“THỰC TRẠNG VÀ XU THẾ
KIẾN TRÚC HIỆN ĐẠI
TỈNH LÂM ĐỒNG”
LỜI MỞ ĐẦU.
Kể từ ngày chiến tranh kết thúc,
đất nước thống nhất, chúng ta bắt đầu tập trung xây dựng phục hồi kinh tế. Cho
đến thời kỳ đổi mới, nền kinh tế hướng về thị trường phát triển, kéo theo sự
phát triển của các đô thị và sự bùng nổ trong xây dựng, hoạt động kiến trúc
cũng theo đó mà phát triển nhanh chóng. Bộ mặt đô thị và nông thôn ngày càng
khởi sắc với các xu hướng biểu hiện kiến trúc tuy có đa dạng nhưng nhiều hỡn
loạn, pha tạp. Qua tổng kết đề tài nghiên cứu “Nhìn nhận, đánh giá các xu hướng
sáng tác kiến trúc”, chúng ta bước đầu nhận định: kiến trúc hiện đại có nhiều
ưu điểm đcan được đào sâu nghiên cứu để xây dựng lý thuyết cho nền móng kiến
trúc Việt Nam
hiện đại, đậm đà bản sắc.
Ở góc độ địa phương Lâm Đồng,
đề tài nghiên cứu nhằm mục đích đóng góp một phần nghiên cứu vào đề tài chung
về “Thực trạng và xu thế kiến trúc hiện đại tại tỉnh Lâm Đồng”, với mong muốn
tìm hiểu thực trạng phát triển Kiến trúc tại địa phương, và đề xuất những suy
nghĩ về định hướng sáng tác kiến trúc hiện đại, tiến bộ phù hợp với điều kiện
kinh tế – xã hội và những đặc trưng
riêng có của vùng đất cao nguyên Lâm Đồng.
Nội dung đề tài có các phần
như sau:
PHẦN I:
Lược
dẫn lý luận về kiến trúc Hiện đại của thế giới.
Nhận
diện Kiến trúc Hiện đại Việt Nam
từ lúc xuất hiện cho đến năm 1975.
Nhận
diện Kiến trúc hiện đại ở tỉnh Lâm Đồng từ 1975 đến nay
Thực trạng phát triển KT tại tỉnh Lâm Đồng.
- Tổng quan về các đô thị tại
Lâm Đồng.
- Phát triển kiến trúc tại
tỉnh Lâm Đồng.
- Tình hình hành nghề của
KTS.
- Các tác động đến sáng tạo
tác phẩm.
Các xu hướng sáng tác kiến
trúc.
- Các xu hướng sáng tác kiến
trúc.
- Các tác động đến các xu
hướng sáng tác trong kiến trúc tại Lâm Đồng.
PHẦN II: Xây dựng lý thuyết về Kiến trúc Hiện đại Việt Nam.
Cơ
sở khoa học, từ lý luận chung của thế giới, các đặc thù Việt Nam.
Điều
kiện thực tiễn.
Xu
thế phát triển.
Các
tiêu chí sáng tác và nhận diện đánh giá.
Các
giải pháp hỗ trợ sáng tác ( Kiến trúc, kỹ thuật, vật liệu, màu sắc, các yếu tố
khác…)
PHẦN III. Kiến
trúc hiện đại Việt Nam có kế thừa truyền thống và tạo
lập bản sắc địa phương.
PHẦN IV. Kết
luận, kiến nghị.
-----------------------------------------------------------------------------------------
PHẦN I : Lược dẫn về
Kiến trúc hiện đại của thế giới.
Các khuynh hướng chủ yếu
trong kiến trúc hiện đại của thế giới.
Định nghĩa:
Kiến trúc Hiện đại có thể
được hiểu theo nhiều nghĩa. Khái niệm hiện đại có thể hiểu đơn giản là thời
nay. Theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học- NXB KHXH, là
“ thuộc thời đại mình đang sống, và có áp dụng những phát minh, những thành
tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật”.
