Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn
Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn là một trường đại học thuộc Viện Đại học Sài Gòn, tồn tại từ 1954 đến 1975. Trường này là tiền thân của Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.
Lịch sử
Thời thuộc Pháp tại Đông Dương chỉ có Ban Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương (Ecole des Beaux Arts) tại Hà Nội, lập ra năm 1926. Từ năm 1942, Ban Kiến trúc thuộc Trường Cao đẳng Mỹ thuật. Năm 1944, lập Trường Kiến trúc thuộc Cao đẳng Mỹ thuật, chuyển từ Hà Nội vào Đà Lạt, rồi chuyển từ Đà Lạt vào Sài Gòn cuối năm 1950. Từ năm 1954 đến 1975, trường có tên Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Sau năm 1975 trường trực thuộc Bộ Xây Dựng.
Lịch sử của Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn bao gồm các giai đoạn sau đây:
Ban Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương
- Năm 1926: Một ban đặc biệt về kiến trúc được mở thêm trong phạm vi trường Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội (N.Đ. 1-10-1926).
- Năm 1942: Trường Mỹ thuật Đông Đương được chia làm 2 riêng biệt:
- Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Trường Mỹ nghệ Thực hành Hà Nội
Ban Kiến trúc thuộc trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (N.Đ. 22-10-1942).
Trường Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương
- Năm 1944: Ban Kiến trúc được nâng lên thành Trường Kiến trúc và vẫn nằm trong phạm vi Trường Cao đẳng Mỹ thuật (N.Đ. 22-2-1944).
Để tránh hiểm họa chiến tranh, Trường Kiến trúc được di chuyển vào Đà Lạt.
- Năm 1945: Chính phủ Pháp công nhận văn bằng Kiến trúc sư của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có giá trị để hành nghề tại Pháp và Đông Dương (N.Đ. 6-2-1945).
Sau khi dời vào Đà Lạt được mấy tháng, vì thời cuộc, Trường Kiến trúc phải ngưng hoạt động.
- Năm 1947: Trường Kiến trúc Đông Đương, sau mấy niên học ngưng hoạt động được mở lại tại Đà Lạt kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1949.
Trường Kiến trúc thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Năm 1948: Được coi là một trường kiến trúc địa phương của Pháp. Trường Kiến trúc tại Đà Lạt phải chịu lệ thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris về chương trình áp dụng, hệ thống kiểm soát, thi cử, cấp văn bằng (N.Đ. 6-9-1948).
Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt
- Năm 1948: Cuối năm 1948, Trường Kiến trúc tại Đà Lạt được nhập về Viện Đại học Đông Dương và được nâng lên hàng trường cao đẳng. Kể từ đây Trường Cao đẳng Kiến trúc tách riêng ra khỏi các Trường Cao đẳng Mỹ thuật nhưng vẫn giữ một thể lệ như một trường địa phương thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris.
Trường Cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn
- Năm 1950: Cuối năm 1950, Trường Cao đẳng Kiến trúc được chuyển từ Đà Lạt về Sài Gòn.
- Năm 1954 và về sau: Theo Hiệp định Genève, Viện Đại học Hà Nội chuyển thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam và sau cùng lấy danh hiệu là Viện Đại học Sài Gòn.
