Kinh thành Huế
http://kientrucxd.blogspot.com/2012/01/kinh-thanh-hue.html
Ngày xưa làm gì có nhà ống, ở Huế dân toàn ở nhà vườn, nhà giàu thì vườn rộng, nghèo thì vườn nhỏ. Trong Kinh Thành ngày xưa dân cư cũng thưa thớt, ao hồ rất nhiều, cũng có cả ruộng (vì đây vốn là đất của mấy làng bị trưng dụng làm Kinh thành). Trước 75 có cả sân bay dã chiến trong thành nữa.
Sân bay Tây Lộc (khu vực này bây giờ là làng KTX ĐH Nông Lâm) với những khu phố mới
Công cuộc xây dựng kinh thành HuếSau khi xưng niên hiệu và định đô tại Phú Xuân, vua Gia Long đã nghĩ ngay đến việc xây dựng kinh thành“ thương đô của đế vương” cho xứng với tầm vóc của một đất nước thống nhất có lãnh thổ rộng lớn.
Ðây là một công việc lớn lao có ý nghĩa quan trọng đối với triều đại.Vì vậy, trước khi đi đến quyết định lựa chọn một nơi thích hợp nhất, vào tháng 3 năm Quý hợi (1803), vua Gia Long đã thân hành khảo sát vùng đất nằm dọc sông Hương từ xã Kim Long đến cảng Thanh Hà. Vua thân định cách thức xây dựng kinh thành và sai giám thành và Nguyễn Văn Yến cùng với một số quan lại khác nghiên cứu kỹ thực địa hình thế và lập thiết kế xây thành theo kiểu kiến trúc Vauban. Các nhà kiến trúc tài ba đặt nền móng đầu tiên cho công trình có một không hai này không chỉ đơn thuần “ra bốn mặt ngòai đô thành cũ ở Phú Xuân đo cắm để mở rộng thêm”, mà họ còn phải quy hoạch, sắp xếp lại mặt bằng, điều chỉnh và lợi dụng hai con sông Kim Long và Bạch Yến nằm ở tả ngạn sông Hương để thiết kế đào Hộ Thành Hà, Ngự Hà và các hồ lớn nhỏ khác nằm trong khu vực Thành Nội. Dân 8 làng Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo, Thế Lại được lệnh di dời, trong đó làng Phú Xuân bị mất nhiều ruộng đất hơn hết ( Theo địa bạ xã Phú Xuân (1815), cho biết “ quan thổ” lấy vào “ Kim thành” là 336 mẫu, 1 sào, 3 thước, 2 tấc).
Tháng 4 năm ất sửu (1805), sau khi sắc cho Bộ Lễ chọn ngày làm lễ tế trời đất và nhận thấy mọi sự chuẩn bị đã xong, vua Gia Long cho khởi công xây đắp kinh thành. Hơn 3 vạn lính và dân phu từ Quảng Bình đến Quy Nhơn đã được huy động đến Huế thi công. Ðến năm 1807 thêm 85.000 binh lính ở Thanh Nghệ và Bắc Thành được đưa vào tăng cường lao dịch ngày đêm. Ban đầu thành đắp bằng đất, bằng gỗ ván bọc mặt ngoài. Năm Gia Long 17 (1818) mới cho xây gạch 2 mặt Tây và Nam. Hai mặt đông và bắc xây gạch năm 1822. Ðến năm 1838, đời Minh Mạng, việc thi công mới hoàn tất và sau đó còn được tu bổ nhiều lần.
Kinh thành Huế có chu vi gần 10.000m, diện tích 520 ha. Thành cao 6,6m, 10 cửa ra vào, trên thành có 24 pháo đài, ngòai thành có hệ thống hào và sông đào bảo vệ. Về phía Ðông bắc còn có một thành phụ gọi là Trấn Bình Ðài hay còn gọi là Mang Cá. Bên trong và bên ngòai kinh thành là hằng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ, chính phụ khác nhau.
§ƯỢC BỐ TRÍ CÂN ĐỐI, HỢP LÝ NẰM TRONG MỘT TỔNG thể thống nhất hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và được sử dụng vào mục đích sinh họat ăn ở, làm việc, nghỉ ngơi, thờ tự của vua, hoàng gia và triều thần như Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, Kỳ đài, Ngọ Môn, Quốc Tử Giám, Tôn Nhơn Phủ, Lục Bộ, Phu Văn Lâu, lăng tẩm.... Các cung điện đền đài thành quách, dinh thự, lầu các, lăng miếu ấy có những chức năng riêng biệt, ít nhiều đều tóat lên những giá trị đặc sắc và tạo thành một quần thể di tích lịch sử văn hóa phong phú và đa dạng, một tổng thể kiến trúc đô thị phong kiến độc đáo ít nơi nào có. Chúng không phải xây dựng trong một lần hay một hai năm mà trải qua nhiều giai đọan, nhiều đời vua, trong đó tập trung nhất là nữa đầu thế kỹ XIX. Trong gần nửa thế kỷ ấy, nhiều nghệ nhân tài hoa, nhiều nguồn nguyên vật liệu quý hiếm và nhân lực ở các địa phương đã được triều đình Huế trưng dụng để phục vụ xây dựng công trình. Do đó, có thể nói rằng, chính công sức lao động, tài năng, mồ hôi và nước mắt của nhiều thế hệ người Việt Nam đã góp phần quyết định sáng tạo nên di sản vô giá này của dân tộc.Kinh thành Huế là công trình kiến trúc đồ sộ, bề thế và quan trọng nhất của nhà Nguyễn, một chứng tích tiêu biểu cho sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của mỹ thuật Nguyễn trên đất thần kinh trong thế kỷ XIX. Ðây là nguồn sử liệu vật chất trực tiếp đáng tin cậy để giúp tìm hiểu nghiên cứu và làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý thú về lịch sử và xã hội Việt Nam trong thế kỷ XIX, góp phần đánh giá triều Nguyễn một cách khách quan, khoa học hơn.
Năm 1819, khi kinh thành Huế chưa làm xong, một người Pháp tên là Le-Rey đến thăm Huế đã nhận xét:” Kinh thành Huế nhất định là cái pháo đài đẹp nhất và đều đặn nhất ở Ðông Dương”. Tổ chức Văn Hóa, khoa học, giáo dục Liên Hiệp Quốc ( UNESCO) đã đánh giá cao và ca ngợi quần thể di tích Huế:” Giữa lòng Huế, Thành nội lịch sử là một mẫu mực về cấu trúc cân đối, mà sự hài hòa rất tự nhiên đến nỗi người ta quên bàn tay con đã sáng tạo ra nó... Là tác phẩm của những người dân lao động và những người thợ thủ công khéo tay nhất trong nước, những hệ thống kiến trúc ấy biểu hiện những biến tấu độc đáo trên một chủ đề thống nhất” UNESCO khẳng định “ thành phố Huế là một kiệt tác thơ về kiến trúc đô thị ... một cao điểm thể hiện bản sắc dân tộc...một bộ phận không thể tách rời của di sản văn hóa lòai người “ ( Trích lời kêu gọi của ông Amađu Mata M’bô, Tổng giám đốc UNESCO tại Hà Nội ngày 15/11/1981.
Từ thời tiền sử đến năm 1885
-
Cách ngày nay từ 3.500 năm đến 4.000 năm, thuộc hậu kỳ Đồ Đá mới - sơ
kỳ đồ Kim khí: tìm thấy ở A Lưới, Phong Điền, Hương Trà và Phú Lộc
những chiếc rùi đá, bôn đá - công cụ lao động của cư dân nguyên thủy.
- Cách ngày nay từ 2.000 năm đến 2.500 năm, thuộc giai đoạn muộn của văn hóa Sa Huỳnh: Di tích mộ táng chum ở Cồn Ràng và Cửa Thiềng (Hương Trà).
- Cách ngày nay trên dưới 2.000 năm: Trống đồng Phong Mỹ (Phong Điền) cho thấy sự giao lưu văn hóa giữa cư dân cổ ở Thừa Thiên Huế với cư dân Đông Sơn ở phía Bắc.
-
Năm 179, trước Công nguyên: nước Âu Lạc bị sáp nhập vào nước Nam
Việt, bị lệ thuộc và chia làm hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc của nhân dân ta.
-
Năm 111, trước Công nguyên: nhà Tây Hán thôn tính Nam Việt, trong đó
có Âu Lạc cũ. Nước Âu Lạc cũ bị chia làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân
và Nhật Nam. Riêng quận Nhật Nam gồm 5 huyện, tính từ Bắc vào là Tâu
Quyển, Tỷ Ảnh, Chu Ngô, Lô Dung và Tượng Lâm, trong đó huyện Lô Dung là Thừa Thiên Huế hiện nay.
- Năm 40, sau Công nguyên: nhân dân quận Nhật Nam hưởng ứng cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo, cùng với cả nước đánh đổ chính quyền đô hộ Đông Hán.
- Năm 100: Hơn 2.000 người dân ở huyện Tượng Lâm khởi nghĩa
chống chính quyền đô hộ Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Sau đó,
nhân dân Nhật Nam tiếp tục nổi dậy chống Bắc thuộc vào các năm 137 -
138, 157 - 160, 178.
- Năm 190: nhân dân huyện Tượng Lâm khởi nghĩa và thành lập nước Lâm Ấp.
Đến năm 347, vua Lâm Ấp là Phạm Văn đánh đuổi quan quân đô hộ nhà
Tấn, chiếm đến huyện thành Tây Quyển (Bắc Quảng Bình) trong ba năm.
- Năm 679: nhà Đường gọi các vùng đất từ Hà Tĩnh hiện nay trở ra của nước ta là An Nam đô hộ phủ.
-
Năm 1069: Chiêm Thành quấy rối ở biên giới phía Nam. Vua Lý Thánh Tông
cùng Lý Thường Kiệt đi trấn giữ, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ
dâng 3 dâng Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị) để chuộc tôi.
-
Tháng Sáu năm Bính Ngọ (1306), Hương Long năm thứ 14: vua Trần Anh
Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Chế Man
đem dâng hai châu Ô, Lý làm sính lễ. Qua năm sau (1307), nhà Trần đổi châu Ô thành châu Thuận, châu Lý thành châu Hóa (Thừa Thiên Huế) và cử Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến cai quản, tha tô thuế cho dân trong ba năm.
- Đến cuối thế kỷ XIV, qua những đợt di dân vào Hóa Châu, nhà Trần đã thành lập tại Hóa Châu 7 huyện mới: Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh.
- Năm 1391: vua Trần Thuận cử Lê Quý Ly đem quân đi tuần ở Hóa Châu, chỉnh đốn quân ngũ và sửa sang lại thành trì.
-
Năm 1402: Nhà Hồ cho đắp sửa đường sá từ thành Tây Đô (Thanh Hóa) đến
Hóa Châu. Dọc đường đặt phố xá và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý.
- Năm 1404: Cửa Eo (Hòa Duân, Phú Vang) bị vỡ. Nhà Hồ điều quân lính từ kinh đô vào đắp lại.
- Tháng Sáu năm Định Hợi (1407): nhà Minh xâm lược và thống trị nước ta,
đổi tên nước là Giao Chỉ và chia thành 17 phủ, 5 châu. Hóa Châu gồm
có 7 huyện như cũ, thuộc phủ Thuận Hóa (cuối thời Trần gọi là lộ Thuận
hóa).
- Tháng Mười năm Định Hợi (1407): tại Mô Độ (Ninh Bình), Trần Ngỗi được tôn lên làm vua, xưng là Giản Định Hoàng đế. Đại trị châu Hóa là Đặng Tất nghe tin vua khởi binh, bèn giết quan lại nhà Minh, đem quân đến họp.
-
Năm 1409: Giản Định Đế nghe lời gian thần gièm pha, giết chết hai
tướng giỏi là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Con của hai người là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị
tìm lập Trần Qúy Khoáng - cháu vua Trần Nghệ Tông, tôn lên làm vua,
lấy niên hiệu là Trùng Quang, tiếp tục chống quân Minh. Đến năm 1413,
Trương Phụ đem quân Minh vào đánh Hóa Châu, quân của Trùng Quang Đế
không chống cự nổi, cả hai đều bị giặt bắt.
- Tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418): Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh. Tháng Bảy năm Ất Tỵ (1425), Lê Lợi cử quan quân vào thu phục Thuận Hóa, nhân dân Hóa Châu tiếp tục cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược dưới ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn.
-
Tháng Sáu năm Định Hợi (1467): tham nghị Thừa tuyên sứ ty châu Hóa là
Đặng Thiếp dâng sớ trình bày 5 điều lợi nên làm, trong đó có việc xây dựng đồn lũy ở cửa biển Tư Dung và lấp Cửa Eo.
- Tháng Tư năm Kỷ Sửu (1469): Nhà Lê định bản đồ của phủ, châu, huyện, xã, trang, sách thuộc 12 thừa tuyên trong cả nước. Thừa tuyên Thuận Hóa gồm 2 phủ, 8 huyện, 4 châu. Phủ
Tân Bình có 2 huyện: Khang Lộc, Lệ Thủy và 2 châu: Minh Linh, Bố
Chính. Phủ Triệu Phong có 6 huyện: Hải Lăng, Vũ Xương, Đan Điền, Kim
Trà, Tư Vinh, Điện Bàn và 2 châu: Thuận Bình, Sa Bôi. Thừa Thiên Huế ngày nay là ba huyện Đan Điền, Kim Trà và Tư Vinh.
-
Ngày 16-11 năm Canh Dần (1470): vua Lê Thánh Tông thân chinh Chiêm
Thành. Đại quân đã dừng lại ở Cửa Eo để luyện tập thủy chiến cùng với
quân địa phương Thuận Hóa, đến ngày 1-3 năm Tân Mão (1471), hạ thành Đồ
Bàn, vua Chiêm là Trà Toàn bị quân Thuận Hóa bắt sống. Chuyến bình
định phương Nam của quân dân Đại Việt đã chấm dứt mối đe dọa xâm lấn Hóa Châu của Chiêm Thành, nhiều làng mới được lập ra ở Thuận Hóa.
