Sự ra đời của Đà Lạt (bài viết trên tuần san
Indochine xuất bản năm 1944).
ĐÀ LẠT XƯA
https://chuyenxua.net/su-ra-doi-cua-da-lat-bai-viet-tren-tuan-san-indochine-phat-hanh-nam-1944/
Ngày nay, khi mà quy hoạch thành phố Đà Lạt đã trở nên hỗn loạn, nhiều
người vẫn thường hay nhớ về thời vài chục năm trước và nuối tiếc cho một thành
phố đã từng thơ mộng và lãng mạn. Để hiểu hơn về sự ra đời của Đà Lạt, mời các
bạn đọc lại bài báo được in năm 1944, cách đây gần 80 năm, vào thời điểm Đà Lạt
được ví như là một “ngôi sao mới” ở Đông Dương.
Trước khi thời gian còn chưa kịp xóa đi những ký ức, tôi nhận thấy việc
vạch ra những nét chính về hoàn cảnh ra đời và phát triển của thành phố Đà Lạt
là một việc khá lý thú. Để có được thành quả nghiên cứu, không gì chắc chắn hơn
là hỏi chuyện người đàn ông lớn tuổi ở thành phố cao nguyên này, ông (Élie
Joseph Marie) Cunhac, người sáng lập và cũng là vị quan chức đầu tiên của thành
phố này.
Ông Cunhac rất muốn kể cho độc giả của tuần san Indochine những kỷ niệm
mà ông đã lưu giữ suốt nửa thế kỷ qua, cùng bộ sưu tập ảnh đồ sộ của ông, những
chứng vật của một thời kỳ, những bức ảnh thời nguyên sơ của điểm nghỉ mát xinh
đẹp trên cao này.
Trước tiên, tôi hỏi ông Cunhac đã
tới đây khi nào và trong trường hợp nào. Câu trả lời của ông chính là câu chuyện
về sự thành lập của Đà Lạt:
– Cao nguyên Đà Lạt được bác sĩ
Yersin phát hiện vào năm 1893 sau nhiều lần thực hiện những cuộc thăm dò trong
dãy Trường Sơn. Năm 1897, ông báo cáo những phát hiện của mình cho Toàn quyền
Paul Doumer, khi đó đang dự định thành lập ở Đông Dương một trạm nghỉ mát trên
cao cho người Châu Âu. Tháng 10 năm đó, một đoàn quân được thành lập với mục
đích tìm ra con đường dễ nhất từ Nha Trang lên cao nguyên Langbian. Đại úy pháo
binh Thouard được chỉ định làm chỉ huy trưởng, trung úy lính thủy đánh bộ Wolf
làm phó chỉ huy. Thành viên đoàn gồm có: viên đội Cunhac với nhiệm vụ làm trợ
lý đo vẽ địa hình; hạ sĩ Abriac chịu trách nhiệm về đội culi và vận chuyển;
lính thủy đánh bộ Missigbrod (người vùng Poméranie) vốn là lính lê dương và là
hầu cận của viên trung úy (Wolf), một tay rất tháo vát; cuối cùng là hai hay ba
người lính An Nam và một người dẫn đường; người dẫn đường này chính là người
lính bốn năm trước đã cùng bác sĩ Yersin lên cao nguyên.
Chuyến đi như thế nào, chắc là nhiều khó khăn lắm?
– Đoàn rời Sài Gòn, tới Nha Trang
vào cuối tháng 10-1897 và chỉ ít lâu sau liền di chuyển lên vùng phía trên của
lưu vực sông Nha Trang. Sau khoảng một tháng thám hiểm địa hình vô cùng khó
khăn và nặng nhọc ở vùng núi nơi chỉ có một vài bộ lạc sống rải rác và chưa
hàng phục, thậm chí là thù địch, đoàn tới được thung lũng Đa Nhim, thượng lưu
sông Dran, ở xóm Loupah của người Thượng. Từ đây, đoàn men theo bờ phải của
dòng sông tới Finnom (Phi Nôm), rồi vượt sông Datam (Đạ Tam) – một nhánh của
sông Đa Nhim. Đi ngược theo dòng sông này (Datam), đoàn tìm tới gờ phía nam của
cao nguyên, qua thác Prenn và cuối cùng dừng chân tại Đà Lạt, tại nơi mà nay là
nhà nghỉ Auberge Savoisienne.