Trường Cao đẳng Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài Gòn đã mở thêm:
- Ban Thiết kế Đô thị (từ niên khóa 1955-1956)
- Ban Cán sự Kiến trúc (từ niên khóa 1958-1959)
Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn
Các giáo sư, giảng viên
Giáo sư Ban Cao đẳng Kiến trúc
- Trần Văn Tải, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Bùi Quang Hanh, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Phạm Văn Thâng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Louis Pineau, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị
- Nguyễn Quang Nhạc, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Huỳnh Kim Mãng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Tô Công Văn, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Võ Doãn Giáp, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Nguyễn Bá Lăng,Kiến trúc sư DPLG PARIS
Nhiệm giáo Ban Cao đẳng Kiến trúc
- Trần Văn Bạch, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris
- Phan Đính Tăng, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris
- Lẹ Kim Đính, Cử nhân Toán, Chứng chỉ Cao học Thiên văn Thẩm cứu (Certificat d'étude supérieures d'Astronomie approfondie)
- Nguyễn Đình Hải, Tốt nghiệp Viện Anh ngữ của Đại học Michigan, Hoa Kỳ (English Language Institute, University of Michigan)
- Lê Văn Hợi, Kỹ sư trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris
- Nguyện Văn Kiết, Cử nhân Văn khoa và Văn chương Cao học
- Trịnh Hữu Định, Trang trí gia tốt nghiệp Trường Quốc gia Cao đẳng Trang trí Paris
- Vọ Đức Diễn, Kỹ sư Trường Bách khoa Montréal
- Ngô Khắc Trâm, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Nguyễn Hữu Thiện, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Phạm Minh Cảnh, Kỹ sư tốt nghiệp Viện Kỹ thuật Normandie
- Mai Hiệp Thành, Kỹ sư Công chánh
Giảng viên
- Nguyễn Huy,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
- Võ Đình Diệp,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
- Nguyễn Trọng Kha,Kiến trúc sư DPLG Paris
- Trần Phong Lưu,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
- Cổ Văn Hậu,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
- Lưu Vĩnh Tịch, Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn (sau 1975)
- Khương văn Mười, Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn (sau 1975)
- Hồ Thiệu Trị,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn (sau 1975)
Giáo sư Ban Thiết kế Đô thị
- Lê Văn Lắm, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị
- Huỳnh Kim Mãng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Trần Phi Hùng, Kiến trúc sư Viện Đại học Sài Gòn, Master of Regional Planing (Hoa Kỳ)
Giáo sư Ban Cán sự Kiến trúc
- Nguyễn Hữu Thiện, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Vũ Đình Hóa, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Nguyễn Văn Đức, Kỹ sư Công chánh Đông Dương
- Nguyễn Đăng Linh, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Lê Văn Hợi, Kỹ sư Trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris
- Nguyễn Văn Long, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Nguyễn Văn Anh, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Đan Hoài Ngọc, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Ngô Khắc Trăm, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
- Đỗ Bá Vinh, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt, Chứng chỉ Kiến trúc Nhiệt đới (London)
Chương trình
- Điều kiện nhập học: Tú tài Toàn phần hay một văn bằng tương đương.
- Thể thức học và thi: sau mỗi niên học, trường mở hai khóa thi.
Năm 1
- Kiến trúc sáng tạo học;
- Cổ điển họa và nặn hình;
- Toán học;
- Hình học họa hình;
- Lịch sử tổng quát kiến trúc;
- Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo;
- Pháp văn;
- Anh văn;
- Kiến trúc nhập môn.
Năm 2
- Kiến trúc sáng tạo học;
- Cổ điển họa và nặn hình;
- Toán học đại cương;
- Hình học họa hình;
- Lý thuyết Kiến trúc;
- Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo.
Năm 3
- Kiến trúc sáng tạo học;
- Cổ điển họa và nặn hình;
- Kiến tạo đại cương: Lý thuyết;
- Vật lý, Địa chất học áp dụng vào khoa Kiến trúc;
- Phép phối cảnh;
- Lý thuyết Kiến trúc;
- Sức chịu đựng của vật liệu.
Năm 4
- Kiến trúc sáng tạo học;
- Kiến tạo đại cương: Lý thuyết và đồ án;
- Bê tông cốt sắt;
- Ước lượng vật liệu và kiểm điểm;
- Lịch sử tổng quát Kiến trúc;
- Lý thuyết Kiến trúc;
- Luật nhà phố.
Năm 5
- Kiến trúc sáng tạo học;
- Kiến tạo áp dụng;
- Luật nhà phố;
- Tổ chức nghề nghiệp;
- Lý thuyết Kiến trúc;
- Địa thể học áp dụng kiến trúc;
- Kiến tạo đại cương: Đồ án và kỹ thuật.