- Năm 1555, Dương Văn An viết cuốn Ô châu cận lục.
- Từ năm 1527 đến năm 1546: năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng phải nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Mạc. Năm 1529, Điện tiền tướng quân Nguyễn Kim là dòng dõi công thần nhà Lê, từ Thanh Hóa sang Sầm Nưa (Lào) gây dựng lực lượng, giương cờ phù Lê diệt Mạc.
Năm 1533, Nguyễn Kim đưa người con của vua Lê Chiêu Tông là Lê Ninh
lên ngôi vua, tức Lê Trang Tông, mở đầu sự nghiệp Trung hưng nhà Lê.
Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc. Con
rể Nguyễn Kim là Thái sư Trịnh Kiểm được giao giữ chức Tiết chế các
đạo quân nhà Lê. Đến năm 1546, quân nhà Lê chiếm được châu Ái (Thanh
Hóa) và hào kiệt ở Nghệ An, Thuận Quảng theo về giúp rất đông.
- Tháng Mười năm Mậu Ngọ (1558): Nguyễn Hoàng - con thứ hai của Nguyễn Kim, được phong tước Đoan Quận công, vào trấn giữ Thuận Hóa và lập bản doanh tại dinh Ái Tử (Quảng Trị).
Những người đồng hương ở Tống Sơn và nghĩa dũng xứ Thanh đều đi theo.
"Chúa vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân
mến phục, bấy giờ xưng là chúa Tiên" (Đại Nam thực lục tiền biên).
Đến thánh Giêng năm Canh Ngọ (1570), chúa Tiên được giao trấn thủ cả
hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
- Tháng Bảy năm Nhâm Thân (1572): Nguyễn Hoàng đánh tan 60 binh thuyền của tướng nhà Mạc là Lập Bạo tại địa đầu Thuận Hóa.
Tháng Năm năm Quý Tỵ (1593), Nguyễn Hoàng ra Thăng Long yết kiến vua
Lê, dâng nộp sổ sách quân dân kho tàng hai xứ Thuận - Quảng, được vua
Lê phong làm Trung quân Đô đốc phủ tả đô đốc Chưởng phủ sự và sai đi
đánh dẹp quân Mạc tại Sơn Nam và Hải Dương. Đến tháng Năm năm Canh Tý
(1600), Nguyễn Hoàng trở về Thuận Hóa, và năm sau (1601), cho xây dựng chùa Thiên Mụ tại Hà Khê.
- Tháng Sáu năm Quý Sửu (1613): Nguyễn Hoàng mất, con là Nguyễn Phúc Nguyên lên kế vị, gọi là chúa Phật. Qua năm sau (1614), chúa Phật cho tổ chức chính quyền riêng ở Đàng Trong, ly khai với Đàng Ngoài. Đến năm 1617, Nguyễn Phúc Nguyên viết thư mời công ty Đông Ấn (Hà Lan) ở Malắcca đến buôn bán.
-
Tháng Ba năm Bính Dần (1626): Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho dời dinh
đến Phước Yên (Quảng Điền) và gọi nơi chúa ngự là phủ. Trong 8 lần dời
dựng thủ phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đến lần thứ tư này thì
bắt đầu đặt ở vùng đất Thừa Thiên Huế.
- Năm Ất Sửu (1625): Một bà vợ thứ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây tại Kim Long một Nhà nguyện bằng tranh tre.
-
Tháng Mười năm Ất Hợi (1635): Chúa Nguyễn Phúc Nguyên mất, con là
Nguyễn Phúc Lan lên kế vị, gọi là chúa Thượng. Tháng Chạp năm Ất Hợi,
chúa cho xây dựng phủ mới ở Kim Long. Năm 1644, Thế tử Nguyễn Phúc Tần đánh đắm một chiếc tàu Hà Lan ở Cửa Eo.
- Tháng Chạp năm Nhâm Tý (1672): Trịnh - Nguyễn chấm dứt chiến tranh, lấy
sông Gianh làm giới hạn. Đất nước tạm thời bị chia làm hai: Bắc Hà -
Đàng Ngoài do vua Lê chúa Trịnh quản lý và Nam Hà - Đàng Trong thuộc
chúa Nguyễn.
- Năm Quý Hợi (1683): nhà sư Nguyên Thiều người Trung Hoa lập ra chùa Quốc An (phường Trường An, thành phố Huế).
- Tháng Bảy năm Đinh Mão (1687): Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái cho xây dựng phủ mới ở Phú Xuân, lấy núi Ngự Bình làm án, đắp tường thành, xây cung điện, trồng hoa cỏ cây cối.
- Năm Canh Ngọ (1690): Nhà sư Minh Hoằng Tử Dung người Trung Hoa lập ra chùa Ấn Tôn (năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên là Từ Đàm).
- Tháng Tư năm Canh Dần (1710): Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc chuông chùa Thiên Mụ, nặng 3.285 cân và tự làm bài minh khắc vào chuông.
- Năm Nhâm Thìn (1712): Chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng phủ mới ở Bác Vọng (Quảng Điền) gần cựu phủ Phước Yên. Phủ trải qua 2 đời chúa Nguyễn Phúc Chu và chúa Nguyễn Phúc Thụ.
-
Tháng Tư năm Mậu Ngọ (1738): Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi chúa, lập phủ
chính ở Phú Xuân (bên tả phủ cũ). Tháng Tư năm Giáp Tý (1744), chúa Nguyễn Phúc Khoát đúc ấn quốc vương và lên ngôi vua (Võ Vương), gọi Chính dinh Phú Xuân là Đô thành,
quyết định "đổi y phục, thay phong tục, cùng dân đổi mới; châm chước
chế độ các đời, định triều phục văn võ" (Đại Nam thực lục tiền biên).
- Năm Bính Dần (1746): xây dựng chùa Thuyền Tôn - một tổ đình lớn gắn liền với sự khai sáng của Tổ Liễu Quán.
-
Tháng Hai năm Kỷ Sửu (1769): Định Vương Nguyễn Phúc Thuần sai các địa
phương làm sổ sách thuế khóa đinh điền. Thuận Hóa ruộng 153.180 mẫu,
đinh 126.850 người, trong một năm thu 3.533.356 thăng thóc, 63.655
thăng gạo và 153.600 quan tiền. Thừa
Thiên Huế bấy giờ gồm 3 huyện: Quảng Điền 8 tổng, 137 xã, thôn,
phường; Hương Trà 10 tổng, 222 xã, thôn, phường; Phú Vang 6 tổng, 352
xã, thôn, phường.
- Tháng Chạp năm Giáp Ngọ (1775): Quân Trịnh chiếm thành Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phúc Thuần mang gia quyến chạy vào Gia Định.
- Tháng Năm năm Bính Ngọ (1786): Nguyễn Huệ
làm Tiết chế quân thủy bộ, cùng với Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm và
Nguyễn Lữ đem quân đánh thành Phú Xuân. Quan quân nhà Trịnh đại bại. Thuận Hóa - Phú Xuân được giải phóng.
- Ngày 25 tháng Mười Một năm Mậu Tý (22-12-1788): Nguyễn Huệ lập đàn ở núi Bân, lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung, thần tốc đem quân ra Bắc tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh.
- Đêm 29 rạng ngày 30-7 năm Nhâm Tý (đêm 15 rạng ngày 16-9-1792): Vua Quang Trung mất đột ngột tại kinh đô Phú Xuân. Con trưởng là Quang Toản lên thay, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.
- Ngày 3-5 năm Tân Dậu (15-6-1801): Nguyễn Anh chiếm kinh đô Phú Xuân. Tháng Tám năm Tân Dậu, Nguyễn Ánh lấy ba huyện Quảng Điền, Hương Trà và Phú Vang đặt làm dinh Quảng Đức.
- Ngày 17-2 năm Giáp Tý (28-3-1804) Vua Gia Long xuống chiếu "kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam,
để dựng nền lớn, truyền lâu xa" (Đạo Nam thực lục chính biên). Qua
tháng Tư năm Giáp Tý (1804), xây Cung thành và Hoàng thành, và tháng Tư
năm Ất Sửu (1805) xây Kinh thành.
- Tháng Hai năm Bính dần (1806): Lập đàn Nam Giao ở xã Dương Xuân, phía Nam Kinh thành.
- Tháng Ba năm Quý Dậu (1813): đổi tên cửa Eo làm cửa Thuận An và xây đài Trấn Hải ở đấy.
- Tháng Chạp năm Nhâm Ngọ (đầu năm 1823): đổi dinh Quảng Đức làm phủ Thừa Thiên.
- Tháng Chạp năm Giáp Ngọ (đầu năm 1835): đặt thêm 3 huyện ở Thừa Thiên: Phong Điền, Hương Thủy, Phú Lộc. Như vậy, đến đây Thừa Thiên gồm 6 huyện.
-
Tháng 9-1858: Trần Nhật Hiển, Đội trưởng doanh Kỳ Vũ đã hiến mật kế
để chống giặc Pháp. Triều đình nghe theo, đã làm dây xích sắt chắn
ngầm ngang các dòng sông và các cửa biển Thuận An, Tư Hiền, đồng thời
dùng thuyền nhỏ phục kích tại những nơi hiểm yếu. Đến tháng 2-1859,
triều đình Huế xúc tiến việc phòng thủ kinh đô:
xây đắp công sự, lập nhiều lớp phòng tuyến ở cửa Thuận An và dọc theo
đường sông lên Huế. Qua tháng sau, củng cố thêm tuyến phòng thủ cửa
Thuận An: đắp 3 lũy đất Hy Du, Lộ Châu và Hải Trình.
- Ngày 16-9-2866: Khởi nghĩa "Chày vôi" tại Kinh thành Huế do anh em Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Tư Trực lãnh đạo, nhằm lật đổ vua Tự Đức, chống việc xây Khiêm Lăng.
-
Ngày 15-3-1874: triều đình huế và thực dân Pháp ký kết bản Hiệp ước
"Hòa bình và liên kết" gồm 22 điều, trong đó điều 20 ghi rõ: "Để bảo
đảm và làm dễ dàng cho việc thực hiện những điều khoản và quy định của
bản hiệp ước này, một năm sau khi ký, Ngài Chủ tịch nước Cộng hòa
Pháp sẽ cử một viên Trú sứ
hàm Bộ trưởng bên cạnh Đức Vua An nam. Viên trú sứ sẽ chịu trách nhiệm
duy trì những mối quan hệ hữu hảo giữa hai bên ký kết và chăm sóc
việc thực hiện nghiêm túc các điều khoản của hiệp ước".
- Từ ngày 18-8 đến ngày 20-8-1883: từ 4 giờ rưỡi chiều đến 8 giờ tối ngày 18-8, quân Pháp tấn công các pháo đài ở cửa Thuận An.
Đến ngày 20-8, từ 5 giờ 45 phút sáng, quân Pháp bắt đầu mở đợt tống
tấn công và đổ bộ đánh chiếm các pháo đài, đến chiều, toàn bộ cửa Thuận
An lọt vào tay giặc.
-
Ngày 25-8-1883: triều đình Huế và thực dân Pháp ký kết bản Hiệp ước
"Hòa bình" gồm 27 điều. Theo Hiệp ước, "một lực lượng quân sự Pháo sẽ
chiếm đóng một cách thường xuyên dãy núi đèo Ngang cũng như các đồn lũy
Thuận An và các đồn lũy ở sông Hương, những đồn lũy này sẽ được xây
dựng lại tùy ý các nhà chức trách Pháp" (Điều 3); "tại Huế, sẽ có một
viên Trú sứ... là người đại diện của chính phủ bảo hộ Pháp dưới sự kiểm
soát của một vị Tổng ủy viên... Viên Trú sứ Pháp ở Huế
có quyền hội kiến cá nhân và không chính thức với Quốc vương An Nam,
và Quốc vương An nam không thể khước từ nếu không có lý do chính đáng"
(Điều 11).
image hosted on flickr
image hosted on flickr image hosted on flickr image hosted on flickr image hosted on flickr Lăng vua Tự Đức được xây dựng năm 1864 và hoàn thành năm 1867, trong một bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khăn của đất nước và của chính bản thân nhà vua: thực dân Pháp tấn công Ðà Nẵng (1858) rồi vào đánh chiếm Gia Ðịnh (1859) và một số tỉnh khác ở Nam Kỳ (1862)... image hosted on flickr
Viện Cơ Mật ! Hué Ecran devant Plais comat (CƠ MẬt? ) !
image hosted on flickr image hosted on flickr image hosted on flickr LA cité imprériale image hosted on flickr - Ngày 6-6-1884: triều đình Huế và thực dân Pháp ký kết bản hiệp ước gồm 19 điều. Theo hiệp ước, "một lực lượng quân sự Pháp sẽ chiếm đóng Thuận An một cách thường xuyên. Mọi đồn lũy của nó và mọi công trình quân sự của con sông Hương sẽ bị triệt bỏ" (Điều 2); Pháp đặt chức Tổng trú sứ "ở trong nội thành Huế với một đội quân tùy tùng", quan chức này "đại diện cho chính phủ Pháp, sẽ chủ trì những quan hệ ngoại giao của nước An nam" (Điều 5).
- Ngày 23-5 năm Ất Dậu (5-7-1885): Ngày "Thất thủ Kinh đô".