Khi lên
tới cao nguyên, đoàn ở đâu?
– Sau thời gian dựng lều ở bên bờ
sông Cam Ly, đoàn chuyển tới Dankia ở tạm, đây cũng là trung tâm làm việc và tiếp
tế. Hơn nữa, nơi này còn có một làng Thượng khá lớn trong khi các vùng xung
quanh đều hoang vắng. Về phía Maline cũng chỉ có hai hay ba xóm của người Lát
là hết. Trên đó rất nghèo, chính vì thế hầu như không có người ở. Ở Dankia,
chúng tôi có lợi thế là ở ngay khu vực trung tâm, vừa dựng được bản đồ vừa dễ
dàng đổi đồ vật lấy thực phẩm. Chúng tôi để anh lính Missigbrod ở lại Dankia rồi
xuống khỏi cao nguyên di chuyển một chút về phía biển. Anh này ở lại ngay lập tức
đã bắt tay vào việc làm một vườn rau và chăn nuôi nhằm cung cấp thực phẩm cho cả
đoàn. Đó chính là khởi đầu khiêm tốn của “Trại Dankia” sau này.
Sau mười một tháng làm việc, đoàn
trở về Sài Gòn vào tháng 9 năm 1898.
Khi đó bắt đầu xây dựng Đà Lạt à?
– Chưa! Sau khi tìm ra vị trí, toàn quyền Doumer tiếp tục cử một đoàn
quân khác lên đường (1898-1899). Dưới sự chỉ huy của đại úy kỵ binh Guynet,
đoàn có nhiệm vụ là vạch ra một con đường cụ thể lên cao nguyên. Trước tiên, đoàn
phải làm một con đường không trải đá nhưng xe có thể đi được nối từ Phan Rang
đi lên phía bắc tới chân dãy Trường Sơn, sau đó, làm tiếp một con đường có độ dốc
trung bình 8% mà lừa có thể đi được, nối lên tới cao nguyên Lang Bian.
Là một thành viên của đoàn, đầu
tiên tôi đảm nhiệm vị trí thư ký đặc biệt cho viên đại úy, sau đó tôi được trao
luôn nhiệm vụ nghiên cứu và xây dựng con đường như dự kiến.
Điểm xuất phát của con đường là ở
Xóm Gòn, cạnh bờ sông Phan Rang và dưới chân dãy Trường Sơn, nối tới điểm kế tiếp
là Đá Bàn (Daban) trên đèo Krongpha [Đèo Sông Pha hay Đèo Ngoạn Mục ngày nay],
rồi từ Đá Bàn khởi đầu cho con đường leo lên cao nguyên. Để vượt sông Phan
Rang, người ta làm một cây cầu nhỏ hai nhịp, loại tháo lắp được của công binh,
đặt trên các giá đỡ. Cây cầu khi đó được đặt gần về phía thượng lưu của dòng
sông so với vị trí của cây cầu đường sắt hiện nay. Con đường mòn lên cao nguyên
được mở đi qua Dran và Arbre – Broyé [Cầu Đất].
Đoàn quân của đại úy Guynet hoàn
thành nhiệm vụ vào thàng 10-1899 (?) Lúc đó Đà Lạt trông như thế nào? – Vẻ
nguyên thủy của Đà Lạt hầu như chỉ bị thay đổi trong những năm gần đây. Tại khu
vực hồ trung tâm [hồ Xuân Hương ngày nay] có một con suối nhỏ nằm trong khu vực
của bộ lạc Lat được gọi là Da – Lat, sau vì một lý do nào đó người ta đổi tên
nó thành Cam Ly (tên theo tiếng An Nam).
Và ông Cunhac cho tôi xem một bức ảnh có một chiếc cầu nhỏ bắc ngang qua
một con suối ngay vị trí nó mở rộng ra thành một cái hồ. Sau nhiều lần san lấp
suối và đắp đường để băng qua suối, người ta xây một con đập chặn suối Cam Ly
ngay phía trước cái ki-ốt ở chân đồi golf. Nhìn vào bức ảnh có thể thấy bên phải
là đồi, bên trái là tòa công sứ, phía xa là hai đỉnh núi Lang Bian.
