Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

KIẾN TRÚC PHÁP-ĐÔNG DƯƠNG


Category: KIẾN TRÚC, Tag:
08/29/2012 07:34 pm

Phong cách kiến trúc Đông Dương - những tìm tòi đầu tiên theo hướng hiện đại và dân tộc

Sau khi ổn định tương đối chế độ thực dân của mình ở Việt Nam, từ năm 1887 người Pháp bắt đầu tiến hành chương trình khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất. Đây cũng là thời gian mà nhiều đô thị lớn nước ta bắt đầu được mở rộng và qui hoạch lạitheo những nguyên tắc và quan niệm về đô thị thịnh hành ở Pháp lúc bấy giờ.
Các công trình kiến trúc chủ đạo được xây dựng ở Hà Nội, Hải Phòng hay Sài Gòn đều mang tinh thần của chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỷ 19. Có lẽ vì vậy mà nhiều người nhận xét Hà Nội giống như một Paris thu nhỏ. Có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu theo xu hướng này, ở Hà Nội như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống sứ, Toà án Hà Nội, Viện Radium, Nhà hát lớn... ở Sài Gòn có toà Đốc lý, Nhà hát lớn, Toà Pháp đình...

Bản thiết kế mặt tiền công trình Đại học Đông Dương
Từ sau thập kỉ 20, chương trình khai thác thuộc địa Đông Phương lần thứ hai bắt đầu và cũng được tiến hành ồ ạt hơn ở giai đoạn trước nhiều. Phong cách kiến túc cổ điển Pháp mất dần vị trí độc tôn: Một mặt là sự xâm nhập của trào lưu kiến trúc hiện đại Pháp vào Việt Nam, mặt khác là sự xuất hiện của những xu hướng tìm tòi, kết hợp khai thác kiến trúc truyền thống Việt Nam. Sự hình thành một phong cách mới, kết hợp thành tựu công nghệ và văn hoá Pháp với truyền thống văn hoá và kiến trúc bản địa là xu hướng tất yếu. Bản thân giới trí thức Pháp ở thuộc địa cũng thấy được sự áp đặt những giá trị văn hoá từ chính quốc vào một đất nước cũng vốn có truyền thống văn hoá lâu đờilà không thể chấp nhận được. Hơn nữa, sau một thời gian khai thác các công trình mang phong cách thuần tuý châu Âu cho thấy nó hoàn toàn không phù hợp về mặt khí hậu cũng như tập quán sinh hoạt, truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan Việt Nam.
Từ giữa thập kỷ 20, một loạt công trình kiến trúc theo phong cách kết hợp được khởi công xây dựng. Kiến trúc sư hàng đầu của phong cách kiến trúc này – sau này được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương là Ernest Hébrard, một kiến trúc sư người Pháp khá nổi tiếng lúc bấy giờ. Ông đã làm việc nhiều năm ở Đông Dương, say mê văn hoá truyền thống bản địa, tác giả của các phương án qui hoạch Hà Nội và Đà Lạt.
Tác phẩm đầu tiên theo phong cách kiến trúc Đông Dương do Hébrard thiết kế là toà nhà chính Đại học Đông Dương (1923 – 1925). Toạ lạc ở một vị trí khá đẹp đầu đường Lý Thường Kiệt (Hà Nội), xế phía trước lại có một vườn hoa nhỏ, công trình đã tạo ra một điểm nhấn đô thị mặc dù qui mô không lớn (Ảnh 1).

Ảnh 1: Đại học Đông Dương (Ảnh chụp đầu thế kỷ 20)
Được thiết kế từ bên Pháp, khi mang sang thi công ở Việt Nam có một số thay đổi nhỏ nên công trình vẫn mang nhiều nét kinh viện châu Âu. Cấu trúc không gian đói xứng hoàn toàn, mặt bằng đơn giản theo phong cách chính thống, nhấn mạnh khối sảnh và cầu thang trung tâm, hai bên là giảng đường và thư viện bố trí trên hai tầng. Tác giả đã đưa vào công trình khá nhiều lớp mái kiểu Á Đông kể cả lớp mái giả ở khối trung tâm, cửa sổ các phòng được che bởi những ô văng chéo gắn ngói ta. Toà nhà còn được trang trí bởi rất nhiều chi tiết trang trí kiểu con triện cùng hình thức trồng rường giả gỗ.
Đây là thể nghiệm đầu tiên của Hébrard theo phong cách Đông Dương nên theo chúng tôi, tác giả chưa mấy thành công trong việc kết hợp nhuần nhuyễn những bộ mái, những chi tiết kiến trúc truyền thống bản địa vào một công trình mang đậm dấu ấn cổ điển kinh viện kiểu châu Âu.
Năm 1925, một công trình nữa theo phong cách kiến trúc Đông Dương được khởi công, đó là Sở Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao - Ảnh 2). Nằm trong bối cảnh trung tâm hành chính - chính trị Đông Dương theo phương án qui hoạch của Hébrard; toà nhà là điểm kết thúc trục đường Chu Văn An, đồng thời nằm giữa trục tam giác cân tạo bởi các đường Điện Biên Phủ, Tôn Thất Đạm, Bắc Sơn; đây là công trình duy nhất của Hébrard được xây dựng theo qui hoạch này.

Ảnh 2: Trụ sở Bộ Ngoại giao (trước đây là Sở Tài chính Đông Dương)
Toà nhà có mặt bằng đăng đối, hình chữ I, phía quay ra phố Chu Văn An là khối nhà làm việc, hành lang giữa, phía đường Bắc Sơn là khối lưu trữ kiểu xuyên phòng, giữa chúng là không gian sảnh  và cầu thang. Mặc dù về mặt tổ chức không gian chức năng hoàn toàn theo phong cách kinh điển của các toà nhà hành chính Pháp lúc bấy giờ, nhưng về mặt xử lý kiến trúc, tác giả đã khéo léo kết hợp với các hình thức kiến trúc phương Đông tạo ra những nét bay bổng, hài hoà với cảnh quan. Đáng chú ý nhất ở đây là cấu tạo bộ mái ngói với rất nhiều lớp mái lớn nhỏ cùng những ô văng dốc trên các cửa sổ. Hệ mái của công trình thực sự có ý nghĩa và che nắng chống chói và chống mưa hắt. Các lỗ thông hơi tổ chức trên sàn và sát trần bảo đảm thoát nhiệt tốt. Các chi tiết kiến trúc bản địa được xử lý nhuần nhuyễn, không còn đơn giản là một sự sao chép sống sượng.
Công trình là một thành công lớn của Hébrard trong ý đồ tạo ra một hình loại kiến trúc kết hợp, phù hợp với khí hậu nhiệt đới và cảnh quan khu vực. Tuy vậy, do hệ mái đã được tổ chức khá nhiều lớp, các ô văng dốc trên cửa lại bị chia cắt nên mặt đứng công trình còn khá rườm rà tạo ra ấn tượng nệ cổ.
Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử - ảnh 3) xây dựng trong những năm 1928-1932 cũng do kiến trúc sư Hébrand thiết kế là một thành công đầy ấn tượng của phong cách kiến trúc Đông Dương. Mặt bằng bảo tàng được kiến tạo theo yêu cầu của không gian kiến trúc trưng bày nên chỉ gồm hai thành phần chính: Không gian sảnh hình bát giác và một phòng trưng bày lớn, tổ chức theo hình thức xuyên phòng có sự chuyển tiếp được tổ chức khéo léo. Bên cạnh đó còn có một số không gian phù trợ tạo thành một tổng thể trưng bày khoáng đạt. Hệ thống mái chồng mái được tác giả sử dụng, đặc biệt trên khối sảnh bát giác và ở các không gian phù trợ khác cũng là yếu tố chủ đạo của hình thức kết hợp ở công trình này. Các cửa thông gió và lấy sáng được đặc biệt lưu ý, kết hợp với nhiều chi tiết kiến trúc Á Đông được xử lý khéo léo. Hệ thống cây xanh được kéo từ vườn hoa phía trước vào sâu trong sân Bảo tàng làm cho công trình dường như mọc lên từ khối cây xanh nhiệt đới. Là một công trình văn hoá thuộc loại lớn lúc bấy giờ, khu sảnh bát giác mang nhiều tính hình thức của chú nghĩa biểu hiện là điều dễ thông cảm và tạo ra được ấn tượng tốt.

Ảnh 3: Bảo tàng Lịch sử (trước đây là Bảo tàng Louis Finot) 
Nhà thờ Cửa Bắc (1925-1930) được xây dựng trên khoảnh đất không mấy rộng rãi ở góc phố Phan Đình Phùng và Nguyễn Biểu (Hà Nội). Khu đất trải dài theo phố Phan Đình Phùng, mà nguyên tắc xây dựng mặt bằng nhà thờ công giáo truyền thống phải theo hình chữ thập nên mặt chính công trình lại quay ra phố Nguyễn Biểu là phố tương đối nhỏ, không tạo được tầm nhìn rộng.
Mặt bằng nhà thờ chỉ gồm một không gian lớn hình chữ nhật kéo dài với hai hàng cột song song theo hai phía, được chia tương đối thành một không gian đón tiếp nhỏ, không dành cho các con chiên nghe giảng và kết thúc bởi không gian long trọng dành cho cha xứ hành lễ. Giữa hai khu vực này có một không gian chuyển tiếp lớn phía dưới mái vòm, bên phải có một không gian cánh là nơi thờ các thánh, bên trái là phòng tiếp khách của cha xứ. Không gian nội thất được cấu tạo và trang trí hoàn toàn theo kiểu nhà thờ châu Âu.
Thành công lớn nhất của Hébrard ở đây là ông đã tạo ra một không gian kiến trúc phi đối xứng với một tháp chuông vút cao phía bên sảnh chính. Điều này làm cho nhà thờ Cửa Bắc có được nét đặc biệt so với đa phần các công trình Thiên Chúa giáo theo hình thức đăng đối nghiêm cẩn mà người Pháp đã xây dựng ở Việt Nam. Có tác giả đã cho rằng đây là sáng tạo đặc biệt của Hébrard nhằm tạo sự phù hợp với cảnh quan khu vực, nhưng thực chất điều này chỉ là sự khai thác một cách khéo léo nguyên tắc tổ hợp nhà thờ thời Phục Hưng, chính nhờ vậy mà nhà thờ Cửa Bắc , ngoài gác chuông theo hình thức nhấn lệnh còn có một mái vòm ở khu vực trung tâm (*).
Hệ thống mái ngói được tác giả tổ chức kéo suốt từ gác chuông qua mái vòm tới các không gian chính và phụ nhưng không còn quá dày đặc và cầu kỳ như ở bảo tàng Louis Finot hay Sở Tài chính. Hệ thống cửa sổ, cửa lấy ánh sáng và thông gió đều được xử lý che nắng và chống mưa hắt, ngoại trừ các cửa trang trí - lấy sáng lớn được lắp kính cản quang.
Sự kết hợp các yếu tố kiến trúc truyền thống phương Đông với những hình thức trang trí nhà thờ công giáo truyền thông, sự hài hoà của công trình với cảnh quan thiên nhiên tạo được ấn tượng về một công trình Thiên chúa giáo Việt Nam. Mặc dù ở một vị trí ít được chú ý nhà thờ Cửa Bắc (ảnh bên - 4) vẫn là một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất thời Pháp thuộc.
Cũng vào năm 1930, một công trình nữa theo phong cách Đông Dương cũng được hoàn thành ở Hà Nội là viện Pasteur (nay là Viện vệ sinh dịch tễ) do kiến trúc sư Gaston Roger thiết kế. Mặt bằng công trình theo kiểu hành lang bên rộng, các phòng thí nghiệm và phòng làm việc chạy dọc phía nam hành lang.
Công trình cũng được xử lý về mặt kiến trúc nhằm tạo sự hài hoà với cảnh quan nhiệt đới bằng việc cấu tạo hệ mái dốc với nhiều lớp mái lớn nhỏ, chính phụ, cùng các lỗ thông gió, hơi giống với cách xử lý của Hébrard ở Sở tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao - ảnh 2). Tuy vậy phong cách sử lý mặt chính của tác giả thành công hơn và tránh được sự rườm rà của mặt đứng Sở Tài chính nhờ tỷ lệ mái ngói đưa vào vừa phải, ô văng dốc lợp ngói được tạo thành từng băng dài. Các ô cửa sổ tương đối lớn, ít sử dụng chi tiết trang trí, làm công trình mang dáng vẻ hiện đại và thoáng đãng hơn. Một chi tiết đáng lưu ý là tác giả đã đưa vào khối trung tâm trên mặt chính một gác chuông nhỏ, một yếu tố trang trí kiến trúc truyền thống phương Tây nhưng được xử lý khéo léo dưới lớp mái ngói kiểu phương Đông tạo ra một điểm nhấn thú vị.
Một đại diện lớn nữa của phong cách kiến trúc Đông Dương là kiến trúc sư Arthur Kruze. Ông đã thiết kế một loạt công trình kiểu biệt thự ở Hà Nội trong thời gian cuối những năm 1930 đầu 1940.
Công trình đầu tiên phải kể đến là khu nhà ở dành cho sĩ quan Pháp trên phố Lý Nam Đế (nay là toà soạn báo Văn nghệ Quân đội). Được xây dựng trên một mảnh đất khá hẹp và chạy dài theo mặt phố, Kruze đã sử dụng bố cục mặt bằng theo kiểu hành lang bên đối xứng hoàn toàn với 20 phòng nghủ tiện nghi cao bố trí trên hai tầng nhà.
Hình khối không gian và các chi tiết công trình được nghiên cứu rất công phu theo hướng bản địa hoá kiến trúc. Trước lối vào là một tiền sảnh nhỏ với hai cột tròn sơn đỏ đỡ mái sảnh lợp ngói ống, phía trên là khối thang nhô hẳn ra phía trước được trang trí cầu kỳ bằng các mảng tường hoa văn hình chữ triện cùng hệ mái mở rộng ở phía trên tạo điểm nhấn cho công trình.
Điểm đáng chú ý nhất của ngôi nhà là cách xử lý bộ mái theo hình thức dân tộc. Bộ mái của ngôi nhà gồm các chính, mái che hang hiên phía trước, mái sảnh và mái che các cửa sổ hướng tây. Các mái đều có độ vươn ra khá lớn, lợp ngói ống và được đữ bởi hệ con sơn giả gỗ đầu có hình chữ triện, góc mái uốn cong lên phía trên tạo thành các đầu đao theo hình thức mái Việt và được trang trí rất công phu.

Ảnh 5: Nhà số 4 Lý Nam Đế
Có thể nói ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế là một thể nghiệm thành công của A. Kruze theo hướng kết hợp các hình thức Á Đông vào một công trình có dây chuyền công năng theo kiểu Phương Tây. Ngôi nhà có tỷ lệ hài hoà, các bộ phận và chi tiết trang trí được sử dụng một cách có cân nhắc kết hợp với vườn cây xanh tạo ra một công trình kiến trúc tuy không lớn nhưng rất có ấn tượng (Ảnh 5).
Công trình đáng chú ý nhất do A. Kruze thiết kế là Câu lạc bộ Thuỷ Quân xây dựng trong hai năm 1939-1940 (nay là trụ sở Uỷ ban TDTT trên phố Trần Phú). Công trình bao gồm hai biệt thự hai tầng cao cấp, mỗi biệt thự  đều có khối sinh hoạt  khối ngủ, khối vệ sinh, sân trời… Hai biệt thự này được đặt hoàn toàn đối xứng qua một khối nhà một tầng ở giữa là khu vực dành cho các sinh hoạt công cộng như ăn uống, khiêu vũ… Phía sau là khu phục vụ gồm cầu thang, bếp và nơi ở của nhân viên phục vụ.
Xử lý kiến trúc của công trình được tác giả nhấn mạnh tính chất kiến trúc Á Đông bằng hệ thống mái dốc lợp ngói ống cho cả ba khối công trình. Các góc mái đều được uốn cong kết thúc bằng đầu đao, đỉnh các ống khói cũng được xử lý phù hợp đường nét của mái. Bốn góc mái và hai đầu nóc trên mỗi biệt thự đều có gờ chữ triện, một điểm đáng lưu ý là tác giả đã đưa vào đây hệ máng nước bê tông cốt thép lẩn trong mái. Cửa sổ có gờ bo chung quanh, phía trên cũng cấu tạo ô văng dốc lợp ngói ống. Công trình được trang trí bởi khá nhiều chi tiết kiến trúc Á Đông như ở lan can sân trời, các con sơn có hình chữ triện đỡ mái, một số mảng tường xây gạch trần…(Ảnh 6).

Ảnh 6: Trụ sở Uỷ ban TDTT  (trước đây là  Câu lạc bộ Thuỷ Quân Pháp) 
Các biệt thự khác do Kruze sáng tác được xây dựng ở các phố Lý Nam Đế, Ngọc Hà và Phan Bội Châu vào những năm 1939-1941 cũng có giải pháp tương tự Câu lạc bộ Thủy quân. Mặt bằng tạo dựng theo công năng của các biệt thự Pháp, phần xử lý kiến trúc mang nhiều tính chất Á Đông, tập trung chủ yếu ở việc xử lý hệ mái dốc. Những biệt thự này đều có những nét duyên dáng riêng, phù hợp với khí hậu và cảnh quan khu vực. Tuy vậy việc lạm dụng mái cong, ngói ống và nhiều chi tiết kiến trúc Á Đông ít được các điệu hơn, nên mặc dù xây dựng sau các công trình của Hébrard và Roger, các biệt thự của Kruze trông lại có vẻ “cổ” hơn. Ngoài ra việc sử dụng quá nhiều những chi tiết kiến trúc Hoa-Việt (Sino-anamite) gây ra cảm tưởng công trình có thể được xây dựng đâu đó bên … Trung Quốc.
Những hoạt động của Arthur Kruze với tư cách là giáo sư Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có ảnh hưởng lớn tới những sáng tác hướng về dân tộc của lớp kiến trúc sư đầu đàn Việt Nam như Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp, Nguyễn Gia Đức, Tạ Mỹ Duật, Ngô Huy Quỳnh… Chúng ta có thể thấy tác phẩm của các ông theo hướng tìm về với cội nguồn dân tộc ở các biệt thự gần khu vực hồ Thuyền Quang và một số phố khác ở Hà Nội.
Nhìn lại các công trình kiến trúc theo trường phái Đông Dương từ giữa thập kỷ 20 tới đầu thập kỷ 40 có thể giúp chúng ta có được một số nhận xét:
  • Việc tổ chức không gian chức năng được tác giả kiến tạo theo sát công năng sử dụng công trình theo quan niệm của người Pháp lúc bấy giờ.
  • Sử dụng các giải pháp kết cấu tiên tiến thoả mãu các yêu cầu tổ chức không gian lớn, nhiều tầng. Kết cấu bê tông cốt thép, dàn vì kèo thép… được sử dụng rộng rãi.
  • Những điều kiện về khí hậu và cảnh quan khu vực được đặc biệt lưu tâm giải quyết thông qua việc tổ chức hệ mái chống nóng, các ô văng dốc che nắng và chống mưa hắt, hệ thống cửa lấy áng sáng và thông gió tự nhiên. Cây xanh được tận dụng tối đa.
  • Vấn đề xử lý hình thức kiến trúc được các tác giả lưu tâm thoả đáng nhằm tạo cho công trình những dáng dấp, đường nét Á Đông, gần gũi với kiến trúc truyền thống bản địa.
Những tìm tòi sáng tạo của các kiến trúc sư theo phong cách kiến trúc Đông Dương đã có những đóng góp rất đáng trân trọng vào xu hướng sáng tác tìm về cội nguồn dân tộc. Tuy nhiên đây đa phần là những công trình do các kiến trúc sư Pháp thiết kế và dành cho người Pháp sử dụng, nên chưa thể đề cập đến bản chất văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam, những vấn đề mà theo chúng tôi là cốt lõi của một nền kiến trúc dân tộc.
(*) Về nguyên tắc tổ hợp nhà thờ thời Phục hưng có thể tham khảo kiến trúc nhà thờ chính toà Santa Maria del Fiore ở Florence do kiến trúc sư Phục hưng Italia nổi tiếng Brunelleschi Filippo (1377 – 1446) thiết kế.
Bài và ảnh: KTS. Trần Quốc Bảo