0 giờ 40 phút khuya mồng 4 rạng mồng 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết cùng
Trần Xuân Soạn chỉ huy quân lính mở cuộc tấn công quyết liệt vào đồn
Mang Cá, khu nhượng địa, khu sứ quán của thực dân Pháp ở Huế. Tàng sáng
mồng 5-7, Tông Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi cùng Tam cung rút khỏi
Kinh thành và phát động phong trào Cần Vương chống Pháp.
|
Sân bay Tây Lộc trên bản đồ
Điện Cần Chánh là nơi vua tổ chức lễ thiết triều vào các ngày mùng 5, 10, 20 và 25 âm lịch hàng tháng. Ngoài ra, điện còn là nơi vua Nguyễn tiếp đón các sứ bộ quan trọng, nơi tổ chức các buổi tiệc tùng trong những dịp khánh hỷ. Trong điện, ở gian giữa của nhà chính đặt ngự tọa, hai bên treo các bức tranh gương thể hiện cảnh đẹp Kinh đô và bản đồ các tỉnh trong nước lồng trong khung kính. Một điểm đặc biệt nữa là điện Cần Chánh còn trưng bày nhiều báu vật của triều Nguyễn như các đồ sứ quý hiếm của Trung Hoa, các hòm tượng ấn vàng, ấn ngọc của triều đại... Đáng tiếc là hệ khung gỗ và mái của ngôi điện đã bị phá hủy hoàn toàn vào đầu năm 1947, chỉ phần nền móng được cấu trúc bằng đá Thanh, gạch Vồ còn sót lại. Phục nguyên điện Cần Chánh từ lâu đã là mong muốn của TTBTDTCĐ Huế nói riêng và của nhân dân Thừa Thiên Huế nói chung, tuy nhiên điều này không hề đơn giản. Và một cơ duyên đã đến…image hosted on flickr image hosted on flickr image hosted on flickr Đại Nội ! image hosted on flickr image hosted on flickr image hosted on flickr image hosted on flickr Đại Nội còn có các công trình nổi tiếng sau: * Điện Thái Hòa: nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của triều đình * Cung Diên Thọ: nơi ở của hoàng thái hậu (mẹ của vua) * Cung Trường Sanh: nơi ở của thái hoàng thái hậu (bà nội của vua) * Vườn Cơ Hạ, điện Khâm Văn: nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa * Hiển Lâm Các: nơi tưởng nhớ công lao của vua quan nhà Nguyễn Miếu thờ: * Triệu Miếu: thờ Nguyễn Kim [1] * Thái Miếu: thờ chín chúa Nguyễn * Hưng Miếu: thờ Nguyễn Phúc Luân, thân phụ vua Gia Long * Thế Miếu: thờ các vua Nguyễn * Điện Phụng Tiên: thờ các vua Nguyễn, dành cho phái nữ đến lễ vì họ không được phép vào Thế Miếu Tên của các miếu đặt theo miếu hiệu của các vua và chúa Nguyễn: Nguyễn Kim được truy tôn là Triệu Tổ, Nguyễn Hoàng là Thái Tổ, Nguyễn Phúc Luân là Hưng Tổ, vua Gia Long là Thế Tổ. image hosted on flickr
Những dấu tích thời tiền sử
Trong
quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam, Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế
là vùng đất có lịch sử lâu đời. Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ
học, trên mảnh đất Thừa Thiên Huế có khá nhiều dấu tích văn hóa thời
Tiền sử, tuy chưa phát hiện được di chỉ cư trú (di tích có tầng văn
hóa), nhưng qua các dấu tích rìu, bôn đá được tìm thấy ở La Ngà xã Hồng
Thủy, ở núi Mèo xã Hồng Vân và ở các xã Bắc Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ
(huyện A Lưới); ở Truồi (Nam Phổ, Lộc An, Phú Lộc), Bãi Trảng Đình
(Thủy Yên, Lộc Thủy, Phú Lộc); ở Phụ Ổ, Bàu Đưng (Hương Chữ, Hương
Trà); ở Phong Thu (Phong Điền), có thể thấy địa bàn cư trú của người
nguyên thủy Thừa Thiên Huế bấy giờ khá rộng. Căn cứ trên những đặc điểm
về định tính và định lượng của các công cụ rìu và bôn đá được tìm
thấy như kỹ thuật chế tác (ghè, đẽo, mài), hình dáng của lưỡi rìu (một
loại hình thang hay gần với hình chữ nhật và một loại có chuôi nhỏ để
tra cán); chất liệu là đá silic (hay đá lửa) pha vẩy sét và một số ít
làm từ đá có nguồn gốc trầm tích biến chất, có thể ghi nhận công cụ
của các nhóm cư dân nguyên thủy Thừa Thiên Huế mang những đặc trưng
giống công cụ đá của cư dân Bàu Tró (Quảng Bình) thời hậu kỳ Đá mới –
sơ kỳ Kim khí, niên đại cách ngày nay 3.500 đến 4.000 năm.
Do
nhu cầu của việc khai phá đất hoang và sản xuất nông nghiệp mà công
cụ lao động không ngừng được cải tiến, sáng tạo. Bên cạnh công cụ đá,
còn xuất hiện công cụ bằng xương thú, tre, gỗ, nhưng chất liệu này đã
bị tiêu hủy theo thời gian.
Về
kinh tế: Cùng mới sự phát triển của công cụ lao động, quá trình sản
xuất nông nghiệp không ngừng phát triển. Bên cạnh canh tác cây lúa, họ
còn trồng các loại rau lấy củ, cây ăn quả và rau dưa, bầu, bí... Để
phục vụ đời sống sinh hoạt nghề gốm cũng phát triển, người nguyên thủy
đã biết chọn loại đất dẻo và mịn để làm đồ gốm. Ngoài sản xuất nông
nghiệp, người nguyên thủy vẫn duy trì những hình thức kinh tế khai
thác như sắn bắn, đánh cá và hái lượm.
Về
đời sống tinh thần, qua việc tìm hiểu kỹ thuật chế tác các loại hình
công cụ đá cũng biết được phần nào về trình độ tư duy và khả năng thẩm
mỹ của con người thuở ấy. Có thể nói bấy giờ họ đã có một trình độ tư
duy, kỹ thuật và mỹ cảm khá phát triển.
Về
tổ chức xã hội cũng có nhiều thay đổi. Lúc đó họ đang ở vào giai đoạn
thị tộc mẫu hệ. Các thị tộc có quan hệ nguồn gốc họp lại thành bộ
lạc. Nhìn chung, các tổ chức thị tộc bộ lạc đều được hình thành trên
cơ sở lao động tập thể và củng cố bằng huyết thống, còn nhóm bộ lạc
thì bao gồm những bộ lạc gần gũi nhau về mặt tộc thuộc và nói những
phương ngữ của cùng một ngôn ngữ. Sự cố kết về phương diện tổ chức xã
hội như vậy đã tạo điều kiện cho họ có thêm sức mạnh mới.
Như
vậy, cho đến nay mới chỉ phát hiện được những dấu tích của người
nguyên thủy trên đất Thừa Thiên Huế khoảng 3.500 đến 5.000 năm trước.
Cuộc cách mạng đá mới với nội dung cơ bản của nó là sự phát triển của
nghề nông trồng lúa nước và những xóm làng tiểu nông là một chuyển biến
có ý nghĩa lớn lao của đời sống cư dân thời nguyên thủy. Đây chính là
tiền đề đưa cư dân Thừa Thiên Huế tiến vào thời đại văn minh.
Bức
ảnh này cho thấy các tòa cung điện chính trên trục thần đạo trong Đại
Nội đều còn tồn tại (bây giờ chỉ còn mỗi điện Thái Hòa)
Trước Mậu Thân thì còn nguyên vẹn...1. Ngọ Môn – Noon Gate 2. Hồ Thái Dịch – ThaiDich Lake 3. Cầu Trung Đạo – Trung Dao Bridge 4. Sân Đại Triều – Esplanade of Great Salutation 5. Điện Thái Hoà – Place of Supreme Harmony 6. Đại Cung môn – Main Gate of Forbidden Purple City 7. Tả vu, Hữu vu - Left House, Right House 8. Điện Cần Chánh - King’s Official Working Place. 8a. Điện Võ Hiển 8b. Điện Văn Minh 9a. Điện Trinh Minh 9b. Điện Quang Minh 10. Điện Càn Thành - King’s Residence 11. Điện Khôn Thái - Queen’s Residence. 11a. Viện Thuận Huy 11b. Viện Dưỡng Tâm 12. Lầu Kiến Trung - Kien Trung Pavillion 13. Thái Bình Lâu – Royal Reading Pavillion 14. Vườn Ngự Uyển – Royal Park 15. Vườn Cơ Hạ - Co Ha Park 16.Phủ Nội Vụ - Interior Treasury 17. Triệu Miếu – Trieu Temple 18. Thái Miếu- Thai Temple 19. Cung Trường Sanh – Grand Queen Mother’s Residence 20. Cung Diên Thọ - Queen Mother’s Residence 21. Điện Phụng Tiên – Phung Tien Temple 22. Hưng Miếu – Hung Temple 23. Thế Miếu – The Temple 24. Cửu Đỉnh – Nine Dynastic Urns 25. Hiển Lâm Các – Hien Lam Pavillion 26. Cửa Hiển Nhơn- Hien Nhon Gate 27. Cửa Hoà Bình- Hoa Binh Gate 28. Cửa Chương Đức- Chuong Duc Gate 29. Ngự Tiền Văn phòng- Royal Office 30. Lục Viện – Harems 31 .Điện Minh Thận- Minh Than Temple
Thừa Thiên Huế dưới thời Trần (1306 - 1400)
Năm
1306, vua Chế Mân đã dùng hai châu Ô, Lý làm lễ vật dẫn cưới công
chúa Huyền Trân (nhà Trần), một dải đất xung yếu từ bờ Nam sông Thạch
Hãn đến bờ Bắc sông Thu Bồn đã gia nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Năm
1307, nhà Trần đã đổi tên châu Ô thành châu Thuận, châu Lý thành châu
Hóa. Thừa Thiên Huế là một phần lớn của châu Hóa, mà cư dân chủ yếu
còn là người Chăm sống rải rác ở đồng bằng sông Ô Lâu, sông Bồ, sông
Hương và sông Thu Bồn, kể cả vùng đầm phá ven biển. Từ đây, sự chung
sống, hòa hợp giữa hai cộng đồng người Chăm bản địa và người Việt nhập
cư khai hoang lập làng bắt đầu tạo nên những biến đổi tích cực trong
việc xây dựng đất nước.
Từ
năm 1307, công cuộc di dân chính thức của người Việt từ đồng bằng
Thanh - Nghệ vào đất mới đã khởi đầu và ngày càng bổ sung thành phần cư
dân Việt. Tại Thừa Thiên Huế việc di dân của người Việt diễn ra rải
rác trong thuế kỷ XIV. Đến cuối thế kỷ XIV, nhà Trần đã lập tại vùng
đất Hóa Châu 7 huyện mới: Trà kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài,
Bồ Lãng và Thế Vinh với khoảng trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách.
Sau
khi Chế Mân chết, công chúa Huyên Trân trở về Đại Việt, lấy cớ này
các vua kế vị Chế Mân đem quân đánh châu Thuận và châu Hóa, các vua
Trần đã phải nhiều lần cử quân đi đánh dẹp, đề ra nhiều đối sách như
giao việc trấn giữ châu Hóa cho các trọng thần hay hoàng thân, năm
1372, vua Trần Nghệ Tông đã cất nhắc một viên quan người địa phương là
Hồ Long làm Đại tri châu châu Hóa nhưng miền biên viễn này vẫn không
yên ổn. Năm 1377, với sự kiện vua Trần Duệ Tông tử trận vì mắc mưu trá
hàng của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga, quân Chiêm Thành đã chiếm châu
Thuận, châu Hóa, châu Tân Bình và Nghệ An trong suốt 12 năm, cho đến
khi Chế Bông Nga bị quân Đại Việt bắn chết, quân Chiêm Thành tan vỡ,
rút quân khỏi vùng đất này.
Năm 1391, vua Trần Thuận Tông cử Lê Quý Ly đi tuần châu Hóa, xét định quân ngũ, sửa chữa thành trì, châu Hóa mới ổn định.
Tình
hình biến động trên vùng đất Thừa Thiên Huế rải rác suốt thế kỷ XIV,
đã làm nhịp độ di dân vào đây chững lại. Chiến tranh cũng đã làm cho
những làng mạc mới thành lập xơ xác, tiêu điều. Những thế hệ đầu tiên
khai canh lập làng ấp phần lớn bị phiêu tán và ruộng đồng hầu hết hoang
hóa, phải đến thế kỷ sau mới phục hồi.
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Quảng, khởi đầu phân liệt xứ Đàng Trong – Đàng Ngoài
Do
những mâu thuẫn nội bộ không thể giải quyết được trong triều đình Lê
Trung Hưng, mà đặc biệt là sự kình địch của hai thế lực phong kiến
đang dần dần lớn mạnh là họ Trịnh, đứng đầu là Trịnh Kiểm và họ Nguyễn
(dòng dõi Nguyễn Kim) đứng đầu là Nguyễn Hoàng (Nguyễn Hoàng để tránh
bị ám hại đã xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa).
Tháng
11/1558, Nguyễn Hoàng được lệnh vào trấn thủ Thuận Hóa với một quyền
hạn rộng lớn “phàm mọi việc ở địa phương không kể to nhỏ đều cho tùy
tiện xử lý”. Nguyễn Hoàng ra đi vừa để bảo toàn mạng sống, vừa tính kế
phát triển sự nghiệp lâu dài, nên khi rời đất Bắc, ông đã lôi kéo một
lực lượng đông đảo bao gồm nhiều tướng lĩnh (Văn Nham, Thạch Xuyên,
Tiền Trung, Tường Lộc), binh lính (1000 thủy quân), và nhân dân các
làng mạc ở huyện Tống Sơn, nghĩa dũng đất Thanh Hóa cùng một số quan
lại, binh lính ở Thanh Hóa và Nghệ An. Đây chính là một cuộc di dân
thực sự.
Trong
suốt thời gian trấn thủ đất Thuận Quảng (1558 - 1613), Nguyễn Hoàng
đã dốc sức củng cố thế lực, thu phục lòng người bằng lối cai trị mềm
mỏng để đặt nền tảng cho việc xây dựng giang sơn riêng cho dòng họ
mình. Và Thuận Hóa trở thành đất dựng nghiệp của họ Nguyễn.