Ngày nay, có thể biết được nền
hành chính Đà Lạt được khởi đầu như thế nào là một điều khá lý thú, vì trong một
thời gian dài, Đà Lạt chỉ là một thành phố triển vọng. Cho tới tận đầu thế kỷ
[XX] Đà Lạt vẫn chỉ được xem là một nơi có triển vọng phát đạt trong tương lai,
nhưng liệu tất cả chỉ có thế?
Ông Cunhac nói tiếp:
– Sau chuyến công tác của đoàn Gyunet, người ta thành lập tỉnh Đồng Nai
Thượng (Province du moi du Haut – Donnai) vào năm 1899 với tỉnh lỵ Djiring; Công
sứ là ông Ernest Outrey. Công việc chủ yếu của ông công sứ là tuyển nhân công phục
vụ cho các đoàn nghiên cứu rải rác từ Biên Hòa qua Tánh Linh tới Djiring. Nhiệm
vụ của các đoàn nghiên cứu này là thám sát và nghiên cứu để dựng lên một con đường
sắt nối vùng ven biển với cao nguyên.
Ngoài Đồng Nai Thượng, Đà Lạt
cũng đồng thời nằm dưới quyền quản lý của ông Outrey. Năm 1900, ông cho xây dựng
ở Đà Lạt một ngôi nhà sàn bằng gỗ lợp tôn tại vị trí nay là Tòa Đốc lý.
Năm 1901, tỉnh Đồng Nai Thượng bị
bãi bỏ, Djiring chỉ còn là một đại lý trực thuộc tỉnh Phan Thiết, trong khi Đà Lạt
là đại lý trực thuộc tỉnh Phan Rang.
Tôi là trưởng đại lý đầu tiên của
Đà Lạt; người kế nhiệm tôi là ông Canivey. Sau khi rời Đà Lạt, tôi chuyển đến
Djring làm trưởng đại lý từ năm 1903 đến năm 1915.
Đà Lạt
không còn là đại lý từ khi nào?
– Khoảng tháng 2 – tháng 3 năm
1916 tỉnh Lang Bian được thành lập, với tỉnh lỵ là Đà Lạt. Tôi đồng thời được
điều về làm công sứ cho tỉnh mới. Nhưng năm 1920, Đà Lạt lại trở thành một hạt
tự trị được giao cho ông [Léon] Garnier làm Tổng ủy viên của Phủ Toàn Quyền.
Tuy vậy, tôi vẫn ở lại làm công sứ tỉnh và kiêm nhiệm thêm chức Ủy viên phí cho
ông Garnier.
Lúc đó tòa nhà hành chính đặt ở
đâu?
– Tòa nhà hành chính là một cái nhà gỗ có lầu kiểu nhà ở miền núi Thụy
Sĩ. Tôi ở trên lầu còn các văn phòng làm việc thì ở phía dưới.
Còn nguồn gốc tòa nhà hành chính hiện nay như thế nào?
– Đó là một cái chòị(LE PAVILLON do thành phố Sài Gòn làm, trên mái hiện nay ta vẫn
còn thấy một chữ S to cải bằng ngói đỏ để chỉ Sài Gòn. Ngôi nhà này đã được
thành phố Đà Lạt mua lại.
Thế còn những ngôi nhà khác?
– Có một cái nhà dã ngoại (Sala)
cho những người đi săn ở xa hẹn nhau tới tụ tập.
Rồi ông cho tôi xem một bức ảnh khác, nhìn vào đó có thể thấy rõ phía
trước ngôi nhà là tiền thân của khách sạn Desanti (nay là khách sạn Lac) là một
dãy hươu bị bắn hạ nằm trên hàng hiên của khách sạn đầu tiên của Đà Lạt.
Ông tiếp:
– Ngoài ra còn có những ngôi nhà khác nữa mà hiện nay vẫn còn như ngôi
nhà nhỏ một tầng nằm trước khách sạn Lac (trên miếng đất chìa ra của sân vận động);
từ đèo Prenn đi vào Đà Lạt, ngôi nhà đầu tiên phía bên trái và ngôi nhà đầu
tiên phía bên phải là hai ngôi nhà được xây dựng vào thời điểm bùng nổ của Đà Lạt.
Về phía người An Nam, họ cũng tới Đà Lạt gần như cùng lúc với người Pháp, họ ở
trên đồi phía tây nhìn xuống chợ.