Năm 6
- Kiến trúc sáng tạo học;
- Bê tông cốt sắt thực hành;
- Đồ án trang trí nhà cửa;
- Luận án thi tốt nghiệp (3 tháng cuối niên học.)
Chương trình học 6 năm của trường Đại Học Kiến Trúc, Viện Đại Học Sài Gòn.
Gần đây, có vài hồi ký trên này, nhắc lại những chuyện làm đồ án Kiến Trúc của ĐHKT SG, nên tôi ghi lại ở đây chút ít chi tiết về chương trình học KT hồi xưa cho mọi dữ kiện được rõ hơn. Tôi đã nhìn lại những tài liệu mang theo từ VN, đã được chuyển dịch ra Anh Ngữ để nộp đơn theo học lại Graduate School của đại học Mỹ. Đồng thời để giúp các bạn trẻ, bạn mới bạn già kiểm chứng chuyện bài vở, đồ án, để ghi lại chuyện cũ một cách gần đúng hơn.
.
trước khi muốn học trường ĐHKT, từ năm 67, phải qua một kỳ thi tuyển, hai môn, vẽ phân độ và toán, đánh bại chừng hơn một ngàn hay nhiều hơn để dành được một chỗ. Mỗi năm ban đại diện sinh viên KT mở dậy nhiều lớp luyện thi vẽ. Hình trên khi tôi theo họp lớp này, tôi chụp hình phía sau anh Phạm bá Cương, tôi biết anh Cương trước khi học KT, anh là một trưởng Hướng Đạo, Thiếu Đoàn Chi Lăng, Đạo Tân Bình.
.
.
bài kiến trúc năm thứ nhất, làm tối đa cho đã .. để vài chục năm sao còn mang khoe được .. cho thỏa mãn thú tính!
.
.
.
Bài năm thứ nhất, làm vừa đủ, không tốn sức .. để dành sức khi ham chơi hơn học.
6 năm học KT, chia ra hai phần, lý thuyết và khoa học chia theo môn, từng năm một để thi lên lớp và hoãn dịch cho đến năm thứ sáu. Đồ án Kiến trúc, bắt đầu từ năm thứ hai cho đến khi làm luận án hay đồ án kiến trúc để tốt nghiệp văn bằng KTS. Phần chính của Kiến Trúc là 20 bài ddo62 a1n, chia ra 10 bài cấp hai, 10 bài cấp một. Xen giữa vào các bài đồ án, cũng có vài đòi hỏi phải hoàn tất các môn lý thuyết, khoa học nào đó, trước khi đuợc làm tiếp loại đố án nào. Ngoài ra có vài bài thi về vẽ tượng, nặn tượng phải đậu thì mới được qua cấp hai để lên làm bài cấp một. Xong cấp một phải đậu bài trang trí nội ốc, decoration, qua 6 tháng tập sự văn phòng kts, là đủ điều kiện bắt làm đố án tốt nghiệp văn bằng KTS nếu thích.
Phần 20 bài đồ án, hay 20 trị số đồ án, bắt đầu từ năm thứ hai, thì không còn chia năm nữa, cứ theo thứ tự mà thi bắt đầu từ hai bài cổ điển, nếu không xong thì cứ dậm chân tại chỗ, bao nhiêu năm cũng được, cho nên sau 6 năm rồi mà chưa xong, cừ thoải mái học hoài cho đến khi xong hai mươi đồ án kiến trúc. Mổi đồ án đuợc 1 trị số, bài cấp hai nào quá hay, trường có thể cho đậu 2 trị số, tức là làm có một bài, mà được chấm đậu thành hai trị số.
Xong mười bài đồ án cấp hai, và sau khi thi đậu construction năm thứ ba, thì mới được phép làm bài cấp một, premiere. Tôi, có lẽ duy nhất bị kẹt trong trường hợp này. Cuối năm thứ hai, tôi xong 10 bài cấp hai vì bon chen, giành dựt làm tất cả đề thi đồ án trong mọi hoàn cảnh, rồi may mắn ăn một hơi, chưa hề biết thua, hay rớt bài, nên suốt năm thứ ba, tôi không được phép làm bài cấp một, phải ngồi chơi đến cuối năm, đợi thi construction, đậu môn đó rồi thì bắt đầu làm đồ án premiere.