Thời Tây sơn (1786 - 1801)
Trong
lịch sử Việt Nam, triều đại Tây Sơn tồn tại trong một thời gian tương
đối ngắn, nếu tính từ khi nhà Tây Sơn khởi nghĩa chống chính quyền
chúa Nguyễn ở Đàng Trong năm 1771, đến thời điểm kết thúc vào năm
1801, nhà Tây Sơn chỉ hiện hữu trong 30 năm. Nhưng chính sử ghi nhận
triều đại này chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1788, khi Nguyễn Huệ lên ngôi
Hoàng đế ở Phú Xuân, đến năm 1801, lúc triều đình Cảnh Thịnh rút khỏi
đây để chạy ra đất Bắc, nghĩa là trong vòng 14 năm. Tuy tồn tại ngắn
ngủi nhưng triều đại này đã để lại một sự nghiệp sáng ngời trong lịch
sử dân tộc.
Mảnh
đất Phú Xuân - Thừa Thiên Huế đã gắn bó với triều đại Tây Sơn từ rất
sớm, khi Nguyễn Huệ giải phóng Thuận Hóa - Phú Xuân (1786). Chính tại
nơi đây, phong trào Tây Sơn đã phát triển đến đỉnh cao dưới thời vua
Quang Trung (1788 - 1792).
Triều Nguyễn: Sau
khi đánh bại vương triều Tây Sơn, tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802),
Nguyễn Ánh chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập đàn tế trời đất rồi thiết
triều để lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Long. Năm 1804, vua Gia Long
đổi quốc hiệu là Việt Nam.
Địa
điểm tọa lạc của Kinh thành Huế nguyên đã được các chúa Nguyễn chọn
làm thủ phủ xứ Đàng Trong từ năm 1687 đến 1775, rồi sau đó nhà Tây
Sơn dùng làm kinh đô của cả nước từ 1788 đến 1801. Vua gia Long chọn
lại địa điểm này để xây dựng Kinh thành với quy mô to lớn hơn, nằm
trên đất của 8 làng: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, Thế Lại, An Vân,
An Hòa, An Bửu và An Mỹ.
Phu Văn Lâu, hồi đầu thế kỷ 20 (Tranh màu nước của Gras,BAVH, No4, 1915) Phu Văn Lâu mùa lụtKinh thành được xây dựng theo kiểu Vauban, có hình gần như vuông, diện tích 520ha, chu vi trên 10.500m. Hệ thống thành quách (gồm Kinh thành (thành ngoài), Hoàng thành và Tử cấm thành (thành trong) đều nằm trên một trục, quay mặt về hướng Nam - Đông Nam, được xây dựa vào địa thế của núi Ngự, sông Hương. Trục chính của hệ thống này chạy qua giữa đỉnh núi Ngự Bình.
Hoàng
thành là trung tâm sinh hoạt chính trị và hành chính quan trọng nhất
của triều đình, được xây dựng vào năm 1804 và được nâng cấp, hoàn
chỉnh vào năm 1833. Hoàng thành có diện tích 36ha, có hình gần như
vuông, mỗi cạnh khoảng 600m. Trong Hoàng thành có hơn 100 công trình
kiến trúc đẹp chia làm nhiều khu vực khác nhau, giữ các chức năng
riêng.
Kinh
thành Huế có giá trị lớn về mặt phòng thủ. Chung quanh thân thành có
24 pháo đài, cùng một thành phụ là Trấn Bình đài (Mang cá nhỏ). Tất
cả các công trình đó cùng với vòng đai Hộ Thành hà bảo vệ bên ngoài
đã tạo nên một hệ thống bố phòng vững chắc.
Kiến
trúc kinh thành Huế là sự kết hợp chặt chẽ đầy trí tuệ giữa kiến
trúc và thiên nhiên. Đây là tri thức và tài nghệ của dân tộc Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XIX.
Thừa Thiên Huế ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)
Khi
Gia Long lên ngôi, mở ra triều đại nhà Nguyễn, Huế trở thành trung
tâm chính trị của một đất nước có lãnh thổ thống nhất và rộng lớn chưa
từng có trong lịch sử. Ở kinh đô Huế vua Gia Long và vua Minh Mạng đã
xây dựng một bộ máy nhà nước có quy củ, được tổ chức chặt chẽ, đủ sức
quản lý cả một đất nước rộng lớn từ Lạng Sơn đến tận mũi Cà Mau.
Về
quan chế được quy định gần giống với nhà Lê. Dưới nhà vua, mọi việc
đều do lục Bộ đảm nhiệm: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Hình, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ
Binh. Ngoài Lục Bộ còn có Đô Sát viện. Đến năm 1834, vua Minh Mạng lập
Cơ Mật viện để bàn việc quân quốc cơ yếu.
Vua
Gia Long chia lãnh thổ từ Bắc vào Nam làm 23 trấn và 4 doanh. Năm
Minh Mạng thứ 12 (1831), triều đình chia đặt từ Quảng Trị ra Bắc thành
18 tỉnh, qua năm sau 1832, tiếp tục chia đặt từ Quảng Nam vào Nam
thành 12 tỉnh. Cả nước bấy giờ có 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên. Năm Minh
Mạng thứ 15 (đầu năm 1835), triều đình đặt thêm 3 huyện ở phủ Thừa
Thiên là Phong Điền, Hương Thủy và Phú Lộc. Như vậy đến thời điểm này
phủ Thừa Thiên có tất cả 6 huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà,
Phú Vang, Hương Thủy và Phú Lộc.
Vào
thế kỷ XIX, Thừa Thiên Huế bao gồm cả kinh đô nên thường được triều
đình Huế chú ý an dân, phát triển các mặt để tạo chỗ dứng chân vững
chắc cho vương triều.
Về
kinh tế, triều Nguyễn có những chính sách ưu đãi để phát triển nông
nghiệp ở Thừa Thiên, cấm mua bán ruộng đất công, lập kho Thường bình,
Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Tiên
nông, giảm miễn thuế mỗi khi mất mùa, xây dựng các công trình thủy
lợi, đắp đập ngăn mặn, đào kênh, khơi vét sông hói. Năm 1808 đào sông
Dương Xuân, năm 1814 đào sông An Cựu (Lợi Nông), năm 1835 đào sông Phổ
Lợi... Dẫu vậy, cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, trình độ kỹ thuật trong
sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, công cụ chưa có những tiến
bộ quan trọng và năng suất cây trồng còn thấp.
Cùng với nông nghiệp, thủ công nghiệp Thừa Thiên Huế trong nửa đầu thế kỷ XIX cũng có bước phát triển đáng kể, nhiều làng nghề thủ công trở nên nổi tiếng: làng gốm Phước Tích (Phong Điền); làng nón Triều Sơn (Hương Trà); Sư Lỗ Đông (Phú Lộc), Phú Cam (Huế); làng nghề rèn, luyện sắt ở Phù Bài (Hương Thủy), Hiền Lương (Phong Điền); đúc đồng ở Dương Xuân; nghề thêu ở Huế; mộc, chạm điêu khắc Mỹ Xuyên... Hoạt động thủ công nghiệp có hai bộ phận, ngoài các làng nghề thủ công dân gian, còn có xưởng thủ công do triều đình quản lý. Các nghề thủ công đã góp phần làm nên diện mạo văn hóa Huế, in đậm trên các công trình kiến trúc vật thể và trong đời sống tâm linh của con người. Ngoài các nghề thủ công, ở Huế còn có các làng sản xuất muối biển nổi tiếng nhất là Diêm Trường và Phụng Chính (Phú Lộc).
Một
bộ phận lớn các thợ thủ công được tập hợp trong một tổ chức nghề
nghiệp là Tượng cục (thời Gia Long gọi là Ty, hay Đội). Số lượng tượng
cục ở kinh đô rất lớn, Tượng cục có thể tự sản xuất độc lập hoặc trở
thành một bộ phận trong xưởng sản xuất lớn - những quan xưởng của triều
đình.
Sự
phát triển của nghề thủ công nghiệp không chỉ góp phần đáp ứng nhu
cầu đời sống cung đình và công việc kiến thiết đế đô, mà còn tạo ra
nguồn hàng thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Nửa đầu thế kỷ XIX, mạng
lưới chợ huyện đã được hình thành đều khắp trên địa bàn Thừa Thiên
Huế như Gia Hội, An Vân, Thanh Hà, Kim Long, Nam Phổ, An Cựu, An Nông,
Phú Lễ, Đại lộc...., các chợ là trung tâm giao lưu trao đổi giữa các
địa phương trong vùng và với kinh đô Huế. Ngoài chợ huyện còn có hệ
thống các chợ làng. Đặc biệt sự phát triển của thương cảng Bao Vinh
đóng vai trò quan trọng trong việc mua bán giữa Thừa Thiên Huế với các
tỉnh và với nước ngoài.
Nhìn
chung, thủ công nghiệp và thương nghiệp ở Thừa Thiên Huế trong nửa
đầu thế kỷ XIX có bước phát triển đáng kể so với trước. Tuy nhiên, do
quốc sách “dĩ nông vi bản” của triều đình nên thủ công nghiệp và
thương nghiệp chưa phát triển hết tiềm năng, vẫn còn chịu nhiều ràng
buộc của thế chế phong kiến và của nền kinh tế tiểu nông.
Về
giao thông, ở Thừa Thiên Huế dưới triều Nguyễn, ngoài các đường thủy
trên sông, trên các đầm phá và dọc theo biển, còn có nhiều cầu được
xây dựng. Đường bộ thì có đường quan, theo đường quan các trạm dịch
được thiết lập: trạm Thừa Nông, Thừa Hóa, Thừa Lưu và Thừa Phúc ở
huyện Phú Lộc; trạm Thuận Lan ở Phú Vang; trạm Thừa An, Thừa Mỹ ở
Phong Điền. Các đường trạm và trạm dịch giữ vai trò quan trọng trong
giao thông liên lạc lúc bấy giờ.
Về văn hóa, những thành tựu văn hóa giáo dục ở nửa đầu thế kỷ XIX của đất nước được phản ánh rõ nhất trên đất Thừa Thiên Huế.
Dưới
triều Nguyễn hệ thống trường học được mở quy củ đến tận các huyện.
Quốc Tử Giám cũng được mở để đào tạo nhân tài phục vụ cho đất nước.
Cùng với hệ thống trường học, việc thi cử cũng được định lệ, kỳ thi
Hương được tổ chức từ năm thứ sáu đời gia Long (1807) và kỳ thi Hội có
từ năm Minh Mạng thứ ba (1822). Cứ ba năm một lần tổ chức thi Hương,
năm sau tổ chức thi Hội. Trường thi Thừa Thiên được xây dựng năm 1825
và liên tục là địa điểm tổ chức các khoa thi dưới triều Nguyễn.
Dưới
thời Minh Mạng, năm 1836, ở kinh sư còn thành lập một trường đặc biệt
chuyên dạy ngoại ngữ, có tên gọi là Tứ Dịch Quán để đào tạo người
giỏi ngoại ngữ phục vụ cho việc bang giao với các nước.
Quốc
Sử quán triều Nguyễn được thành lập năm 1820 đã làm công việc sưu tầm
tập hợp hàng ngàn pho sách cổ của các thời trước, xuất bản nhiều công
trình sử học, địa lý học quan trọng như Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đại nam liệt
truyện,...
Âm
nhạc, sân khấu: Các loại nhã nhạc cung đình được lưu hành có nhã
nhạc, giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc.... Ngoài ra,
âm nhạc Huế có hai dòng chính là nhạc dân gian xứ Huế và ca nhạc Huế.
Sân khấu tuồng phát triển mạnh mẽ, bên cạnh dòng tuồng bác học chuyên
phục vụ cho cung đình còn có dòng tuồng dân gian.
Kiến
trúc ở Huế có kiến trúc cung đình với nhiều công trình kiến trúc
hoành tráng, quy mô lớn được xây dựng qua các đời vua Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức là bộ phận chủ yếu làm nên quần thể di tích
Huế được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới. Bên cạnh đó còn
có dòng kiến trúc chùa, miếu, đình, và kiểu kiến trúc nhà ở dân dã.
Tôn
giáo: Các vua đầu triều Nguyễn nhận thức được vai trò quan trọng của
Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền nên rất coi
trọng Nho giáo. Đối với Phật giáo, tuy có những quy định chặt chẽ về
việc xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tô tượng, đàn chay hội chùa... “từ
nay về sau, chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, làm chùa mới và tô
tượng đúc chuông, đàn chay hội chùa, hết thảy đều cấm” (Quốc sử quán
triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, tập 1, tr 586), nhưng nhiều vị vua triều
Nguyễn tổ chức tu sửa chùa
chiền, xây dựng nhiều chùa công (chùa do nhà nước xây cất) như Thiên Mụ,
Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên.... Nhìn chung, các vua nhà Nguyễn
không hoàn toàn bài bác Phật giáo mà có thái độ dung hòa Nho - Phật.
Đối với Thiên chúa giáo, nhà Nguyễn thi hành chính sách hạn chế.
Về
đời sống xã hội của nhân dân Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX, là
đất kinh sư mặc dù được ưu đãi hơn so với các địa hạt khác trong nước,
nhưng đời sống của nhân dân vẫn cơ cực, thuế má, phe phen nặng nề. Sự
phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc cùng với việc hình thành tầng lớp
quý tộc và tầng lớp bình dân. Hơn ở đâu hết, trên đất Thừa Thiên huế
nhân dân cảm nhận rõ rệt sự đè nặng của tôn ti, trật tự, đẳng cấp
phong kiến.
Ngày
1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công cửa biển Đà
Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của thực dân phương Tây ở Việt Nam, uy hiếp
cửa ngõ phía Nam của kinh đô Huế, đe dọa sự tồn vong của triều đình
nhà Nguyễn.
Triều
đình nhà Nguyễn (vua Tự Đức) một mặt đưa quân vào Đà Nẵng chống đỡ,
một mặt tích cực tiến hành công tác tổ chức phòng thủ các cửa ải, cửa
biển trên đất Thừa Thiên và kinh đô Huế, tổ chức tập trận nhằm đảm bảo
sức chống đỡ của kinh đô một khi quân Pháp tiến đánh.
