NGUYỄN AN-KIẾN TRÚC SƯ THIÊN TÀI VIỆT NAM (1381-1456)
http://www.vietnamfineart.com.vn/Story/Tapchimythuat/2008/9/1840.html
Để
tìm hiểu rõ về những nhân vật tài danh của đất nước ta sau cuộc xâm
lược của nhà Minh ở đầu thế kỷ XV là rất khó khăn, vì quân Minh vơ vét
của cải, sách vở, bắt các trẻ em, nhà sư, thợ giỏi các ngành nghề đưa về
Yên Kinh (Bắc Kinh) để phục vụ triều đình nhà Minh. Đây là một công
việc hết sức gian nan vất vả. Công cuộc chống quân xâm lược của nhà Hồ
thất bại, Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Đô đốc thiêm sự Liễu Thăng cùng 5
viên tướng Lỗ Lân, Trương Thăng, Du Nhượng, Lương Định, Thân Chí bắt
giải Hồ Quý Ly và các con là Hán Thương, Nguyên Trừng, Triết Uông, các
cháu là Nhuế, Lô, Phạm, Ngũ Lang, em là Quý Tỳ cùng họ hàng các tướng
lĩnh triều đình cộng 13 người, cùng các ấn tín đưa về Kim Lăng để dâng
vua Minh. Thời kỳ này Minh thành tổ là Hoàng đế Chu Đệ chuyển kinh đô,
từ Nam Kinh lên Bắc Kinh (1403). Bắc Kinh là thành đô có lịch sử ngàn
năm trước kia là kinh đô của nhà Nguyên ở thế kỷ XIII, của nhà Kim
(1115-1234), nhà Liêu (907-1125). Khi nhà Minh tiêu diệt triều Nguyên
xâm lược đã di chuyển lên kinh đô Đại Đô để phát triển thành kinh đô Bắc
Kinh. Công việc xây dựng kinh đô mới cần rất nhiều thợ giỏi, kiến trúc
sư tài ba để làm việc, chính vì vậy nhà Minh đã bắt rất nhiều thợ giỏi
của nước ta đưa về Bắc Kinh để phục vụ cho triều đình, trong đó có
Nguyễn An và nhiều người khác như Phạm Hoằng, Vương Cận (Trần Vũ) đã
theo vua Minh đi đánh Cao Hú lập nhiều công danh được ban đai ngọc, yên
vàng v.v...
Nguyễn An và sự nghiệp xây dựng cung điện ở Bắc Kinh
Trong nhiều năm nghiên cứu, tìm hiểu
trên nhiều nguồn tài liệu quý giá của Việt Nam, Trung Quốc, các nhà
nghiên cứu: Yên Tử Trần Đại Sỹ, Thúc Ngọc Trần Văn Giáp, Trịnh Cao Tưởng
và Trương Tú Dân (Trung Quốc) trong bài: Nguyễn An nhà kiến trúc thiên
tài người Việt Nam đã tham gia công trình kiến thiết đại Bắc Kinh dưới
thời Minh (*) với các sử liệu thời Minh cho ta thấy một Nguyễn An đã
trưởng thành ở Việt Nam, tham gia các hiệp thợ xây dựng cung điện ở
Thăng Long và bị đưa sang Trung Quốc thời Minh. Nguyễn An là người có
tài về thư toán, kiến trúc, sinh năm Tân Dậu - niên hiệu Xương Phù thứ 5
triều vua Trần Thuận Tông (1381), quê thuộc vùng Hà Đông, nơi có nhiều
phường nghề phục vụ cho triều đình ở kinh đô Thăng Long. Năm 1407 triều
đình vua quan nhà Hồ bị quân Minh bắt giải sang Kim Lăng xử tội, sau đó
đến các văn nhân, thợ giỏi, thiếu niên, nhà sư để phục dịch triều đình
nhà Minh. Vì tài năng của Nguyễn An đã được phát hiện nên năm Vĩnh Lạc
thứ 14 (1416) theo lệnh của Minh Thành Tổ (Chu Đệ), Nguyễn An được giao
trọng trách “Tổng công trình sư” xây dựng mới khu Tử Cấm Thành Bắc Kinh
(Cố Cung) gồm 3 điện lớn: Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân và 2 cung Càn
Thanh, Khôn Ninh. Đây là một công việc hết sức to lớn, ba ngôi điện
chính nằm ở trung tâm Tử Cấm Thành. Điện Phụng Thiên có quy mô lớn nhất
chiều dài khoảng 64m, rộng 37m, cao 27m với bộ kiến trúc khung gỗ đồ sộ
