phương gọi là ma vàng Hời, vì ma hiện lên đa phần tỏa ánh sáng vàng óng ánh. Vì tháp Bình Lâm nhiều ma nên người trong làng đã mượn nơi đây để phạt tội những kẻ làm mất trật tự, an ninh trong làng. Kẻ phạm tội một khi nghe sắp bị nhốt vào tháp là đã run sợ rởn tóc gáy.
Nhắc đến tháp Bình Lâm, phải nói đến vấn đề bảo tồn là vì phía Tây của tháp có một chiếc bầu (ao lớn) cách chân tháp độ ba thước, rất có thể làm tháp bị sụp đổ một ngày nào đó vì sự xâm thực của nước trong mùa mưa lũ sẽ phá vỡ đất ăn mòn đến chân tháp. Thêm vào đó, hiện tháp đã hư hại rất nhiều, chân, vách, cửa tháp đều sứt mẻ, rạn nứt và nhiều chỗ sụp đổ...
THÁP BÁNH ÍT (Tour d'Argent)
Tháp Bánh Ít có nhiều ngọn và xây trên một đồi núi đất đỏ, to, cao, trông có vẻ hùng vĩ, uy nghi, vượt hẳn những ngọn tháp khác ở Bình Ðịnh.
Tháp Bánh Ít có cả thảy bốn ngọn. Ngọn to nhất xây ở đỉnh đồi, trông giống như chiếc bánh ít lá gai. Chung quanh ngọn tháp chính, còn có ba ngọn tháp phụ, hình dáng thấp và nhỏ bé hơn nhiều. Trong ba ngọn tháp này, có hai ngọn giống như hai chiếc bánh ít ngọt và một ngọn giống cái bánh ít mặn, đều lột trần.
Trước kia tháp Bánh Ít nằm trong phạm vi của làng Tri Thiện (Xã Phước Quang, Tuy Phước) nên tháp này còn mang tên là tháp Tri Thiện; ngoài ra tháp Bánh Ít còn có những tên gọi khác như tháp Cầu Bà Gi, tháp Thiện Mẫu, Thổ Sơn. Người pháp gọi là Tour d'argent (tháp Bạc).
Ðồi núi của tháp Bánh Ít có nhiều trãng to, rộng, ở về cuối làng Huỳnh Kim, đầu các làng Ðại Lộc, Phong Niên, Vạn Mỹ và nằm bên cạnh dòng Tân An, sát cạnh quốc lộ số 1, bên cạnh cây số 1214 cách Qui Nhơn 15 km.
Muốn hưởng hương vị đặc biệt trong cuộc viếng thăm các tháp Chàm Bình Ðịnh không gì bằng đến tháp Bánh Ít. Ở đây phong cảnh hữu tình, có gió mát cây xanh, cảnh vật kỳ thú yên tĩnh, có cây trái thơm ngọt trong mùa hè, phơi màu tươi thắm ở trên những trãng của đồi núi tĩnh lặng. Hơn nữa nơi đây có nhiều đá son, có giống chim "tò le" kêu rất kỳ hoặc. Gần tháp Bánh Ít là tu viện Nguyên Thiều với phật đài lộ thiên uy nghi trên một đỉnh đồi, nhìn xuống giải nước trong xanh của dòng Tân An thơ mộng.
Tóm lại, bạn muốn biết vị trí và vẻ đẹp của tháp Bánh Ít như thế nào, tôi xin bạn đọc kỹ câu ca dao sau đây là rõ:
Tháp bánh Ít
Ðứng sít cầu Bà Gi
Sông xanh núi cũng xanh rì
Vào Nam ra Bắc ai cũng phải đi con đường này (4)
Nghìn xưa gương cũ còn đây
Lòng ơi, phải lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu.
Ðứng sít cầu Bà Gi
Sông xanh núi cũng xanh rì
Vào Nam ra Bắc ai cũng phải đi con đường này (4)
Nghìn xưa gương cũ còn đây
Lòng ơi, phải lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu.
II- Quận Bình Khê: Ở quận Bình Khê ta thấy có hai tháp: Tháp Thủ Thiện và tháp Vân Trường.
THÁP THỦ THIỆN (Tour de Bronze):
Người quanh vùng hay gọi là "tháp đất" và người Pháp gọi là tháp đồng (Tour de Bronze). Tháp nằm ở làng Thủ Thiện thượng, xã Bình Nghi, bên cạnh thành Sức; phía bắc quốc lộ 19 và ở về nam ngạn sông Côn, cách sông chừng 1 km.
Tháp Thủ Thiện gồm một ngọn, chân tháp hình vuông, đỉnh tháp bỏ ngõ. Phía trong, vách đối diện cửa ra vào có 12 bức tượng đá gắn dính liền vách, chia làm 10 tượng bán thân, bụng phệ tròn, hai tay chắp trước ngực, hai tượng phía dưới, mười tượng phía trên. Hai tượng người ngồi, hai tay để trên bắp vế. Phía ngoài hai tượng này, mỗi tượng có kèm một bên (tả hoặc hữu) một tượng phụ nữ khỏa thân, nằm trong đầu rồng. 12 tượng đá xếp theo hình búp măng. Tượng cao nhất cách tượng thấp nhất độ 2 mét. Tượng dưới nhất cách mặt đất độ 6 mét
Tháp Thủ Thiện khung cửa tháp bị mất, trước cửa tháp là một gốc cây to hai người ôm. Vách tháp phía hữu có gốc cây đa to ôm bám vào. Màu tháp lẫn với màu gốc cây, nên từ xa nhìn giống như một đại thụ có hình dáng cổ quái.