..
Hai bài cổ điển của cấp hai, trên bảng nhỏ: 1m25X0m85
bài cấp hai đầu tiên của tôi, làm 1 tuần sau khi đậu bài analogue cuối tuần trước, đúng là lúc đó sức khỏe như voi. làm đồ án mỗi tuần mà không kiệt sức chết, đúng là bon chen có hạng, có sức chơi thì có ăn bài thôi. Mặt giấy loang lổ vết nước vì dùng lại mặt sau để vẽ bài khác, vì giấy canson rất mắc tiền cho những sv nghèo.
1 bài esquisse, họa cảo bắt buộc của cấp hai, không xong là không đước lên cấp một, đây là trường hợp "kẹt esquisse".
Bài đồ án kt cấp hai dùng bảng nhỏ 1m25x0m85
.
Bài chót, rửa đít cấp hai, mỗi lần xong một chặng bài, thì nghỉ chút để rửa đít, tới chừng tốt nghiệp kts thì có lễ rửa tội ..
Mười bài cấp hai, về sau có thay đổi một chút trước khi tôi theo học, trước đó thì có khác một chút về số lượng loại bài đố án. Bắt đầu là hai bài cổ điển, Analogue (trước đó là 3 bài), tiếp theo là 7 bài đồ án KT đưong thời, gọi là projet rendu. rồi một bài họa cảo, loại vẽ nhanh trong 12 tiếng. Tổng cộng là 10 bài, bài họa cảo essquisse đòi hỏi một bài (trước đó hình như là hai), tuy nhiên có thể thi đậu tối đa 2 bài, không được hơn. Như vậy cấp hai gồm có: hai cổ điển, một họa cảo, bẩy bài đồ án KT, hoặc thêm một bài essquisse thì bớt đi một đồ án KT, trường hợp này là: hai cổ điển, hai esquisse, sáu đồ án kiến trúc. Tôi hoàn tất cấp hai theo trường hợp có hai esquisse
10 bài đồ án cấp một, bao gồm đồ án KT hàng tháng, concours là loại bài ngắn 1 tuấn, có mỗi ba tháng, chia ra loại trang trí nội ốc decor, loại graphic, loại landcsape vườn cây. Họa cảo esquisse 12 giờ, chắc hai tháng mới có, tôi không nhớ rõ. Không bắt buộc phài có trị số bài concour hay esquìsse. Đồ án KT và concours có trị số 1 cho mổi bài thi, esquisse cấp một premiere chỉ được 1/2 trị số, không nhớ số esquisse đậu có bị giới hạn không, chắc tối đa là hai, ghép 1/2 trị số cho thành 1, để đếm đến 20 trị số..
Bài cấp một trên bảng lớn 1m65x1m25, bài này chương trình giản dị, thường thì bài cấp 1 phức tạp hơn. Tôi không có hình những bài phức tạp.
.
Bài Concour cấp một, premiere, làm trong 1 tuần. trên bảng nhỏ.
.
.
.Hình trên, Võ trung Trực là KT72, sẽ sửa hình lại
Sau khi hoàn tất hết các môn lý thuyết khoa học được xếp theo năm để lên lớp, vẽ tượng, nặn tượng ở cấp hai, trang trí nột ốc năm thứ sáu, rồi đến phần quan trọng và khó khăn nhất là 20 bài đồ án KT, hay 20 trị số đồ án KT, cộng thêm 6 tháng tập sự. Đồ án ra trường đưọc bắt đầu bằng sự chấp thuận của giáo sư hướng dẫn, ký trên trên esquisse của luận án. Tới ngày trình bầy luận án tốt nghiệp Kiến Trúc Sư, nếu được chấm đậu qua hội đồng giám khảo, thì coi như đã học xong, tốt nghiệp với văn bằng Kiến Trúc Sư. Trong thời gian từ 5 năm .. cho đến vài chục năm chắc cũng có, thường là từ 7 tới 10 năm là trung bình trước 1975, cho học trình 6 năm, tương đương với bằng Master of Architecture của Mỹ, và được chính phủ Pháp công nhận tương đuơng trên xứ Pháp với thỏa ước giáo dục ký từ trước giữa hai chính phủ..