gồm 84 cột và 182 dầm xà ngang dọc chạm khắc tinh vi, sơn son thiếp vàng
lớn nhất ở Trung Quốc còn lại đến nay. Nơi đây, chính giữa đặt ngai
vàng của các Hoàng đế Trung Hoa. Ba tòa điện này tọa lạc trên một bệ đá
ngọc thạch khổng lồ hình chữ I, vì ngôi điện ở giữa (Hoa Cái) nhỏ là nơi
chuẩn bị các nghi lễ cho điện Phụng Thiên. Công trình này được hoàn
thành sau 5 năm đến năm 1421 thì kết thúc. Nhưng một điều không may là
non nửa năm sau, cả ba điện đã bị hỏa tai thiêu cháy. Vì vậy đến năm
1440, tháng 3 năm Cảnh Thống thứ 5, Nguyễn An lại được vua Minh giao cho
7 vạn thợ và ban lệnh xây dựng, trùng tu 3 điện Phụng Thiên, Hoa Cái,
Cẩn Thân, cùng 2 cung Càn Thanh, Khôn Minh. Với tài năng kiệt xuất ông
đã hoàn thành công việc trùng tu, xây dựng lại trong 1 năm với 3 điện, 2
cung, vào tháng 10 niên hiệu Minh Chính Thống thứ 6 (1441) một cách
xuất sắc. Vua Minh Anh Tông đã đặc thưởng cho Nguyễn An 50 lạng vàng,
100 lạng bạc, 8 súc gấm, vóc, nhiễu và 1 vạn quan tiền (Anh Tông chính
thống thực lục - Q84). Năm Minh Gia Tĩnh thứ 41 (1562) đã đổi tên 3 điện
này là Hoàng cục điện, Trung cực điện và Kiến cực điện. Sau khi nhà Mãn
Thanh xâm lược tiêu diệt nhà Minh và tiến vào Bắc Kinh, các vua Mãn
Thanh ở luôn trong Tử Cấm Thành. Năm Thuận Trị thứ hai (1645) Hoàng đế
Khang Hy cho đổi tên ba điện này là: Thái Hòa điện, Bảo Hòa điện, Trung
Hòa điện, mang ý nghĩa đại diện cho một cung điện lớn nhất của một triều
đại mới, với mục đích ổn định lâu dài, bền vững. Trung Hòa là giữ được
cái gốc lớn nhất của Thiên hạ, thấu tình đạt lý, hòa hợp trời đất để
bình yên, tên điện của Tử Cấm Thành đều có 2 loại văn tự Mãn, Hán. Vị
trí 3 ngôi điện được các vua Thanh cai trị.
Theo biên niên sử nhà Minh, chúng ta
có thể thấy rõ sự nghiệp của kiến trúc sư lỗi lạc Nguyễn An đã được các
vua Minh sử dụng, tạo nhiều điều kiện để ông thi thố tài năng trong xây
dựng. Năm Chính Thống thứ 2 (1437) Vua Minh Anh Tông giao cho ông làm
Tổng đốc công cùng với đốc công người Minh là Ngô Trung có nhiệm vụ làm
chín môn lâu thành Bắc Kinh, trước 9 cửa lâu thành làm 9 cầu đá, 9 cống
thoát nước, xây kè đá hai bên bờ thành hào, đào sâu hơn nơi trước đây là
cầu gỗ, hào đất. Công việc này được làm trong hơn 2 năm. ông đã hoàn
thành công việc vào tháng 4 năm Chính Thống thứ 4 (1439). Minh sử còn
cho biết nhiều công việc cụ thể của Nguyễn An : “ở Chính Dương Môn đã
làm xong một tòa nhà Chính lâu và hai tòa tả, hữu lâu. Còn Sùng Văn môn,
Tuyên vũ môn (hai bên của Chính Dương môn). Triều Dương môn ở phụ thành
phía đông, Đông trực môn, Tây trực môn ở phụ thành phía tây, An Định
môn, Đức Thắng môn ở phía sau, mỗi cửa đều có một chính lâu và một
nguyệt thành lâu (thành phụ kiểu ưng thành đây là lối xây thành của
người Hán). Bốn góc thành lại dựng vọng gác lâu. Bên ngoài các cửa đều
dựng nhà bia (Minh thực lục, Anh Tông Chính thống thực lục, Q26/trg 8).
Tác giả Diệp Thanh viết bộ sách “Thủy
đông nhật ký” thời Minh còn cho biết Nguyễn An rất coi trọng việc học
hành nên ông đã thân chinh làm đốc công xây dựng nhà thái học. Trong
Tuyên Phủ miếu ở Bắc Kinh có bia khắc ghi sự việc này.