THÁP DƯƠNG LONG (Tour d'Ivoire):
Tháp Dương Long nằm bên cạnh thành Cha, ở về phí đông thành Ðồ Bàn, cách 8 km, nằm về phía bắc quốc lộ 19, và ở về tả ngạn sông Côn, cách tháp Thủ Thiện 3 cây số.
Tháp xây trên một đỉnh đồi sỏi sạn, màu đỏ bầm, rộng độ 5 hoặc 6 km2, phía Ðông Nam là đồng lúa, phía Tây giáp Hương Sơn, tức núi Thơm (ở ấp An Chánh, xã Bình An, Bình Khê). Ðồi núi này có rải rác nhà cửa, miếu đình, mồ mả... và nhất là có rừng cây ở phía Tây đồi núi, nào là cây xoài, trâm, me, thị... trông rất thú vị, đẹp mắt.
Vì tháp Dương Long ở phía Tây thôn Vân Trường, nên người ta gọi nó là tháp Vân Trường, và vì nó giáp thôn An Chánh, nên cũng còn có tên là tháp An Chánh. Tháp gồm ba ngọn đứng song song, nên lại mang tên Tam Tháp, tháp Ba hay tháp Ba Chia, người Pháp gọi là Tour d'Ivoire (Tháp Ngà)
Trong ba ngọn tháp Dương Long, ngọn giữa cao hơn hai ngọn tả hữu, mỗi tháp có một cửa quay về hướng Ðông, chân vách tháp phía ngoài hơi tròn. Từ 1/2 tháp phía trên rõ tròn, và cũng từ đây có nhiều tảng đá xanh viền chung quanh tháp. Những người khảo cổ thường đến xem tháp Dương Long và đều công nhận tháp này đẹp, ít hư hơn những tháp Chàm khác còn sót lại tại Bình Ðịnh nói riêng và trên lãnh thổ Việt Nam nói chung.
Tháp Dương Long và tháp Thủ Thiện là hai tháp đều nằm vào nơi phát tích các đấng anh hùng người Bình Ðịnh như ba anh em Tây Sơn, Mai Xuân Thưởng (1860 - 1887) cho nên mỗi khi người Bình Ðịnh tưởng nhớ đến những anh hùng của quê hương bèn mượn hai tháp trên để gởi gắm tâm sự:
Vững vàng tháp cổ ai xây
Bên kia Thủ Thiện, bên này Dương Long
Nước sông trong dò lòng dâu bể
Tiếng anh hùng tạc để nghìn thu
Xa xa con én liệng mù
Tìm long hỏi chốn vân du chờ ngày.
Bên kia Thủ Thiện, bên này Dương Long
Nước sông trong dò lòng dâu bể
Tiếng anh hùng tạc để nghìn thu
Xa xa con én liệng mù
Tìm long hỏi chốn vân du chờ ngày.
III Quận An Nhơn: Trong quận An Nhơn, có hai ngọn tháp: Tháp Cánh Tiên và tháp Phốc Lốc:
THÁP CÁNH TIÊN (Tour de Cuivre):Tháp Cánh Tiên ở vào giữa khoảng thành Ðồ Bàn (Vijaya) thuộc làng Nam An xã Nhơn Hậu, cách Qui Nhơn 27 km, nằm phía tây quốc lộ 1, cách quốc lộ 1 km.
"Tháp này khác các tháp khác ở chỗ có cột đá bốn góc. Cột đá đã được dựng thành bằng những cục đá vuông xếp chồng lên nhau, ngoài có chạm hoa, trong có những lỗ để chịu những chốt cũng bằng đá. Ở bốn góc tháp cũng có nhiều thần tượng khác bằng đá và ở chung quanh bên dưới, lại có một đai bằng đá nữa. Xem như đây là kinh đô, nên tháp làm cũng công phu cầu kỳ hơn ở những nơi khác" (5).
Tháp Cánh Tiên tên chữ là Ô Tiên hay Tiên Dực. Người Pháp gọi là Tour de Cuivre (tháp thau). Tháp xây trên một đỉnh đồi cao chừng vài chục thước, có thờ bà Nữ Thần Y A Na. Thời Pháp còn ở Việt nam, họ có trông thấy tượng nữ thần nầy và đoán biết trong ruột tượng thần có đựng vàng nên họ đã cho người phá tượng để lấy vàng, mặc cho một số người sùng tín bất bình. Ca dao thời ấy có câu:
Trông lên hòn tháp Cánh Tiên
Có bà Mẫu Thiện, Tây khiêng mất rồi
Có bà Mẫu Thiện, Tây khiêng mất rồi
Về phía Tây Nam tháp Cánh Tiên độ ba bốn trăm thước, ta thấy lăng Võ Tánh ẩn mình trong những cây xoài to tướng...