Những phong cách chủ đạo trong kiến trúc Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc

Sự hiện diện đầu tiên của kiến trúc Pháp ở Hà Nội là từ năm 1803, khi vua Nguyễn Gia Long cho xây lại thành Hà Nội theo kiểu Vauban dưới sự chỉ đạo của 4 kỹ sư công binh Pháp. Tuy nhiên phải đến khi thành lập khu Nhượng địa năm 1875 ở ven sông Hồng (kéo dài từ phố Phạm Ngũ Lão tới Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Nghị ngày nay) thì những công trình phong cách kiến trúc Pháp mới thực sự có dấu ấn tại Hà Nội. Trải qua gần một thế kỷ (cuối thế kỷ 19 tới nửa đầu thế kỷ 20), kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc với sự phong phú về phong cách đã để lại cho Hà Nội một di sản kiến trúc quý giá.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới những phong cách chủ đạo, để lại những dấu ấn rõ ràng trong kiến trúc thời kỳ này.
1. Phong cách kiến trúc Tiền thực dân

Ảnh 1: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (trước đây là Sở chỉ huy quân đội Pháp) 

Phong cách kiến trúc Tiền thực dân ở Hà Nội bắt đầu hình thành từ chính khu Nhượng địa với những ngôi nhà làm việc, nhà ở cho sĩ quan và binh lính Pháp. Với mong muốn có được những không gian phù hợp với chức năng cần thiết nhưng tránh được cái nóng oi ả mùa hè, các sĩ quan công binh Pháp đã nghĩ ra một hình thức kiến trúc nhiệt đới thô sơ với các hành lang rộng bao lấy không gian chính.
Sau khi chiếm được thành Hà Nội và biến nó thành Sở chỉ huy quân đội Pháp, các sĩ quan công binh cũng xây dựng một loạt công trình trong thành nội cũng như trên trục đường nối khu nhượng địa với Hoàng Thành cũ (nay tuyến phố Tràng Tiền - Tràng Thi - Điện Biên Phủ) và khu vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm theo phong cách Tiền thực dân.
Các công trình kiến trúc phong cách Tiền thực dân thường có mặt bằng hình chữ nhật đơn giản có hành lang rộng chạy xung quanh. Nhà thường có hai tầng, sàn tầng hai dùng dầm đỡ thép hình cuốn gạch ở trên. Mái dốc lợp ngói hoặc tôn. Tường chắn mái xây gạch dùng để trang trí mặt tiền có một vài hình thức tranh trí đơn giản như hàng con tiện hoặc đắp xi măng hình hoa lá. Hành lanh quanh nhà được tạo ra hình thức cuốn vòm hình cung hoặc bán cầu có khoá vòm.
Nhìn chung thì đây là phong cách mag tính công năng duy lý, ít chú trọng về mặt thẩm mỹ nên không có nhiều giá trị về mặt kiến trúc. Tuy vậy chúng cũng là đại diện cho kiến trúc Pháp thuộc thời kỳ sơ khởi nên cũng cần được tôn trọng ở một mức độ nhất định.
Một số công trình tiêu biểu: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (ảnh 1), Toà thị chính (chỉ còn toà nhà số 12 Lê Lai), một số nhà điều trị trong khuôn viên Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Nghị.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 1-3 tầng, mặt bằng hình chữ nhật, mái dốc lợp ngói hoặc tôn, có hành lang bao quanh tạo ra hình thức cuốn vòm liên tục.

2. Phong cách kiến trúc Tân Cổ điển


Ảnh 2: Phủ Chủ tịch (trước đây là Phủ Toàn quyền Đông Dương) 

Sau khi cơ bản chinh phục được toàn bộ lãnh thổ Đông Dương, người Pháp đã tiến hành một công cuộc xây dựng lớn ở Hà Nội nhằm biến nó thành thủ phủ toàn khu vực Đông Dương. Những công thự lớn tiêu biểu cho chính quyền thực dân như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống Sứ, Toà án… được xây dựng. Để biểu đạt cho sự uy nghi của chính quyền mới thì không gì bằng việc sử dụng các hình thức kiến trúc Cổ điển. Sau này, phong cách Tân-Cổ điển còn ảnh hưởng sang các công trình lớn về kinh tế-văn hoá ở Hà Nội như ga Hàng Cỏ, trụ sở Công ty hoả xa Đông Dương-Vân Nam, Nhà hát Thành phố, Viện Radium Đông Dương… và nhiều biệt thự dành cho người Pháp ở Hà Nội. Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển ở Hà Nội thời kỳ này không còn là Tân-Cổ điển Pháp thuần tuý nữa mà mang nhiều màu sắc của chủ nghĩa Triết chung. Mặc dù vẫn sử dụng bố cục đối xứng nghiêm ngặt, các cấu trúc hình học và tỷ lệ vẫn được tuân thủ, các thức cổ điển vẫn mang tính áp đảo, song ở nhiều công trình các chi tiết của kiến trúc Phục hưng, Baroque cũng được sử dụng.
Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển là phong cách kiến trúc áp đảo đối với các công trình công cộng lớn ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc và cũng là phong cách mang dấu ấn mạnh mẽ nhất của kiến trúc thời kỳ này. Ảnh hưởng của nó thật đáng buồn, là còn đến tận những công trình kiến trúc công cộng mới xây dựng cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ở Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Phủ Toàn quyền Đông Dương (ảnh 2), Dinh Thống sứ Bắc Kỳ, Phủ Thống sứ (12 Ngô Quyền), Ga Hàng Cỏ, Công ty Hoả xa Đông Dương - Vân Nam (82 Trần Hưng Đạo), Nhà hát lớn, Viện Radium Đông Dương (43 Quán Sứ), khách sạn Metropole (15 Ngô Quyền).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục cân đối, sử dụng nhiều thức cổ điển, mái dốc lợp ngói tây hoặc ngói đá, nhiều hình thức trang trí phong phú sử dụng các thức, chi tiết Cổ điển La Mã, Phục hưng, Baroque.

3. Phong cách kiến trúc địa phương Pháp


Ảnh 3: Trụ sở Bộ Tư pháp (trước đây là Trường nữ học Pháp) 

Từ những năm 1900, một lượng khá lớn người Pháp đã tới Hà Nội làm việc, sinh sống. Họ mang theo những hoài niệm về quê hương thông qua những công trình kiến trúc nơi họ đã sống (chủ yếu là các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris) và do vậy cũng bắt đầu từ thời gian này, một loạt biệt thự, trường học cho người Pháp được xây dựng theo phong cách kiến trúc địa phương Pháp.
Các công trình phong cách địa phương miền Bắc Pháp có mái với độ dốc lớn, các công trình phong cách vùng Paris có độ dốc vừa phải có hệ con sơn gỗ đỡ phần mái nhô ra khỏi tường. Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng kiến trúc phong cách địa phương Pháp xây dựng ở Hà Nội không giống hoàn toàn ở chính quốc mà đã mang nhiều tính công năng, thực dụng và dỡ bỏ nhiều những hình thức trang trí nguyên gốc. Những công trình phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội nhìn chung mang đậm tính hồi cố, duyên dáng, mang nhiều nét kiến trúc các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris, tuy nhiên đã có những biến đổi nhất định để phù hợp với công năng mới và khí hậu nhiệt đời Việt Nam.
Một số công trình tiêu biểu: Grand Lycée AIber Sarraut (1B Hoàng Văn Thụ), Petit Lycée (8 Hai Bà Trưng), Trường nữ học Pháp (58 Trần Phú, ảnh 3) và một số biệt thự tại khu Ngoại giao đoàn.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 2-3 tầng, mái dốc lợp ngói, có hệ con sơn đỡ mái bằng gỗ mảnh hình tam giác được tiện khắc công phu, hoạ tiết trang trí không nhiều nhưng khá tinh tế.

4. Phong các kiến trúc Art Deco


Ảnh 4: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trước đây là Chi nhánh ngân hàng Đông Dương) 


Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các hoạt động kinh tế trở nên nhộn nhịp hơn, một làn sóng đầu tư của người Pháp, một phần nhỏ của người Hoa và người Việt diễn ra ở Hà Nội. Một loạt trụ sở ngân hàng, công ty và nhiều biệt thự tư nhân được xây dựng. Vì đây là các hoạt động đầu tư tư nhân nên chủ nhân của chúng cũng không cần nhờ tới các kiến trúc sư “cung đình” như A-H. Vildieu nữa. Các kiến trúc sư có đầu óc cách tân hơn được trọng dụng và từ đó một phong cách thiết kế hiện đại, giản dị và thực dụng, phù hợp với xu hướng kiến trúc đang phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ thời bấy giờ, phong cách Art Deco, được ứng dụng trong thiết kế nhiều công trình ở Hà Nội.
Kiến trúc Art Deco bắt đầu phát triển ở Hà Nội từ những năm 1920 và đặc biệt mạnh mẽ vào những năm 1930. Những công trình xây dựng theo xu hướng này thường sử dụng những hình khối kinh điển trong bố cục không gian, các khối vuông, chữ nhật kết hợp với các khối bán trụ tạo ra một hình thức kiến trúc hiện đại và giản dị. Thêm vào đó là các hoạ tiết trang trí bằng thép uốn hoặc đắp nổi bằng xi măng, thạch cao với đường nét mềm mại làm giảm bớt sự thô nặng của các khối chủ đạo. Đây cũng là hình loại kiến trúc được nghiên cứu và có nhiều sự cải biên nhằm tới sự hài hoà với khí hậu và cảnh quan Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Chi nhánh ngân hành Đông Dương (ảnh 4), nhà in IDEO (24 Tràng Tiền), công ty AVIA (39 Trần Hưng Đạo), Bưu điện (6 Đinh Lễ), các toà nhà số 91 Đinh Tiên Hoàng và 31 Tràng Tiền, cùng rất nhiều biệt thự trải từ quận Ba Đình tới cuối các phố Bà Triệu, Hàng Chuối.
Đặc điểm nhận dạng: Hình khối giản dị mang tính hiện đại, đại đa số là mái bằng, sử dụng với liều lượng vừa phải các hoạ tiết trang trí trên mặt đứng.

5. Phong cách kiến trúc Đông Dương


Ảnh 5: Trụ sở Bộ Ngoại giao (trước đây là Sở Tài chính Đông Dương) 


Thập kỷ 1920 ở Hà Nội, sau khi một loạt công trình đại diện cho chính quyền thực dân theo phong cách Tân Cổ điển được xây dựng và đưa vào sử dụng cho thấy chúng hoàn toàn không phù hợp với khí hậu cũng như truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan ở đây. Bản thân giới trí thức Pháp ở thuộc địa cũng nhận ra việc áp đặt những giá trị văn hoá từ chính quốc vào một đô thị bản địa có truyền thống văn hoá lâu đời và rất khó chấp nhận. Do vậy việc tìm tòi một phong cách kiến trúc vừa có khả năng đáp ứng công năng hiện đại, vừa phù hợp với khí hậu, cảnh quan và truyền thống văn hoá địa phương được một loạt kiến trúc sư người Pháp và sau đó là người Việt theo đuổi, từ đó tạo ra một phong cách kiến trúc kết hợp sau này được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương.
Kiến trúc theo phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu Pháp thịnh hành lúc bấy giờ, nhưng đã có sự tìm tòi, biến đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc nhằm tạo ra những công trình có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hoá bản địa. Các kiến trúc sư theo phong cách này thường sử dụng những hình thức và chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam, Khmer trong việc tạo nên các bộ mái, ô văng che cửa, cùng các hoạ tiết trang trí khác. Nhìn chung đây là phong cách thành công nhất trong việc tạo ra những công trình kiến trúc đẹp, hiện đại, phù hợp với khí hậu, cảnh quan và văn hoá truyền thống bản địa thời kỳ Pháp thuộc.
Một số công trình tiêu biểu: Toà nhà chính Đại học Đông Dương (19 Lê Thánh Tông), Sở Tài chính (ảnh 5), Bảo tàng Louis Finot (*) (1 Phạm Ngũ Lão), Viện Pasteur (1 Y-éc-xanh), Nhà thờ Cửa Bắc, Câu lạc bộ thuỷ quân (36 Trần Phú).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục mặt bằng hình khồi đăng đối kiểu Châu Âu kinh điển. Sử dụng nhiều thức cột, mái và các chi tiết kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Khmer, hệ thống cửa lấy ánh sáng và thông gió tự nhiên được chú trọng.

6. Phong cách kiến trúc Pháp - Hoa

Ảnh 6: Dinh thự số 26 Phan Bội Châu 


Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa có lẽ cũng xuất phát từ ý tưởng muốn xây dựng những công trình đáp ứng được công năng hiện đại nhưng vẫn mang màu sắc kiến trúc Á Đông. Tuy nhiên, khác với các kiến trúc theo phong cách Đông Dương, sử dụng đa phần cách thức kiến trúc, các yếu tố trang trí Việt Nam và Khmer, các tác giả của các công trình Pháp-Hoa lại hầu như sử dụng cách thức và yếu tố trang trí cổ điển Trung Hoa.
Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa ở Hà nội thể hiện chủ yếu trong các dinh thự và biệt thự. Các ngôi nhà theo phong cách này thường chỉ có 2 tầng với cách bố trí tổng mặt bằng theo kiểu nhà chính - nhà phụ, đặc biệt ở các dinh thự thường có vườn trước rất lớn có bố trí non bộ. Mái dốc lợp ngói ống, ngói tráng men, bốn góc uốn cong và được trang trí khá cầu kỳ, con sơn đỡ mái dạng trồng đấu nhiếu lớp. Ở một số công trình có hệ thống cột tròn với các tai cột ngang. Phần trang trí được chú trọng nhiều với các yếu tố trang trí kiểu Trung Hoa cổ. Ở các công trình theo phong cách Pháp - Hoa ít thấy những giải pháp lấy ánh sáng hay thông gió tự nhiên phù hợp với khí hậu Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Dinh Tổng đốc Hoàng Trọng Phu (46 Hoàng Diệu), dinh thự số 26 Phan Bội Châu (ảnh 6), Nhà hàng Thuỷ Tạ, một số biệt thự trên các phố Phan Đình Phùng, Quán Thánh, và quanh hồ Thuyền Quang.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà chính 2 tầng, mái dốc lợp ngói ống hoặc ngói tráng men, trang trí cầu kỳ, sử dụng nhiều  thức và chi tiết kiến trúc cổ điển Trung Hoa.

7. Phong cách kiến trúc Neo-Gothic


Ảnh 7: Nhà thờ Làng Tám 


Phong cách mà chúng tôi gọi là Neo-Gothic với ý nghĩa mong muốn phục hồi Gothic của những người thiết kế gắn liền với quá trình xây dựng các nhà thờ Công giáo ở Hà Nội. Năm 1883, lấy cớ chùa Báo Thiên đã cũ nát và ở trong tình trạng nguy hiểm, Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ đã ra lệnh phá huỷ ngôi chùa, khu đất của nhà chùa được Công sứ M.Bonal nhượng lại cho Hội truyền giáo. Trên khu đất này, giám mục Puginier với tư cách là người thiết kế và chỉ đạo thi công, đã xây dựng nhà thờ Saint Joseph còn gọi là Nhà thờ lớn, hoàn thành năm 1888. Cùng với sự xâm nhập của đạo Thiên Chúa, rất nhiều nhà thờ lớn nhỏ cũng đựơc xây dựng ở các xứ đạo nội, ngoại thành Hà Nội trong thời gian sau đó.
Đặc điểm của kiến trúc nhà thờ ở Hà Nội đa phần là mô phỏng hình thức kiến trúc Gothic Pháp nhưng được giản lược rất nhiều. Đó là cách tổ chức mặt bằng hình chữ thập, mặt đứng ba nhịp, nhịp giữa là lối vào chính, phía trên có cửa sổ “hoa hồng”, hai bên là các lối vào phụ phía trên là tháp chuông. Tuy nhiên, khác với các nhà thờ Gothic Pháp sử dụng rất nhiều yếu tố trang trí, kiến trúc nhà thờ Hà Nội chỉ tổ chức nhiều cửa sổ hình cuốn nhọn kiểu Gothic mà hầu như không thêm vào các yếu tố trang trí nên trông khá khô khan. Trong số các công trình Neo-Go thic ở Hà Nội nổi lên một ngôi nhà thờ nhỏ ở quận Hoàng Mai, nhà thờ Làng Tám, kiến trúc nhà thờ này mang nhiều thần thái Gothic Pháp với một tỷ lệ khá hài hoà trên mặt đứng, kết hợp với nhiều hoạ tiết trang trí theo phong cách Gothic dù còn chưa tinh tế. Nhìn chung thì phong cách Neo - Gothic ở Hà Nội gắn liền với kiến trúc nhà thờ Công giáo, giá trị về mặt thẩm mỹ chưa cao song lại mang nhiều giá trị về mặt lịch sử và cảnh quan.
Một số công trình tiêu biểu: Nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ Làng Tám (ảnh 7), nhà thờ Hàm Long (Gothic Anh).
Đặc điểm nhận dạng: Mặt đứng ba nhịp với ba cửa vào, phần trung tâm thấp hơn có cửa sổ “hoa hồng”, hai tháp cao ở hai bên. Bố trí nhiều cửa sổ cuốn nhọn kiểu Gothic, kính màu được sử dụng rộng rãi.

Chú thích :

  • (*) Bảo tàng Lonis Finot do KTS Ernest Hébrard thiết kế, mặc dù có đưa vào một số thức và yếu tố kiến trúc Trung Hoa cổ nhưng đa phần vẫn là các thức, chi tiết Việt và Khmer cổ, phong cách chủ đạo vẫn là Phong cách Đông Dương.
  • Ảnh trong bài của Trần Quốc Bảo và Nguyễn Đức Trường
ThS.KTS Trần Quốc Bảo

  Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội

Trong quá trình kiếm tìm những hình thức kiến trúc mới đầu thế kỉ 20 nhằm thoát ly khỏi Chủ nghĩa Cổ điển đã đã ngự trị kiến trúc thế giới trong suốt hơn 400 năm trước đó, chủ thuyết Art Deco đóng một vai trò quan trọng. Ảnh hưởng của kiến trúc Art Deco đã thoát ly ra khỏi phạm vi một quốc gia hay một châu lục, những phương cách biểu hiện của Art Deco cũng không chỉ giới hạn ở những công trình kiến trúc thông thường mà còn vươn tới những toà nhà chọc trời ở Mỹ, một biểu tượng của công nghệ xây dựng mới nhất thời bấy giờ.

Ảnh 1: Biệt thự trên phố Đặng Dung

Mặc dù mang danh Art Deco và chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu kiến trúc trước đó như lập thể, trừu tượng, biểu hiện..., kiến trúc Art Deco không tự giới hạn mình vào các hình thức trang trí đơn thuần mà khẳng định tính tiên phong của mình bằng những khối hình học kinh điển trong bố cục không gian. Những băng cửa rộng chạy theo chiều ngang hay chiều dọc trên mặt đứng kết hợp với các hình thức trang trí bằng thép uốn hay việc sử dụng màu sắc cũng là những phương cách biểu hiện mới của Art Deco.