Năm Chính thống thứ 10 (1445) Nguyễn
An được lệnh cùng các quan thành nhà Minh sửa chữa, xây gạch toàn bộ mặt
ngoài thành nội Bắc Kinh. Thành Bắc Kinh (Đại Đô) được đắp thời nhà
Nguyên (1280-1368) thành đắp bằng đất. Đến thời Vĩnh Lạc nhà Minh mới
xây một mặt gạch, mặt trong vẫn bằng đất, những năm trời mưa, tuyết rơi
lớn làm tường thành nhiều chỗ bị sụt lở, phải tu sửa mất nhiều nhân lực
nên đường phố đầy bùn đất, lầy lội bẩn thỉu. Mãi đến nay mới được sửa
chữa quy mô, những nơi sụt lở và xây gạch cả hai mặt trong, ngoài (Anh
Tông Chính thực lục, Q.130). Theo biên sử nhà Minh thời Chính Thống mới
được hoàn thành tường gạch thành Bắc Kinh, hào sâu, cổng thành vững
chắc, cầu đá vững bền, vọng lâu quy chuẩn. Trong Hoàng Thành các cung
điện lộng lẫy, nguy nga, lầu son gác tía, tráng lệ như căn bản của Bắc
kinh ngày nay, được bảo tồn từ thời Minh, đã tiến hành xây dựng mạnh mẽ
đại quy mô, trong thời gian dài 8 năm, kể từ niên hiệu Chính Thống thứ 2
(1437) đến năm thứ 10 (1445). Người đảm trách từ khi khởi đầu kế hoạch
thảo sang Yên đô là Nguyễn An đã được vua Minh Thành tổ chọn dùng: từ
các kiểu mẫu công trình, kiến trúc chính của ba điện, 2 cung, các ty ở
phủ bộ thành Bắc Kinh mà ông là người đảm trách thiết kế, lập kế hoạch,
theo dõi thi công. Các quan ở bộ công đều không thể thay đổi được, chỉ
việc khoanh tay làm theo kiểu mẫu đã vạch ra sẵn (Minh sử thiết hoạn
quan. Truyện thứ 3. Quyển 25 trang 6). Tên tuổi của Nguyễn An được ghi
trong những bậc tiền bối có công xây dựng kinh thành Bắc Kinh ở một tấm
bia trên đồi Thạch Cảnh Sơn (Bắc Kinh) sách Kinh Thành ký thắng của
Dương Sĩ Kỳ viết : ...”Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập
được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ
công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay bái phục, nghe ông chỉ bảo,
sai khiến, thật là một người đại tài xuất chúng”.
Nguyễn An luôn là người được vua Minh
giao cho những trọng trách lớn. Khi đang tái thiết Bắc Kinh, năm Cảnh
Thống thứ 9 (1444), năm ấy do mưa lớn kéo dài, đê sông Bồ Cầu bị vỡ hơn
20 đoạn. Nhà vua lại cử ông đi cùng với quan Hữu thị lang Bộ Công là
Vương Hựu đi cứu đê sông Bồ Cầu, đặc biệt là khu vực bến đò Yến nhi. Đời
sống nhân dân vùng đê vỡ vô cùng nguy khốn. Nguyễn An đã đệ tấu trình
xin cấp nhân lực, tiền của và trực tiếp chỉ huy toàn bộ hàn khẩu các
đoạn đê vị vỡ sông Bồ Cầu thắng lợi. Hàng triệu dân vùng lưu vực sông Bồ
Cầu đã thoát khỏi thảm họa, người dân nơi đây coi ông là vị cứu tinh
của Bồ Cầu. Vài năm sau ông còn được giao nhiệm vụ xây dựng công trình
thủy sông Tái Dương. Sự thành công đem lại nhiều kết quả to lớn nên được
nhiều bộ sử lớn ghi chép, ca ngợi, cảm phục ông, ngoài việc mẫu mực
thiết kế, tính toán chi ly để khiến mọi người cứ theo mẫu mà làm. Mặc dù
là một đại quan của triều Minh, một công trình sư do chính nhà vua trao
nhiệm vụ, ông vẫn thường xuyên có mặt tại hiện trường, theo dõi đôn đốc
thi công, thậm chí chính ông tự tay vác cuốc, gánh đất, đắp đất, kéo
xích sắt v.v... đồng cam cộng khổ với dân phu để hoàn thành công việc
(Minh sử Q34/trang 6, Hoàng Minh Thư Q13/trg17); (Minh Thư Q158/trg 3);
(Anh Tông chính Thống Q119); (Thất tu loại cảo Q11/116).