Khởi nguồn của nền kiến trúc
hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng, có thể từ khi những công trình sắt thép xuất
hiện ( đầu thế kỷ XIX) tại các nước công nghiệp phát triển ở Au châu và Bắc Mỹ,
đến phong trào " Tân nghệ thuật" (Art Nouveau, 1850), tiền thân của
nền "Kiến trúc hiện đại" , tiếp dến là các phong cách kiến trúc
"Hậu hiện đại", ra đời vào những năm 60 – 70 của thế kỷ XX.
Chúng ta thấy rằng trong suốt
thời gian dài của lịch sử, có những động cơ đã luôn thúc đẩy kiến trúc phải
chuyển đổi từ quan niệm đến phong cách để thích nghi với đời sống xã hội ngày
càng đổi mới. Những động cơ này có mối liên hệ mật thiết với nhau một cách biện
chứng: sự phát triển của khoa học- kỹ thuật và kinh tế, kéo theo những thay đổi
trong đời sống xã hội, từ đó làm ảnh hưởng đến những nhu cầu vật chất của con
người, đến cả sở thích và thị thiếu thẩm mỹ của quần chúng…
Khái niệm Kiến trúc Hiện
đại (Architecture moderne -1920-1970...):
Kiến trúc Hiện đại là một sự
phản ứng lại ảnh hưởng của quá khứ kiến trúc từ cuối thế kỷ 19. Các KTS cảm
thấy trào lưu kiến trúc Cổ điển không còn đủ sức sống, vay mượn và lệ thuộc quá
nhiều vào những gì có trong quá khứ, không phản ảnh trung thực lại bối cảnh của
thời đại công nghiệp. Không những vậy, kiến trúc cổ điển còn trở thành rào cản
trói buộc con người với quá khứ hoặc đánh lừa qua thị hiếu kiến trúc bằng những
yếu tố trang trí diêm dúa và vô nghĩa. Các KTS nghĩ rằng cần phải tạo ra một
trào lưu kiến trúc mới, phản ảnh được tinh thần của thời đại mới, phải vượt qua
và từ bỏ cái bóng của quá khứ.
Trào lưu Kiến trúc Hiện đại (Modernism) là một
khái niệm được dùng để miêu tả các công trình có những đặc điểm tương đồng về
sự đơn giản trong bố cục hình khối không gian, tổ chức mặt bằng phi đối xứng;
mặt đứng loại bỏ các trang trí, họa tiết của phái Cổ điển. Sử dụng vật liệu mới
như thép, kính, bê tông…
Đặc điểm
Ưu điểm:
- Dây chuyền công năng được
đề cao hợp lý.
- Tiết kiệm được không gian,
vật liệu.
- Không trang trí phù phiếm.
- Ap dụng các thành tựu của
khoa học và kỹ thuật.
Khuyết điểm:
- Mang tính chất quốc tế,
thiếu tính dân tộc và địa phương.
- Tính chất về hình thức khô
khan, nghèo nàn.
- Coi nhẹ sự giao tiếp với
thiên nhiên, sự giao tiếp giữa kiến trúc và xã hội, sự giao lưu giữa con người
với nhau.
Các Kiến trúc sư tiêu
biểu: Le Corbusier, Frank Lloy Wright,
Ludwig Mies van der Rohe, Walter Gropius, Kenzo Tange, Richard Meier, Oscar
Niermayer, Adolf Loos…
Hình ảnh
Cung Thủy tinh – KTS Josept Paxton
Nhà
trên Thác-
KTS
Frank Lloy Wright
Khái niệm Kiến trúc Hậu
Hiện đại. (Post-Modernism - 1960-1970).
Trào lưu Kiến trúc Hậu hiện
đại , được xem như sự tiếp tục của Kiến trúc Hiện đại, bắt đầu xuất phát từ
cuối thập niên 1960, kéo dài đến thời điểm hiện tại.
Từ hơn 40 năm nay, kiến trúc Hậu hiện đại đã
chiếm vị trí ngày càng vững ở nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước chưa
phát triển. Nó thay đổi bộ mặt kiến trúc của các đô thị. Có thể nói rằng sự ra
đời của các phong cách Hậu hiện đại vào những năm 60- 70 của thế kỷ XX đã là
một bước ngoặc quan trọng của kiến trúc. Thoạt đầu trong phạm vi các nước công
nghiệp phát triển rồi lan rộng dần đến các nước đang phát triển.