Ảnh 2: Biệt thự trên phố Chu Văn An

Hà Nội những năm 1930 dưới thời thịnh trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, bản qui hoạch đầu tiên của kiến trúc sư E. Hébrard đã bắt đầu hình thành trên thực địa với những với những đại lộ, những con phố mang đậm phong cách Pháp. Mặt đường trải nhựa thẳng tắp, vỉa hè rộng rãi với hai hàng cây xanh, thật khác xa những con đường chật chội trong khu phố cũ. Những lô đất ở đây tiếp tục được lấp đầy bởi các biệt thự, những lô lớn có diện tích tới 5 - 700 m2, thậm chí hàng nghìn m2 phân bố ở khu vực quận Ba Đình và một phần quận Hoàn Kiếm hiện nay, những lô đất nhỏ hơn cỡ 2 - 400 m2 phân bố ở khu vực phía dưới quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng hiện nay.

Ảnh 3: Biệt thự 2 tầng trên phố Lý Thường Kiệt

Kiến trúc biệt thự trên các lô đất này cũng bắt đầu thay đổi. Nhà mái dốc theo phong cách địa phương miền bắc nước Pháp rõ ràng là không thích hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam. Nhà theo phong cách Tân cổ điển với những hình thức trang trí rườm rà lại càng không thích hợp. Việc tìm tòi một hình thức nhà ở mới thích hợp với khí hậu địa phương trở nên cấp thiết, và những biệt thự theo phong cách Art Deco với những cải biên cho phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới Việt Nam tỏ ra rất thích hợp trong giai đoạn này.

Ảnh 4: Một biệt thự trên phố Chu Văn An bị thêm vào tầng mái một cách tuỳ tiện / Ảnh 5: Chi tiết dàn hoa trên mái

Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội có thể được chia thành hai loại theo dây chuyền công năng. Loại công năng hoàn chỉnh - hợp khối và loại công năng không hoàn chỉnh - phân tán. Loại biệt thự công năng hoàn chỉnh thường do các kiến trúc sư người Pháp thiết kế, được xây dựng trên những lô đất có diện tích lớn của các chủ nhân người Pháp hoặc quan lại người Việt (ảnh 1, 2, 3). Loại công năng không hoàn chỉnh và phân tán được xây dựng ở những lô đất có diện tích nhỏ hơn và chủ nhân là người Việt (ảnh 4). Điều này cũng giải thích cho việc bố trí khối nhà phụ tách ra khỏi khối nhà ở rất gần gũi với kiến trúc nhà ở cổ truyền Việt Nam, nó tạo ra một hình thức kiến trúc Hoà trộn (mixte) giữa kiến trúc Pháp và kiến trúc Việt.

Ảnh 6: Chi tiết trang trí lồng cầu thang / Ảnh 7: Chi tiết trang trí cầu thang chính


Về bố trí mặt bằng thì loại biệt thự công năng hoàn chỉnh – hợp khối thường có 3 tầng: Tầng 1 (tầng trệt) bố trí nhà  xe rộng có thể để được tới 2 xe hơi, bếp, phòng ở gia nhân cho nhiều người, khu vệ sinh, kho… có chiều cao tương đối thấp (khoảng 3 m), tầng này còn có tác dụng ngăn cách sàn tầng ở tiếp xúc trực tiếp với mặt đất, ngăn cản hữu hiệu hiện tượng đọng sương trên mặt sàn thường xảy ra trong điều kiện thời tiết ẩm ướt vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân ở Hà Nội. Tầng 2 bố trí phòng khách lớn, phòng sinh hoạt gia đình, giữa hai phòng này thường được liên hệ bằng một cửa đi rộng, phòng ăn bố trí gần cầu thang nội bộ để thuận tiện cho việc đưa đồ ăn từ bếp lên. Tầng 3 là các phòng ngủ trong đó phòng ngủ chính có cửa đi trực tiếp vào khu vệ sinh. Trên tầng thượng thường có một “phòng trà” diện tích khoảng trên chục m2, cửa sổ mở rộng ra các phía, được tổ chức như một nơi tụ tập các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè ăn uống nhẹ vào những buổi tối đẹp trời. Giao thông theo chiều đứng ngôi nhà được đảm trách bởi hai cầu thang, cầu thang chính rộng tới khoảng 2m dẫn từ sân trước lên phòng khách, lan can cầu thang được xây bằng gạch và trang trí rất tinh tế bằng hoa văn hoặc các chậu cây cảnh (ảnh 7). Cầu thang nội bộ bố trí phía trong nhà có chiều rộng nhỏ hơn và thông từ tầng 1 lên tầng thượng.

Ảnh 8: Chi tiết trang trí lan can

Loại biệt thự công năng không hoàn chỉnh - phân tán thường có khối nhà chính 2 tầng: Tầng 1 bố trí  phòng khách và phòng ăn có diện tích không lớn, tầng 2 bố trí các phòng ngủ, khu vệ sinh được tách thành hai phần xí tắm riêng biệt và phục vụ chung cho cả tầng, cầu thang bố trí trong nhà và liên hệ thẳng từ tầng 1 tới sân thượng. Khối nhà phụ nằm phía sau khối chính là nơi bố trí nơi để xe, kho, bếp, khu vệ sinh, phòng ở gia nhân và liên hệ với khối nhà chính qua sân trong.
Về tổ hợp hình khối không gian thì biệt thự Art Deco ở Hà Nội thường sử dụng các khối hình vuông hoặc chữ nhật cho các không gian ở kết hợp với các khối hình bán nguyệt là nơi bố trí lồng cầu thang tạo thành một hình thức kiến trúc mang tính hiện đại và giản dị.
Ngôn ngữ trang trí chủ đạo của biệt thự Art Deco là sử dụng các đường cong làm bớt đi vẻ thô nặng của các khối hình hộp. Vật liệu trang trí chủ yếu là thép uốn với nhiều hình thức phong phú, đôi khi những mảng phù điêu bằng thạch cao hoặc xi măng cũng được sử dụng, kính màu thì chỉ có lác đác ở một vài công trình. Phần mái được tô điểm thêm bởi dàn cây bằng bê tông cốt thép và những hoạ tiết trang trí bằng vữa đắp. Ở những biệt thự lớn thì dàn cây xanh còn được bố trí ở sân vườn hoặc ngay tại sảnh tầng 2 (ảnh 5 và 10).

Ảnh 9: Chi tiết trang trí cửa đi / Ảnh 10: Chi tiết trang trí sân vườn

Phần mái bằng được cấu tạo đặc biệt để phù hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam cũng là một trong những đặc trưng quan trọng của biệt thự Art Deco ở Hà Nội. Mái được cấu tạo bởi hai lớp bê tông cốt thép đổ tại chỗ cách nhau khoảng 0,4 đến 0,6 m, giữa hai lớp này là các lỗ thoáng được đặt ở hai phía đối diện hoặc ở cả 4 phía của ngôi nhà, bên ngoài được trang trí bằng cả chất liệu và mà sắc rất thú vị. Cũng do cấu tạo mái bằng ở kiểu biệt thự này mà lần đầu tiên khái niệm sân thượng được đưa vào kiến trúc nhà ở Việt Nam. Sân thượng cho phép người ở có được những hoạt động tiếp xúc với thiên nhiên vào buổi sáng và buổi tối ngay tại nhà mình, một điểm rất đáng lưu ý trong cuộc sống đô thị. 
Biệt thự Art Deco ở Hà Nội là một phần của di sản kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc, tuy nhiên số lượng biệt thự còn giữ nguyên được dáng dấp ban đầu còn rất ít, chủ yếu là ở khu vực ngoại giao đoàn, đa phần các biệt thự do người Việt Nam ở đã biến dạng và xuống cấp trầm trọng. Do sự thiếu hiểu biết về các đặc trưng của Art Deco nên trong nhiều trường hợp cải tạo hoặc phục dựng một số biệt thự, các nhà thiết kế đã đưa vào những chi tiết kiến trúc rườm rà, xa lạ với phong cách Art Deco, làm hỏng những ngôn ngữ biểu cảm của loại biệt thự này. Thành phố cũng cần có những sách lược nhằm giữ cho di sản biệt thự Art Deco không “biến mất” trong tương lai gần vì đa số các biệt thự đều đã có tuổi thọ trên 70 năm.

Ghi chú: 
  • Ảnh trong bài của Trần Quốc Bảo, Đào Thái Hà, Trần Chí Toàn, Phạm Trường Minh
  • Hình vẽ trong bài của Đào Thái Hà
ThS.KTS Trần Quốc Bảo

Kiến trúc nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc trong không gian đô thị Hà Nội

Khi vào Việt Nam truyền giáo, các đoàn giáo sĩ rất chú trọng tới việc xây dựng nhà thờ. Họ ý thức rằng nhà thờ không chỉ là nơi diễn ra các nghi lễ tôn giáo mà còn là nơi sinh hoạt của cộng đồng Thiên chúa giáo địa phương. Thăng Long – Hà Nội là một trong những địa chỉ hàng đầu trong việc truyền đạo Thiên Chúa ở Việt Nam nên ngay từ thời sơ kỳ truyền giáo, nhà thờ đã được xây dựng.
Tuy nhiên với chính sách cấm đạo dưới thời Lê – Trịnh, các nhà thờ đều bị phá, đất đai bị tịch thu. Chỉ đến khi người Pháp bình định được Bắc Kỳ, khoảng những năm 1886-1887, giám mục Puginier đưa Tòa giám mục Tây Đàng ngoài về Hà Nội, quá trình xây dựng nhà thờ thiên chúa giáo mới phát triển mạnh.
Tới năm 1938, giáo phận Hà Nội có tới 145 nhà thờ lớn nhỏ, trong đó có một số nhà thờ có kiến trúc đẹp, được xây dựng ở những vị trí có thể coi là đắc địa của Thủ đô.

Một số nhà thờ tiêu biểu

Nhà thờ Lớn có tên chính thức là nhà thờ Saint Joseph do giám mục Puginier thiết kế, xây dựng trong những năm 1884-1886 trên khu đất thuộc các thôn Báo Thiên và Chân Cầm, phía Tây hồ Hoàn Kiếm. Khi mới xây dựng đây còn là khu vực hoang vắng, ít nhà cửa. Phải đến thập niên 1890, Rue de la Cathédrale ( phố Nhà Thờ ) mới được xây dựng hướng từ nhà thờ ra hồ Hoàn Kiếm, khi đó vị trí nhà thờ Lớn mới trở nên đắc địa và đóng vai trò quan trọng trong không gian đô thị trung tâm Hà Nội.
Nhà thờ Lớn Hà Nội có mặt bằng theo kiểu Basilica truyền thống – mặt bằng hình chữ nhật có phần cuối hình bán nguyệt. Mặt bằng công trình chia làm ba phần : Sảnh đón tiếp phía trên có Gác đàn ( nơi dành cho ca đoàn và nhạc công ), không gian dành cho giáo dân hành lễ và Cung thánh là nơi cử hành các thánh lễ.
Hình thức mặt đứng cho thấy đặc trưng phong cách kiến trúc Gothique của công trình. Mặt chính chia thành ba phần với hai tháp chuông vút cao ở hai bên, phần giữa thấp hơn được kết thúc bởi một đỉnh tường tam giác với cây Thánh giá như một điểm nhấn. Các mặt đứng nhà thờ sử dụng nhiều đường nét kiến trúc Gothique, cửa số hoa hồng trên mặt chính, các cửa đi và cửa sổ đều có dạng cuốn nhọn và được cấu trúc với số lượng lớn. Tuy nhiên nếu so với những nhà thờ Gothique ở Pháp thì các họa tiết trang trí mặt đứng ở nhà thờ lớn Hà Nội là tương đối đơn giản.

Mặc dù mặt chính chia thành ba phần nhưng nột thất nhà thờ lại được chia thành năm nhịp, nhịp giữa có kích thước lớn hơn hai lần các nhịp biên. Nội thất được trang trí dựa trên cơ sở các cuốn nhọn kiểu Gothique. Khu vực cung thánh được trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống Việt Nam với những chi tiết được chạm trổ hoa văn bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất tinh xảo. Hệ thống cửa sổ cuốn nhọn được lấp đầy bởi các bức tranh Thánh bằng kính màu làm cho không gian nột thất thêm huyền ảo. Như vậy nột thất nhà thờ được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa nghệ thuật trang trí Phương Đông và Phương Tây tạo ra mối giao hòa thú vị giữa hai nền văn hóa chính quốc và bản địa. 
Phía trước nhà thờ còn có một quảng trường với tượng Đức Mẹ ở trung tâm. Quảng trường tuy không lớn nhưng cũng đủ để làm tăng giá trị cảnh quan của công trình.
Với những giá trị vê mặt lịch sử và kiến trúc, lại được xây dưng ở một vị trí đắc địa gần bờ hồ Hoàn Kiếm, nhà thờ Lớn xứng đáng được coi là một di sản văn hóa của Hà Nội, góp phần làm cho bộ mặt kiến trúc khu vực trung tâm Thủ đô thêm sinh động.


Nhà thờ Cửa Bắc có tên chính thức là Giáo đường Nữ vương các thánh tử đạo do kiến trúc sư Enest Hébrard thiết kế. Được xây dựng khoảng những năm 1925 – 1930 trên một khoảng đất chạy dài theo Boulevard Carnot (phố Phan Đình Phùng) nơi giao nhau với Rue Frères Shneider (phố Nguyễn Biểu) (*). 

Mặt bằng không gian nhà thờ được cấu trúc theo nguyên tắc nhà thờ thời kỳ Phục Hưng kiểu chữ thập La Tinh. Mở đầu là một không gian đón tiếp nhỏ, tiếp theo là không gian dành cho các con chiên nghe giảng và kết thúc bởi không gian long trọng  dành cho cha xứ hành lễ. Giữa hai khu vực này là không gian chuyển tiếp lớn dưới một mái vòm hình bán cầu, cánh bên phải là nơi thờ các thánh, cánh trái là nơi tiếp khách của cha xứ. Gác chuông theo hình thức nhấn lệch được bố trí ở phía bên phải lối vào chính. Không gian nội thất được cấu trúc và trang trí hoàn toàn theo kiểu nhà thờ Châu Âu thời Phục Hưng tiền kỳ.
Hình khối công trình rất đặc trưng bởi việc kiến trúc sư – tác giả đã tạo ra ở đây một không gian kiến trúc phi đối xứng với một tháp chuông vút cao phía bên sảnh chính, điều này làm cho nhà thờ Cửa Bắc có được nét độc đáo so với đa phần các công trình Thiên Chúa giáo có hình thức đăng đối nghiêm cẩn được xây dựng ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
Hệ thống mái ngói kiểu Phương Đông được tác giả tổ chức kéo suốt từ gác chuông qua mái vòm tới các không gian chính và phụ cũng là nét đặc sắc của công trình. Các mái chính đều được tổ chức thành hai lớp theo kiểu chồng diêm, giữa chúng là hệ thống cửa sổ lấy sáng lắp kính hoặc cửa thông gió được trang trí bằng các hoạ tiết không quá cầu ký. Ngoài ra còn rất nhiều lớp mái phụ che nắng và chống mưa hắt cho các lối vào, các cửa thông gió lấy sáng, thậm chí còn có những lớp mái nhỏ chỉ mang tính chất trang trí đơn thuần.

Hệ thống cửa lấy sáng và trang trí được tác giả đặc biệt lưu tâm. Đầu tiên phải kể đến hệ ba cửa hoa hồng - một yếu tố trang trí, lấy sáng của kiến trúc Gothique, được đặt vào các mặt đứng phía Tây, Nam và Bắc. Các cửa này đều có diện tích rất lớn và được lắp kính cản quang kết hợp kính màu, tuy nhiên do được trang trí bằng các vòm cuốn và các cột đỡ, lại nằm dưới một hệ trang trí hình tam giác kết thúc các hồi mái nên cảm giác về kiến trúc Gothique ở đây là không còn. Tiếp đến là hệ các cửa lấy sáng cho tháp chuông, mái vòm và các không gian hành lễ. Đây đều là các cửa dạng cuốn vòm hoặc hình tròn có diện tích không lớn nhưng được mở liên tục, xung quanh cửa được trang trí bằng các cột đỡ mái đua khá đẹp và cầu kỳ. Nhờ hệ thống cửa lấy sáng này mà không gian nội thất nhà thờ luôn ngập tràn ánh sáng tự nhiên.
Sự kết hợp các yếu tố kiến trúc Phương Đông với những nguyên tắc tổ chức không gian nhà thờ công giáo truyền thống, sự hài hoà của công trình với cảnh quan thiên nhiên bản địa đã tạo ra được ấn tượng về một công trình Thiên Chúa giáo Việt Nam. Mặc dù ở một vị trí ít được chú ý, nhà thờ Cửa Bắc vẫn có thể được coi là một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất thời kỳ Pháp thuộc ở Hà Nội.

Nhà thờ Hàm Long do một kiến trúc sư người Việt từng du học ở Pháp thường gọi là Docteur Thân thiết kế theo yêu cầu của linh mục Dopolit. Công việc xây dựng hoàn thành năm 1934 trên một khu vực tương đối rộng, nơi giao nhau giữa Boulevard Doudart de Lagré ( phố Hàm Long ) và Rue Jacquin ( phố Ngô Thì Nhậm ). Trên khu đất ngoài nhà thờ có mặt chính quay ra phố Doudart de Lagré, còn có nhà nguyện, nhà ở cha xứ, nhà sách.

Nhà thờ có cấu trúc mặt bằng kiểu basilica được chia thành ba phần chính: tiền sảnh, khu vực dành cho giáo dân và Cung thánh. Gian thờ bao gồm khu vực chính giữa thờ thánh Antoine, bên trái thờ chúa Jesus, bên phải thờ Đức Mẹ.
Kiến trúc nhà thờ nổi bật bởi tháp chuông nằm ở trung tâm mặt đứng. Tháp chuông được trang trí bởi những đường bao hình cuốn nhọn kiểu Gothique, bên trong là các của đi và cửa số có cùng hình thức tạo ra một ngọn tháp khá giản dị mà hài hòa. Các cửa sổ trên mặt chính và các mặt bên đều theo hình thức cuốn nhọn và được tổ hợp theo kiểu ghép từng cụm ba cửa trên nền tường được làm nhám bằng vữa. Nét đặt biệt ở đây là hệ thống cửa lấy sáng có hình quả trám đặt bên cạnh các motif trang trí hình tròn mang nhiều tính bản địa. Sau này xung quanh nhà thờ còn được trang trí bởi nhiều tượng Thánh có nét điêu khắc rất sinh động.
Mặt dù có quy mô không lớn, trang trí giản đị, nhưng nhà thờ Hàm Long lại có nét độc đáo rất riêng so với đa phần các nhà thờ Thiên chúa giáo khác ở Hà Nội thời Pháp thuộc.

Nhà thờ Làng Tám hay nhà thờ Thịnh Liệt do kiến trúc sư Thân thiết kế. Công trình được xây dựng vào năm 1911 trên một khu đất rộng rãi, thoáng đãng thuộc địa phận làng Thịnh Liệt, phía trước nhà thờ có một hồ nước lớn.