Trong
bối cảnh ấy, quân và dân Thừa Thiên ra sức, đồng lòng chống giặc. Từ
Huế 2.000 Cấm binh, 200 lính Vũ lâm, 400 lính các vệ ở Hải Vân quan
vào Đà Nẵng đánh Pháp. Ngoài ra, triều đình Huế còn lệnh cho quan phủ
Thừa Thiên chiêu mộ binh lính lập quân Chiến tâm. Tháng 12/1858, quân
Chiến tâm được đổi thành vệ Nghĩa dũng, tăng cường vào Quảng Nam đánh
giặc.
Sau
18 tháng tiến công vào Đà Nẵng nhưng không đạt mục tiêu tiến sâu vào
nội địa, ngày 23/3/1860, liên quân Pháp - Tây Ban Nha phải rút hết lực
lượng đưa quân vào tiến đánh phía Nam.
Tuy
đuổi được quân Pháp - Tây Ban Nha ra khỏi Đà Nẵng, nhưng sau đó quan
quân triều đình không phát huy được sức mạnh giữ nước ở mặt trận phía
Nam, nên từ năm 1860 đến 1862, các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường
và Vĩnh Long lần lượt thất thủ. Trước sức ép của quân Pháp, triều
đình Huế đã đồng ý ký hiệp ước Nhâm Tuất (1862) với 12 khoản, cắt ba
tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và quần đảo Côn
Lôn cho Pháp.
Nhân
dân Thừa Thiên Huế cũng như nhân dân cả nước vô cùng phản đối sự nhân
nhượng, cắt đất cho giặc của triều đình nhà Nguyễn. Nguy cơ mất nước
đang trở thành mối đe dọa hết sức nặng nề.
Việc
mất 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ đã phô bày sự yếu kém về nhiều mặt của
đất nước và năng lực hạn chế của triều Nguyễn. Trong bối cảnh đó,
những người Việt Nam có tri thức và tâm huyết cứu nước rất muốn thực
hiện việc canh tân đất nước nhằm tạo thực lực, đẩy mạnh tự cường đưa
đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm.
Huế
với vị trí là Kinh đô của cả nước, mặc nhiên trở thành trung tâm của
trào lưu canh tân đất nước - nơi những nhà cải cách khắp đất nước cũng
như ở tại địa phương tập trung để bàn luận, trao đổi tân thư, soạn
thảo và dâng các bản kiến nghị cách tân lên triều đình Huế. Các bản
kiến nghị đề cập canh tân đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân
sự, quốc phòng, pháp luật, văn hóa giáo dục... Thành phần đề xướng
trào lưu cải cách khá đa dạng từ người Thiên chúa giáo, người có học
bình thường, nho sĩ, người đỗ đạt, quan lại bị cách chức..., Ở Thừa
Thiên Huế nổi bật có Đặng Huy Trứ và Nguyễn Lộ Trạch.
Tuy
nhiên, triều đình Huế đã không thực hiện cải cách trên quy mô lớn,
rất rụt rè và mang tính thăm dò, tiến hành cải cách rời rạc, cấp thời,
chiếu lệ và không triệt để. Hệ quả là cả trào lưu canh tân và công
cuộc cải cách của triều đình Huế đi đến thất bại hoàn toàn.
Sự biến động về chính trị kéo theo những biến đổi về kinh tế, văn hóa, giáo dục ở Thừa Thiên Huế.
Về
kinh tế, triểu đình khuyến khích phát triển nông nghiệp, khai hoang,
trị thủy nhằm đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lúa gạo tại chỗ đối phó với
tình trạng không thể vận chuyển lúa gạo từ trong Nam ra (năm 1860,
Pháp đánh chiếm miền Nam). Đầu tư vào một số ngành nghề như trồng dâu
nuôi tằm, công nghiệp khai khoáng. Nhà nước còn chú trọng đến giao
thông vận tải, phát triển thương nghiệp, thương càng Bao Vinh của Huế
thời bấy giờ đã được Dutreuil de Rhins ghi lại trong sách Vương quốc An Nam và người An Nam
như sau: “Nhiều thuyền An Nam và Tàu chen chật trên sông hẹp và sâu.
Dưới các lớp chiếu và lớp lá đậy các khoang thuyền là các loại hàng rẻ
tiền là tiêu, lụa, ngà voi, đường, quế, đậu khấu, sa nhân chàm, thuốc
lá, trà, thuốc phiện lậu, vải, đồ sành, các thứ mỹ nghệ bằng ngà voi,
bằng bạc, bằng đồng đen, vũ khí, bàn ghế được chạm trổ hoặc cẩn xà
cừ”.
Về
văn hóa, giáo dục, bên cạnh sự phát triển của Nho học truyền thống,
lối học thực dụng bắt đầu được nhà nước chú trọng, nhà nước khuyến
khích học ngoại ngữ, kỹ thuật phương Tây, xuất dương du học. Tuyển dụng
võ quan bằng cách mở khoa thi Tiến sĩ võ. Xây dựng đền thờ, tổ chức
cúng tế cho những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa, ghi nhớ những người
bỏ mình vì việc nước.
Tuy
nhiên, đời sống của nhân dân Thừa Thiên Huế thời kỳ này vẫn không khá
hơn, dịch bệnh bùng phát liên tục, thiên tai xảy ra liên miên kèm
theo mất mùa đói kém khiến cho loạn lạc, cướp bóc hoành hành. Lại thêm
nạn quan lại và một số hoàng thân ỷ thế bức hiếp hãm hại nhân dân,
đặc biệt là thái độ bạc nhược, thỏa hiệp của triều Nguyễn trước thực
dân Pháp kể từ hiệp ước 1862, nên làn sóng chống đối triều đình Huế
ngày càng dâng cao, tạo nên nhiều cuộc khởi nghĩa trong cả nước, mà
đỉnh cao của phong trào chống đối triều Nguyễn trong giai đoạn này là
cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi” do Đoàn Hữu Trưng lãnh đạo trên đất Thừa
Thiên Huế.
Sau
Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế lại tiếp tiếp tục sai lầm
khi dùng chính sách ngoại giao nhằm lấy lại ba tỉnh miền Đông Nam Bộ,
thái độ ôn hòa của triều Nguyễn trong vấn đề giữ nước là một trong
những nguyên nhân thúc đẩy thực dân Pháp mở rộng chiếm đóng lãnh thổ.
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên mà triều đình Huế gần như không có phản ứng quân sự nào.
Vừa
bị thực dân Pháp gây áp lực ở miền Nam, triều đình Huế còn phải đối
phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân, các toán giặc cướp người Hoa ở
Bắc Kỳ và đã phải cầu viện nhà Thanh sang dẹp loạn. Chính sự rối loạn ở
miền Bắc đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đem quân ra Hà Nội can
thiệp, và thực hiện đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất năm 1873. Vì nhiều
lý do không cho phép đánh chiếm bằng quân sự vào lúc này, cộng với các
cuộc thương thuyết của triều Nguyễn, thực dân Pháp đi đến ký kết với
triều đình Huế Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874). Từ sau Hiệp ước Giáp
Tuất, triều đình Huế buộc phải công nhận chủ quyền của Pháp ở toàn bộ
các tỉnh miền Nam và càng bị ràng buộc nhiều hơn về mặt ngoại giao vào
thực dân Pháp.
Ý
đồ mở rộng địa bàn đánh chiếm và áp lực ngoại giao ngày càng nặng nề
của thực dân Pháp đã uy hiếp ngay cả vùng đất kinh đô Huế, buộc triều
đình Huế phải tăng cường phòng bị để bảo vệ sự sống còn của mình.
Chính
sách hòa hoãn, thương thuyết qua con đường ngoại giao của triều đình
Huế không thể ngăn thực dân Pháp tấn công Bắc Kỳ lần thứ hai. Ngày 25/1/1882 chúng tấn công Hà Nội. Hà Thành thất thủ. Thừa thế chúng đánh chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Sau
khi thành Hà Nội thất thủ, nhiều quan lại ủng hộ Tôn Thất Thuyết xin
đánh Pháp nhưng vua Tự Đức và đình thần trong Cơ Mật viện không đồng ý
mà tiếp tục duy trì chính sách thương lượng để xin lại thành Hà Nội.
Ngày
27/3/1883, thành Nam Định rơi vào tay Pháp, triều đình Huế bắt đầu
thay đổi thái độ, tăng cường phòng bị ở cảng Thuận An cùng kinh đô và
chủ trương tiến quân đánh Pháp ở Bắc Kỳ. Khí thế chống Pháp sôi sục của
triều đình và nhân dân Huế đã khiến cho đặc phái viên của Pháp là
Rheinart hoảng sợ cuốn cờ rút chạy vào Gia Định. Quân Pháp ở Hà Nội bị
công kích liên tục và đại bại trong trận cầu Giấy ngày 19/5/1883. Thống
đốc Pháp ở Nam Kỳ trục xuất phái đoàn thương thuyết của triều đình
Huế, chính phủ Pháp quyết định tăng cường quân đội để nắm lấy bằng
được Bắc Kỳ.
Giữa lúc vận nước đang đứng ở bờ vực thẳm thì triều đình Huế đã diễn ra việc phế lập. Tự Ðức mất ngày 19/7/1883.
Phái chủ hòa trong triều đình muốn lập Thụy quốc công Dục Ðức. Phái
chủ chiến Tôn Thất Thuyết cầm đầu đưa Lãng quốc công Hồng Dật lên ngôi
lấy niên hiệu Hiệp Hòa.
Việc
đưa vua Hiệp Hòa lên ngôi là hành động có tính toán của triều đình
Huế, ở buổi ban đầu, vua Hiệp Hòa thỏa mãn một số yếu cầu về công cuộc
chống Pháp mà phái chủ chiến mong muốn. Nhưng quyền lực thực sự chưa
lọt vào tay những người chủ chiến, bởi vua hiệp Hòa vẫn là người nắm
quyền quyết định và có chính kiến riêng của mình. Đó chính là tiền đề
dẫn đến những biến động chính trị trong nội bộ triều đình Huế ở giai
đoạn sau.
Sau
khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, cùng với nhân dân cả nước,
nhân dân Thừa Thiên Huế bắt tay xây dựng lại quê hương.
Tháng
9/1945, hệ thống chính quyền cách mạng từ cấp tỉnh, thành phố đến
huyện, xã nhanh chóng được hình thành và đi vào hoạt động. Các đơn vị
hành chính được sắp xếp lại, bãi bỏ cấp tổng và thành lập xã mới. Toàn
tỉnh Thừa Thiên gồm thị xã Thuận Hóa và 6 huyện: Phong Điền (8 xã),
Quảng Điền (13 xã), Hương Trà (20 xã), Phú Vang (21 xã), Hương Thủy
(trên 20 xã) và Phú Lộc (15 xã).
Cuối
năm 1945, thực hiện Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức
chính quyền nhân dân và ủy ban hành chính các cấp, Ủy ban nhân dân
cách mạng lâm thời tỉnh được đổi thành Ủy ban Hành chính lâm thời
tỉnh, do đồng chí Hoàng Anh làm Chủ tịch.
Chính
quyền cách mạng vừa mới thành lập đã phải đối đầu với muôn vàn khó
khăn thử thách. Trong toàn tỉnh, nạn đói năm 1945 do đế quốc Pháp và
phát xít Nhật gây ra vẫn còn de dọa tiếp diễn, nền tài chính kiệt quệ.
Ngoài ra, những di hại của một nền giáo dục nô dịch để lại nặng nề với
hơn 85% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội còn phổ biến. Đồng bào các
dân tộc miền núi phía Tây đời sống vô cùng thiếu thốn, lạc hậu.
Trong
lúc những khó khăn về kinh tế - xã hội còn gay gắt thì họa thù trong
giặc ngoài đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của chế độ mới. Dưới
danh nghĩa quân Đồng Minh, 20 vạn quân Tưởng kéo vào miền Bắc. Đầu
tháng 9/1945, 5.000 quân Tưởng đến Huế. Bên cạnh quân Tưởng, 4.500
quân Nhật với đầy đủ vũ khí vẫn còn ở Huế, đang chờ ngày quân đội Đồng
Minh giải giáp. Tháng 3/1946, quân Tưởng rút hết về nước theo Hiệp
ước Pháp - Hoa vào ngày 28/2/1946, thì lập tức có 850 quân Pháp với
trang bị vũ khí có mặt ở Huế.
Ngay
sau khi cách mạng thắng lợi, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
chính phủ (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 3 chủ trương lớn:
chống giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm.
Ở
Thừa Thiên Huế, tháng 10 năm 1945 Hội nghị cán bộ toàn tỉnh đã họp để
triển khai các chủ trương, chính sách mới của Trung ương Đảng và
Chính phủ. Sau Hội nghị hàng loạt công tác được tiến hành.
Trên
mặt trận cứu đói, chính quyền cách mạng Thừa Thiên Huế cùng với Mặt
trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân hưởng ứng lời
kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Một phong trào quyên góp, tổ chức “ngày đồng
tâm”, “hũ gạo cứu đói”... được phát động mạnh mẽ. Trên tinh thần
“tình làng nghĩa xóm”, hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số
lương thực cứu đói thu được khá nhiều, không những giúp được đồng bào
nghèo mà còn gửi cứu trợ đồng bào miền Bắc đang bị đói nghiêm trọng.
Song song với công tác lạc quyên cứu đói, chính quyền cách mạng còn
phát động phong trào tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc.
Đi
đôi với công tác chống giặc đói là chống giặc dốt, toàn tỉnh Thừa
Thiên Huế vào chiến dịch với khí thế sôi nổi, hào hứng từ tỉnh, huyện
đến các làng xã đều thành lập Ban Bình dân học vụ chuyên lo xoá mù chữ
cho dân. Các đoàn thể cứu quốc, thanh thiếu niên làm nòng cốt đi đầu
phong trào, ngày công tác, tăng gia sản xuất, đêm học đọc, học viết,
học tính. Gần như đâu đâu cũng có lớp học, già, trẻ, gái, trai đều nô
nức đến lớp bình dân.