Sự ra đời của phong cách
Hậu hiện đại.
Trong bối cảnh bế tắc của nền
" Kiến trúc hiện đại" vào những năm 50 – 60, một thế hệ KTS và lý
thuyết gia trẻ ở nhiều nước phát triển trên thế giới lật đổ " phong cách
hiện đại" và những lý thuyết khô cứng, xây dựng một nền kiến trúc nhân bản
hơn, thích nghi linh hoạt với nhu cầu sử dụng và thẩm mỹ của người sử dụng,
cũng như với cuộc sống ngày càng phát triển, và nhất lả không tách rời với quá
khứ văn hóa- lịch sử.
Khi nói đến phong cách
"Hậu hiện đại" là nói chung để chỉ 3 xu hướng chính với ngôn ngữ khác
nhau như sau:
Xu hướng " Hậu hiện
đại".
Xu hướng " Tân cổ
điển".
Xu hướng " High
tech".
Trên thực tế, có nhiều trường
hợp, trong cùng một công trình kiến trúc, có thể kết hợp nhiều ngôn ngữ khác
nhau.
Hai xu hướng 1 và 2 hơi giống
nhau ở một điểm, là cùng sử dụng những yếu tố kiến trúc có một quá khứ văn hóa-
lịch sử nhất định ( điều mà phong cách quốc tế đã loại trừ). Nhưng trong khi xu
hướng 1, là những yếu tố kiến trúc có công năng, ích lợi cụ thể, thì ở xu hướng
2, các yếu tố kiến trúc có tính cách tượng trưng cho một thời kỳ văn hóa- lịch
sử nào đó, như hàng cột Hy Lạp, La Mã, vòm Gothic… được sử dụng chỉ để tạo một
không gian văn hóa giả tạo, đôi khi siêu thực. Xu hướng hậu hiên đại đa dạng
phong phú hơn, và cũng linh hoạt hơn, vì nó có thể diễn đạt thoải mái với tất
cả phương tiện, khả năng tạo hình cho một công trình kiến trúc: nó là xu hướng
mở, và có thể áp dụng cho nhiều chương trình xây dựng. Nó cũng là xu hướng kế
thừa " phong cách Quốc tế" một cách rõ rệt nhất, với một cái nhìn phê
phán tinh tế, và một quan niêm thẩm mỹ năng động hơn, đồng thời có nhân bản
hơn.
Xu hướng thứ ba, phong cách
High Tech, có nguồn gốc lịch sử là những
công trình bằng sắt thép ở thế kỷ XIX. Phong cách High-Tech chủ yếu sử dụng
khung sắt thép nhẹ và kính, kết hợp với tường gạch hoặc bê tông, chỉ thích nghi
với một số công trình, chứ không linh hoạt như phong cách Hậu hiện đại. Tuy
nhiên, kết hợp với nhau, 3 phong cách này có thể tạo nên những hiệu quả bất
ngờ, và những năm gần đây, nhiều KTS đã bắt đầu khai thác để sáng tạo ra tác
phẩm kiến trúc của mình.
Xem như vậy, cả 3 xu hướng
chính hiện nay của kiến trúc Hậu hiện đại đều cơ bản khác với " phong cách
quốc tế" và "kiến trúc hiện đại" ở chỗ: mỗi xu hướng một cách,
chúng đều quay trở về cội nguồn văn hóa- lịch sử của kiến trúc để tìm nguồn cảm
hứng, kế thừa di sản cũ một cách sáng tạo và có chọn lọc, tuân theo một quy
luật hoàn toàn logic: Tất cả những gì đi ngược lại với nguyện vọng bản năng của
con người, đều không thễ tồn tại lâu dài được.
Như vậy, kiến trúc Hậu hiện
đại là một nền kiến trúc đa dạng, sinh động, chủ yếu vì nó nhân bản và nhiều
sáng tạo. Ngoài ra, nó là một nền kiến trúc mở không bị gò bó bởi những lý
thuyết sơ cứng. Do đó, nó có khả năng thích nghi dễ dàng với những nhu cầu, sở
thích của mọi người. Tất cả nhưng phẩm chất đó, cũng như những ý tưởng sáng tạo
mới mẻ mà kiến trúc Hậu hiện đại đã đem lại từ hơn 30 năm nay, đều có thể được
kế thừa trong một nền kiến trúc thích ứng, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi
nước.