Mặt bằng nhà thờ được cấu trúc theo kiểu Basilica được chia thành 3 phần: tiền sảnh rộng rãi, tiếp đó là khu vực dành cho giáo dân và kết thúc bởi Cung thánh.
Mặt chính nhà thờ có bố cục đối xứng, phần giữa nổi bật với một lối vào hình cuốn vòm đột khởi lên tương đương hai tầng, lộ rõ phần bên trong được trang trí khá cầu kì với những cột mô phỏng thức Corinth đỡ một Fronton theo kiến trúc Phục Hưng, phía trên là những cửa sổ hoa hồng mô phỏng Gothique. Hai tháp chuông nhô cao với phần dưới có tiết diện hình vuông, phía trên là hình bát giác được trang trí cầu kì bởi các cửa cuốn vòm được đỡ bởi các cột Corinth cùng các cửa sổ hoa hồng nhỏ. Mặt đứng còn được trang trí bởi dãy tượng chúa Jesus và các thánh tông đồ đặt trong các cuốn vòm.
Các mặt bên và mặt sau được đặc trưng bởi hệ mái ngói hai lớp, giữa hai lớp mái là các cửa sổ cuốn vòm ghép đôi lồng trong một cuốn vòm trang trí được đỡ bởi các cột nhằm lấy ánh sáng cho lòng nhà thờ. Các cửa sổ lớp dưới cũng theo hình thức cuốn vòm, diềm hai lớp mái đều được trang trí rất cầu kỳ. Kết thúc mặt bên là một Fronton lớn, nhưng trang trí phía trong và phía trên của Fronton này lại là các hoa văn mang tính bản địa.
Kiến trúc nhà thờ Làng Tám mang tính triết chung, đặc trưng bởi sự hòa trộn các phong cách kiến trúc nhà thờ Phương Tây, kết hợp với một số hoạt tiết mang tính dân tộc. Tuy nhiên nhờ sự khéo léo của kiến trúc sư – tác giả, các sắc thấy kiến trúc ở đây vẫn được dung hòa và tọa ra được một tổng thể nhẹ nhàng, thanh lịch. Đây cũng là nhà thờ giàu tính trang trí bậc nhất ở Hà Nội.

Tiểu giáo đường Sainte Marie được xây dựng từ cuối thế kỉ 19 trong quần thể trường Dòng của các nữ tu sĩ dòng Saint Paul, không rõ tác giả thiết kế. Giáo đường chính là nơi các nữ tu tới cầu nguyện hàng ngày và chỉ phục vụ một nhóm đối tượng giáo dân. 

Mặt chính của giáo đường quay ra phố Hai Bà Trưng ngày nay cho thấy kiến trúc công trình theo phong cách Tiền thực dân với một hành lang rất rộng với các cửa sổ cuốn gạch hình cung có khoá vòm. Điểm nhấn của công trình là một tháp chuông nhỏ hình trụ, phía trong có tám cột nhỏ, phía ngoài là bốn cột lớn được trang trí rất tinh tế đỡ mái gác chuông dạng vòm bán cầu, phía trên có thánh giá được trang trí bởi các họa tiết bằng sắt uốn.
Nội thất giáo đường bao gồm ba nhịp, nhịp giữa lớn hơn hai lần nhịp biên. Các nhịp được phân cách bởi hàng cột ghép bởi bốn nửa trụ, đầu cột trang trí bằng các họa tiết hình hoa lá. Các không gian chính trong nội thất gồm khu vực dành cho các nữ tu cầu nguyện và Thánh đường là nơi diễn ra các hoạt động chính của Thánh lễ, khu vực tôn nghiêm nhất trong giáo đường.
Che phủ phần nội thất công trình là các vòm cuốn nhọn kiểu Gothique tạo ra một không gian rộng rãi, khoáng đạt và một khung cảnh nhẹ nhàng, tràn ngập ánh sáng. Bên trong giáo đường vẫn còn giữ được bục giảng là nơi cha xứ giảng lễ, cho đến nay ở Hà Nội chỉ còn nhà thờ Cửa Bắc là nơi thứ hai duy trì được bộ phận này.
Tiểu giáo đường Sainte Marie tuy chỉ là một nhà thờ nhỏ nhưng có những nét kiến trúc đặc sắc và là một chứng tích hiếm thấy của kiến trúc Thiên chúa giáo có niên đại từ thời Tiền thực dân.

Thống kê – Phân loại


Các giá trị kiến trúc – cảnh quan của nhà thờ Thiên chúa giáo

Nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc ở Hà Nội được dựng nên bởi tài năng, trí tuệ và công sức của nhân dân, được chăm chút bởi bàn tay những người thợ tài hoa và sử dụng những vật liệu địa phương quý hiếm. Đa phần các nhà thờ đều đạt được tỉ lệ hài hòa cũng như tương quan thích hợp giữa các thành phần kiến trúc, có giá trị thẩm mỹ cao. Một số nhà thờ còn khai thác những đường nét kiến trúc dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố và thành phần kiến trúc Á-Âu tạo ra ấn tượng đẹp về nhà thờ thiên chúa giáo mang tính độc đáo Việt Nam.
Một số nhà thờ được xây dựng ở những vị trí đẹp trong thành phố hoặc khu dân cư, tạo điểm nhấn cho không gian đô thị. Nhiều nhà thờ còn có diện tích khuôn viên rộng rãi, ngoài công trình chính còn có sân vườn và các hạng mục nhỏ khác, tạo ra những không gian xanh, phá vỡ sự đơn điệu của phố xá.
Như vậy có thể nói nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc đã góp phần tích cực tạo ra sự đa dạng, phong phú cho bộ mặt kiến trúc đô thị Hà Nội, cùng với những thể loại kiến trúc khác tạo ra ấn tượng về sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
  • (*) Có tư liệu cho rằng nhà thờ Cửa Bắc do linh mục, kiến trúc sư Dopolit thiết kế và được xây dựng năm 1931 – 1932, nhưng một số tư liệu khác lại cho rằng linh mục Dopolit chỉ là người khởi xướng việc xây dựng nhà thờ này.
ThS.KTS Trần Quốc Bảo   Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội

Trong quá trình kiếm tìm những hình thức kiến trúc mới đầu thế kỉ 20 nhằm thoát ly khỏi Chủ nghĩa Cổ điển đã đã ngự trị kiến trúc thế giới trong suốt hơn 400 năm trước đó, chủ thuyết Art Deco đóng một vai trò quan trọng. Ảnh hưởng của kiến trúc Art Deco đã thoát ly ra khỏi phạm vi một quốc gia hay một châu lục, những phương cách biểu hiện của Art Deco cũng không chỉ giới hạn ở những công trình kiến trúc thông thường mà còn vươn tới những toà nhà chọc trời ở Mỹ, một biểu tượng của công nghệ xây dựng mới nhất thời bấy giờ.

Ảnh 1: Biệt thự trên phố Đặng Dung
Mặc dù mang danh Art Deco và chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu kiến trúc trước đó như lập thể, trừu tượng, biểu hiện..., kiến trúc Art Deco không tự giới hạn mình vào các hình thức trang trí đơn thuần mà khẳng định tính tiên phong của mình bằng những khối hình học kinh điển trong bố cục không gian. Những băng cửa rộng chạy theo chiều ngang hay chiều dọc trên mặt đứng kết hợp với các hình thức trang trí bằng thép uốn hay việc sử dụng màu sắc cũng là những phương cách biểu hiện mới của Art Deco.

Ảnh 2: Biệt thự trên phố Chu Văn An
Hà Nội những năm 1930 dưới thời thịnh trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, bản qui hoạch đầu tiên của kiến trúc sư E. Hébrard đã bắt đầu hình thành trên thực địa với những với những đại lộ, những con phố mang đậm phong cách Pháp. Mặt đường trải nhựa thẳng tắp, vỉa hè rộng rãi với hai hàng cây xanh, thật khác xa những con đường chật chội trong khu phố cũ. Những lô đất ở đây tiếp tục được lấp đầy bởi các biệt thự, những lô lớn có diện tích tới 5 - 700 m2, thậm chí hàng nghìn m2 phân bố ở khu vực quận Ba Đình và một phần quận Hoàn Kiếm hiện nay, những lô đất nhỏ hơn cỡ 2 - 400 m2 phân bố ở khu vực phía dưới quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng hiện nay.

Ảnh 3: Biệt thự 2 tầng trên phố Lý Thường Kiệt
Kiến trúc biệt thự trên các lô đất này cũng bắt đầu thay đổi. Nhà mái dốc theo phong cách địa phương miền bắc nước Pháp rõ ràng là không thích hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam. Nhà theo phong cách Tân cổ điển với những hình thức trang trí rườm rà lại càng không thích hợp. Việc tìm tòi một hình thức nhà ở mới thích hợp với khí hậu địa phương trở nên cấp thiết, và những biệt thự theo phong cách Art Deco với những cải biên cho phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới Việt Nam tỏ ra rất thích hợp trong giai đoạn này.

Ảnh 4: Một biệt thự trên phố Chu Văn An bị thêm vào tầng mái một cách tuỳ tiện / Ảnh 5: Chi tiết dàn hoa trên mái


Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội có thể được chia thành hai loại theo dây chuyền công năng. Loại công năng hoàn chỉnh - hợp khối và loại công năng không hoàn chỉnh - phân tán. Loại biệt thự công năng hoàn chỉnh thường do các kiến trúc sư người Pháp thiết kế, được xây dựng trên những lô đất có diện tích lớn của các chủ nhân người Pháp hoặc quan lại người Việt (ảnh 1, 2, 3). Loại công năng không hoàn chỉnh và phân tán được xây dựng ở những lô đất có diện tích nhỏ hơn và chủ nhân là người Việt (ảnh 4). Điều này cũng giải thích cho việc bố trí khối nhà phụ tách ra khỏi khối nhà ở rất gần gũi với kiến trúc nhà ở cổ truyền Việt Nam, nó tạo ra một hình thức kiến trúc Hoà trộn (mixte) giữa kiến trúc Pháp và kiến trúc Việt.

Ảnh 6: Chi tiết trang trí lồng cầu thang / Ảnh 7: Chi tiết trang trí cầu thang chính


Về bố trí mặt bằng thì loại biệt thự công năng hoàn chỉnh – hợp khối thường có 3 tầng: Tầng 1 (tầng trệt) bố trí nhà  xe rộng có thể để được tới 2 xe hơi, bếp, phòng ở gia nhân cho nhiều người, khu vệ sinh, kho… có chiều cao tương đối thấp (khoảng 3 m), tầng này còn có tác dụng ngăn cách sàn tầng ở tiếp xúc trực tiếp với mặt đất, ngăn cản hữu hiệu hiện tượng đọng sương trên mặt sàn thường xảy ra trong điều kiện thời tiết ẩm ướt vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân ở Hà Nội. Tầng 2 bố trí phòng khách lớn, phòng sinh hoạt gia đình, giữa hai phòng này thường được liên hệ bằng một cửa đi rộng, phòng ăn bố trí gần cầu thang nội bộ để thuận tiện cho việc đưa đồ ăn từ bếp lên. Tầng 3 là các phòng ngủ trong đó phòng ngủ chính có cửa đi trực tiếp vào khu vệ sinh. Trên tầng thượng thường có một “phòng trà” diện tích khoảng trên chục m2, cửa sổ mở rộng ra các phía, được tổ chức như một nơi tụ tập các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè ăn uống nhẹ vào những buổi tối đẹp trời. Giao thông theo chiều đứng ngôi nhà được đảm trách bởi hai cầu thang, cầu thang chính rộng tới khoảng 2m dẫn từ sân trước lên phòng khách, lan can cầu thang được xây bằng gạch và trang trí rất tinh tế bằng hoa văn hoặc các chậu cây cảnh (ảnh 7). Cầu thang nội bộ bố trí phía trong nhà có chiều rộng nhỏ hơn và thông từ tầng 1 lên tầng thượng.

Ảnh 8: Chi tiết trang trí lan can
Loại biệt thự công năng không hoàn chỉnh - phân tán thường có khối nhà chính 2 tầng: Tầng 1 bố trí  phòng khách và phòng ăn có diện tích không lớn, tầng 2 bố trí các phòng ngủ, khu vệ sinh được tách thành hai phần xí tắm riêng biệt và phục vụ chung cho cả tầng, cầu thang bố trí trong nhà và liên hệ thẳng từ tầng 1 tới sân thượng. Khối nhà phụ nằm phía sau khối chính là nơi bố trí nơi để xe, kho, bếp, khu vệ sinh, phòng ở gia nhân và liên hệ với khối nhà chính qua sân trong.
Về tổ hợp hình khối không gian thì biệt thự Art Deco ở Hà Nội thường sử dụng các khối hình vuông hoặc chữ nhật cho các không gian ở kết hợp với các khối hình bán nguyệt là nơi bố trí lồng cầu thang tạo thành một hình thức kiến trúc mang tính hiện đại và giản dị.
Ngôn ngữ trang trí chủ đạo của biệt thự Art Deco là sử dụng các đường cong làm bớt đi vẻ thô nặng của các khối hình hộp. Vật liệu trang trí chủ yếu là thép uốn với nhiều hình thức phong phú, đôi khi những mảng phù điêu bằng thạch cao hoặc xi măng cũng được sử dụng, kính màu thì chỉ có lác đác ở một vài công trình. Phần mái được tô điểm thêm bởi dàn cây bằng bê tông cốt thép và những hoạ tiết trang trí bằng vữa đắp. Ở những biệt thự lớn thì dàn cây xanh còn được bố trí ở sân vườn hoặc ngay tại sảnh tầng 2 (ảnh 5 và 10).

Ảnh 9: Chi tiết trang trí cửa đi / Ảnh 10: Chi tiết trang trí sân vườn


Phần mái bằng được cấu tạo đặc biệt để phù hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam cũng là một trong những đặc trưng quan trọng của biệt thự Art Deco ở Hà Nội. Mái được cấu tạo bởi hai lớp bê tông cốt thép đổ tại chỗ cách nhau khoảng 0,4 đến 0,6 m, giữa hai lớp này là các lỗ thoáng được đặt ở hai phía đối diện hoặc ở cả 4 phía của ngôi nhà, bên ngoài được trang trí bằng cả chất liệu và mà sắc rất thú vị. Cũng do cấu tạo mái bằng ở kiểu biệt thự này mà lần đầu tiên khái niệm sân thượng được đưa vào kiến trúc nhà ở Việt Nam. Sân thượng cho phép người ở có được những hoạt động tiếp xúc với thiên nhiên vào buổi sáng và buổi tối ngay tại nhà mình, một điểm rất đáng lưu ý trong cuộc sống đô thị. 
Biệt thự Art Deco ở Hà Nội là một phần của di sản kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc, tuy nhiên số lượng biệt thự còn giữ nguyên được dáng dấp ban đầu còn rất ít, chủ yếu là ở khu vực ngoại giao đoàn, đa phần các biệt thự do người Việt Nam ở đã biến dạng và xuống cấp trầm trọng. Do sự thiếu hiểu biết về các đặc trưng của Art Deco nên trong nhiều trường hợp cải tạo hoặc phục dựng một số biệt thự, các nhà thiết kế đã đưa vào những chi tiết kiến trúc rườm rà, xa lạ với phong cách Art Deco, làm hỏng những ngôn ngữ biểu cảm của loại biệt thự này. Thành phố cũng cần có những sách lược nhằm giữ cho di sản biệt thự Art Deco không “biến mất” trong tương lai gần vì đa số các biệt thự đều đã có tuổi thọ trên 70 năm.



Ghi chú: 
  • Ảnh trong bài của Trần Quốc Bảo, Đào Thái Hà, Trần Chí Toàn, Phạm Trường Minh
  • Hình vẽ trong bài của Đào Thái Hà
ThS.KTS Trần Quốc Bảo

Kiến trúc nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc trong không gian đô thị Hà Nội

Khi vào Việt Nam truyền giáo, các đoàn giáo sĩ rất chú trọng tới việc xây dựng nhà thờ. Họ ý thức rằng nhà thờ không chỉ là nơi diễn ra các nghi lễ tôn giáo mà còn là nơi sinh hoạt của cộng đồng Thiên chúa giáo địa phương. Thăng Long – Hà Nội là một trong những địa chỉ hàng đầu trong việc truyền đạo Thiên Chúa ở Việt Nam nên ngay từ thời sơ kỳ truyền giáo, nhà thờ đã được xây dựng.
Tuy nhiên với chính sách cấm đạo dưới thời Lê – Trịnh, các nhà thờ đều bị phá, đất đai bị tịch thu. Chỉ đến khi người Pháp bình định được Bắc Kỳ, khoảng những năm 1886-1887, giám mục Puginier đưa Tòa giám mục Tây Đàng ngoài về Hà Nội, quá trình xây dựng nhà thờ thiên chúa giáo mới phát triển mạnh.
Tới năm 1938, giáo phận Hà Nội có tới 145 nhà thờ lớn nhỏ, trong đó có một số nhà thờ có kiến trúc đẹp, được xây dựng ở những vị trí có thể coi là đắc địa của Thủ đô.

Một số nhà thờ tiêu biểu

Nhà thờ Lớn có tên chính thức là nhà thờ Saint Joseph do giám mục Puginier thiết kế, xây dựng trong những năm 1884-1886 trên khu đất thuộc các thôn Báo Thiên và Chân Cầm, phía Tây hồ Hoàn Kiếm. Khi mới xây dựng đây còn là khu vực hoang vắng, ít nhà cửa. Phải đến thập niên 1890, Rue de la Cathédrale ( phố Nhà Thờ ) mới được xây dựng hướng từ nhà thờ ra hồ Hoàn Kiếm, khi đó vị trí nhà thờ Lớn mới trở nên đắc địa và đóng vai trò quan trọng trong không gian đô thị trung tâm Hà Nội.
Nhà thờ Lớn Hà Nội có mặt bằng theo kiểu Basilica truyền thống – mặt bằng hình chữ nhật có phần cuối hình bán nguyệt. Mặt bằng công trình chia làm ba phần : Sảnh đón tiếp phía trên có Gác đàn ( nơi dành cho ca đoàn và nhạc công ), không gian dành cho giáo dân hành lễ và Cung thánh là nơi cử hành các thánh lễ.
Hình thức mặt đứng cho thấy đặc trưng phong cách kiến trúc Gothique của công trình. Mặt chính chia thành ba phần với hai tháp chuông vút cao ở hai bên, phần giữa thấp hơn được kết thúc bởi một đỉnh tường tam giác với cây Thánh giá như một điểm nhấn. Các mặt đứng nhà thờ sử dụng nhiều đường nét kiến trúc Gothique, cửa số hoa hồng trên mặt chính, các cửa đi và cửa sổ đều có dạng cuốn nhọn và được cấu trúc với số lượng lớn. Tuy nhiên nếu so với những nhà thờ Gothique ở Pháp thì các họa tiết trang trí mặt đứng ở nhà thờ lớn Hà Nội là tương đối đơn giản.

Mặc dù mặt chính chia thành ba phần nhưng nột thất nhà thờ lại được chia thành năm nhịp, nhịp giữa có kích thước lớn hơn hai lần các nhịp biên. Nội thất được trang trí dựa trên cơ sở các cuốn nhọn kiểu Gothique. Khu vực cung thánh được trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống Việt Nam với những chi tiết được chạm trổ hoa văn bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất tinh xảo. Hệ thống cửa sổ cuốn nhọn được lấp đầy bởi các bức tranh Thánh bằng kính màu làm cho không gian nột thất thêm huyền ảo. Như vậy nột thất nhà thờ được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa nghệ thuật trang trí Phương Đông và Phương Tây tạo ra mối giao hòa thú vị giữa hai nền văn hóa chính quốc và bản địa. 
Phía trước nhà thờ còn có một quảng trường với tượng Đức Mẹ ở trung tâm. Quảng trường tuy không lớn nhưng cũng đủ để làm tăng giá trị cảnh quan của công trình.
Với những giá trị vê mặt lịch sử và kiến trúc, lại được xây dưng ở một vị trí đắc địa gần bờ hồ Hoàn Kiếm, nhà thờ Lớn xứng đáng được coi là một di sản văn hóa của Hà Nội, góp phần làm cho bộ mặt kiến trúc khu vực trung tâm Thủ đô thêm sinh động.