Để
giải quyết những khó khăn của nền tài chính nước nhà, tại Thừa Thiên
Huế, nhân dân, công chức, bộ đội, công nhân... tích cực tham gia “Tuần
lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”. Chỉ trên dưới một tuần lễ với sự nhiệt tình
của quần chúng, thành phố Huế đã thu được 945 lượng vàng, ba huyện
phía bắc đóng góp 10kg vàng, huyện Phú Vang 25 lượng, một thôn Cự Lại
(Phú Vang) đóng góp trên 5 tạ đồng.
Chính
quyền cách mạng tỉnh đã thực thi các quyền tự do dân chủ, nam nữ bình
đẳng, tự do tín ngưỡng, bãi bỏ thuế khoá của thực dân - phong kiến,
chia lại ruộng, vận động xây dựng nếp sống mới trong nhân dân.
Những
thắng lợi đầu tiên trong việc chống giặc đói, giặc dốt, xây dựng nền
tài chính... trên toàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc củng
cố hệ thống chính trị của chế độ mới.
Để
thực hiện nhiệm vụ chủ yếu lúc này là giữ vững chính quyền cách mạng,
cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc Hội, thành lập chính phủ chính thức được
tiến hành kịp thời. Ngày 6 tháng 1 năm 1946 cùng với nhân dân cả nước,
nhân dân Thừa Thiên Huế đi bầu cử Quốc hội. Tỷ lệ người dân đi bỏ
phiếu đạt 90%, có xã 100%, tất cả các ứng cử viên do Mặt trận Việt
Minh giới thiệu đều trúng cử với số phiếu cao. Các ông Đoàn Trọng
Truyến, Hoàng Anh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Kinh Chi, Thích Mật Thể...
đã trúng cử đại biểu Quốc Hội của tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau khi tiến
hành bầu Quốc hội, tỉnh Thừa Thiên Huế đã bầu Hội đồng Nhân dân các cấp và từ đó bầu Ủy ban hành chính các cấp.
Cùng
với việc xây dựng chính quyền cách mạng, các tổ chức quần chúng như
Mặt trận Việt Minh, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, công nhân cứu
quốc... cũng được củng cố và ngày càng phát triển.
Ngoài
các vấn đề xây dựng chính quyền, an sinh xã hội, tỉnh Thừa Thiên Huế
còn xây dựng lực lượng quân chủ lực và ngành công an để giữ gìn trật
tự an ninh xã hội.
Sau
sự kiện ngày 23/9/1945, thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, quân và dân
Thừa Thiên Huế còn có nhiệm vụ chi viện tích cực cho cuộc kháng chiến
ở Nam Bộ, đồng thời còn phải lo đối phó với các thế lực thù trong
giặc ngoài là lực lượng quân Tưởng, quân Pháp và bè lũ tay sai ngay
trên mảnh đất quê hương.
Tháng
7/1946, Hội nghị Cán bộ Đảng tỉnh Thừa Thiên mở ra có giá trị như một
đại hội. Ban chấp hành Tỉnh ủy được kiện toàn, sức mạnh của Đảng bộ
được tăng thêm, đáp ứng kịp thời công tác lãnh đạo chuẩn bị cuộc kháng
chiến ở Thừa Thiên Huế. Sau Hội nghị, công tác chuẩn bị kháng chiến
càng khẩn trương.
Đầu
tháng 12/1946, dã tâm xâm lược toàn bộ đất nước của thực dân Pháp đã
rõ ràng. Công cuộc chuẩn bị kháng chiến ở Thừa Thiên Huế được đẩy mạnh
hơn bao giờ hết. Nhân dân Thừa Thiên Huế đã sẵn sàng chiến đấu.
Sau
ngày quê hương giải phóng, đứng trước muôn vàn khó khăn phức tạp,
Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục
sản xuất và đời sống, xây dựng chính quyền và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng cuộc sống trong độc lập, hòa bình, thống nhất.
Hội nghị Đại biểu nhân dân toàn tỉnh ngày 23/8/1975 đã khẳng định
quyết tâm nhân dân Thừa Thiên Huế xây dựng quê hương theo con đường xã
hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo.
Mười
ba năm trong tỉnh hợp nhất Bình Trị Thiên, cán bộ, Đảng viên và nhân
dân Thừa Thiên Huế đã đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng tỉnh,
đoàn kết hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, bước
đầu thực hiện công cuộc đổi mới, tạo nên những biến đổi hứa hẹn đà đi
lên tốt đẹp của tỉnh Bình Trị Thiên.
Sau
khi phân định lại địa giới hành chính (1989), Đảng bộ và nhân dân
Thừa Thiên Huế đứng trước những thách thức to lớn trong bối cảnh tình
hình thế giới, trong nước, trong tỉnh; nhất là các lực lượng thù địch
coi Huế là một trong những trọng điểm để chúng thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa bình”,“bạo loạn lật đổ” ở nước ta.
Từ
đại hội X (1991) đến đại hội XIII (2006) của Đảng bộ tỉnh là một quá
trình trăn trở tìm tòi cơ cấu kinh tế thích hợp công nghiệp - du lịch,
dịch vụ - nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỉnh
ủy đã tập trung lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xác định rõ các
ngành trọng điểm, các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, đề ra 4 mũi
nhọn kinh tế, các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm, các mục
tiêu, chỉ tiêu phấn đấu thực hiện.
Trong
bối cảnh tình hình thế giới và trong nước cực kỳ phức tạp lại thêm
thiên tai, thời tiết quá khắc nghiệt, Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế
đoàn kết một lòng, nêu cao ý chí tự lực tự cường, nỗ lực vượt qua mọi
khó khăn, trở ngại đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, giành được nhiều thành
tựu quan trọng trên nhiều mặt: kinh tế tăng trưởng, cơ cấu kinh tế có
sự chuyển dịch theo hướng phát triển tiềm năng, thế mạnh của tỉnh,
các thành phần kinh tế phát huy tác dụng, đã hình thành các khu công
nghiệp Phú Bài, Tứ Hạ; khu kinh tế Chân Mây, phấn đấu thực hiện định
hướng phát triển đô thị, chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng
gò đồi, vùng đầm phá và ven biển. Một số chương trình, công trình
trọng điểm được triển khai thực hiện như: chương trình cửa ngõ Bắc -
Nam thành phố Huế, chương trình trồng rừng, hồ Truồi, nâng cấp sân bay
Phú Bài, cảng Thuận An, đập Thảo Long, hồ Tả Trạch...
Sau
ba mươi năm xây dựng và phát triển kinh tế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã
xây dựng được thành phố Huế là đô thị loại I trực thuộc Tỉnh, năm 2008
được công nhận là thành phố Festival. Từ năm 1990 đến nay, kinh tế
của tỉnh tăng trưởng nhanh và khá toàn diện (bình quân 8,4%/1 năm, cao
hơn hẳn so với mức 7,4%/1 năm thời kỳ 1976 - 1889), thời kỳ 2001 -
2005 đạt bình quân 9,5%/1 năm, năm 2007 đạt 13,6%. Tiềm lực kinh tế
được nâng cao một bước quan trọng, quy mô toàn nền kinh tế đã tăng gấp
2,5 lần so với năm 1990, trong đó công nghiệp tăng 4,3 lần, dịch vụ
tăng 2,5 lần, nông nghiệp tăng 1,2 lần. GDP bình quân đầu người đến
năm 2007 đạt 560 USD, gấp 2,5 lần so với năm 1990.
Cơ
cấu nền kinh tế chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 19,7% (năm 1990) lên
34,1% (2004), ngành dịch vụ tăng tương ứng từ 36,1% lên 43,7%, tỷ trọng
ngành nông nghiệp giảm nhanh từ 44,2% xuống còn 22,2%.
Văn
hóa - xã hội đạt được những thành tựu đáng kể. Tiếp tục phát huy vị
thế là trung tâm văn hóa du lịch, trung tâm giáo dục đào tạo và khoa
học công nghệ, trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung và Tây
Nguyên. Quần thể di tích cố đô Huế, Nhã nhạc Cung đình Huế được công
nhận là kiệt tác di sản của nhân loại. Chương trình xóa đói giảm nghèo
có nhiều chuyển biến, ưu tiên tập trung cho 15 xã đặc biệt khó khăn và
27 xã nghèo khác, hạ tỉ lệ hộ nghèo xuống còn 8%. Chương trình xóa
nhà tạm cho đồng bào nghèo được triển khai và bước đầu đem lại kết quả
tốt. Hầu hết các xã đã từng bước xây dựng đường nông thôn, tạo cơ sở
vật chất cho giáo dục, nhất là tiểu học, mẫu giáo, trạm y tế xã. Làng
văn hóa đã được xây dựng, phát triển ở các huyện. Quốc phòng, an ninh
được giữ vững, chính trị ổn định, đã thực hiện tốt chủ trương phát
triển kinh tế-xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng - an ninh trong
tình hình mới. Cuộc vận động xây dựng xây dựng nếp sống mới ở khu dân
cư được nhân dân tích cực tham gia, xuất hiện nhiều mô hình tốt. Khối
đại đoàn kết toàn dân ngày càng được mở rộng, chung sức chung lòng xây
dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Theo Địa chí Thừa Thiên Huế - Phần Lịch sử
(Nhà Xuất bản Khoa học xã hội - năm 2005)
Năm
2010 cũng là mốc thời gian kết thúc giai đoạn 1 của dự án Quy hoạch
Bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt từ năm 1996-2020. Và điện Long An cũng là một trong
rât nhiều công trình thuộc Quần thể di tích cố đô Huế được trùng tu
phục hồi. Công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế từ
nhiều năm qua đã được Đảng quán triệt sâu sắc quan điểm về giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tuân thủ công ước quốc tế về bảo tồn đã
triển khai và thực hiện đạt nhiều kết quả đáng tự hào. Di sản văn hóa
Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp, đang từng bước hồi sinh,
từng bước trả lại diện mạo ban đầu của một cố đô lịch sử, chuyển sang
giai đoạn ổn định và phát triển bền vững.phục nguyên cổng tam quan lăng Gia Long 527.926 tỷ đồng là tổng kinh phí thực hiện cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích cố đô Huế trong 10 năm qua. Hơn một nửa trong số đó là nguồn ngân sách trung ương. Ngân sách địa phương đóng góp hơn 212 ngàn tỷ đồng và số còn lại từ nguồn tài trợ quốc tế. Theo đó, gần 160 hạng mục công trình đã được bảo tồn tu bổ. Những công trình tiêu biểu đó là Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Hiển Lâm Các, các cụm di tích Thế Miếu, Cung Diên Thọ, Duyệt thị đường, Cung trường sanh, lăng Gia Long, Minh Mạng, Khải định, chùa Thiên Mụ, các cổng Kinh thành, đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc… Quá trình bảo tồn cũng đã ghi nhận sự hợp tác đối ngoại để thực hiện nhiều chương trình dự án. Hơn 32 tổ chức quốc tế đã được Trung tâm BTDT cố đô Huế thiết lập quan hệ. Cụ thể, đơn vị đã phối hợp tốt với Ba Lan trong tu bổ di tích Thế tổ miếu, Nhật Bản trong việc nghiên cứu phục hội điện Cần Chánh và tu bổ một số công trình khác, Công hòa Liên bang Đức trong phục hội tranh tường và các hoa văn họa tiết trang trí ở Khải tường Lâu- Cung An định. Đặc biệt, với Nhật Bản, Trung tâm đã thiết lập quan hệ hơn 10 năm qua, triển khai nhiều nội dung công việc để đi đến kết quả cuối cùng là phục nguyên điện Cần Chánh, một trong những cung điện quan trọng nằm trong Tử Cấm thành đã bị thiêu hủy hoàn toàn vào năm 1947. trùng tu lăng Khải Định Phần lớn kết cấu các công trình di tích cố đô Huế đều được làm bằng gỗ, phần móng được xây dựng trên nền đất yếu và hệ thống mái làm bằng ngói nung truyền thống. Những tác động của thiên nhiên và thời gian đã làm cho tuổi thọ của các công trình bị rút ngắn, phần móng bị xô lệch, gây trượt ở một số công trình. Hệ thống kết cầu gỗ bị mối mọt, phần mái thấm dột... Quá trình tu bổ đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá mức độ hư hỏng của công trình, đồng thời phải có những giải pháp kỹ thuật phù hợp. Phân viện Khoa học công nghệ xây dựng miền Trung từ khi thành lập và đi vào họat động tại TT Huế đã tham gia trùng tu rất nhiều công trình thuộc Quần thể di tích Huế. Những yếu tố đòi hỏi trong quá trình trùng tu di tích đó là trả lại những giá trị vốn có của nó đảm bảo tính nguyên gốc, chân xác, đồng thời đảm bảo độ bên vững đối với công trình... đã đặt ra những nhiệm vụ nặng nề đối với đơn vị thi công trong khâu xử lý kỹ thuật cũng như ứng dụng công nghệ tiên tiến bên cạnh các phương pháp thủ công truyền thống. khôi phục các cửa Kinh Thành Một chặng đường trùng tu di tích đã được thấy rõ từ diện mạo quần thể di sản đang từng bước được trả lại những giá trị vốn có của nó. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm khi di tích Huế đang phải đối mặt trước áp lực của quá trình đô thị hóa. Những tác động của các yếu tố thiên nhiên, thời gian cũng làm cho nhiều công trình bị xuống cấp nghiêm trọng. Kết luận 48 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh ưu tiên vốn từ nguồn trái phiếu hoặc nguồn vốn đặc biệt từ chương trình hỗ trợ có mục tiêu của quốc gia để tập trung tôn tạo di tích. Trước mắt, từ nay đến năm 2012, ưu tiên vốn để trùng tu khu vực Đại nội và giải tỏa dân cư lấn chiếm trên Kinh thành. Sau năm 2012 sẽ tiếp tục đẩy nhanh, hoàn thành dứt điểm việc tôn tạo, trùng tu Cố đô Huế, tạo bước đột phá cho phát triển dịch vụ, du lịch.hàng cột điện Cần Chánh image hosted on flickr uan lại quỳ lại trước sân điện Cần Chánh (lễ tứ tuần đại khánh vua Khải Định) Vua Khải Ðịnh đang dùng cơm trưa ở điện Cần Chánh Vua đãi cơm chiều cho bá quan ở điện Cần Chánh Từ thực tế triển khai thực hiện bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích cố đô Huế thời gian qua, đặc biệt từ kết luận của Bộ Chính trị đặc biệt quan tâm đến di sản văn hóa Huế, vừa qua, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã xây dựng đề án điều chỉnh quy hoạch giai đoạn 1996-2020 và đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đề án được thông qua, là cơ hội để tỉnh TT Huế triển khai công cuộc bảo tồn tôn tạo di sản văn hóa Huế một cách mạnh mẽ hơn. trùng tu Văn Miếu Huế phục hồi tranh tường Cung An Định (chuyên gia Đức hỗ trợ) Cổng vào Đại nội
Phục hồi hoàn chỉnh di tích Huế vào năm 2020
TT
- Đề án điều chỉnh quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố
đô Huế giai đoạn 2010-2020 vừa được Chính phủ phê duyệt. Giai đoạn 1
từ năm 2010-2012 chủ yếu tập trung lập hồ sơ, khoanh vùng bảo vệ hệ
thống di tích, bảo quản những di tích xuống cấp, tiếp tục hoàn thành
tu bổ các công trình dở dang và phục hồi một số kiến trúc trong Tử cấm
thành...