Tuy nhiên, không chỉ có hiện
tượng kiến trúc Hậu hiện đại- thực chất chỉ là biểu hiện văn hóa nghệ thuật của
một xã hội công nghiệp phát triển: tính chất phê phán của nó chỉ giới hạn ở một
vài điểm chủ yếu thuộc hình thức bên ngoài, mà còn có phong trào Kiến trúc
thích ứng, chủ trương tiết kiệm vật liệu và khai thác những nguồn vật liệu và
năng lượng mới, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa cộng đồng trong kiến trúc.
Hai xu hướng này đã bổ sung cho nhau.
Các nguyên lý của kiến
trúc Hậu hiện đại:
Theo Robert Stern, một KTS
người Mỹ, kiến trúc Hậu hiện đại theo những nguyên lý sau:
- Bối cảnh: Các công trình
của kiến trúc Hậu hiện đại phải gắn với môi trường chung quanh, là một
bộ phận của môi trường.
- An dụ: Hình thức của công
trình phải nói lên nhiều ý nghĩa, có nhiều chi tiết mang tính tượng trưng.
Trang trí: Tính chất trang
trí của các chi tiết kiến trúc được khôi phục lại.
Những thủ pháp của kiến trúc Hậu hiện đại:
- Đảm bảo tính đồng nhất cho
công trình, khai thác tính đối xứng, tính trọng tâm, có chính có phụ của công
trình.
- Vận dụng một cách tương
phản các chi tiết cổ điển.
- Đề cao tính trật tự của bố cục, các trục chính, phụ.
Hình ảnh:
Triển lãm Hiện
đại, Hamburg,
Đức.
Tháp ở
Luân Đôn
Ngoài ra, còn một số xu hướng
đáng chú ý như:
Chủ nghĩa địa phương phê
phán (Critical Regionalism):
Kiến
trúc dung hòa đặc tính địa phương và văn hóa toàn cầu.
Ưu
tiên cho cái đặc thù.
Không
phải hoài cổ hay dân gian.
Chủ nghĩa địa phương phê phán
là một sự tiếp cận kiến trúc, đấu tranh chống lại sự thiếu địa điểm và thiếu ý
nghĩa của Kiến trúc Hiện đại, bằng cách dùng sức mạnh của bối cảnh để mang lại
một cảm giác về vị trí và ý nghĩa.
Theo Frampton, Chủ nghĩa địa
phương phê phán nên chấp nhận Kiến trúc Hiện đại một cách cẩn thận vì những giá
trị tiến bộ của nó, nhưng cùng lúc phải đề cao những phản ánh có giá trị của
bối cảnh. Nên đặt trọng tâm vào địa thế, khí hậu, ánh sáng, những hình thức
kiến tạo, hơn là phép phối cảnh, và nên chú trọng đến xúc giác hơn thị giác.
Chủ nghĩa địa phương phê phán
khác với Chủ nghĩa địa phương (Regionalism), vốn cố gắng dạt được quan hệ một –
một với nền Kiến trúc Bản xứ theo một cách có ý thức nhưng chưa có ý tham gia
vào nền kiến trúc phổ biến. Chủ nghĩa địa phương phê phán được coi là một kiểu
hưởng ứng hậu hiện đại tại các nước đang phát triển.