Thế còn Hồ Lac (hồ Xuân Hương), một vòng hoa điểm trang rất đẹp của Đà
Lạt, được xây dựng từ khi nào bởi ai?
– Hồ được hình thành trong thời gian gần đây. Lần đầu tiên hồ được xây dựng
là từ đề xuất của tôi vào khoảng năm 1919, người thực hiện là ông Labbé, kỹ sư
Sở Công Chính. Từ năm 1921 – 1922, những chỗ san lấp cũ để làm nền đường được
nâng cao thêm theo lệnh của Công sứ Garnier. Sau đó một năm [1923], người ta tiếp
tục xây dựng con đê thứ hai phía dưới hạ lưu con đê thứ nhất để tạo thành hai hồ.
Hai con đê này đã bị áp lực nước lớn phá vỡ trong một cơn bão vào tháng
5 – 1932. Người ta liền làm hai con đê khác theo thông số cũ. Con đê hiện nay
là đê mới bằng đá được xây dựng vào khoảng năm 1934 – 1935, chúng nằm lùi về
phía hạ lưu một chút so với những con đê trước.
1933
Thời điểm Đà Lạt bắt đầu có du khách tới thì họ
đi tới bằng đường nào?
– Họ đi bằng đường từ Phan Thiết
và Djiring. Trong 12 năm ở Djiring, với sự giúp đỡ của ông Garnier, khi đó là
công sứ Phan Thiết, tôi đã nghiên cứu việc xây dựng một con đường không trải đá
dành cho ô tô đi lên cao nguyên. Con đường này bắt đầu từ Gian-mau, cách Phan
Thiết 19km, nối tới Djiring từ năm 1914; đoạn Djiring – Đà Lạt thì được xây dựng
và hoàn thành trong khoảng từ 1914 – 1915.
Lúc đó người ta vượt qua sông Đa Nhim như thế nào?
– Ban đầu thì dùng những chiếc thuyền độc mộc của người Thượng. Sau đó
tôi cho làm những chiếc lớn như kiểu phà, bên dưới là những chiếc thuyền độc mộc
ghép lại, còn bên trên phủ ván gỗ. Dây cáp kéo phà ban đầu được làm bằng những
sợi mây, sau đó bằng da trâu, cuối cùng được thay bằng cáp kim loại. Một thời
gian sau, tôi lại thử làm một cây cầu vượt sông bằng cách ghép các thuyền độc mộc
lại với nhau. Cuối cùng vào năm 1915, tôi dựng một cây cầu bằng gỗ. Cây cầu được
làm bằng gỗ dầu, dài khoảng 100m, cách mặt nước trung bình khoảng 6m và có thể
chịu được tải trọng 10 tấn. Do không có kinh phí nên tôi không thể mua được
đinh để đóng cầu, đành phải ráp các thanh cầu với nhau bằng những chốt gỗ cứng,
dù vậy vẫn rất hữu dụng.
Nhớ lại những công trình đầu tiên
của mình, ông đồng thời nhắc tới cây cầu hiện nay do công ty Levallois – Perret
thực hiện. Rất thật lòng, ông so sánh cây cầu đầu tiên bằng thuyền thô sơ của
mình với những công trình lớn hiện đại ngày nay, những thứ có thể chống trọi với
sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Đó là một tiến trình tất yếu, nhưng cần phải có
ai đó đi trước xẻ đường để những người đi sau qua được dễ dàng hơn.
Đà Lạt ngày nay có rất nhiều những
dinh thự, khách sạn và biệt thự xinh đẹp, tựa như một góc nhỏ của nước Pháp, mọc
lên giữa vùng đất mà một thời từng bị cô lập và thù địch. Để có được những
thành quả này, chúng ta cần tri ân ba người: bác sĩ Yersin, người phát hiện ra
cao nguyên; Toàn quyền Paul Doumer, người quyết định xây dựng điểm nghỉ mát
trên cao nguyên; và ông Cunhac; người đầu tiên thực hiện dự án.