.
.Trình luận-đồ-án tốt nghiệp văn bằng Kiến trúc Sư. Vẽ liên tục trên khoảng 10 bảng lớn, một mô hình kiến tạo lớn bằng gỗ balsa và những tập luận án.
.
.
Mô hình do Ng hồng Phúc KT73 thực hiện, gỗ Balsa do ông anh ở Úc gửi về tích trữ, Perspective do Võ thành Lân KT70 phóng cọ ..
.
.Sau đó tiếp tục tự cho phép đi du học tự túc qua Mỹ bằng du thuyền, tự học lại Master of Architecture lần nữa, đi làm thêm hai năm rồi đi thi license architect, rồi đóng tiền license mỗi năm cho tới giờ ..... đường còn dài...
http://tmddesign-2.blogspot.com/2009/07/nhac-lai-chuong-trinh-hoc-6-nam-cua.html
Năm 1924, trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập tại Hà Nội theo nghị định của Toàn quyền Đông dương. Năm 1926, Ban Kiến Trúc trực thuộc trường Mỹ thuật Đông dương được hình thành.
Năm 1942, trường Mỹ thuật Đông dương phân ra thành trường Mỹ nghệ thực hành Hà Nội và trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương. Theo nghị định ngày 02/02/1942, Ban Kiến Trúc được nâng lên thành trường Kiến Trúc vẫn trực thuộc trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương.
Năm 1944 trường Kiến Trúc được hợp nhất vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia Paris. Do hoàn cảnh chiến tranh nên dời về Đà Lạt với tên gọi trường Kiến Trúc Đà Lạt.
Cuối năm 1948 trường Kiến Trúc Đà Lạt được hợp nhất vào Viện Đại học Đông Dương với tên gọi mới là trường Cao đẳng Kiến Trúc. Năm 1950: trường Cao đẳng Kiến Trúc trực thuộc Viện đại học Hà Nội và chuyển về Sài Gòn.
Năm 1967: Viện đại học Hà Nội tại miền Nam Việt Nam được đổi tên thành Viện đại học Sài Gòn và trở thành trường Đại học Kiến Trúc.
Tháng 4/1975: Ban Quân Quản tiếp nhận trường đại học Kiến Trúc Sài Gòn.
Tháng 10/1976: Bộ ra quyết định thành lập trường Đại học Kiến Trúc Tp.HCM.
Ngày 14/12/1976: trường đại học Kiến Trúc Tp.HCM được chuyển về Bộ Xây dựng.
Từ năm 1995 đến 2000 theo quyết định của Thủ tướng chính phủ, trường Đại học Kiến Trúc là thành viên của Đại học Quốc gia Tp.HCM trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Cuối năm 2000, trường Đại học Kiến Trúc Tp.HCM được tách ra khỏi Đại học Quốc gia Tp.HCM và trở thành trường độc lập. Từ năm 2002, theo quyết định của Thủ tướng chính phủ, trường Đại học Kiến Trúc Tp.HCM trực thuộc Bộ Xây dựng.
ĐH Kiến trúc TP.Hồ Chí Minh đã kỷ
niệm 35 năm thành lập (1976 -2011). Nếu coi việc thành lập ban Kiến
trúc (hay còn gọi là khoa Kiến trúc) năm 1926 của trường Mỹ thuật Đông
Dương là khởi đầu công cuôc đào tạo KTS ở Việt Nam, thì tính đến nay đã
là tròn 85 năm đào tạo ngành Kiến trúc.
Ba mươi lăm năm ĐH Kiến
trúc TP.HCM - 60 năm ĐH Kiến trúc Sài Gòn – 85 năm đào tạo kiến trúc sư.