Các Kiến trúc sư sử dụng cách
tiếp cận này trong một số công trình của họ là: Tadao Ando, Charles Correa, Raj
Rewal…
Kiến trúc thích ứng:
KTS
Ai Cập Hassan Fathy (1900-1989) với những áp dụng tại nước mình, đã đem đến cho
nền Kiến trúc thế giới một khái niệm mơi về một nền kiến trúc dân tộc, khoa học
và hiện đại, tại một nước đang phát triển: Khái niệm kiến trúc thích ứng. Kiến
trúc thích ứng được hiểu là nền kiến
trúc thích hợp với những điều kiện thực tế của mỗi địa phương: điều kiện kinh
tế, khoa học kỹ thuật, khí hậu, thời tiết, vật liệu, đời sống vật chất và sinh
hoạt tinh thần của cư dân, phong tục, tập quán, truyền thống…
Giải pháp kiến trúc dựa vào
các truyền thống cũ một cách sáng tạo, dựa vào những điều kiện thực tế của đất
nước mình, khai thác những điều kiện tự nhiên thuận lợi, các vật liệu từ nguồn
thiên nhiên tại chỗ, kết hợp sử dụng một cách linh hoạt nguồn nhân lực và thiết
bị máy móc,…
Đây là một xu hướng được đánh giá có
tính tiến bộ, khoa học và nhân bản nhất, mở đường cho phong trào kiến trúc
thích ứng ở nhiều nước Trung cận đông và Châu Á với phương châm "tự lực tự
cánh sinh", vừa "dân tộc", vừa "khoa học-hiện đại".
Nhà Thổ dân Uc tác động nhẹ nhàng đến cảnh quan
- KTS Glenn Murcutt
Sự vững bền
đang trở thành một động lực quan trọng bao trùm mọi hoạt động của con người như
thường được thể hiện trong thiết kế hiện đại, nó dần vượt qua vấn đề kỹ thuật
đơn thuần hoặc như vấn đề về lương tri, đạo đức để tiến đến vấn đề thẩm mỹ.
Trong lãnh vực xây dưng, nỗ lực cải thiện những hoạt động thân thiện với môi
trường tập trung vào khoa học công trình và bắt đầu quan tâm đến nghệ thuật
kiến trúc đầy cảm hứng.
Nhận diện Kiến trúc
hiện đại ở Việt Nam
từ lúc xuất hiện cho đến năm 1975.
Kiến trúc truyền thống.
Trong suốt bề dày lịch sử
dựng nước, Kiến trúc Việt Nam
không có nhiều công trình kiên cố qui mô lớn, ít thay đổi và không có nhiều trường phái sáng tác xuất hiện như ở
châu Au.. Ta có thể phân loại Kiến trúc Việt Nam dựa theo:
- Chức năng sử dụng: kiến
trúc cung điện, Tôn giáo: Đình, Chùa, Miếu thờ…Văn hóa: Bia, đền….Nhà ở dân gian,…
- Vật liệu xây dựng: Kiến
trúc cổ truyền Việt Nam
đa phần xử dụng kết cấu khung gỗ kết hợp với các vật liệu khác như gạch đá,
đất, ngói, rơm, tre,… Không có sự khác biệt nhiều về kết cấu của các thể loại
công trình khác nhau.
- Kết cấu: khung sườn gỗ,
mộng và lỗ mộng, vì kèo gỗ, đòn tay, rui, mè gỗ; cột kê tán. Tùy theo điều kiện
địa hình có thể kết cấu nhà có dạng nhà sàn, nửa sàn nữa đất, nhà nền đất. Mái
nhà thường có độ dốc cao do sử dụng vật liệu lợp là tranh, lá, ngói.
- Bố trí mặt bằng: công trình
công cộng như Đình, Chùa thừng có mặt bằng theo các hình chũ Hán như chữ Đinh (
I ), chữ Công( H ), chữ Nhị ( II )…Về nhà ở dân gian thường có 3 gian hai chái,
hình chữ Đinh, có nhà chính, nhà phụ, sân nước…
Kiến trúc thuộc địa.
Thể loại kiến trúc này được
du nhập từ các nước phương Tây, cùng với sự xuất hiện của người Pháp tại Việt Nam
vào cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX. Loại hình kiến trúc này phát triển song
song với quá trình khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp. Do đặc điểm riêng của
điều kiện môi trường tự nhiên Việt Nam, nên các phong cách kiến trúc
hiện đại châu Au đã phải có những thay đổi chuyển biến nhất định để hòa hợp với
điều kiện thiên nhiên tại chỗ.
Kiến trúc mới.
Thể loại kiến trúc này được
hình thành từ giữa thế kỷ XX, sau khi nước Việt Nam ta thoát khỏi giai đoạn thuộc
địa của thực dân Pháp. Dựa trên điều kiện lịch sử khác biệt, kiến trúc hai miền
Nam
và Bắc cũng phải chịu những ảnh hưởng khác biệt nhất định.