Nhà thờ Cửa Bắc có tên chính thức là Giáo đường Nữ vương các thánh tử đạo do kiến trúc sư Enest Hébrard thiết kế. Được xây dựng khoảng những năm 1925 – 1930 trên một khoảng đất chạy dài theo Boulevard Carnot (phố Phan Đình Phùng) nơi giao nhau với Rue Frères Shneider (phố Nguyễn Biểu) (*). 

Mặt bằng không gian nhà thờ được cấu trúc theo nguyên tắc nhà thờ thời kỳ Phục Hưng kiểu chữ thập La Tinh. Mở đầu là một không gian đón tiếp nhỏ, tiếp theo là không gian dành cho các con chiên nghe giảng và kết thúc bởi không gian long trọng  dành cho cha xứ hành lễ. Giữa hai khu vực này là không gian chuyển tiếp lớn dưới một mái vòm hình bán cầu, cánh bên phải là nơi thờ các thánh, cánh trái là nơi tiếp khách của cha xứ. Gác chuông theo hình thức nhấn lệch được bố trí ở phía bên phải lối vào chính. Không gian nội thất được cấu trúc và trang trí hoàn toàn theo kiểu nhà thờ Châu Âu thời Phục Hưng tiền kỳ.
Hình khối công trình rất đặc trưng bởi việc kiến trúc sư – tác giả đã tạo ra ở đây một không gian kiến trúc phi đối xứng với một tháp chuông vút cao phía bên sảnh chính, điều này làm cho nhà thờ Cửa Bắc có được nét độc đáo so với đa phần các công trình Thiên Chúa giáo có hình thức đăng đối nghiêm cẩn được xây dựng ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
Hệ thống mái ngói kiểu Phương Đông được tác giả tổ chức kéo suốt từ gác chuông qua mái vòm tới các không gian chính và phụ cũng là nét đặc sắc của công trình. Các mái chính đều được tổ chức thành hai lớp theo kiểu chồng diêm, giữa chúng là hệ thống cửa sổ lấy sáng lắp kính hoặc cửa thông gió được trang trí bằng các hoạ tiết không quá cầu ký. Ngoài ra còn rất nhiều lớp mái phụ che nắng và chống mưa hắt cho các lối vào, các cửa thông gió lấy sáng, thậm chí còn có những lớp mái nhỏ chỉ mang tính chất trang trí đơn thuần.

Hệ thống cửa lấy sáng và trang trí được tác giả đặc biệt lưu tâm. Đầu tiên phải kể đến hệ ba cửa hoa hồng - một yếu tố trang trí, lấy sáng của kiến trúc Gothique, được đặt vào các mặt đứng phía Tây, Nam và Bắc. Các cửa này đều có diện tích rất lớn và được lắp kính cản quang kết hợp kính màu, tuy nhiên do được trang trí bằng các vòm cuốn và các cột đỡ, lại nằm dưới một hệ trang trí hình tam giác kết thúc các hồi mái nên cảm giác về kiến trúc Gothique ở đây là không còn. Tiếp đến là hệ các cửa lấy sáng cho tháp chuông, mái vòm và các không gian hành lễ. Đây đều là các cửa dạng cuốn vòm hoặc hình tròn có diện tích không lớn nhưng được mở liên tục, xung quanh cửa được trang trí bằng các cột đỡ mái đua khá đẹp và cầu kỳ. Nhờ hệ thống cửa lấy sáng này mà không gian nội thất nhà thờ luôn ngập tràn ánh sáng tự nhiên.
Sự kết hợp các yếu tố kiến trúc Phương Đông với những nguyên tắc tổ chức không gian nhà thờ công giáo truyền thống, sự hài hoà của công trình với cảnh quan thiên nhiên bản địa đã tạo ra được ấn tượng về một công trình Thiên Chúa giáo Việt Nam. Mặc dù ở một vị trí ít được chú ý, nhà thờ Cửa Bắc vẫn có thể được coi là một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất thời kỳ Pháp thuộc ở Hà Nội.


Nhà thờ Hàm Long do một kiến trúc sư người Việt từng du học ở Pháp thường gọi là Docteur Thân thiết kế theo yêu cầu của linh mục Dopolit. Công việc xây dựng hoàn thành năm 1934 trên một khu vực tương đối rộng, nơi giao nhau giữa Boulevard Doudart de Lagré ( phố Hàm Long ) và Rue Jacquin ( phố Ngô Thì Nhậm ). Trên khu đất ngoài nhà thờ có mặt chính quay ra phố Doudart de Lagré, còn có nhà nguyện, nhà ở cha xứ, nhà sách.

Nhà thờ có cấu trúc mặt bằng kiểu basilica được chia thành ba phần chính: tiền sảnh, khu vực dành cho giáo dân và Cung thánh. Gian thờ bao gồm khu vực chính giữa thờ thánh Antoine, bên trái thờ chúa Jesus, bên phải thờ Đức Mẹ.
Kiến trúc nhà thờ nổi bật bởi tháp chuông nằm ở trung tâm mặt đứng. Tháp chuông được trang trí bởi những đường bao hình cuốn nhọn kiểu Gothique, bên trong là các của đi và cửa số có cùng hình thức tạo ra một ngọn tháp khá giản dị mà hài hòa. Các cửa sổ trên mặt chính và các mặt bên đều theo hình thức cuốn nhọn và được tổ hợp theo kiểu ghép từng cụm ba cửa trên nền tường được làm nhám bằng vữa. Nét đặt biệt ở đây là hệ thống cửa lấy sáng có hình quả trám đặt bên cạnh các motif trang trí hình tròn mang nhiều tính bản địa. Sau này xung quanh nhà thờ còn được trang trí bởi nhiều tượng Thánh có nét điêu khắc rất sinh động.
Mặt dù có quy mô không lớn, trang trí giản đị, nhưng nhà thờ Hàm Long lại có nét độc đáo rất riêng so với đa phần các nhà thờ Thiên chúa giáo khác ở Hà Nội thời Pháp thuộc.


Nhà thờ Làng Tám hay nhà thờ Thịnh Liệt do kiến trúc sư Thân thiết kế. Công trình được xây dựng vào năm 1911 trên một khu đất rộng rãi, thoáng đãng thuộc địa phận làng Thịnh Liệt, phía trước nhà thờ có một hồ nước lớn.

Mặt bằng nhà thờ được cấu trúc theo kiểu Basilica được chia thành 3 phần: tiền sảnh rộng rãi, tiếp đó là khu vực dành cho giáo dân và kết thúc bởi Cung thánh.
Mặt chính nhà thờ có bố cục đối xứng, phần giữa nổi bật với một lối vào hình cuốn vòm đột khởi lên tương đương hai tầng, lộ rõ phần bên trong được trang trí khá cầu kì với những cột mô phỏng thức Corinth đỡ một Fronton theo kiến trúc Phục Hưng, phía trên là những cửa sổ hoa hồng mô phỏng Gothique. Hai tháp chuông nhô cao với phần dưới có tiết diện hình vuông, phía trên là hình bát giác được trang trí cầu kì bởi các cửa cuốn vòm được đỡ bởi các cột Corinth cùng các cửa sổ hoa hồng nhỏ. Mặt đứng còn được trang trí bởi dãy tượng chúa Jesus và các thánh tông đồ đặt trong các cuốn vòm.
Các mặt bên và mặt sau được đặc trưng bởi hệ mái ngói hai lớp, giữa hai lớp mái là các cửa sổ cuốn vòm ghép đôi lồng trong một cuốn vòm trang trí được đỡ bởi các cột nhằm lấy ánh sáng cho lòng nhà thờ. Các cửa sổ lớp dưới cũng theo hình thức cuốn vòm, diềm hai lớp mái đều được trang trí rất cầu kỳ. Kết thúc mặt bên là một Fronton lớn, nhưng trang trí phía trong và phía trên của Fronton này lại là các hoa văn mang tính bản địa.
Kiến trúc nhà thờ Làng Tám mang tính triết chung, đặc trưng bởi sự hòa trộn các phong cách kiến trúc nhà thờ Phương Tây, kết hợp với một số hoạt tiết mang tính dân tộc. Tuy nhiên nhờ sự khéo léo của kiến trúc sư – tác giả, các sắc thấy kiến trúc ở đây vẫn được dung hòa và tọa ra được một tổng thể nhẹ nhàng, thanh lịch. Đây cũng là nhà thờ giàu tính trang trí bậc nhất ở Hà Nội.


Tiểu giáo đường Sainte Marie được xây dựng từ cuối thế kỉ 19 trong quần thể trường Dòng của các nữ tu sĩ dòng Saint Paul, không rõ tác giả thiết kế. Giáo đường chính là nơi các nữ tu tới cầu nguyện hàng ngày và chỉ phục vụ một nhóm đối tượng giáo dân. 

Mặt chính của giáo đường quay ra phố Hai Bà Trưng ngày nay cho thấy kiến trúc công trình theo phong cách Tiền thực dân với một hành lang rất rộng với các cửa sổ cuốn gạch hình cung có khoá vòm. Điểm nhấn của công trình là một tháp chuông nhỏ hình trụ, phía trong có tám cột nhỏ, phía ngoài là bốn cột lớn được trang trí rất tinh tế đỡ mái gác chuông dạng vòm bán cầu, phía trên có thánh giá được trang trí bởi các họa tiết bằng sắt uốn.
Nội thất giáo đường bao gồm ba nhịp, nhịp giữa lớn hơn hai lần nhịp biên. Các nhịp được phân cách bởi hàng cột ghép bởi bốn nửa trụ, đầu cột trang trí bằng các họa tiết hình hoa lá. Các không gian chính trong nội thất gồm khu vực dành cho các nữ tu cầu nguyện và Thánh đường là nơi diễn ra các hoạt động chính của Thánh lễ, khu vực tôn nghiêm nhất trong giáo đường.
Che phủ phần nội thất công trình là các vòm cuốn nhọn kiểu Gothique tạo ra một không gian rộng rãi, khoáng đạt và một khung cảnh nhẹ nhàng, tràn ngập ánh sáng. Bên trong giáo đường vẫn còn giữ được bục giảng là nơi cha xứ giảng lễ, cho đến nay ở Hà Nội chỉ còn nhà thờ Cửa Bắc là nơi thứ hai duy trì được bộ phận này.
Tiểu giáo đường Sainte Marie tuy chỉ là một nhà thờ nhỏ nhưng có những nét kiến trúc đặc sắc và là một chứng tích hiếm thấy của kiến trúc Thiên chúa giáo có niên đại từ thời Tiền thực dân.

Thống kê – Phân loại


Các giá trị kiến trúc – cảnh quan của nhà thờ Thiên chúa giáo

Nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc ở Hà Nội được dựng nên bởi tài năng, trí tuệ và công sức của nhân dân, được chăm chút bởi bàn tay những người thợ tài hoa và sử dụng những vật liệu địa phương quý hiếm. Đa phần các nhà thờ đều đạt được tỉ lệ hài hòa cũng như tương quan thích hợp giữa các thành phần kiến trúc, có giá trị thẩm mỹ cao. Một số nhà thờ còn khai thác những đường nét kiến trúc dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố và thành phần kiến trúc Á-Âu tạo ra ấn tượng đẹp về nhà thờ thiên chúa giáo mang tính độc đáo Việt Nam.
Một số nhà thờ được xây dựng ở những vị trí đẹp trong thành phố hoặc khu dân cư, tạo điểm nhấn cho không gian đô thị. Nhiều nhà thờ còn có diện tích khuôn viên rộng rãi, ngoài công trình chính còn có sân vườn và các hạng mục nhỏ khác, tạo ra những không gian xanh, phá vỡ sự đơn điệu của phố xá.
Như vậy có thể nói nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc đã góp phần tích cực tạo ra sự đa dạng, phong phú cho bộ mặt kiến trúc đô thị Hà Nội, cùng với những thể loại kiến trúc khác tạo ra ấn tượng về sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
  • (*) Có tư liệu cho rằng nhà thờ Cửa Bắc do linh mục, kiến trúc sư Dopolit thiết kế và được xây dựng năm 1931 – 1932, nhưng một số tư liệu khác lại cho rằng linh mục Dopolit chỉ là người khởi xướng việc xây dựng nhà thờ này.


Kiến trúc trường học phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội

Trong thời kỳ tiến hành Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, đặc biệt từ 1920, năm mở đầu cho Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương, rất nhiều người Pháp mang theo cả gia đình sang Hà Nội làm ăn, sinh sống. Nhu cầu học hành cho con em của họ dẫn tới việc xây dựng một loạt trường học dành cho học sinh người Pháp. Mở đầu là trường Grand Lycée Albert Saraut, tiếp đến là các trường Petit Lycée và trường Nữ học Pháp. Vì là các trường dành riêng cho con em người Pháp nên các nhà đầu tư cũng muốn đưa phong cách kiến trúc Địa phương Pháp vào việc xây dựng các ngôi trường này để thoả mãn tâm lý nhớ quê hương của những học sinh mới sang Việt Nam.

Ảnh 1: Trường Grand Lycée (Ảnh chụp đầu thế kỷ 20). Nguồn: myhanoigroup.com 
Phong cách kiến trúc Địa phương Pháp của các trường học đầu tiên giành cho học sinh người Pháp gây ấn tượng mạnh đến mức mà sau đó, các trường học dành cho học sinh người Việt như các trường Lycée du Protectat, École Normale Supérieur Đỗ Hữu vị, Collège Henri Russier… đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc Địa phương Pháp.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì hầu hết các trường học ở Hà Nội xây dựng dưới thời kỳ Pháp thuộc mang phong cách kiến trúc Địa phương Pháp. Chúng tôi cũng chưa phát hiện ra một công trình công cộng nào lớn mang chức năng khác được thiết kế theo phong cách này.
Trường Grand Lycée Albert Saraut (nay là trụ sở Ban Đối ngoại trung ương Đảng trên phố Hoàng Văn Thụ) có thể coi là trường học bậc phổ thông lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội dưới thời Pháp thuộc, nhưng vì một số lý do chúng tôi chưa khảo sát được (Ảnh 1). Dưới đây là một số trường mà chúng tôi coi là tiêu biểu và có giá trị về mặt kiến trúc ở Hà Nội.
Trường Petit Lycée (trường PTTH Trần Phú ngày nay) được xây dựng cùng thời gian với trường Grand Lycée, tạo thành một cặp trường học theo mô hình các đô thị lớn ở Pháp, trong đó trường Petit Lycée dành cho học sinh các lớp thấp trong khối trung học thời bấy giờ.

Ảnh 2: Trường Petit Lycée
- Hình vẽ: Phạm Duy Tùng  

Trường được xây dựng trên khu đất rộng, án ngữ bởi ba đường phố, trong đó có hai trục phố lớn lúc bấy giờ là các phố Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và phố Rialan (phố Phan Chu Trinh). Tổng thể trường học gồm hai khối nhà: khối nhà học hai tầng hướng ra phố Rollandes, khối xưởng trường và các phòng thí nghiệm mọt tầng cách khối nhà học một khoảng sân rộng có hành lang cầu nối giữa chúng.
Nhà học chính hình chữ U gồm hai tầng, có hành lang cầu mái ngói đón từ cổng trường dẫn vào chính sảnh. Nhà được cấu trúc theo kiểu hai hành lang bên phía trước và phía sau, mỗi hành lang rộng 2m có hệ thống cửa sổ hành lang bao gồm cửa kính trong chớp ngoài. Cấu trúc mặt bằng theo kiểu đối xứng hoàn toàn. Tầng một có khu vực trung tâm là khối văn phòng và phòng nghỉ giáo viên, các phòng học được bố trí ở hai phía, mỗi phía gồm 4 lớp học dọc theo hành lang và một lớp được bố trí ở cánh chữ U, các phòng vệ sinh được bố trí ở hai đầu hồi có hệ thống cửa lấy sáng theo phương đứng. Ngăn cách giữa khối phòng học và khối văn phòng là hai cầu thang rộng 1,2m dẫn lên tầng hai. Khu vực trung tâm tầng 2 được bố trí các phòng làm việc, phòng hội đồng, các phòng học cũng được bố trí ở hai phía tương tự tầng 1, sàn phòng học bằng gỗ lim có tầng cách âm, ngoài ra còn có một cầu thang cuốn dẫn lên tầng 3, thực chất chỉ là một tầng chống nóng cho khu vực trung tâm nên khá thấp và có các cửa thông gió chèn gạch hoa ở các phía.
Hình khối không gian của khối nhà học được bố trí theo dạng đăng đối nghiêm ngặt với khối nhà hình chữ U có hai cánh bao lấy sân trước. Khối trung tâm được nhấn mạnh bởi chiều cao nổi trội với tháp đồng hồ ở giữa, các cửa sổ dạng cuốn vòm với bán kính cong nhỏ dần theo phương đứng, dãy cửa thông gió trang trí bằng gạch hoa kết hợp với hàng công son bằng gỗ tiện đõ bờ mái làm tăng thêm vẻ kỳ thú của toà nhà, tháp đồng hồ được trang trí cầu kỳ tạo ra điểm nhấn cho khối trung tâm. Các khối phòng học ở hai phía có phong cách trang trí thống nhất với khối trung tâm nhưng có độ cao thấp hơn, cửa sổ cuốn vòm với bán kính nhỏ dần theo chiều đứng, mái được đưa ra khỏi tường khá nhiều và được đõ bởi hệ công son gỗ, các chi tiết trang trí bằng gạch trần tuy không cầu kỳ nhưng có tính thẩm mỹ cao.
Mặc dù mang phong cách kiến trúc Địa phương Pháp, nhưng các kiến trúc sư - tác giả toà nhà đã có những biến đổi về mặt bằng - không gian cho phù hợp điều kiện khí hậu nhiệt đới Hà Nội với kiểu bố cục hành lang rộng có cửa sổ bao quanh các lớp học làm cho các phòng học luôn thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông. Tầng áp mái với hàng cửa thông gió trang trí bằng gạch hoa vừa có tính cách nhiệt tốt, vừa mang lại tính thẩm mỹ cao cho toà nhà. Nhìn chung thì đây là công trình công cộng phong cách Địa phương Pháp hầu như duy nhất ở Hà Nội, có “bóng dáng” nhiệt đới hoá, lại được nằm trong hệ thống cây xanh đặc trưng Hà Nội nên tạo ra cảm giác gần gũi với môi trường đô thị Thủ đô (Ảnh 2).
Trường Nữ học Pháp (nay là trụ sở Bộ Tư pháp) được xây dựng khoảng cuối những năm 1920 trên đường Gallieni (phố Trần Phú) và được giới hạn bởi các phố Brière de l’Isle (đường Hùng Vương) và Van Vollenhoven (phố Chu Văn An). Về qui mô xây dựng thì đây là trường phổ thông lớn thứ hai ở Hà Nội, chỉ sau Lycée Albert Saraut, và được dành riêng cho các nữ học sinh người Pháp.