Tôi đã được biết công trình kiến trúc
của Nguyễn An qua sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, khi qua Trung
Quốc được ngắm nhìn những công trình kiến trúc đồ sộ to lớn thật ngỡ
ngàng và cảm phục, tự hào về một người Việt Nam đã xây dựng ở đây từ thế
kỷ X. Lúc đó là năm 1977 chưa có du lịch như bây giờ, đi bộ qua Thiên
An môn, còn tự tay lay cánh cổng gỗ cao lớn, chạy bánh xe gỗ để thử cảm
giác thật sự, bên cạnh những người dân Bắc Kinh còn nghèo, đi chơi ra
Thiên An Môn hóng mát, còn đi xe đạp mặc áo may ô cởi trần là chuyện
bình thường. Cửa Thiên An Môn đồ sộ màu đỏ sậm trước quảng trường có độ
cao khoảng gần 40m do 2 nhà kiến trúc sư Khoái Tường và Lục Tường thiết
kế được xây năm 1420 với tên Thừa Thiên Môn, đến năm 1651 được xây dựng
lại và đổi tên là Thiên An Môn là cổng chính phía nam còn lại tới ngày
nay. Khi ta vào tới điện Thái Hòa là một khu vực vô cùng rộng lớn, tọa
lạc trên 3 cấp thềm sân đá có thành lan can bằng đá bạch ngọc, với đường
ngự lộ 3 cấp, chính giữa chạm khắc rồng mây vô cùng tinh xảo và to lớn.
Những phiến đá nguyên khối vô cùng to lớn này, theo tài liệu cổ Trung
Quốc mỗi tảng dài hơn 3 trượng, rộng 1 trượng dầy 5 thước, nặng khoảng
180 tấn. Theo Minh sử năm Cảnh Thái thứ 7 (1456) triều vua Minh Cảnh
Tông có lụt lớn ở sông Hoàng Hà. Đê ở vùng Trương Thụ thuộc tỉnh Sơn
Đông bị vỡ. Triều đình đã tốn nhiều nhân tài, vật lực mà không hàn khẩu
được, cả một vùng Sơn Đông rộng lớn bị chìm ngập trong biển nước, dân
Sơn Đông vô cùng lầm than cơ cực. Trước tình thế đó Vua Cảnh Tông đã đặc
phái Nguyễn An đến chỉ huy cuộc hàn khẩu này. Trên đường đi, ông bị ốm,
do tuổi cao đã mất ở dọc đường, hưởng thọ 75 tuổi. “Khi ông mất trong
túi không còn quá 10 đồng tiền” (Minh sử liệt truyện. Truyện thứ 12q.
Mục hoạn quan. Trg6 ). Trước khi ông mất vẫn chỉ mặc áo vải, đắp chăn
vải” ông còn dặn lại “Hiến tất cả của cải được ban cho suốt đời và các
của riêng đem nộp làm của công” (Hoàng Minh Thư Q.13, trg 17).
Kiến trúc sư thiên tài Nguyễn An mất
đi đã để lại nhiều công trình cung điện, là những dấu ấn văn hóa của một
tài năng kiệt xuất, đã được sử dụng đúng chỗ để ông phát huy trong xây
dựng, kiến trúc, ông đã góp phần làm đẹp cho kinh thành Bắc Kinh tráng
lệ, một tòa thành vĩ đại, hoành tráng, diễm lệ, đầy các cung điện lầu
son, gác tía, cửa son, ngói hoàng ly lóng lánh. Đó là những đại kỳ quan
về kiến trúc của các triều đại phong kiến phương đông từ thế kỷ XV đã
tồn tại qua gần 6 thế kỷ. Nguyễn An là một con người đã đi vào lịch sử
được nhiều sử sách Trung Hoa ca ngợi về nhiều phương diện, ông còn là
một nhà thơ, một tấm gương đạo đức cao đẹp. Nguyễn An xứng danh là một
kiến trúc sư thiên tài như nhiều sử sách, báo chí Trung Hoa ca ngợi hết
lời. Ông là một danh nhân Việt Nam thời cổ trung đại, được lớn lên và
trưởng thành trong nền văn hóa Việt Nam, Trung Hoa, thực sự là ngôi sao
Việt Nam tỏa sáng trên nền văn hóa Trung Hoa vĩ đại mà người Việt Nam
cần học tập và biết tới để tự hào, tự tin trong công cuộc xây dựng đất
nước ta tươi đẹp hôm nay.
Trịnh Quang Vũ
(*) Tiến bộ Nhật báo - ngày 2 tháng 2 năm 1950
Tài liệu tham khảo
1. Lê Quý Đôn toàn tập Q.II Kiến văn tiểu lục NXB-KHXH 1977
2. Đại việt sủ ký toàn thư - NXB KHXH TII 1985
3. Yên tử củ sĩ - Trần Đại Sỹ Giám đốc Trung Quốc sự vụ viện Pháp á
4. Kiến trúc cổ Việt Nam - NXB xây dựng 2006 Trịnh Cao Tưởng
5. Thúc Ngọc Trần Văn Giáp nhà sử học
6. Tư liệu của tác giả và họa sĩ Đồng Thị Hoàn
7. Nghệ thuật kiến trúc cổ Bắc Kinh - NXB Kim Đồng
9. Bí mật Tử cấm thành NXB Thanh niên 2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.