Tác giả: A. Baurit – Tuần san Indochine Số 180,
Ra ngày 10/2/1944
Người dịch: Đông Kha
https://chuyenxua.net/su-ra-doi-cua-da-lat-bai-viet-tren-tuan-san-indochine-phat-hanh-nam-1944/
Sự
ra đời của Đà Lạt (bài viết trên tuần san Indochine xuất bản năm 1944)
ĐÀ LẠT XƯA
https://chuyenxua.net/su-ra-doi-cua-da-lat-bai-viet-tren-tuan-san-indochine-phat-hanh-nam-1944/
Ngày nay, khi mà quy
hoạch thành phố Đà Lạt đã trở nên hỗn loạn, nhiều người vẫn thường hay nhớ về
thời vài chục năm trước và nuối tiếc cho một thành phố đã từng thơ mộng và lãng
mạn. Để hiểu hơn về sự ra đời của Đà Lạt, mời các bạn đọc lại bài báo được in
năm 1944, cách đây gần 80 năm, vào thời điểm Đà Lạt được ví như là một “ngôi
sao mới” ở Đông Dương.
Trước khi thời gian
còn chưa kịp xóa đi những ký ức, tôi nhận thấy việc vạch ra những nét chính về
hoàn cảnh ra đời và phát triển của thành phố Đà Lạt là một việc khá lý thú. Để
có được thành quả nghiên cứu, không gì chắc chắn hơn là hỏi chuyện người đàn
ông lớn tuổi ở thành phố cao nguyên này, ông (Élie Joseph Marie) Cunhac, người
sáng lập và cũng là vị quan chức đầu tiên của thành phố này.
Ông Cunhac rất muốn kể
cho độc giả của tuần san Indochine những kỷ niệm mà ông đã lưu giữ suốt nửa thế
kỷ qua, cùng bộ sưu tập ảnh đồ sộ của ông, những chứng vật của một thời kỳ, những
bức ảnh thời nguyên sơ của điểm nghỉ mát xinh đẹp trên cao này.
Trước tiên, tôi
hỏi ông Cunhac đã tới đây khi nào và trong trường hợp nào. Câu trả lời của ông
chính là câu chuyện về sự thành lập của Đà Lạt:
– Cao nguyên Đà
Lạt được bác sĩ Yersin phát hiện vào năm 1893 sau nhiều lần thực hiện những cuộc
thăm dò trong dãy Trường Sơn. Năm 1897, ông báo cáo những phát hiện của mình
cho Toàn quyền Paul Doumer, khi đó đang dự định thành lập ở Đông Dương một trạm
nghỉ mát trên cao cho người Châu Âu. Tháng 10 năm đó, một đoàn quân được thành
lập với mục đích tìm ra con đường dễ nhất từ Nha Trang lên cao nguyên Langbian.
Đại úy pháo binh Thouard được chỉ định làm chỉ huy trưởng, trung úy lính thủy
đánh bộ Wolf làm phó chỉ huy. Thành viên đoàn gồm có: viên đội Cunhac với nhiệm
vụ làm trợ lý đo vẽ địa hình; hạ sĩ Abriac chịu trách nhiệm về đội culi và vận
chuyển; lính thủy đánh bộ Missigbrod (người vùng Poméranie) vốn là lính lê
dương và là hầu cận của viên trung úy (Wolf), một tay rất tháo vát; cuối cùng
là hai hay ba người lính An Nam và một người dẫn đường; người dẫn đường này
chính là người lính bốn năm trước đã cùng bác sĩ Yersin lên cao nguyên.
Chuyến đi như
thế nào, chắc là nhiều khó khăn lắm?
– Đoàn rời Sài
Gòn, tới Nha Trang vào cuối tháng 10-1897 và chỉ ít lâu sau liền di chuyển lên
vùng phía trên của lưu vực sông Nha Trang. Sau khoảng một tháng thám hiểm địa
hình vô cùng khó khăn và nặng nhọc ở vùng núi nơi chỉ có một vài bộ lạc sống rải
rác và chưa hàng phục, thậm chí là thù địch, đoàn tới được thung lũng Đa Nhim,
thượng lưu sông Dran, ở xóm Loupah của người Thượng. Từ đây, đoàn men theo bờ
phải của dòng sông tới Finnom (Phi Nôm), rồi vượt sông Datam (Đạ Tam) – một
nhánh của sông Đa Nhim. Đi ngược theo dòng sông này (Datam), đoàn tìm tới gờ
phía nam của cao nguyên, qua thác Prenn và cuối cùng dừng chân tại Đà Lạt, tại
nơi mà nay là nhà nghỉ Auberge Savoisienne.