Ảnh 3: Trường Nữ học Pháp 

Trên mặt bàng tổng thể thì trường được hợp thành bởi khối nhà học chính ba tầng ở trung tâm, hai nhà điều hành được xây dựng giống như hai biệt thự ở hai phía của nhà chính theo qui luật đăng đối. Sân trường và các khu sinh hoạt ngoài trời bố trí phía sau.
Nhà học chính có ba tầng, tầng một bao gồm một chính sảnh rất rộng phù hợp với công năng đón / thoát người của một trường học lớn. Từ chính sảnh có thể theo hai hành lang bên rộng 1,8m tới các lớp học ở hai phía, cuối các hành lang là sảnh nhỏ dùng để thoát người có bố trí cầu thang phụ được chiếu sáng bởi các cửa kính lớn ở đầu hồi nhà và khu vệ sinh. Từ sảnh chính cũng có thể lên tầng hai bằng một cầu thang lớn hình chữ T rộng tới 3,2m. Tầng hai gồm phòng nghỉ giáo viên ở giữa và 12 lớp học được bố trí ở hai phía, các lớp học được bố trí ở một phía hành lang phía sau toà nhà và nhìn ra sân chơi. Tầng ba chỉ có ở khu trung tâm và có lẽ chỉ mang yếu tố thẩm mỹ cho mặt đứng chứ không có chức năng gì đặt biệt.
Về mặt tổ hợp hình khối không gian kiến trúc thì toà nhà được bố cục theo phong cách đối xứng hoàn toàn với khối trung tâm cao ba tầng nổi bật ở giữa. Khối nhà này được trang trí khá cầu kỳ với lượng mở cửa nhỏ dần theo chiều cao, các cửa cũng được kết thúc theo qui luật cuốn vòm bán kính nhỏ dần theo phương đứng. Các họa tiết trang trí ở phần tiền sảnh, xung quanh các cửa và giữa các tầng được gia công rất tinh tế. Mái ngói bốn mặt tạo ra một đỉnh nhọn, được cấu tạo nhô ra khỏi mặt tường một khoảng cách khá lớn và được đỡ bởi một hệ công son gỗ hình tam giác mảnh. Tháp đồng hồ nhỏ cắt giữa mái mang tinh thần kiến trúc cổ điển tạo ra nét duyên dáng và độc đáo của công trình này. Hai khối phòng học bên cao hai tầng với mặt đứng được tạo thành bởi các cửa sổ phòng học kết thúc theo chiều ngang ở tầng một và cuốn vòm ở tầng hai. Các hoạ tiết quanh cửa được bố trí khá cầu kỳ và thống nhất với khối trung tâm. Mái ngói cũng được đưa ra khỏi mặt tường một khoảng cảnh lớn và được đỡ bởi hệ công son kép. Đầu hồi nhà được kết thúc bởi hệ thống cửa lấy sáng cho cầu thang theo kiểu giật cấp khá độc đáo.

Trường Nữ học Pháp - Hình vẽ: Phạm Duy Tùng  
Đối xứng qua trục chính của nhà học là ngôi nhà kiểu biệt thự hai tầng giống nhau hoàn toàn với cấu trúc hành lang giữa rộng 1,8m, hai bên là các phòng làm việc, giao thông theo chiều đứng được đảm nhiệm bởi một cầu thang bố trí phía đầu hồi nhà. Để hài hoà với nhà học chính, kiến trúc của hai biệt thự này cũng có một khối nhô lên ở giữa, tiền sảnh nhô ra tạo thành một hiên nhỏ, tường và cửa được trang trí theo cùng mẫu hình với nhà chính, mái ngói vươn ra khỏi tường và được đỡ bởi hệ công son gỗ đặc biệt cầu kỳ ở khối giữa. Nét duyên dáng riêng của hai biệt thự này là có nhiều ban công trang trí bằng hệ con tiện nhô ra ở cả bốn phía.
Với tỷ lệ hình khối độc đáo, phương cách tổ chức mặt đứng hài hoà, các hoạ tiết trang trí có tính thẩm mỹ cao, trường Nữ học Pháp có thể được coi là trường học đẹp nhất ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc này (Ảnh 3).
Trường Lycée du Protectorat còn gọi là trường Bưởi (trường PTTH Chu Văn An ngày nay) bắt đầu hoàn thành từ năm 1908, ban đầu chỉ là trường Collège du Protectorat (Tương đương trường trung học cơ sở hiện nay) và được nâng cấp thành trường Lycée (Trung học phổ thông) vào năm 1931.

Ảnh 4: Trường Collège du Protectorat

Khác với các trường trung học xây dành cho học sinh người Pháp được xây dựng theo kiểu tập trung ở các khu vực trung tâm thành phố, trường dành cho học sinh người Việt được xây dựng theo kiểu phân tán ở khu vực ngoại vi Hà Nội lúc bấy giờ thuộc địa phận làng Thụy Khuê (phố Thụy Khuê ngày nay). Trong khuôn viên nhà trường có tới 3 nhà học, 2 nhà thí nghiệm và xưởng trường, một nhà điều hành và một biệt thự cho giám đốc trường (*) được xây dựng trong các thời kỳ khác nhau.
Hai nhà học xây dựng những năm đầu thế kỷ 20 là các tòa nhà 3 tầng, hành lang bên rộng 2,5m, hành lang tầng 1 kiểu cuốn vòm mở ra bên ngoài, hành lang tầng 2 và 3 có hệ thống cửa sổ hành lang hai lớp kính - chớp. Liên hệ giữa các tầng là một cầu thang trung tâm rộng 1,2m, hai phía bố trí các phòng học, đầu hồi là khu vệ sinh. Hình khối không gian của hai tòa nhà cũng rất đơn giản, các cuốn vòm ở tầng 1 và các hệ thống cửa sổ tầng 2 và 3 gần giống nhau hoàn toàn trên bộ chiều dài nhà, không có bất kỳ sự nhấn mạnh nào ở khu vực trung tâm. Hình thức trang trí đơn giản, mái ngói với hệ thống sê nô thoát nước bằng tôn làm cho hình thức các tòa nhà này tương đối nhàm chán.
Tòa nhà học thứ ba cũng cao 3 tầng xây dựng khoảng những năm 1920, phong cách bố trí mặt bằng giống như hai tòa đã xây trước đó. Tuy nhiên trong việc tổ hợp hình khối kiến trúc và trang trí thì ở tòa nhà này đã có sự nâng cấp. Bên cạnh các cuốn vòm ở tầng 1 và hệ thống cửa sổ các tầng trên đã được thêm vào một số yếu tố trang trí trang nhã hơn, đặc biệt là hệ thống sê nô bê tông cốt thép mở rộng phía dưới lớp mái ngói được đỡ bởi hàng công son uốn cong làm cho tòa nhà trở nên uy nghi hơn. Nhìn chung thì đây là kiến trúc có giá trị duy nhất trong ba tòa nhà học của trường.

Ảnh 5: Nhà điều hành trường Lycée du Protectorat 
 

Hai nhà thí nghiệm và xưởng trường một tầng nằm đối diện với các nhà học qua sân trường, được xây dựng khoản đầu những năm 1920. Mặt nằng bố trí theo kiểu hành lang bên có cửa sổ rộng 2,0m, ở giữa là các phòng thí nghiệm rộng rãi, hai đầu bố trí các phòng chuẩn bị và kho dụng cụ. Mặc dù chỉ là công trình phụ trợ, có độ cao khiêm tốn so với nhà học nhưng hai nhà thí nghiệm lại được thiết kế khá đẹp. Hệ thống cửa sổ và cửa đi kiểu cuốn vòm với các chi tiết trang trí bằng gạch trần và đắp vữa khá bắt mắt. Đầu hồi xử lý kiểu giật cấp với hệ cửa sổ theo phương đứng. Mái đua ra khỏi tường khá rộng và được đỡ bởi hệ công xon gõ tiện dạng kép trang trí công phu.
Khối văn phòng nhà trường được bố trí trong một ngôi nhà hai tầng kiểu biệt thự hành lang giữa, hai phía là các phòng làm việc, cầu thang và khu vệ sinh bố trí ở đầu hồi. Hình khối kiến trúc ngôi nhà khá đẹp do kiểu bố trí mặt bằng giật cấp tạo ra các khối trên mặt đứng. Cửa sổ và cửa đi được kết thúc bởi các cuốn vòm kết hợp với các họa tiết trang trí đơn giản nhưng trang nhã. Mái ngói có độ dốc vừa phải với khối thang nhô cao tạo điểm nhấn cho ngôi nhà. 
Có thể nói trường Lycée du Protectorat là một điển hình cho dạng trường học cấu trúc phân tán ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc. Hai tòa nhà học xây dựng giai đoạn đầu có chất lượng thẩm mỹ không cao, nhưng các khối nhà xây dựng sau đó thì khá đẹp. Sự kết hợp giữa các tòa nhà và khối cây xanh trong sân trường tạo ra một tổng thể kiến trúc hài hòa mang đậm chất “ học đường” mà các trường dành cho học sinh người Pháp không có được (Ảnh 4,5).
Trường École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị (trường THPT Phan Đình Phùng ngày nay) thành lập năm 1923 là một trường học lớn thời bấy giờ, về tầm vóc có thể so sánh với trường Bưởi, trường Đồng Khánh (trường THCS Trưng Vương ngày nay) và đều là những trường dành cho học sinh người Việt.

Ảnh 6: Trường École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị 

Trường nằm trên một khuôn viên rộng rãi được giới hạn bởi các phố Carnot (phố Phan Đình Phùng), Đỗ Hữu Vị (phố Cửa Bắc) và Grand Bouddha (Phố Quán Thánh). Nhà học chính là một tòa nhà ba tầng bố cục gần đăng đối. Mặt bằng các tầng bố trí như nhau theo kiểu hàng lang bên rộng 2,5m bao gồm cầu thang chính bằng gỗ rộng ở giữa, mỗi bên bố trí bốn lớp học, đầu hồi phía bên trái là khu vệ sinh, hồi phải bố trí thang phụ. Hình thức kiến trúc của tòa nhà gần giống với kiểu kiến trúc tòa nhà học xây những năm 1920 ở trường Bưởi nên cũng khá đẹp. Hàng lang tầng một được mở rộng ra sân trường bởi hành lang cuốn vòm trang trí khá cấu kỳ, hành lang các tầng 2 và 3 có cửa sổ hai lớp. Hình thức trang trí mặt đứng tương đối phong phú bao gồm các mô típ trang trí bằng vữa đắp kết hợp với cách trang trí bằng gạch trần phía trên cửa sổ tầng 3 kết hợp với hệ sê nô bê tông mở rộng tạo ra sự kết thúc rõ rệt của tòa nhà theo phương đứng. Nhà thí nghiệm và xưởng trường nằm vuông góc và được nối với nhà học bởi một hành lang cầu mái ngói. Đây là một ngôi nhà được cấu trúc khá độc đáo với hành lang bên rộng 2,0m quay vào sân trường có cửa sổ hai lớp, giữa hành lang và không gian bên trong chỉ được phân định tương đối bằng những cuốn vòm, mặt đứng quay ra phố Đỗ Hữu Vị được trang trí bằng hệ thống cửa sổ cao và các công xon gõ đỡ mái ngói khá đẹp nhưng nay đã xuống cấp trầm trọng.
Khối nhà văn phòng của trường được bố trí trong một biệt thự hai tầng quay ra phố Carnot. Đây thực chất là một nhà làm việc kiểu hành lang giữa xây dựng theo phong cách biệt thực địa phương Pháp khá xinh xắn nhưng cũng đã bị xuống cấp nặng nề và hiện đang trong quá trình tu bổ. 
Cũng giống như trường Bưởi, École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị là một ngôi trường xây dựng theo kiểu phân tán trong một khuôn viên cây xanh rất rộng. Tuy nhiên khuôn viên nhà trường ngày nay đã bị thu hẹp, lại có nhiều nhà học mới xây chen vào nên giá trị về mặt kiến trúc tổng thể bị giảm đi đáng kể (Ảnh 6).
Nhận xét
- Kiến trúc các công trình công cộng phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội chủ yếu được thể hiện ở thể loại công trình trường học. Ban đầu là các trường dành cho học sinh người Pháp nên chúng được xây dựng theo phong cách Địa phương Pháp nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý nhớ quê hương của học sinh. Sau đó thì các trường học xây dành cho học sinh người Việt cũng chịu ảnh hưởng của phong cách kiến trúc này.
- Kiến trúc trường học phong cách Địa phương Pháp ở Hà Nội chủ yếu ảnh hướng bởi kiến trúc miền Bắc và Tây Bắc nước Pháp với hệ thống các họa tiết trang trí trên mặt đứng có sự kết hợp với kiến trúc miền Trung nước Pháp chủ yếu thông qua bộ mái.
- Kiến trúc trường học phong cách Địa phương Pháp có thể được chia thành hai nhóm: Nhóm các trường dành cho học sinh người Pháp như Grand Lyceé, Petit Lyceé, trường Nữ học Pháp mang tính hợp khối cao, nhà học chính đồ sộ và được cấu tạo đầy đủ các bộ phận như chính sảnh, các phòng nghỉ giáo viên… Nhóm các trường dành cho học sinh người Việt như trường Bưởi, trường Đỗ Hữu Vị, trường Henri Russier được thiết kế theo kiểu phân tán với các khối nhà học và các thí nghiệm được thiết kế tương đối đơn giản, công năng không đầy đủ, nhưng lại được xây dựng trong những khuôn viên cây xanh rộng nên tạo ra được những tổng thể trường học mang tính “sư phạm” hơn. 


Kết luận
- Các công trình kiến trúc phong cách Địa phương Pháp là một bộ phận không thể tách rời  trong di sản kiến trúc Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc.
- Kiến trúc phong cách Địa phương Pháp ở Hà Nội mặc dù mang đặc tính của kiến trúc các vùng miền khác nhau của nước Pháp, xong khi được xây dựng trong môi trường cảnh quan Hà Nội đã có những biến đổi nhất định và góp phần quan trọng vào bộ mặt kiến trúc một số khu vực nội thành Hà Nội, đặc biệt là khu trung tâm quận Ba Đình, nơi có nhiều trường học được bảo quản và duy tu tương đối tốt.
- Do chưa được đánh giá một cách đầy đủ và thận trọng nên một số công trình đã bị phá bỏ một cách đáng tiếc như tòa nhà học trường Collège Henri Russier (trường PTCS Nguyễn Công Trứ ngày nay) trên phố Nguyễn Trường Tộ, hay bị thu hẹp diện tích, để xuống cấp một số nhà đã có và đưa vào những công trình xây dựng dạng nhái Pháp cổ, hoàn toàn xa lạ về mặt phong cách với công trình kiến trúc Địa phương Pháp chủ đạo làm giảm đáng kể giá trị không gian kiến trúc tổng  như trường THPT Phan Đình Phùng trên phố Cửa Bắc.
- Việc cải tạo các công trình kiến trúc phong cách Địa phương Pháp cho phù hợp với điều kiện sử dụng mới là cần thiết, xong khi đặt ra phương án cải tạo, các kiến trúc sư cần nắm vững đặc tính cơ bản của phong cách kiến trúc này để tránh việc phá vỡ không gian tổng thể hoặc đặc tính kiến trúc của những công trình này.
  • CHÚ THÍCH
(*) Biệt thự của viên Đốc học là dạng nhà ở được xây dựng theo phong cách tân cổ điển kiểu đế chế mang tính chiết trung nên chúng tôi không đề cập đến trong bài báo  này.
- Ảnh trong bài : KTS Trần Quốc Bảo 
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
- Đặng Thái Hoàng: Kiến trúc Hà Nội thế kỷ XIX – XX. NXB Hà Nội, 1995
- F.Teronobu, Phạm Đình Việt và cộng sự: Bảo tồn di sản kiến trúc Hà Nội. NXB Xây dựng, 1997
- Hữu Ngọc, L. Borton: Kiến trúc Pháp ở Hà Nội. NXB Thế giới
- Nguyễn Đình Toàn: Những nhân tố tự nhiên và truyền thống văn hoá bản địa trong kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ, 1997
- Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông: Thăng Long – Hà Nội, mười thế kỷ đô thị hoá. NXB Xây dựng, 2004
- Trần Huy Liệu: Lịch sử thủ đô Hà Nội. NXB Hà Nội, 2000.
Tiếng Pháp
- C. Pédelahore : Hanoi, le miroir de l’architecture indochinoise. Grase, 1982 
- C. Pédelahore : Les éléments constitutifs de la ville de Hanoi. Grase, 1982
- L. G. Pineau : Urbanisme en Indochine. Hanoi, 1943


ThS.KTS Trần Quốc Bảohttp://ashui.com/mag/chuyenmuc/kien-truc/1225-kien-truc-truong-hoc-phong-cach-dia-phuong-phap-o-ha-noi.html

Kiến trúc nhà công cộng phong cách Art Deco ở Hà Nội

Năm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, nước Pháp ra khỏi cuộc chiến với tư cách người thắng trận, song trên thực tế, kinh tế Pháp đã suy thoái nghiêm trọng, vị thế của nước Pháp trên trường quốc tế cũng bị lung lay. Do vậy, một chương trình khai thác thuộc địa trên quy mô rộng lớn nhằm khôi phục nền kinh tế và địa vị của nước Pháp trên trường quốc tế đã được thông qua năm 1921.
Tại Hà Nội, nhiều doanh nghiệp lớn của Pháp cùng một số doanh nghiệp nhỏ của người Hoa, người Việt cũng ra sức đầu tư xây dựng trụ sở giao dịch, nhà máy, xí nghiệp. Số lượng người Pháp tới đây làm việc ngày càng nhiều nên một số trường học, bệnh viện nhà hàng cũng được xây thêm.
Cùng trong thời gian này, ở Pháp và Châu Âu đang thịnh hành một trào lưu kiến trúc mới dựa trên cơ sở thẩm mỹ lập thể, sử dụng chủ yế những khối hình kinh điển trong bố cục không gian, bài bác tính đối xứng nghiêm ngặt và sự rườm rà trong các chi tiết của kiến trúc Tân Cổ điển đang rất thịnh hành trước đó. Ý tưởng thiết kế mới này hoàn toàn phù hợp với những công trình kinh tế mang tính công năng cao, nên nhanh chóng có được  sự đón nhận nhiệt tình của các nhà đầu tư bất động sản ở Hà Nội lúc bấy giờ. 

Ảnh 1: Nhà in IDEO (nay là trung tâm văn hoá Pháp l’Espace) 
Trong những năm 1920 – 1930, rất nhiều công trình công cộng lớn theo phong cách Art Deco được xây dựng ở Hà Nội: Nhà in IDEO, Trụ sở công ty AVIAT, trụ sở Crédit Foncier, chi nhánh Ngân hàng Đông Dương, trụ sở Phòng Thương mại (Chambre du Commerce), nhà thương René Robin, nhà hàng Godard....
Năm 1907, nhà máy in IDEO bắt đầu được xây dựng, ban đầu đó chỉ là một xưởng in một tầng trên phố Paul Bert (nay là phố Tràng tiền), đến những năm 1920 một toàn nhà 6 tầng được xây dựng ở vị trí phía ngoài xưởng in giáp mặt phố, tới lúc này công năng của một nhà máy in mới hoàn chỉnh. Tầng 1 là xưởng đặt máy móc và kho giấy với mặt bằng được trải rộng về phía sau toà nhà, các tầng trên bố trí các phân xưởng phù trợ như sắp chữ, sửa bản in và bộ phận hành chính.
Toà nhà chính của nhà in IDEO là một tác phẩm kiến trúc hiện đại đầy ấn tượng với thời bấy giờ. Nhà bố cục kiểu đăng đối với khối giữa 6 tầng, hai bên là 2 khối nhà 5 tầng. Tầng 1 gồm sảnh chính, lối tiếp cận cho xe ra vào, toàn bộ không gian còn lại mở rộng và tạo ra một không gian liên tục với khu xưởng phía sau toà nhà. Cửa kính chiếm diện tích chủ đạo trên mặt đứng, được phân vị theo phương ngang ở khối trung tâm và theo phương đứng ở hai khối phụ. Tuy nhiên có thể vì đây là công trình công cộng đầu tiên được xây dựng ở Hà Nội nên những giải pháp thích ứng khí hậu nhiệt đới chưa được chú trọng đầy đủ.
Với chiều cao 6 tầng, toà nhà IDEO được coi là công trình kiến trúc cao nhất Hà Nội thời Pháp thuộc, kỉ lục này còn được giữ tới tận thập kỷ 1990 khi khách sạn Hà Nội cao11 tầng đi vào hoạt động.