Ðể tiếc thương lòng trung nghĩa của Võ Tánh đối với chúa Nguyễn, người Bình Ðịnh đã mượn tháp này làm tiêu đề:
Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên
Cảm thương quan hậu (6), thủ thiềng ba năm (7).
Cảm thương quan hậu (6), thủ thiềng ba năm (7).
THÁP PHÚC LỘC: (Tour d'Or).
Theo quốc lộ 1 từ Nam ra Bắc, tháp Phúc Lộc là ngọn tháp ta gặp cuối cùng ở tỉnh Bình Ðịnh. Nó nằm phía hữu và cách quốc lộ 2 km.
Tháp Phúc Lộc tục gọi là tháp Phốc Lốc và người Pháp gọi là Tour d'Or (tháp vàng). Tháp này đứng chót vót trên một ngọn núi đất, một nửa thuộc địa phận xã Nhơn Thành quận An Nhơn và một nửa thuộc quận Phù Cát. Cảnh trí của tháp Phúc Lộc dễ gây mối đau thương cho những kẻ có tâm hồn đa cảm, trước luật sanh tồn, cạnh tranh mà mạnh được yếu thua:
Lên thăm hòn Phốc Lốc
Non cao đường dốc
Em nghĩ thương dân tộc người Chiêm
Gặp cơn biển nổi dâu chìm
Ðã không tài vá khuyết, lại không chim lấp thù
Tháp đành ôm hận ngàn thu
Nấu nung vàng đá, mịt mù khói mây
Nhưng trời còn đây, đất cũng còn đây
Lẽ đâu trục đất lại không vần xoay cơ trời.
Non cao đường dốc
Em nghĩ thương dân tộc người Chiêm
Gặp cơn biển nổi dâu chìm
Ðã không tài vá khuyết, lại không chim lấp thù
Tháp đành ôm hận ngàn thu
Nấu nung vàng đá, mịt mù khói mây
Nhưng trời còn đây, đất cũng còn đây
Lẽ đâu trục đất lại không vần xoay cơ trời.
Ðề cập đến tháp Chàm, có rất nhiều điều cần bàn tới, như nguồn gốc, thời điểm và kỹ thuật xây dựng các tháp Chàm...
Tuy nhiên trong bài này, với mục đích gợi nhắc những hình ảnh quen thuộc của quê hương mến yêu, chúng tôi chỉ sơ lược giới thiệu các ngọn tháp hiện còn tồn tại ở Bình Ðịnh mà không đề cập đến các chi tiết. Có dịp chúng tôi sẽ xin trở lại đề tài này trong một bài khác.
Trần Nhâm Thân
Ðặc san CƯỜNG ÐỂ & NŨ TRUNG HỌC QUI NHƠN 1999
Ghi chú và tài liệu tham khảo:
(1) Xe hơi đã tới đèo Ngang
Ấy qua Hà Tĩnh, đường sang Quảng Bình .
(Chơi Huế- Tản Ðà, 1919)
(2) Tô Mặc Giang, "Văn Hóa Chiêm Thành" đăng trong "Thế Hệ" Số 3 tháng 10-1957.
(3)Trích "Tìm hiểu các kiến trúc kinh thành Huế". Bài thuyết trình của học giả Thái Văn Kiểm, tại viên đình Tao Ðàn Sài Gòn, ngày Thứ Sáu 26-7-1963.
(4) Con đường này, ý chỉ quốc lộ 1.
(5) Theo Chân Như, trong bài "Ðường Ði Ven Biển" đăng ở Xây Dựng Mới, Sài Gòn. Nguyệt san văn hóa, mỹ thuật, kiến trúc, số 4, tháng 4-1958.
(6) Quan hậu: chỉ Võ Tánh (Phò mã chưởng hậu quân)
(7) Thủ thiềng ba năm: Võ Tánh và Ngô Tùng Châu giữ thành Ðồ Bàn từ năm 1799 đến năm 1801.
Ấy qua Hà Tĩnh, đường sang Quảng Bình .
(Chơi Huế- Tản Ðà, 1919)
(2) Tô Mặc Giang, "Văn Hóa Chiêm Thành" đăng trong "Thế Hệ" Số 3 tháng 10-1957.
(3)Trích "Tìm hiểu các kiến trúc kinh thành Huế". Bài thuyết trình của học giả Thái Văn Kiểm, tại viên đình Tao Ðàn Sài Gòn, ngày Thứ Sáu 26-7-1963.
(4) Con đường này, ý chỉ quốc lộ 1.
(5) Theo Chân Như, trong bài "Ðường Ði Ven Biển" đăng ở Xây Dựng Mới, Sài Gòn. Nguyệt san văn hóa, mỹ thuật, kiến trúc, số 4, tháng 4-1958.
(6) Quan hậu: chỉ Võ Tánh (Phò mã chưởng hậu quân)
(7) Thủ thiềng ba năm: Võ Tánh và Ngô Tùng Châu giữ thành Ðồ Bàn từ năm 1799 đến năm 1801.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.