Khi lên tới cao
nguyên, đoàn ở đâu?
– Sau thời gian
dựng lều ở bên bờ sông Cam Ly, đoàn chuyển tới Dankia ở tạm, đây cũng là trung
tâm làm việc và tiếp tế. Hơn nữa, nơi này còn có một làng Thượng khá lớn trong
khi các vùng xung quanh đều hoang vắng. Về phía Maline cũng chỉ có hai hay ba
xóm của người Lát là hết. Trên đó rất nghèo, chính vì thế hầu như không có người
ở. Ở Dankia, chúng tôi có lợi thế là ở ngay khu vực trung tâm, vừa dựng được bản
đồ vừa dễ dàng đổi đồ vật lấy thực phẩm. Chúng tôi để anh lính Missigbrod ở lại
Dankia rồi xuống khỏi cao nguyên di chuyển một chút về phía biển. Anh này ở lại
ngay lập tức đã bắt tay vào việc làm một vườn rau và chăn nuôi nhằm cung cấp thực
phẩm cho cả đoàn. Đó chính là khởi đầu khiêm tốn của “Trại Dankia” sau này.
Sau mười một
tháng làm việc, đoàn trở về Sài Gòn vào tháng 9 năm 1898.
Khi đó bắt đầu xây dựng
Đà Lạt à?
– Chưa! Sau khi tìm
ra vị trí, toàn quyền Doumer tiếp tục cử một đoàn quân khác lên đường
(1898-1899). Dưới sự chỉ huy của đại úy kỵ binh Guynet, đoàn có nhiệm vụ là vạch
ra một con đường cụ thể lên cao nguyên. Trước tiên, đoàn phải làm một con đường
không trải đá nhưng xe có thể đi được nối từ Phan Rang đi lên phía bắc tới chân
dãy Trường Sơn, sau đó, làm tiếp một con đường có độ dốc trung bình 8% mà lừa
có thể đi được, nối lên tới cao nguyên Lang Bian.
Là một thành
viên của đoàn, đầu tiên tôi đảm nhiệm vị trí thư ký đặc biệt cho viên đại úy,
sau đó tôi được trao luôn nhiệm vụ nghiên cứu và xây dựng con đường như dự kiến.
Điểm xuất phát
của con đường là ở Xóm Gòn, cạnh bờ sông Phan Rang và dưới chân dãy Trường Sơn,
nối tới điểm kế tiếp là Đá Bàn (Daban) trên đèo Krongpha [Đèo Sông Pha hay Đèo
Ngoạn Mục ngày nay], rồi từ Đá Bàn khởi đầu cho con đường leo lên cao nguyên. Để
vượt sông Phan Rang, người ta làm một cây cầu nhỏ hai nhịp, loại tháo lắp được
của công binh, đặt trên các giá đỡ. Cây cầu khi đó được đặt gần về phía thượng
lưu của dòng sông so với vị trí của cây cầu đường sắt hiện nay. Con đường mòn
lên cao nguyên được mở đi qua Dran và Arbre – Broyé [Cầu Đất].
Đoàn quân của đại
úy Guynet hoàn thành nhiệm vụ vào thàng 10-1899 (?) Lúc đó Đà Lạt trông như thế
nào? – Vẻ nguyên thủy của Đà Lạt hầu như chỉ bị thay đổi trong những năm gần
đây. Tại khu vực hồ trung tâm [hồ Xuân Hương ngày nay] có một con suối nhỏ nằm
trong khu vực của bộ lạc Lat được gọi là Da – Lat, sau vì một lý do nào đó người
ta đổi tên nó thành Cam Ly (tên theo tiếng An Nam).
Và ông Cunhac cho tôi
xem một bức ảnh có một chiếc cầu nhỏ bắc ngang qua một con suối ngay vị trí nó
mở rộng ra thành một cái hồ. Sau nhiều lần san lấp suối và đắp đường để băng
qua suối, người ta xây một con đập chặn suối Cam Ly ngay phía trước cái ki-ốt ở
chân đồi golf. Nhìn vào bức ảnh có thể thấy bên phải là đồi, bên trái là tòa
công sứ, phía xa là hai đỉnh núi Lang Bian.