Giai đoạn 2 từ 2013-2017 tiếp tục tu bổ,
phục hồi các công trình di tích, các trang trí mỹ thuật, kết cấu kiến
trúc, cải thiện tôn tạo cảnh quan thiên nhiên và hoàn thiện cơ sở hạ
tầng khu Đại nội và các di tích khác...
Giai đoạn
3 từ năm 2018-2020 hoàn chỉnh phục hồi, tôn tạo những phế tích có giá
trị tiêu biểu, cơ bản phục nguyên các công trình quan trọng trong Đại
nội, cải thiện và tôn tạo cảnh quan khu vực kinh thành, các lăng tẩm
và những di tích khác; hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng tại các điểm di tích.
image hosted on flickrPhú Văn Lâu. image hosted on flickr Xây vào năm 1819 dưới triều Gia Long, Phú Văn Lâu là nơi công yết những sắc dụ của nhà vua, đây cũng là nơi đề danh những vị tân khoa của các kỳ thi Hương, thi Hội, và thi Đình. Năm 1843, vua Thiệu Trị cho dựng một tấm bia lớn phía tay mặt và khắc một bài thơ ca ngợi sông Hương. Phía trước cung thêm một tấm bia ghi bốn chữ "Khuynh Cái, Hạ Mã" (phải nghiêng dù và xuống ngựa). Đến năm 1847, nơi đây tổ chức buổi lễ tứ tuần của vua Thiệu Trị và có mời 773 vị bô lão tham dự, tổng cộng số tuổi của các vị này là 59.017 tuổi. Năm 1916, hai anh hùng Trần Cao Vân, Thái Phiên ngồi giả câu cá gần Phú Văn Lâu để bí mật gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa. Chẳng may việc bất thành, vua Duy Tân bị quân Pháp bắt và bị đày ở đảo Réunion. Tổ chức kháng chiến bị đàn áp dã man, gây sự xúc động mãnh liệt trong dân chúng và tạo nên câu hò được truyền tụng đến nay: "Chiều chiều trước bến Văn Lâu, Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm. Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông? Thuyền ai lấp ló bên sông, Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non." Ấn Vàng Minh Mạng. image hosted on flickr Năm 1823, Minh Mạng đã làm bài Đế Hệ Thi và 10 bài Phiên Hệ Thi để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau. Bài Đế Hệ Thi gồm 20 chữ, dùng làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ từ vua Minh Mạng trở về sau. MIÊN HỒNG ƯNG BỬU VĨNH BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT THẾ THỤY QUỐC GIA XƯƠNG * MIÊN: Trường cửu phước duyên trên hết * HỒNG: Oai hùng đúc kết thế gia * ƯNG: Nên danh xây dựng sơn hà * BỬU: Bối báu lợi tha quần chúng * VĨNH: Bền chí hùng anh ca tụng * BẢO: Ôm lòng khí dũng bình sanh * QUÝ: Cao sanh vinh hạnh công thành * ĐỊNH: Tiên quyết thi hành oanh liệt * LONG: Vương tướng rồng tiên nối nghiệp * TRƯỜNG: Vĩnh cửu nối tiếp giống nòi * HIỀN: Tài đức phúc ấm sáng soi * NĂNG: Gương nơi khuôn phép bờ cõi * KHAM: Đảm đương mọi cơ cấu giỏi * KẾ: Hoạch sách mây khói cân phân * THUẬT: Biên chép lời đúng ý dân * THẾ: Mãi thọ cận thân gia tộc * THỤY: Ngọc quý tha hồ phước lộc * QUỐC: Dân phục nằm gốc giang san * GIA: Muôn nhà Nguyễn vẫn huy hoàng * XƯƠNG: Phồn thịnh bình an thiên hạ Bài Đế Hệ Thi được khắc trong một cuốn sách bằng vàng (kim sách)[2], cất trong hòm vàng (kim quỹ) để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các bài Phiên Hệ Thi cũng được khắc trong các cuốn sách bằng bạc. Tuy nhiên, chưa dừng lại đó, đi kèm với mỗi chữ trong bài Đế Hệ Thi là một bộ Miên (miên) Hồng (nhân) Ưng (thị) Bửu (sơn) Vĩnh (ngọc ) Bảo (phụ) Quý (nhân) Định (ngôn) Long (thủ) Trường (hòa) Hiền (bối) Năng (lực) Kham (thủ) Kế (ngôn) Thuật (tâm) Thế (ngọc) Thoại (thạch) Quốc (đại) Gia (hòa) Xương (tiểu) Tên đặt cho các hoàng tử lúc chưa làm vua bắt buộc phải dùng một chữ có bộ đó, ví dụ: * Vua Thiệu Trị, có chữ lót là Miên, và tên là Tông (thuộc bộ miên), và tất cả các anh em của vua Thiệu Trị cũng đều phải có tên có chữ bộ Miên cả (tuy nhiên con của các vị hoàng tử này phải đặt tên không được có bộ nhân, trừ con vua Thiệu Trị) * Vua Tự Đức có chữ lót là Hồng, và tên là Nhậm (thuộc bộ nhân) * Vua Tự Đức không có con, nên lấy cháu lên làm vua, người cháu này tên là Ưng Cái, chữ lót thì đúng, nhưng tên không có bộ thị, không phải dòng họ chính của vua, nên để được làm thái tử, ông được đổi tên thành Ưng Chân, chữ Chân này có bộ thị. Minh Mạng mong muốn dòng họ Nguyễn Phúc sẽ truyền nối 20 đời, nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chữ Vĩnh - đời thứ 5. Từ Phúc Đảm tới Hồng Nhậm, sau đó các vua nối tiếp lại thuộc chi khác, thế hệ trước, nên 13 vua nhà Nguyễn vẫn chỉ thuộc 5 đời. Hai vua thuộc thế hệ thứ 5 là vua thứ 11 Vĩnh San (Duy Tân) và vua thứ 13 Vĩnh Thuỵ (Bảo Đại)Chính thức hình thành từ năm 1994, “Chương trình Phối hợp Nghiên cứu, Đào tạo và Bảo tồn tại khu di tích Huế” đề ra bốn mục tiêu chính: nghiên cứu toàn diện về di sản Huế trên nhiều khía cạnh, xây dựng cơ sở khoa học cho các dự án bảo tồn, trùng tu di tích Huế theo hướng bền vững, nâng cao năng lực quản lý và bảo tồn của đội ngũ cán bộ TTBTDTCĐ Huế. Và một trong những mục tiêu quan trọng nhất của chương trình này là nghiên cứu phục nguyên điện Cần Chánh. Chương trình đã được triển khai và thực hiện một cách khoa học trong suốt 15 năm qua với sự tham gia thường xuyên của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia và đội ngũ cán bộ kỹ thuật của cả hai phía TTBTDTCĐ Huế và Heritage Waseda. Kết quả nổi bật của quá trình hợp tác này là đã thực hiện chương trình nghiên cứu ứng dụng qua việc xây dựng mô hình hiện trạng điện Cần Chánh tỷ lệ 1/50 để phân tích nghiên cứu. Hiện hai bên cũng đang thực hiện lắp dựng mô hình tỷ lệ 1/10 để tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm. Mô hình tỉ lệ 1/10 được thiết kế giống như một quy trình thiết kế thực sự, đảm bảo tính chân xác và mặc dù tỉ lệ rất nhỏ nhưng tất cả vật liệu đều được thực hiện rất nguyên túc từ vật liệu truyền thống. Công tác thám sát khảo cổ học sân nền điện Cần Chánh cũng đã được thực hiện như là một bước chuẩn bị cần thiết phục vụ công tác trùng tu tôn tạo di tích này trong thời gian tới. image hosted on flickr Đã có cơ sở khoa học để phục nguyên điện Cần Chánh Theo KTS.Phùng Phu, mặc dù việc đào tạo nhân lực, nghiên cứu vật liệu, công nghệ xây dựng một cung điện đã được chuẩn bị chu đáo, tuy nhiên hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trong đó khó nhất là phần nội thất mà cụ thể là phần thơ và trang trí trên các ô hộc. “Chúng ta đã xây dựng được cơ sở dữ liệu đáng tin cậy, giai đoạn tiếp theo là thể nghiệm phục hồi bao gồm các mô hình 1/10, 1/4, và tiến đến 1/1. Tôi cho là dự án này phải khởi động sớm. Đây không chỉ là ước nguyện cách đây 15 năm mà thực sự chúng ta đã có điều kiện và một khi điện Cần Chánh được phục hồi một cách bài bản thì nhiều ngôi điện khác cũng sẽ được phục hồi. Chúng tôi mong muốn những nhà nghiên cứu, sưu tập hoặc những ai có tư liệu với tấm lòng của mình sẽ đóng góp thêm cơ sở dữ liệu. Việc đào tạo đội ngũ thợ, bảo lưu các công nghệ, kỹ thuật truyền thống và quá trình thực thi dự án phải bảo tồn luôn nghề chế tác các di tích”, KTS.Phùng Phu nói. Tiến sĩ Lê Vĩnh An, TTBTDTCĐ Huế (đã làm Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu phục nguyên mặt bằng và mặt cắt Cần Chánh điện”, bảo vệ tại Viện Đại học Waseda - Nhật Bản) cho biết: “Trong phương pháp tái thiết di sản kiến trúc của Nhật Bản đã đưa ra khái niệm gen di sản, cũng như chú cừu Doly là sự nhân giống vô tính dựa trên cấu trúc gen của động vật, thì dựa trên phương pháp luận tối ưu và các thiết bị hiện đại của Nhật Bản, người Nhật đã tái thiết được. Huế là một trường hợp tương tự và có thuận lợi hơn ở Đại cung điện Nara ở Nhật vì Huế còn một quần thể nền móng. Đối với điện Cần Chánh, ngoài nền móng - cấu trúc gen cơ bản, gen gốc của di sản - chúng ta còn có nhiều ảnh tư liệu, tư liệu lịch sử và các nghệ nhân nắm giữ bí quyết truyền thống. Chúng ta có thể tập hợp các nguồn tư liệu đó để đưa ra phương án thiết kế tối ưu và mang tính chân xác cao.” Về tính khả thi của Dự án phục nguyên điện Cần Chánh, TS. An cho rằng: “Dự án này được lãnh đạo Trung ương và địa phương rất quan tâm; bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế mà đặc biệt là Nhật Bản và Heritage Waseda đã rất nỗ lực hỗ trợ cho Thừa Thiên Huế; thứ ba là về cơ sở khoa học, 15 năm qua, phía TTBTDTCĐ Huế và Heritage Waseda đã xây dựng được hệ thống dữ liệu đầy đủ về kích thước, kỹ thuật truyền thống và hình thức của cung điện. Thêm vào đó là bối cảnh quốc tế hiện nay giữa Việt Nam và Nhật Bản, vị thế của di sản Huế trên trường quốc tế rất nổi bật và người dân đã hướng về di sản. Theo tôi, đó là hội đủ điều kiện để phục nguyên điện Cần Chánh”. Để thông báo các kết quả phối hợp nghiên cứu của “Chương trình phối hợp nghiên cứu, đào tạo và bảo tồn tại khu di tích Huế”, TTBTDTCĐ Huế và Heritage Waseda đã tổ chức Hội thảo về Phục nguyên điện Cần Chánh lần thứ I vào năm 1997 tại Huế và buổi Báo cáo Nghiên cứu phục nguyên điện Cần Chánh vào năm 2006 tại Hà Nội. Hội thảo Quốc tế về “Nghiên cứu Bảo tồn Di tích Huế và Dự án phục nguyên điện Cần Chánh” vừa được tổ chức vào trung tuần tháng 8-2009 nhằm tiếp tục giới thiệu các kết quả hoạt động của Chương trình hợp tác quốc tế giữa TTBTDTCĐ Huế và Heritage Waseda trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay, đặc biệt là những kết quả nghiên cứu phục vụ cho Dự án phục nguyên điện Cần Chánh trong thời gian sắp tới. Dự án này đã được UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế chính thức đăng ký với Bộ Kế hoạch - Đầu tư vào tháng 7-2009 để tiếp tục đề nghị chính phủ Nhật Bản xem xét hỗ trợ nguồn ODA không hoàn lại giai đoạn 2010-2015.Theo lẽ tự nhiên, kiến trúc kinh thành phải là một mẫu mực theo thuật phong thủy bởi lẽ việc lựa chọn địa điểm và xây dựng thành ấp của vua chúa là hết sức quan trọng, sao cho đó phải là nơi hội tụ của long mạch. Phía bắc sông Hương là Kinh thành Huế, trung tâm văn hóa lịch sử của thành phố. Chính vì vậy tổng thể kinh thành Huế được đặt trong khung cảnh bao la đất rộng và núi cao đẹp, minh đường lớn và sông uốn khúc rộng. Cụ thể, tiền án của kinh thành là núi Ngự Bình cao hơn 100 mét, đỉnh bằng phẳng, dáng đẹp, cân phân nằm giữa vùng đồng bằng. Hai bên là Cồn Hến và Cồn Dã Viên làm tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ trong thế rồng chầu hổ phục tỏ ý tôn trọng vương quyền. Minh đường thủy tụ là khúc sông Hương rộng, nằm dài giữa hai cồn cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho đô thành. Do quan niệm: “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ” (Kinh dịch – Thiên tử phải quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ) nhưng đồng thời phải tận dụng được thế đất đẹp nên kinh thành và các công trình trong nó được bố trí đối xứng qua trục dũng đạo quay mặt hơi chếch về hướng Đông – Nam một góc nhỏ nhưng vẫn giữ được tư tưởng chính của thuyết phong thủy. Đây là cách sáng tạo và linh hoạt của người quy hoạch trong việc vận dụng thuyết phong thủy. Kinh thành Huế lấy núi Ngự Bình (phía nam sông Hương) làm tiền án và 2 đảo nhỏ trên sông Hương là cồn Hến (Thanh Long) và cồn Dã Viên (Bạch Hổ) làm rồng chầu hổ phục. Mặt khác, phong thủy không chỉ xem hướng công trình mà nó còn ảnh hưởng sâu vào bố trí nội thất, vào các bộ phận và các kết cấu trong công trình như chiều dài, rộng, cao, các cột, cửa…như các bộ phận của Ngọ Môn đều có những con số theo nguyên tắc của dịch hoch như số 5, số 9, số 100. Năm lối đi vào Ngọ Môn tượng trưng cho ngũ hành, trong đó lối vua đi thuộc hành Thổ, màu vàng.