Ảnh 2: Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương (thiết kế ban đầu) 
Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương ở Hà Nôi được đặt ở vị trí rất đắc địa, nằm án ngữ đồng thời cũng là điểm kết thúc trục vườn hoa Paul Bert đặt vuông góc với Hồ Hoàn Kiếm. Thiết kế ban đầu do KTS Félix Dumail hoàn thành năm 1928 theo phong cách Tân Cổ Điển để có được sự hoà hợp với phong cách kiến trúc các toà nhà nằm hai phía của trục quy hoạch này như Toà Thị chính, Kho bạc, Bưu điện, Phủ Thống Sứ. Tuy nhiên đến khi xây dựng vào đầu những năm 1930 thì hình thức kiến trúc công trình đã được KTS Georges Trouvé thiết kế lại theo phong cách Art Deco điển hình.
Cấu trúc toà nhà gồm 3 tầng: Tầng trệt xây tường rất dày, cửa sổ mở nhỏ là nơi bố trí các kho tiền, kim loại quý và các phòng phục vụ. Tầng một là không gian giao dịch thông tầng ở khu trung tâm với những vòm bê tông cốt thép lắp kính trên mái. Tầng hai gồm các phòng làm  việc bố trí ở ba phía bao lấy khối trung tâm. Cấu trúc nêu trên cho thấy công trình được thiết kế theo mô hình chủ đạo của các ngân hàng Pháp thời bấy giờ. 
Ngôn ngữ kiến trúc chủ đạo của công trình là khối hộp hình học đơn giản với những ô cửa mạch lạc theo chiều đứng. Chính sảnh là một khối hình bán trụ được trang trí bằng các mảng tường hoa có tác dụng lấy ánh sáng tự nhiên, phía trên là các khối hình tròn có bán kính nhỏ dần, thực chất để che một mái vòm có các lỗ kính lấy sáng được tổ chức theo hình tròn và hình tia rất thú vị. Toàn bộ hệ thống cửa sổ kính được bố trí lùi lại so với mặt tường ngoài để tránh ánh nắng chói chang vùng nhiệt đới, bên ngoài cửa kính có bố trí một hệ thống cửa cuốn gỗ di rộng để che nắng khi cần thiết nhưng khi cuốn lên thì ánh sáng tràn vào nhà qua các tấm kính lớn kết hợp với ánh sáng từ các vòm trần tạo ra một không gian giao dịch ngập tràn ánh sáng tự nhiên.

Ảnh 3: Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương (nay là trụ sở Ngân hàng nhà nước) 
Dù thiết kế theo phong cách Art Deco điển hình, kiến trúc sư G. Trouvé cũng mang một phần thần thái của kiến trúc nhiệt đới Việt Nam vào toà nhà khi xử lý bộ mái đua rất rộng, phía dưới là một loạt các hoạ tiết trang trí mô phỏng các hoạ tiết Việt Cổ. Hệ thống tường hoa trang trí và che nắng ở chính sảnh cũng như hệ thống cửa cuốn che nắng là một biểu hiện sáng tạo của tác giả khi đặt một công trình Art Deco vào điều kiện khí hậu nhiệt đới của Hà Nội.
Với tỷ lệ hình khối hài hoà, phong cách xử lý mặt đứng mạch lạc, không gian nội thất tràn đầy ánh sáng, lại được xây dựng ở một vị trí đắc địa, Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương có thể được coi là công trình Art Deco hoàn hảo nhất ở Hà Nội. 
Trong những năm 1930, một công trình kiến trúc lớn trên đại lộ Francis Garnier (Phố Đinh Tiên Hoàng hiện nay), trụ sở Quĩ tín dụng bất động sản cũng do KTS G. Trouvé thiết kế được xây dựng . Đây là một công trình thương mại điển hình với mặt đứng bám theo 3 mặt phố, trong đó có hai trục thương mại lớn của Hà Nội lúc bấy giờ là phố Paul Bert và đại lộ Francis Garnier nối với đại lộ Đồng Khánh (phố Hàng Bài). Toà nhà gồm 3 tầng, tầng 1 được xây trên toàn bộ diện tích khu đất hình chữ nhật với hệ lưới cột bê tông cốt thép tương đối lớn cho phép sử dụng làm nơi giao dịch với khách hàng. Hai tầng trên hình chữ U bám theo mặt phố theo dạng nhà hành lang giữa kết hợp hành lang bên bố trí các phòng làm việc. Giao thông theo chiều đứng bao gồm cầu thang chính và thang máy nhìn ra đại lộ F. Garnier, ngoài ra còn có 2 cầu thang phụ ở cuối hai cánh nhà, trong đó ở phía phố Paul Bert ngoài cầu thang bộ còn có một thang máy nhỏ.

Ảnh 4: Trụ sở Quĩ tín dụng bất động sản (nay thuộc bộ Công thương) 
Kiến trúc toà nhà cũng thể hiện rất rõ vai trò công năng. Lối ra vào chính khu giao dịch tầng 1 được đưa ra các ngã tư và ngã ba với sảnh đón rộng nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của khách hàng, các cửa kính rộng mở ra đường phố kết hợp với hệ thống cửa trời lắp kính dạng nan chớp cho các khu vực này luôn sáng sủa và thông thoáng, phía trên có mái che rộng tới gần mép vỉa hè để khách hàng đi lại mà vẫn tránh được mưa nắng. Tầng 2 và tầng 3 là những cửa sổ lớn mở ra hành lang bên rộng 1,5m cho phép các phòng làm việc phía trong với hệ thống cửa rộng mở có thể đón được ánh sáng tự nhiên và gió mát từ hồ Gươm thổi vào. Các cửa sổ này đều được trang trí với liều lượng vừa phải nhưng rất tinh tế theo truyền thống Art Deco. Trên các cửa đều có tấm che nắng di động có thể điều chỉnh khi bị nắng chiếu, đặc biệt với mặt đứng phía Tây nhìn ra hồ Gươm. Kết thúc mặt đứng là hàng ô văng rộng tới 1,5m có hoạ tiết trang trí phía dưới, vừa tạo ra một sự kết thúc khoẻ khoắn vừa có ý nghĩa che nắng cho tường nhà. Trên mái là dàn hoa bê tông cốt thép chạy dài theo ba mặt phố tạo sự duyên dáng cho mái đồng thời mang lại khả năng che nắng cho mái. Sự hài hoà về mặt kiến trúc, tính khoẻ khoắn trong bố cục không gian, sự biến đổi mạnh về hình thức giữa các tầng, lại được đặt ở giữa trung tâm thương mại của Thành phố, có thể coi đây là công trình nhà làm việc, cửa hàng điển hình nhất ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc.
Năm 1938, toà nhà trụ sở công ty sửa chữa ô tô AVIAT do kiến trúc sư F.A. Walker thiết kế được hoàn thành. Toạ lạc ở giao lộ giữa hai phố lớn của Hà Nội lúc bấy giờ là đại lộ Gambetta (phố Trần Hưng Đạo) và đại lộ Henri Rivière (phố Ngô Quyền), toà nhà được bố cục theo hình chữ nhật bao lấy sân trong, tuy nhiên chỉ có ba mặt bám lấy các tuyến phố là bố trí các phòng làm việc, mặt còn lại chỉ bố trí cầu thang, công trình phụ. Chính sảnh của toà nhà quay ra đại lộ Gambetta nhưng toàn bộ lối tiếp cận cho xe cộ lại quay ra đại lộ H.Rivière. Tầng 1 chỉ bố trí một số phòng làm việc của nhân viên ở phía trước toà nhà, toàn bộ phần còn lại là một không gian liên thông, phía trên là hệ vì kèo thép lợp tôn và kính để lấy được ánh sáng tự nhiên. Các phòng làm việc được bố trí trên tầng 2 và tầng 3 với bố cục hành lang giữa ở cánh nhà chính hướng ra đại lộ Gambetta, hai cánh phụ được bố cục theo kiểu hành lang bên. Liên hệ giữa các tầng ngoài cầu thang chính đặt ở chính sảnh còn có hai thang phụ ở cuối hai cánh nhà.

Ảnh 5: Trụ sở công ty AVIAT (nay là trụ sở bộ Khoa học và Công nghệ) 
Được thiết kế theo phong cách Art Deco nhưng bố cục của toà nhà lại theo phong cách đối xứng nghiêm ngặt, cách tổ chức mặt đứng cũng vẫn còn chịu ảnh hưởng của Tân Cổ điển với phần tầng 1 chắc đậm với lượng mở cửa rất nhỏ, phía trên là hàng cột vượt qua hai tầng đỡ lấy tầng mái với hàng cửa thông gió được trang trí bằng thép cuốn và kết thúc bởi một sê nô rộng trang trí rất tinh tế bằng hàng gạch gốm chạy phía dưới.
Mặc dù còn chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong cách Tân Cổ điển nhưng toàn bộ toà nhà vẫn toát lên vẻ mạnh mẽ, khoẻ khoắn theo phong cách Art Deco. Những nét hình học kinh điển được sử dụng triệt để cùng với lượng cửa sổ mở rất lớn tạo cho công trình dáng vẻ hiện đại. Những vấn đề của kiến trúc nhiệt đới cũng được lưu tâm thoả đáng với tầng cách nhiệt mái cao tới 2,1m có cửa mở ra các phía, toàn bộ cửa sổ đều có cấu tạo che nắng di động theo cả trục ngang lẫn trục đứng, một điều hiếm thấy ở kiến trúc Hà Nội cho đến tận ngày nay. Với ưu thế về mặt vị trí, với những thành công trong sử lý bố cục không gian, hình khối và mặt đứng, toà nhà trụ sở hãng AVIAT có thể được coi là một đại diện lớn của kiến trúc Art Deco ở Hà Nội.
Năm 1930, một bệnh viện lớn được xây dựng ở Hà Nội theo mô hình Bệnh viện - Đại học ở Pháp (Centre Hospitalier Universitaire), bệnh viện René Robin. Bố cục tổng mặt bằng theo dạng phân tán, các toà nhà chính của bệnh viện được bố trí gần đăng đối theo trục trung tâm. Nhà hành chính 2 tầng được bố trí chính giữa. Các khối điều trị được bố trí ở 3 phía của toà nhà này, gồm khối các phòng khám và điều trị chuyên khoa bên trái, khối phòng điều trị ngoại khoa bên phải và khối điều trị nội khoa bố trí phía sau nhà hành chính tạo thành một tam giác cân. Các khối điều trị được tạo thành bởi 4 dãy nhà theo trục dọc và một dãy nhà theo trục ngang theo hình răng lược, bên cạnh các phòng khám, điều trị, trong mỗi khối đều có một giảng đường. Dọc theo trục chính phía sau khối điều trị nội khoa là một giảng đường lớn và các phòng xét nghiệm. Kết thúc trục này là một khối phòng mổ hình tròn 2 tầng: Tầng 1 gồm các phòng tiểu phẫu và một phòng đại phẫu được bố trí ở trung tâm, phía trên là các ô kính hình tròn để sinh viên có thể quan sát từ tấng 2. Tầng 2 bố trí hai giảng đường 100 chỗ và một số phòng ở cho sinh viên nội trú. Tuy nhiên do điều kiện chiến tranh, khối này chưa kịp hoàn thiện và đưa vào sử dụng. Nối giữa các khối là hệ thống hành lang cầu rộng rãi cho phép đi lại và vận chuyển bệnh nhân một cách dễ dàng.

Ảnh 6: Bệnh viện René Robin (nay là bệnh viện Bạch Mai) 
Đây là một tổng thể kiến trúc theo phong cách Art Deco được xây dựng trên diện tích khá lớn và theo mô hình phân tán duy nhất của Hà nội lúc bấy giờ. Các khối nhà đều có sảnh vào riêng được bố cục theo dạng hành lang giữa kết hợp hành lang bên. Phong cách kiến trúc giản dị toát lên vẻ hiện đại của công trình. Tuy nhiên tác động của khí hậu nhiệt đới cũng đã được tác giả tính đến với hệ mái cách nhiệt hai lớp, phía trên cửa sổ đều có kết cấu che nắng ngang, đặc biệt khối bệnh phòng được bao bọc bởi hệ ban công, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt của bệnh nhân vừa tạo ra một không gian đệm cho khối phòng này. 
Một điểm nhấn kiến trúc đáng lưu ý là khối nhà mổ chính có cấu trúc không gian hình tròn kiểu tán xạ với hành lang rộng tới 3,9m bao quanh hệ thống phòng mổ đặt ở trung tâm. Hệ thống cửa kính lấy ánh sáng và thông gió tự nhiên được bố trí theo kiểu nhịp ba rộng rãi, ngoài ra còn có hệ thống lấy ánh sáng từ phía trên bằng các ô kính hình tròn cho phòng mổ trung tâm. Mái được kết thúc bằng một dãy lan can với những hình trang trí nhẹ nhàng. Hệ thống hành lang cầu được cấu trúc theo kiểu cuốn vòm liên tục kết hợp với hệ cột đứng cũng là một nét đẹp riêng của công trình này.
Trên đây là việc điểm lại 5 công trình mà chúng tôi coi là tiêu biểu cho kiến trúc công cộng Art Deco ở Hà Nội, ngoài ra còn khá nhiều những công trình khác cũng có những thành công nhất định và góp phần đáng kể vào bộ mặt kiến trúc khu vực trung tâm Thủ đô. Khảo sát tại hiện trường của chúng tôi 1 cho thấy các công trình  Art Deco không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc mà còn đem lại những bài học về các giải pháp đáp ứng khí hậu nhiệt đới.  Tuy nhiên, do không được đánh giá đúng mức trong giai đoạn trước đây nên một số công trình đã bị dỡ bỏ một cách đáng tiếc như nhà hàng Godard (sau này là Bách hoá tổng hợp), hay bị cải tạo đến mức biến dạng hoàn toàn như khách sạn Splendide (khách sạn Hoà Bình ngày nay).
Trong cơn lốc “cao ốc hóa” khu vực trung tâm Hà Nội đang diễn ra hiện nay, nếu các cơ quan chức năng của Hà Nội không đưa ra được một chính sách bảo tồn hợp lý thì những công trình Art Deco danh tiếng một thời vẫn có thể bị phá bỏ để nhường chỗ cho các cao ốc thương mại hoặc chí ít cũng bị nhấn chìm trong rừng cao ốc xung quanh. Thật tiếc lắm thay!
Bài : Trần Quốc Bảo - Ảnh : Trần Quốc Bảo, Đào Thái Hà
http://ashui.com/mag/index.php/chuyenmuc/kientruc/67-kientruc/1138-kien-truc-nha-cong-cong-phong-cach-art-deco-o-ha-noi.html

Di sản biệt thự Pháp ở Hà Nội

Viết email In
Du khách đến Hà Nội không thể để lỡ dịp ngắm nhìn những công trình kiến trúc tuyệt đẹp được xây dựng trước năm 1954, từ những toà nhà công cộng nguy nga như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống xứ, Toà án, Nhà hát lớn, Ngân hàng Đông Dương, Bảo Tàng Louis Finot, … đến những ngôi biệt thự cổ xinh xắn núp bóng dưới những hàng cây. Di sản kiến trúc Pháp ở Hà Nội thật phong phú về qui mô, thể loại cũng như phong cách, mà không một thành phố nào ở Đông Nam Á có thể sánh được.

Biệt thự Tân cổ điển đế chế trên phố Trần Hưng Đạo 
Có thể nói di sản biệt thự Pháp ở Hà Nội bắt đầu hình thành từ khi người Pháp củng cố về cơ bản chính quyền đô hộ của họ trên toàn cõi Đông Dương và hoạch định kế hoạch mở rộng và xây dựng Hà Nội trở thành thủ phủ Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Những khu phố mới được mở ra với những đường phố rộng rãi có những hàng cây rủ bong mát hai bên. Các lô đất ở đây ban đầu được dành cho các quan chức của bộ máy cai trị, sau đó được bán cho những người Pháp sang Việt Nam sinh sống, rồi cả những người Việt, người Hoa giàu có, trên đó dần hình thành những ngôi biệt thự hết sức đa dạng tuỳ theo thị hiếu thẩm mỹ của chủ nhân.
Trước tiên phải kể tới nhóm các biệt thự phong cách Tân cổ điển đặc trưng bởi tính chất hoành tráng và vẻ kỳ vĩ với tính đăng đối nghiêm ngặt trong bố cục, sự dồi dào trong trang trí. Biệt thự Tân cổ điển rất phong phú về phương cách tạo hình, nghệ thuật trang trí và có thể chia thành ba loại chính theo các đặc trưng về hình khối kiến trúc và phong cách trang trí.
Biệt thự Tân cổ điển duy lý với bố cục hình khối tương đối đơn giản, mặt đứng hoàn toàn đối xứng. Khối giữa nhà luôn được tổ chức nhô ra phía trước, trong nhiều trường hợp còn được nhấn mạnh bởi một ban công duy nhất. Các hoạ tiết trang trí mang tính cổ điển Hy Lạp – La Mã được sử dụng tập trung ở khối giữa nhà cùng các lan can, ban công và xung quanh cửa sổ, cửa đi, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải, hợp lý.
Biệt thự Tân cổ điển thuần khiết nhấn mạnh tính cân bằng và sự vững trãi trong hình khối không gian. Các hoạ tiết trang trí theo tinh thần cổ điển được trải đều trên mặt đứng, nhưng đặc biệt nhấn mạnh ở khối trung tâm với một vọng lâu hình cung tròn với những hoạ tiết hình hoa lá tạo ra một điểm nhấn thú vị và rất đặc biệt ở loại biệt thự này.

Biệt thự phong cách miền Trung nước Pháp trên phố Lê Hồng Phong 
Biệt thự Tân cổ điển kiểu đế chế đặc trưng bởi hình khối kiến trúc kiểu phức hợp với nhiều khối đa diện. Vẻ hoành tráng của biệt thự loại này còn được nhân lên bởi sự giàu có về mặt trang trí và sự phong phú của các hoạ tiết. Đại diện lớn nhất của thể loại này là biệt thự Schneider trong khuôn viên trường Chu Văn An có thể so sánh với những biệt thự đẹp nhất vùng Torino, Italia nửa cuối thế kỉ 19.
Tiếp nối trào lưu Tân cổ điển là các biệt thự phong cách Địa phương Pháp với xu hướng đưa phong cách kiến trúc các vùng miền khác nhau của nước Pháp vào trong thiết kế thể hiện rõ nhất ở hình thức mái, hệ công xon (console) cùng các hoạ tiết trang trí phong phú về thể loại. Tuy mang tên chung là phong cách Địa phương Pháp nhưng kiến trúc các biệt thự loại này cũng có nhiều điểm khác biệt thể hiện nguồn gốc của chúng thuộc miền Bắc, miền Trung hay miền Nam nước Pháp.
Biệt thự phong cách miền Bắc nước Pháp được đặc trưng bởi hệ mái đa diện có độ dốc lớn để tuyết không thể đọng trên mái. Phía trên còn được tô điểm bởi những tháp nhỏ cùng ống khói vươn cao làm tăng phần duyên dáng cho bộ mái. Thân nhà trang trí đơn giản và nhấn mạnh phương đứng với hệ thống cửa cao và hẹp, được kết thúc bởi các cuốn vòm. Hệ thống các hoạ tiết trang trí giản dị nhưng tinh tế và thường được lặp lại ở các tầng nên mang tính thống nhất cao.
Biệt thự phong cách miền Trung nước Pháp có hệ mái dốc vừa phải với bộ diềm và hệ công xon được trang trí cầu kỳ. Mặt tiền phi đối xứng được cấu thành bởi các yếu tố kiến trúc được bố trí theo phương đứng. Trên tường không nhiều các hoạ tiết trang trí nhưng phía trên các cửa sổ, cửa ban công thì được trang trí rất tinh xảo bằng các loại vật liệu khác nhau như gạch trần, gốm men hoặc phun vữa xi măng quét màu.