Ngày nay, có thể
biết được nền hành chính Đà Lạt được khởi đầu như thế nào là một điều khá lý
thú, vì trong một thời gian dài, Đà Lạt chỉ là một thành phố triển vọng. Cho tới
tận đầu thế kỷ [XX] Đà Lạt vẫn chỉ được xem là một nơi có triển vọng phát đạt
trong tương lai, nhưng liệu tất cả chỉ có thế?
Ông Cunhac nói
tiếp:
– Sau chuyến công tác
của đoàn Gyunet, người ta thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng (Province du moi du
Haut – Donnai) vào năm 1899 với tỉnh lỵ Djiring; Công sứ là ông Ernest Outrey.
Công việc chủ yếu của ông công sứ là tuyển nhân công phục vụ cho các đoàn
nghiên cứu rải rác từ Biên Hòa qua Tánh Linh tới Djiring. Nhiệm vụ của các đoàn
nghiên cứu này là thám sát và nghiên cứu để dựng lên một con đường sắt nối vùng
ven biển với cao nguyên.
Ngoài Đồng Nai
Thượng, Đà Lạt cũng đồng thời nằm dưới quyền quản lý của ông Outrey. Năm 1900,
ông cho xây dựng ở Đà Lạt một ngôi nhà sàn bằng gỗ lợp tôn tại vị trí nay là
Tòa Đốc lý.
Năm 1901, tỉnh
Đồng Nai Thượng bị bãi bỏ, Djiring chỉ còn là một đại lý trực thuộc tỉnh Phan
Thiết, trong khi Đà Lạt là đại lý trực thuộc tỉnh Phan Rang.
Tôi là trưởng đại
lý đầu tiên của Đà Lạt; người kế nhiệm tôi là ông Canivey. Sau khi rời Đà Lạt,
tôi chuyển đến Djring làm trưởng đại lý từ năm 1903 đến năm 1915.
Đà Lạt không
còn là đại lý từ khi nào?
– Khoảng tháng
2 – tháng 3 năm 1916 tỉnh Lang Bian được thành lập, với tỉnh lỵ là Đà Lạt. Tôi
đồng thời được điều về làm công sứ cho tỉnh mới. Nhưng năm 1920, Đà Lạt lại trở
thành một hạt tự trị được giao cho ông [Léon] Garnier làm Tổng ủy viên của Phủ
Toàn Quyền. Tuy vậy, tôi vẫn ở lại làm công sứ tỉnh và kiêm nhiệm thêm chức Ủy
viên phí cho ông Garnier.
Lúc đó tòa nhà
hành chính đặt ở đâu?
– Tòa nhà hành chính
là một cái nhà gỗ có lầu kiểu nhà ở miền núi Thụy Sĩ. Tôi ở trên lầu còn các
văn phòng làm việc thì ở phía dưới.
Còn nguồn gốc
tòa nhà hành chính hiện nay như thế nào?
– Đó là một cái chòi
do thành phố Sài Gòn làm, trên mái hiện nay ta vẫn còn thấy một chữ S to cải bằng
ngói đỏ để chỉ Sài Gòn. Ngôi nhà này đã được thành phố Đà Lạt mua lại.
Thế còn những
ngôi nhà khác?
– Có một cái
nhà dã ngoại (Sala) cho những người đi săn ở xa hẹn nhau tới tụ tập.
Rồi ông cho tôi xem một
bức ảnh khác, nhìn vào đó có thể thấy rõ phía trước ngôi nhà là tiền thân của
khách sạn Desanti (nay là khách sạn Lac) là một dãy hươu bị bắn hạ nằm trên
hàng hiên của khách sạn đầu tiên của Đà Lạt.
Ông tiếp:
– Ngoài ra còn có những
ngôi nhà khác nữa mà hiện nay vẫn còn như ngôi nhà nhỏ một tầng nằm trước khách
sạn Lac (trên miếng đất chìa ra của sân vận động); từ đèo Prenn đi vào Đà Lạt,
ngôi nhà đầu tiên phía bên trái và ngôi nhà đầu tiên phía bên phải là hai ngôi
nhà được xây dựng vào thời điểm bùng nổ của Đà Lạt. Về phía người An Nam, họ
cũng tới Đà Lạt gần như cùng lúc với người Pháp, họ ở trên đồi phía tây nhìn xuống
chợ.