Toàn cảnh Kinh thành Huế.
Chính
bộ mái của lầu Ngũ Phụng biểu hiện con số 5 và 9 trong hào Cửu Ngũ ở
Kinh Dịch, ứng với mạng Thiên tử. Một trăm cột là tổng số của các con
số hà đồ (55) và lạc thư (45)…Các con số này ta lại gặp ở tại sân Đại
Triều Nghi với 9 bậc cấp ở phần sân dưới và 5 bậc cấp ở phần sân trên.
Trên mỗi mái của điện Thái Hòa đều được đắp nổi 9 con rồng trong các
tư thế khác nhau, và trong nội thất cũng tương tự. Đó là chưa kể đến
các con số liên quan đến chiều cao các cửa mà khó có thể liệt kê hết
ra ở đây.Về vị trí và phong thủy của kinh thành Huế, các sử quan Triều Nguyễn đã nhận xét, mà có thể nói, như một bản “Luận chứng kinh tế kỹ thuật”: Kinh sư là nơi miền núi miền biển đều hợp về, đứng giữa miền Nam miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng, đường thủy thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân ngăn chặn, sông lớn giữ phía trước, núi cao giữ phía sau, Rồng uốn Hổ ngồi, hình thể vững chãi, ấy là do trời đất xếp đặt, thật là thượng đô của nhà vua” Kinh thành Huế có 3 lớp: Kinh Thành, Hoàng Thành, Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành
Toàn cảnh Đại Nội trong kinh thành Huế
|
Bộ ảnh Huế xưa (1)
Một bộ ảnh đẹp về Huế xưa. Chúng đã được sử dụng rải rác trên blog này giờ sắp theo trình tự đánh số của NXB. Click vào đường link mầu để tham khảo thêm những bức bưu ảnh khác
61. Kênh Đông Ba
62. Hiển Lâm Các
63. Hồ Ngọc Dịch
64. Thái Bình Lâu
65. Điện Kiến Trung
66. Lầu Tứ Phương Vô Sự và cửa Hòa Bình
67. Điện Cần Chánh
68. Lễ kỉ niệm vua Gia Long
69. Nhà thờ Phủ Cam
70. Một đám cưới
71. Chùa Thiên Mụ
71. Chùa Thiên Mụ từ phía trong nhìn ra
72. Các sư làm lễ
73. Bến sông Hương trước chùa Thiên Mụ
74. Tượng chùa Thiên Mụ
75. Sông Hương đoạn chảy qua điện Hòn Chén
76. Rue Paul - Bert nay là đường Trần Hưng Đạo
Đường Trần Hưng Đạo
77. Cầu Trường Tiền
78. Khách sạn Morin
Rue Jules Ferry nay là đường Lê Lợi. Khách sạn Morin đã thay đổi chút ít bề ngòai
79. Bia Quốc Học (Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong)
80. Chợ Đông Ba
96. Tòa công sứ
98. Khu lính Pháp trong nhượng địa
100. Một bệnh xá
101. Chăn thả trâu bò gần một cây cầu
102. Dòng Chúa cứu thế và dãy Ngự Bình - tấm bình phong Hoàng Cung
103. Cầu Gia Viên qua sông Hương
104. Sông Hương và chùa Linh Mụ.
105. Đường ven sông Hương dẫn đến lăng tẩm.
106. Cậu bé chăn trâu trên đường đến khu lăng tẩm.
107. Cầu vào thành
108. Một góc của thành Huế
109. Trên giòng Hương Giang
110. Trâu cày
111. Bưu điện Huế
112. Đường Chaigneau (đường Hoàng Hoa Thám, dân gian thường gọi là đường Mù U)
114. Cửa Ngọ Môn
118. Hồ Tịnh Tâm
75. Sông Hương đoạn chảy qua điện Hòn Chén
76. Rue Paul - Bert nay là đường Trần Hưng Đạo
Đường Trần Hưng Đạo
77. Cầu Trường Tiền
78. Khách sạn Morin
Rue Jules Ferry nay là đường Lê Lợi. Khách sạn Morin đã thay đổi chút ít bề ngòai
79. Bia Quốc Học (Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong)
80. Chợ Đông Ba
96. Tòa công sứ
98. Khu lính Pháp trong nhượng địa
100. Một bệnh xá
101. Chăn thả trâu bò gần một cây cầu
102. Dòng Chúa cứu thế và dãy Ngự Bình - tấm bình phong Hoàng Cung
103. Cầu Gia Viên qua sông Hương
104. Sông Hương và chùa Linh Mụ.
105. Đường ven sông Hương dẫn đến lăng tẩm.
106. Cậu bé chăn trâu trên đường đến khu lăng tẩm.
107. Cầu vào thành
108. Một góc của thành Huế
109. Trên giòng Hương Giang
110. Trâu cày
111. Bưu điện Huế
112. Đường Chaigneau (đường Hoàng Hoa Thám, dân gian thường gọi là đường Mù U)
114. Cửa Ngọ Môn
118. Hồ Tịnh Tâm
Huế Xưa - Cầu Trường Tiền
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ
Đôi bờ đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình
Thi sĩ Nguyễn Bính đã ví như thế về cây cầu duyên dáng yêu kiều bắc qua dòng Hương Giang thơ mộng. Nhưng như một định mệnh khắc nghiệt, theo dòng chảy thời gian, cầu Trường Tiền trầm luân cùng xứ Huếtrong những biến động của lịch sử, của chiến tranh.
Căn cứ bài thơ Thuận Hóa thành tức sự của nhà thơ Thái Thuận, thi sĩ Quách Tấn đã cho rằng dưới thời vua Lê Thánh Tôn, sông Hương đã có cầu. Và chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có tên là cầu Mây. Rồi vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là cầu Mống. Trải bao năm tháng, không biết khi nào, cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu lát bằng ván gỗ lim.
Bức ảnh này chú thích là cầu qua sông Hương, nhưng không chắc chắn là cầu Trường Tiền vì cầu có 7 vài
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chiếc cầu trên được nhà cầm quyền Pháp (khi ấy Khâm xứ Trung Kỳ là Levécque) giao cho hãng Eiffel (Pháp) thiết kế (do Gustave Eiffel thiết kế) và khởi công xây dựng lại bằng sắt, đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) thì hoàn thành và được mang tên vị vua này. Tổng cộng tiền xây cầu Thành Thái tiêu tốn hết khoảng 400 triệu đồng, là một số tiền lớn vào thời đó. Cầu được xây dựng với hình dáng sáu vài vòng cung bằng thép, mặt cầu lát gỗ lim.
Khi dự lễ cùng Khâm sứ Trung kỳ Levécque, thấy thấy sàn cầu được làm bằng gỗ, vua Thành Thái bèn hỏi viên Khâm sứ tuổi thọ của cầu sẽ được bao lâu? Viên Khâm sứ kiêu hãnh trả lời: “Khi nào cái cầu này gãy thì nhà nước bảo hộ sẽ trả lại nước Nam cho bệ hạ”
Trong loạt ảnh với chú thích Cầu Thành Thái bên dưới, những bức của hãngGuerin có lưu bút của người sử dụng từ năm 1903 - 1904 cho biết ảnh được chụp trước trận bão lớn ở Huế ngày 11/09/1904.
Từ cầu đi xuống là đường Hùng Vương (thời Pháp thuộc là Légation), ngôi nhà cuối cầu là khách sạn Morin bây giờ. Nền cầu làm bằng gổ như sử sách đã viết.
Sông Hương và cầu Thành Thái
Ngày 11/09/1904 (Nhâm Thìn) một cơn bão mạnh tràn qua, thổi bay 4 vài xuống sông Hương. Nhân một buổi Khâm sứ Levécque vào Hoàng thành yết kiến, vua Thành Thái nhắc lại chuyện cũ: “Hôm khởi công cây cầu, ông nói khi nào cầu này gãy thì nhà nước bảo hộ sẽ trả lại nước An Nam cho tôi. Nay cái cầu đã gãy rồi đó”.Viên Khâm sứ chống đỡ: “Chuyện cái cầu bị gãy là do cơn bão quá mạnh chứ đâu phải là do con người”
Cầu Trường Tiền sau cơn bão. Bốn vài bị quật đổ, vài còn lại nằm phía bên Khách Sạn Morin.
Hai năm sau, tức năm Thành Thái thứ 16 (1906), chiếc cầu mới được sửa chữa lại bằng xi măng cốt thép, trong dân gian có câu:
Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Ơi người lỡ hội chồng con
Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non
Tấm post card có nhật ấn 1909
Chi tiết kết cấu sắt trong cầu và ngọn đèn chiếu sáng
Lan can bờ kè dưới sông có cùng họa tiết với lan can trên cầu
Sau khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, chính quyện bảo hộ cho đổi tên thành cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, vị Thủ tướng Pháp thời Thế chiến thứ nhất. Những hình ảnh dưới đây đều mang chú thích Pont Clémenceau
Tất cả các bức ảnh dưới đây có chung một chi tiết: phía trên, ở chính giữa các vài cầu có lắp đặt một hệ thống giống như dàn đèn chiếu sáng
Đến năm 1937, dưới triều vua Bảo Đại, cầu được mở rộng thêm hai hành lang ở hai bên, dành cho người đi bộ, xe đạp và những bao lơn (ban công) hình bán nguyệt được tạo ra ở 5 trụ cầu giữa 2 vai để có chỗ dừng chân, hay né tránh nhau.
Từ tháng 3-1945, chính quyền Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng, vị tiên chúa có công khai phá vùng đất Thuận Hóa. Tuy nhiên trong suốt chiều dài lịch sử đến ngày nay, người dân Huế và người Việt đều gọi theo tục danh là Trường Tiền - theo tên bến đò cũ ở điểm đầu cầu phía bắc, cạnh xưởng đúc (trường) tiền của triều đình.
Năm 1946, theo chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”, cầu bị Việt Minh đặt mìn, giật sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại. Đến năm 1953 việc tái thiết nguyên dạng mới được thực hiện hoàn chỉnh. Dân gian có câu ca:
Cầu Trường Tiền bấy nhiêu niên qua lại
Kể từ đời Thành Thái đến nay
Chạnh lòng biết hỏi ai đây
Việc chi nên nỗi dang tay đứt cầu?
Lần sập thứ ba của Trường Tiền là vào Tết Mậu Thân 1968. Để cắt đường tấn công của đối phương, quân giải phóng miền Nam cho giật sập hai vài cầu số 3 và 4. Một chiếc cầu phao tạm thời được thiết lập cho người qua sông. Hai năm sau được chính quyền đương thời cho thay thế bằng một vài cầu gỗ. Và hình ảnh cầu Trường Tiền “thương tật chiến tranh” với 12 nhịp nhưng chỉ có 5 vài đã tồn tại đến năm 1991.
Không ảnh cầu Tràng Tiền với vài số 3 và 4 bị giật sập lúc 5:30 sáng 7/2/1968
Người dân dùng thuyền chạy nạn
Một chiếc cầu phao đơn sơ ghép bằng những chiếc thuyền được dựng tạm
Ảnh của nhà báo Nhật Sawada chụp ngày 17-2-1968
Sự kiện Tết Mậu Thân để lại trong kí ức người Huế nhiều nỗi đau. Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết bài hát Chuyện một chiếc cầu đã gãy để nói lên sự việc này, với những câu :
...Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài
Vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu...
Cầu Trường Tiền năm 1991. Hai nhịp gãy vẫn chưa được xây lại
Mãi đến năm 1991 cầu được chính thức khởi công sửa chữa khôi phục.Từ năm 1991 đến 1995, công ty Công ty Cầu 1 Thăng Long lãnh trách nhiệm trùng tu, xây lại hai nhịp cầu, đổi màu cầu từ màu dụ bạc sang màu lam. Tất cả các bao lơn cũng bị phá bỏ. Trước đây mặt cầu rộng 6m20, nhưng sau khi sửa chữa xong, chỉ còn 5m40, cho nên chỉ có xe loại nhỏ mới qua lại cầu được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.