Bao nhiêu năm ấy – biết bao nhiêu tình!
Nhân dịp này chúng tôi xin trân
trọng giới thiệu những khoảnh khắc đẹp đẽ, ngọt ngào và tràn đầy cảm xúc
trong suốt ngần ấy năm tháng xây dựng, trưởng thành và phát triển của
ĐH Kiến trúc TP.Hồ Chí Minh từ những ngày đầu tiên thành lập.
Hình ảnh, tư liệu dưới đây do chúng
tôi tham khảo từ nhiều nguồn như: tư liệu lưu giữ tại trường,
Wikipedia, bài viết của các KTS nguyên là cựu sinh viên... Trong đó, một
số hình ảnh – tư liệu giai đoạn 1951 -1975 được sưu tầm lại từ website
của các KTS Dương Mạnh Tiến, KTS Nguyễn Quốc Tuấn, KTS Đoàn Đức
Thành...
Thời thuộc Pháp, ở Đông Dương chỉ có Ban Kiến trúc thuộc Trường Mỹ
thuật Đông Dương (Ecole des Beaux Arts) tại Hà Nội, lập ra năm 1926. Từ
năm 1942, Ban Kiến trúc thuộc Trường Cao đẳng Mỹ thuật.Năm 1944 lập Trường Kiến trúc thuộc Cao đẳng Mỹ thuật, chuyển từ Hà Nội vào Đà Lạt, rồi chuyển từ Đà Lạt vào Sài Gòn cuối năm 1950. Từ năm 1954 đến 1975, trường mang tên Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn thuộc Viện Đại Học Sài Gòn.
Ngày 27/10/1976, trường được đổi tên là ĐH Kiến trúc TP.Hồ Chí Minh từ đó cho tới nay
Giảng viên và sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, thập niên 30, thế kỷ XX. (Ảnh tư liệu gia đình KTS Nguyễn Văn Ninh) – KTS Đoàn Đức Thành sưu tầm
Bằng tốt nghiệp KTS trường CĐ Mỹ thuật Đông Dương.
KTS Ernest Hébrard và sinh viên kiến trúc Việt Nam .( Ảnh sưu tầm của) KTS Đoàn Đức Thành
Sau mấy niên học ngưng hoạt
động, trường được mở lại tại Đà Lạt kể từ ngày 1/2/1949. Năm 1950,
trường Cao đẳng Kiến trúc không trực thuộc trrường Quốc gia Cao đẳng Mỹ
thuật Paris nữa. Cuối năm 1950 Trường cao đẳng Kiến trúc chuyển từ Đà
Lạt về Sài gòn.
Từ năm 1954 trở về sau, theo hiệp định
Genève, Viện Đại học Hà Nội chuyển thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam
và sau cùng lấy danh hiệu là Viện Đại học Sài Gòn. Lúc này trường Cao
đẳng Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài Gòn đã mở thêm Ban Thiết kế Đô thị
(từ niên khóa 1955-1956) Ban Cán sự Kiến trúc (từ niên khóa
1958-1959).
Năm 1967, Trường cao đẳng Kiến trúc trở
thành trường Đại học Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài gòn (sắc lệnh số
159/SL/QĐ ngày 30/10/1967.
sinh viên chụp ảnh lưu niệm trước biển hiện Trường Đại Học Kiến trúc (thuộc Viện Đại học Sài Gòn).
Nhóm sinh viên cán sự KT
khóa 1 chụp trước cổng trường năm 1960. Phía sau là dãy nhà hành chính
của trường thời đó với lối đi được rải đá.
Nhóm sinh viên này cũng hào hứng chụp hình với background là khung cảnh cổng trường ĐH Kiến trúc Sài Gòn.