Thế còn Hồ Lac
(hồ Xuân Hương), một vòng hoa điểm trang rất đẹp của Đà Lạt, được xây dựng từ
khi nào bởi ai?
– Hồ được hình thành
trong thời gian gần đây. Lần đầu tiên hồ được xây dựng là từ đề xuất của tôi
vào khoảng năm 1919, người thực hiện là ông Labbé, kỹ sư Sở Công Chính. Từ năm
1921 – 1922, những chỗ san lấp cũ để làm nền đường được nâng cao thêm theo lệnh
của Công sứ Garnier. Sau đó một năm [1923], người ta tiếp tục xây dựng con đê
thứ hai phía dưới hạ lưu con đê thứ nhất để tạo thành hai hồ.
Hai con đê này
đã bị áp lực nước lớn phá vỡ trong một cơn bão vào tháng 5 – 1932. Người ta liền
làm hai con đê khác theo thông số cũ. Con đê hiện nay là đê mới bằng đá được
xây dựng vào khoảng năm 1934 – 1935, chúng nằm lùi về phía hạ lưu một chút so với
những con đê trước.
Thời điểm Đà Lạt bắt
đầu có du khách tới thì họ đi tới bằng đường nào?
– Họ đi bằng đường
từ Phan Thiết và Djiring. Trong 12 năm ở Djiring, với sự giúp đỡ của ông
Garnier, khi đó là công sứ Phan Thiết, tôi đã nghiên cứu việc xây dựng một con
đường không trải đá dành cho ô tô đi lên cao nguyên. Con đường này bắt đầu từ
Gian-mau, cách Phan Thiết 19km, nối tới Djiring từ năm 1914; đoạn Djiring – Đà
Lạt thì được xây dựng và hoàn thành trong khoảng từ 1914 – 1915.
Lúc đó người ta
vượt qua sông Đa Nhim như thế nào?
– Ban đầu thì dùng những
chiếc thuyền độc mộc của người Thượng. Sau đó tôi cho làm những chiếc lớn như
kiểu phà, bên dưới là những chiếc thuyền độc mộc ghép lại, còn bên trên phủ ván
gỗ. Dây cáp kéo phà ban đầu được làm bằng những sợi mây, sau đó bằng da trâu,
cuối cùng được thay bằng cáp kim loại. Một thời gian sau, tôi lại thử làm một
cây cầu vượt sông bằng cách ghép các thuyền độc mộc lại với nhau. Cuối cùng vào
năm 1915, tôi dựng một cây cầu bằng gỗ. Cây cầu được làm bằng gỗ dầu, dài khoảng
100m, cách mặt nước trung bình khoảng 6m và có thể chịu được tải trọng 10 tấn.
Do không có kinh phí nên tôi không thể mua được đinh để đóng cầu, đành phải ráp
các thanh cầu với nhau bằng những chốt gỗ cứng, dù vậy vẫn rất hữu dụng.
Nhớ lại những
công trình đầu tiên của mình, ông đồng thời nhắc tới cây cầu hiện nay do công
ty Levallois – Perret thực hiện. Rất thật lòng, ông so sánh cây cầu đầu tiên bằng
thuyền thô sơ của mình với những công trình lớn hiện đại ngày nay, những thứ có
thể chống trọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Đó là một tiến trình tất yếu,
nhưng cần phải có ai đó đi trước xẻ đường để những người đi sau qua được dễ
dàng hơn.
Đà Lạt ngày nay
có rất nhiều những dinh thự, khách sạn và biệt thự xinh đẹp, tựa như một góc nhỏ
của nước Pháp, mọc lên giữa vùng đất mà một thời từng bị cô lập và thù địch. Để
có được những thành quả này, chúng ta cần tri ân ba người: bác sĩ Yersin, người
phát hiện ra cao nguyên; Toàn quyền Paul Doumer, người quyết định xây dựng điểm
nghỉ mát trên cao nguyên; và ông Cunhac; người đầu tiên thực hiện dự án.
Tác giả: A. Baurit –
Tuần san Indochine Số 180, Ra ngày 10/2/1944
Người dịch: Đông Kha
https://chuyenxua.net/su-ra-doi-cua-da-lat-bai-viet-tren-tuan-san-indochine-phat-hanh-nam-1944/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.