Biệt thự Art Deco tại ngã tư Quang Trung - Nguyễn Du 
Biệt thự phong cách miền Nam nước Pháp có bộ mái ngói với độ dốc khá nhỏ cùng các ống khói thấp. Hình khối kiến trúc của biệt thự loại này rất phong phú với nhiều giật cấp trên mặt đứng do sự bố trí các phòng kính và ban công ở phía trước. Hệ thống cửa mở rộng theo phương ngang cùng những hành hiên rộng kết hợp với các trụ gạch đỡ dàn hoa bê tông cũng là nét duyên dáng rất riêng của loại biệt thự này.
Tới cuối những năm 1920 thì một trào lưu hoàn toàn mới đã xâm nhập vào kiến trúc biệt thự Hà Nội, trào lưu hiện đại Art Deco. Biệt thự Art Deco thường sử dụng các khối hình vuông hoặc chữ nhật cho các không gian ở kết hợp với khối hình bán nguyệt là nơi bố trí lồng cầu thang tạo thành một hình thức kiến trúc hiện đại và giản dị. Ngôn ngữ trang trí chủ đạo của biệt thự Art Deco là sử dụng các đường cong nhằm làm bớt đi vẻ thô nặng của các khối hình hộp. Vật liệu trang trí chủ yếu là thép uốn với nhiều hình thức phong phú, đôi khi những mảng phù điêu bằng thạch cao hoặc xi măng cũng được sử dụng, kính màu thì chỉ có lác đác ở vài ngôi nhà. Cấu tạo mái bằng ở đa phần biệt thự Art Deco lần đầu tiên tạo ra khái niệm sân thượng trong kiến trúc nhà ở Việt Nam. Sân thượng còn được tô điểm thêm bởi dàn cây bằng bê tong cốt thép và một phòng trà với các cửa sổ mở rộng, cho phép người ở có được những hoạt độn tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên ngay ở nhà mình, một điểm rất đáng lưu tâm trong cuộc sống đô thị.

Biệt thự phong cách Đông D­ương trên phố Lý Nam Đế 
Tới cuối những năm 1930, một số biệt thự được xây dựng theo phong cách kiến trúc Đông Dương, một phong cách đã hình thành từ trước đó ở các công trình công cộng. Đặc trưng của loại biệt thự này là mặt bằng không gian được thiết kế theo công năng hiện đại kiểu Châu Âu nhưng hình thức kiến trúc lại mang đậm màu sắc Á Đông. Mái nhà lợp ngói, các góc mái uốn cong lên và kết thúc bởi đầu đao theo kiểu kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Hệ cửa thường có gờ bao quanh, phía trên có ô văng dốc lợp ngói để che mưa nắng. Các hoạ tiết kiểu Á Đông được xử dụngđể trang trí các mảng tường, cửa sổ, lan can hay con sơn đỡ mái. Những biệt thự loại này đều có nét duyên dáng riêng phù hợp với khí hậu và cảnh quan địa phương.
Biệt thự phong cách Pháp – Hoa cũng xuất phát từ ý tưởng xây dựng những ngôi nhà đáp ứng được công năng hiện đại nhưng vẫn mang màu sắc kiến trúc Á Đông. Nhưng khác với phong cách Đông Dương, các tác giả của loại biệt thự này sử dụng các thức kiến trúc và yếu tố trang trí cổ điển Trung Hoa. Mái dốc lợp ngói ống, ngói tráng men màu, bốn góc uốn cong và được trang trí rất cầu kỳ, con sơn đỡ mái dạng trồng đấu nhiều lớp. Tường được sử dụng như những mảng trang trí với các yếu tố trang trí kiểu Trung Hoa cổ kết hợp các cửa vòm bán nguyệt. Một số dinh thự còn có hàng cột tròn với các tai cột ngang. Ở các biệt thự phong cách Pháp - Hoa ít thấy những giải pháp lấy ánh sáng hay thông gió tự nhiên hợp khí hậu Hà Nội.

Mái dinh thự phong cách Pháp - Hoa trên phố Hoàng Diệu 
Ngoài ra còn có các biệt thự theo xu hướng kiến trúc hỗn hợp, kết hợp giữa kiểu nhà ống Việt Nam với biệt thự kiểu Pháp tạo ra những biệt thự khối ghép đầu tiên ở Hà Nội.
Biệt thự Pháp ở Hà Nội rất phong phú về thể loại, đa dạng về ngôn ngữ kiến trúc và đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong di sản kiến trúc Thủ đô. Giá trị của các công trình biệt thự Pháp không chỉ đơn thuần về mặt kiến trúc mà còn về các mặt lịch sử, văn hoá. Do vậy chúng ta cần nhanh chóng hoạch định sách lược để bảo tồn di sản quý giá này để con cháu chúng ta khỏi phải nhìn biệt thự Pháp trên tranh ảnh hay các hình vẽ 3D.

Bài và ảnh : Ths.KTS. Trần Quốc Bảo
Giảng viên chính khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Đại học Xây dựng
Nhóm nghiên cứu kiến trúc Hà Nội cận đại (GRAH)

http://ashui.com/mag/chuyenmuc/kien-truc/2363-di-san-biet-thu-phap-o-ha-noi.html

Quy hoạch Hà Nội - Thành phố phát triển bền vững và thân thiện

Chiều 15/7/2009 tại Hà Nội, các tổ chức hội nghề nghiệp và chuyên gia đã nghe Liên danh tư vấn quốc tế PPJ (gồm: Perkins Eastman của Mỹ, Posco E&C và Jina của Hàn Quốc) và các đối tác Việt Nam (gồm: Viện Kiến trúc - Quy hoạch Đô thị & nông thôn (VIAP) và Viện Quy hoạch Xây dựng Hà Nội) báo cáo Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn 2050. Báo cáo lần này đã có những ý kiến đóng góp nhiều chiều. Có thể do ngôn tại ý ngoại, mặc dù nội dung có bước tiến đáng kể nhưng vẫn khiến giới chuyên môn còn nhiều nghi ngại. Vậy, những ý tưởng chính mà đồ án đặt ra là gì? Từ sự cảm nhận của riêng cá nhân, tôi xin được chia sẻ cùng đông đảo bạn đọc.
Đất và nước Hà Nội
Thành phố (TP) có tên là "vùng đất nằm trong các dòng sông", sau khi mở rộng địa giới hành chính, nơi đây có thêm những dòng sông nằm trong lòng  mình. TP có ngàn năm tuổi, địa thế núi non, sông hồ Hà Nội đã trở thành những yếu tố đặc trưng tạo nên lịch sử, văn hiến của mình. Nay đứng trước cơ hội và thử thách mới, hình thái tự nhiên ấy vẫn đóng góp quan trọng vào giá trị không gian Hà Nội.
Men theo dòng nước, vị vua khai sinh ra Kinh thành Thăng Long đã chọn vùng đất “tiện nghi núi sau sông trước, đất cao mà sáng sủa để làm nơi tụ hội quan yếu bốn phương, thượng đô kinh sư mãi muôn đời". Hà Nội mở rộng có xuất phát vững chắc như vậy, bản Quy hoạch (QH) sẽ lấy đó làm điểm tựa bất biến để đề xuất các phương án phát triển không gian đáp ứng những yêu cầu của thực tại và tương lai.
Tại Ba Đình thiêng liêng lịch sử “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây…” là nơi đặt trụ sở các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội. Bản QH đề xuất trung tâm Hành chính mở rộng (các cơ quan Bộ ngành…) tại 3 vị trí để so sánh, nhấn mạnh vị trí phù hợp nhất là khu vực Tây Hồ Tây, trùng hợp với kết quả nghiên cứu lâu dài của các chuyên gia trong nước và quốc tế.
 

- Hiện trang với 744 dự án phát triển tự phát ra các hướng;
- Phương án QH thành 10 vùng đô thị đặc trưng với vành đai xanh bao bọc hạn chế  phát triển tự phát
Bản QH được lập tại một thời điểm trọng đại với nhiều vấn đề phải đối mặt: tiếp nhận 744 dự án tồn tại trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn. Cùng một lúc đô thị Hà Nội cũ bộc lộ những yếu kém bởi  đô thị hóa khá tự phát để lại hậu quả môi trường thoái biến, hạ tầng không đồng bộ. Biến đổi khí hậu đã tác động trực tiếp đến VN, các đô thị và Hà Nội cũng ảnh hưởng như nạn úng ngập từ trận mưa lớn đã báo hiệu.
Nếu như những vùng núi cao như Ba Vì, Hương Sơn, Tam Đảo … đã sừng sững linh thiêng từ ngàn xưa cũng là mãi mãi. Thì vùng đất thấp men những dòng sông lại cần được xem xét cẩn trọng trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược trước khi đặt trên đó những nhiệm vụ tương lai. Hà Nội với 9 con sông - tổng chiều dài chảy trên Hà Nội khoảng 600km, gồm các sông: Hồng, Đà, Đáy, Tích, Đuống, Nhuệ, Tô Lịch, Cầu và Cà Lồ, nhưng sông mẹ là Hồng Hà chảy từ Nam Trung Hoa ra Biển Đông (qua Hà Nội gần 150km). Biến đổi khí hậu mới chỉ dâng cao 0,2 m nước trong 50 năm qua tại VN, nhưng những năm tới mực nước biển sẽ dâng cao với tốc độ nhanh hơn làm cho triều cường thêm hung dữ mỗi khi nước sông Hồng dâng cao mùa lũ. Cũng ngay trên dòng nước, mùa khô hạn ngày càng gay gắt. Bắt nguồn từ phương Bắc, 80% nước sông tại VN phụ thuộc từ bên ngoài. Sông Mê Kông ở phía Nam VN đang dần cạn nước do đầu nguồn có nhiều hồ đập. Chưa có gì đảm bảo là sông Hồng không gặp phải tình huống tương tự.


Với quy mô dân số 10-15 triệu dân, nhu cầu nước sạch không chỉ là 3 triệu m3/ngày để ăn và sinh hoạt mà cần tới hàng tỷ m3 dự trữ trong mùa khô hạn để đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp,duy trì thảm thực vật toàn thành phố trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Thoát nước khi có mưa cường độ cao, kéo dài và ứng phó với lũ lớn do biến đổi tự nhiên và xã hội, đặt ra mục tiêu tạo lập hệ sinh thái mặt nước sông hồ. Phương án điều tiết nước trong QH có nhiệm vụ hóa giải một loạt các vấn nạn hiện nay: Hà Nội là TP an toàn với  bão, lũ, triều cường, khô hạn, úng ngập và thân thiện với môi trường.

Đồng bằng bắc bộ - năm 1905 tỷ lệ 1/35.000: màu xanh là cao độ 1-3m 

Mặt cắt địa hình Hà nội : Vùng Chương Mỹ, Mỹ Đức có cao độ bằng đáy Sông Hồng, Pierr Gourou nghiên cứu năm 1936 
Bản sơ đồ thoát nước Hà Nội với việc khôi phục lại tuyến dẫn nước sông Đáy, sông Tích đã tạo thành một hành lang xanh mặt nước, vùng trũng ngập Chương Mỹ, Mỹ Đức trở thành vùng dự trữ nước ngọt không chỉ cho Hà Nội mà các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình…
Ưu tiên phát triển hệ sinh thái sông hồ cũng là đảm bảo cho khái niệm vành đai xanh không con là viễn cảnh mơ hồ, mà hội tụ các yếu tố khả thi cùng gắn kết phát triển hữu cơ. Vành đai xanh với quy mô 158.000 ha đất nông lâm nghiệp / 334.000 ha đất tự nhiên sẽ được chi tiết hóa bởi các dự án phát triển nông nghiệp đô thị công nghệ và năng xuất cao. Vị trí vùng hồ đầm, độ sâu /độ dốc, mặt cắt các dòng sông hay mô hình đập tràn, cửa xả lũ… sẽ là những vấn đề kỹ thuật trình bầy kĩ trong giai đoạn tiếp theo.


Sơ đồ không gian với vành đai xanh bao quanh

Chú trọng khai thác địa hình tự nhiên của vùng trũng ngập, dòng chảy của sông đã là tiêu chí để dừng những dự án triển khai một cách lãng phí. Ngay cả dự án Đồng Trúc – Ngọc Liệp rất kỳ vọng của Posco E&C cũng loại bỏ  là một minh chứng tính vô tư, công bằng trên cùng một hệ quy chiếu. Loại bỏ các dự án đặt tại vùng  ảnh hưởng môi sinh là lý do rất thuyết phục, tạo sự đồng thuận khi các chủ dự án hy sinh lợi ích riêng vì sự nghiệp chung.
Với 600 Km sông được khơi dòng, đủ nước tạo thành mạng lưới giao thông thủy nội đô chạy dọc theo trục Bắc - Nam với chi phí thấp, giảm khí thải ô nhiễm, thân thiện với môi trường gắn với cải thiện cảnh quan,  nhấn mạnh nét đặc trưng đô thị sông hồ Hà Nội.
Truyền thuyết Sơn tinh - Thủy tinh phản ánh một thực tế  lịch sử tiến hóa của vùng đất này gắn bó với tính chủ động của con người nơi đây,  lựa theo hoàn cảnh để tựa vào thế đất mà chế ngự nước, duy trì cuộc sống an vui mỗi ngày một tốt tươi phồn thịnh. Con cháu Thánh Tản Viên không phụ lòng tổ tiên khi ngộ ra sự hài hòa, tạo thế thế cân bằng mới giữa đất và nước nơi đây trước khi bước sang thiên niên kỷ thứ hai một cách khôn ngoan.
Quy hoạch phát triển đô thị hay kiềm chế - kiểm soát đô thị hóa tự phát
Bản QH đã đặt ra lộ trình phát triển không gian phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế -xã hội. Tham khảo mô hình đô thị hóa của 15 thành phố trên thế giới, để Hà Nội chọn ra cho mình một lối đi riêng: thoát ra những cạm bẫy tăng trưởng nóng, đô thị hóa tràn lan dẫn đến nợ nần triền miên, phân hóa giàu nghèo, lãng phí tài nguyên, đất đai làm suy yếu đất nước. Tấm gương xấu ấy phổ biến tại các quốc gia đang ở chặng đầu phát triển và ngay những quốc gia trong khối ASEAN cũng có một số bài học nhãn tiền.
Đặt ra tình huống tốc độ phát triển ở mức cao. Nhưng thực tiễn là Hà Nội, cả nước và cả thế giới đang phải điều chỉnh kịch bản tăng trưởng. Bản thân GDP của Hà Nội đang lùi xuống thấp hơn 1000 USD. Tốc độ tăng trưởng từ 2 con số đang xuống < 5%. Bản QH cũng đã định lượng những phương án phù hợp để phát triển mở rộng đô thị không là gánh nặng tài chính mà góp phần tích cực đưa TP và đất nước sớm ra khỏi khủng hoảng, lấy lại đà đi tới.
Bản QH đã thay thế bản đồ dự án đô thị tản mạn, tùy tiện của năm 2007-2008 với hàng trăm dự án tùy hứng bằng một sơ đồ định hướng không gian có điều tiết, giới hạn thành 10 vùng dân cư tập trung. Tạo ra vùng giãn cách xanh bao bọc nhằm khống chế hình thức phát triển như như vết dầu loang, bám đường đô thị hoá đang phổ biến không chỉ tại Hà Nội mà còn ở hầu hết các địa phương. Tại lưu vực thoát nước, vùng trũng ngập vẫn duy trì các khu dân cư hiện trạng nhưng hạn chế phát triển để đảm bảo sự sống an toàn, tránh láng phí và thay đổi địa hình địa mạo. Ưu tiên vùng đất mầu mỡ để duy trì phát triển sinh thái tự nhiên, Hà Nội sẽ là hình mẫu để các địa phương học tập. Thay vì vẽ rộng ra viễn cảnh đô thị bắt mắt, bản QH khoanh vùng sinh thái xanh để hạn chế và có thể cấm xây dựng đô thị và công nghiệp - đây là một giải pháp cụ thể hóa khái niệm tạo lập không gian phát triển bền vững vùng đô thị và vùng cận đô thị. Những vùng dân cư tập trung phát triển thành những đô thị ổn định, độc lập, có khả năng liên hệ hỗ trợ lẫn nhau. Kết nối bằng hệ thống giao thông phù hợp thành những mắt lưới liên kết đô thị trong Hà Nội và phát triển tới các địa phương lân cận.

Đề xuất 2 phương án bố trí dân cư với 10 khu vực đặc trưng 
Bên cạnh giải pháp tổng thể, bản QH đã đi sâu vào nghiên cứu 10 vùng dân cư tập trung, khai thác những đặc thù của từng vùng để đề xuất những giải pháp không gian phù hợp : Đô thị trung tâm Hà Nội cũ, các vùng phát triển hai bên sông Nhuệ, đô thị KH-CN Hòa Lạc, các khu đô thị CN. Phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành, bản QH đã mô tả mạng lưới các trung tâm đại học CĐ&THCN, mạng lưới Y tế, làng nghề, khu CN…
Bản QH đã tích hợp, kế thừa kết quả nghiên cứu từ nhiều nguồn để có được giải pháp hài hòa, thực chất hướng đến sự thân thiện về nhận thức, tư duy. Chú trọng các di sản quá khứ, kiến tạo lộ trình đến tương lai chủ động thích ứng với các tình huống. Tương lai bền vững TP được kiến tạo bởi định hướng thân thiện trong mối quan hệ hữu cơ về vật chất lẫn tinh thần tất cả các yếu tố tạo nên môi trường sống.


Chung tay gây dựng tương lai
Được vinh dự lập kế hoạch phát triển tương lại, liên danh tư vấn PPJ và các đối tác Việt Nam đã tập trung cao nhất để tận dụng cơ hội này khẳng định mình. Hà Nội trở thành thành phố có tương lai phát triển bền vững, nơi cư trú thân thiện là mục tiêu nghiên cứu nhưng nó có thành sự thật hay không phần lớn là nhờ sự chung tay của cả cộng đồng. Cho dù huy động các chuyên gia danh tiếng đến đâu, có thể giải quyết các vấn đề kỹ thuật phức tạp, sử dụng công nghệ tiên tiến để phân tích, trình bầy… nhưng những vấn đề nội tại thì không ai khác chính là các cư dân Hà Nội tài hoa luôn nặng lòng với quê hương, những chuyên gia hàng đầu của VN, đã gắn bó cả đời với sự nghiệp nghiên cứu khoa học công nghệ, văn hóa lịch sử sẽ có lời giải sáng suốt nhất, hiệu quả nhất.
Quy mô công việc lớn, nhiệm vụ phức tạp, đối mặt với nhiều vấn đề đề tồn tại lại thực hiện trong thời gian ngắn, bản QH có được kết quả phần lớn nhờ sự phối hợp chặt chẽ từ các đối tác Việt Nam.
Bỏ qua quan niệm khô cứng về vị trí thực hiện, với thiện chí hợp tác và trách nhiệm vì tương lai Hà Nội, chúng ta hoàn toàn có khả năng biến ước mơ ấy thành sự thật.
Trần Huy Ánh - Ảnh : HanoiData sưu tầm & biên tập

http://kientrucxd.blogspot.com/2012/04/tan-man-chuyen-xay-dung89.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.