Sinh viên ĐH Kiến trúc Sài Gòn học tập và nghiên cứu tại thư viện trường
Sinh viên năm 2 học các môn: Kiến trúc
sáng tạo học; Cổ điển họa và nặn hình; Toán học đại cương; Hình học họa
hình; Lý thuyết Kiến trúc; Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo.Sinh viên
năm 3 học: Kiến trúc sáng tạo học; Cổ điển họa và nặn hình; Kiến tạo
đại cương: Lý thuyết; Vật lý, Địa chất học áp dụng vào khoa Kiến trúc;
Phép phối cảnh; Lý thuyết Kiến trúc; Sức chịu đựng của vật liệu
Phòng chấm bài
Sinh viên năm 4 học: Kiến trúc sáng tạo học; Kiến tạo đại cương: Lý
thuyết và đồ án;Bê tông cốt sắt; Ước lượng vật liệu và kiểm điểm; Lịch
sử tổng quát Kiến trúc; Lý thuyết Kiến trúc; Luật nhà phố.Sinh viên năm 5 học: Kiến trúc sáng tạo học; Kiến tạo áp dụng; Luật nhà phố; Tổ chức nghề nghiệp; Lý thuyết Kiến trúc; Địa thể học áp dụng kiến trúc; Kiến tạo đại cương: Đồ án và kỹ thuật.
Sinh viên năm 6 học: Kiến trúc sáng tạo học; Bê tông cốt sắt thực hành; Đồ án trang trí nhà cửa; Luận án thi tốt nghiệp (3 tháng cuối niên học.
Một giờ học trên giảng đường của sinh viên ĐH Kiến trúc Sài Gòn
Sinh viên Kiến trúc năm Nhất – giờ học họa thất. (Ảnh chụp năm 1970)
Xưởng hội họa khi đó
là một căn nhà sát tường Viện Đại học, cột treillis sắt cornières, mái
tôn khá cao và có những ô kiếng lấy ánh sáng trời, tường đều sơn thẫm
đen để làm nổi bật những tượng thạch cao trắng
Phong trào chơi thể thao của sinh viên ĐH Kiến trúc Sài Gòn khá sôi nổi . Trong ảnh các sinh viên chuẩn bị chơi bóng bàn
Sinh viên họa thất thường căng bảng ở góc sân này
Căng tin – nơi sinh viên tụ họp vui vẻ sau những giờ học
Văn phòng ban Đại
diện SV, bên ngoài cửa sổ là hành lang nối khu nhà này với thư viện,
hành lang tách không gian sân trước hoàn toàn với sân sau (gồm có sân
căng bảng lót tấm đan bê tông sỏi, căng tin, họa thất 3,4,5…)
Giáo sư, KTS trường QGCĐMT Pari
Phạm Văn Thâng (Khoa Trưởng năm 1971-1973) và KTS Bùi Quang Hanh chụp
hình lưu niệm cùng các KTS mới ra trường vào năm 1972.)
Lễ rửa tội của sinh viên thời Đại học
Kiến trúc Sài Gòn. “Cha đẻ” của lễ hội là cố KTS Nguyễn Quang Nhạc, thủ
lĩnh sinh viên một thời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris. Lễ hội
truyền thống vẫn được duy trì cho đến ngày nay.
Năm 1972, trường được xây mới
theo đồ án tốt nghiệp của sinh viên Trương Văn Long với sự chỉ đạo,
hướng dẫn của GS.KTS Phạm Văn Thâng. Hố móng đào sát tới khu nhà văn
phòng. Bên kia đường là nhà thi đấu của sân Phan Đình Phùng.
Trong suốt quãng thời gian 1951-1975,
có 252 Kiến trúc sư được đào tạo. Bản danh sách 252 KTS giai đoạn
1951-1975 - theo tài liệu của gia đình giáo sư Nguyễn quang Nhạc, Khoa
Trưởng KT (1967-1970).
Cơ sở chính của trường hiện vẫn trú
đóng tại địa chỉ 196, Pasteur, quận 3. Nơi đây đã trở thành “ngôi nhà”
thân yêu của lớp lớp thế hệ sinh viên Kiến trúc Dù đã qua nhiều lần sửa
chữa, cải tạo vì dấu ấn của thời gian, nhưng trường được giữ gìn, bảo
quản gần như nguyên vẹn so với thiết kế ban đầu năm 1972.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.