Kiến trúc đương đại.
Cùng với sự phát triển kinh
tế cũng như quá trình mở cửa hội nhập quốc tếsau giai đoạn đổi mới và sự ảnh hưởng nhiều luồng kiến trúc khác nhau vào
Việt Nam,
đã hình thành nên các khuynh hướng sáng tác kiến trúc mới. Các xu hướng này
phần nhiều mang tính sao chép các đặc điểm kiến trúc nước ngoài, mang tính lai
tạp, hỗn loạn.
Hiện nay, các KTS Việt Nam vẫn đang lần tìm một con đường riêng cho mình.
Hiện nay, các KTS Việt Nam vẫn đang lần tìm một con đường riêng cho mình.
Nhận diện Kiến trúc hiện đại ở Đà Lạt từ
năm 1975 đến nay.
Từ sau giải phóng, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng,
có ranh giới mở rộng từ 69km2 đến 417km2 bao
gồm 12 phường và 3 xa?. Dân số Đà Lạt
lúc đó là 92.810 người.
Nhiệm vụ ổn định chính trị, cải tạo xaã hội, kinh tế được
đặt hàng đầu. Chủ trương tự túc lương thực và lấy nông nghiệp làm trọng tâm
trong thời kỳ này là bước đi cần thiết, nên địa giới Đà Lạt mở rộng bao gồm các thôn ấp vùng ven như Xuân
Trường, Xuân Thọ, Tà Nung ( 1979 ). Và như vậy cảnh quan đô thị Đà Lạt đã phải
chấp nhận vấn đề mâu thuẫn gay gắt giư?a cảnh quan thiên nhiên trống và cảnh
quan nông nghiệp. Mặt khác bài học kinh nghiệm trong Quy hoạch đô th?:
"Thành phố càng rộng lớn, càng mất vẻ đặc sắc " cũng đa? được đặt ra
cho các nhà chuyên môn quan tâm, khi thực hiện nghiên cưú quy hoạch cho thành
phố Đà Lạt.
Trong giai đoạn này, nền kinh tế trong thời bao cấp còn
nhiều khó khăn, các công tr?nh công cộng phục vụ dân sinh quan trọng được ưu
tiên đầu tư xây dựng như :
Hồ Thống Nhất ( Đa Thiện ) : 1977
Hồ Chiến Thắng : 1981
Nhà máy nước Suối Vàng
: 1981 - 1983
Hồ Tuyền Lâm : 1984.
Các công trình trên đã góp phần tăng thêm nhiều cảnh quan
hấp dẫn mới cho Đà Lạt bên cạnh những thắng cảnh nồi tiếng cũ như thác
Prenn, Cam Ly, Datanla, hồ Than thở...
Về kiến trúc cũng xây dựng thêm được một số công tr?nh đáng
kể như: Nghĩa trang liệt sĩ, Cung thiếu nhi, Trụ sở cơ quan, một vài công tr?nh du l?ch thương
mại...
Các biệt thự tại Đà Lạt, một số được sừ dụng làm cơ quan nên
phải cải tạo, cơi nới cho phù hợp với chức năng mới, một số được bố trí làm nhà
tập thể cho CBCNV với tính cách tạm thời, một số ít để hoang tàn đổ nát. Còn
lại là các công tr?nh nhà ở nhân dân tự xây xuất hiện khắp đ?a bàn thành phố.
Có thể nói v? quản lý qui hoạch xây dựng còn nhiều lúng túng nên nhiều khoảng
trống của thành phố b? lấn chiếm, rừng
nội ô b? tàn phá nặng nề, nhà tạm bợ nảy nở tràn lan khắp nơi. Từ khu nhà ổ
chuột ở trung tâm thành phố (Ấp Ánh Sáng, đường Nguye?n Chí Thanh, đường
Nguye?n Văn Cừ...) cho đến các kiosque mua bán lấn chiếm hè phố; các nhà go?
tôle mọc lên vội va? ở b?a rừng, thung lu?ng, khe suối, bờ hồ... Diện mạo thành
phố trở nên ho?n độn, b? xuống cấp ro? rệt.
Đại hội thứ IV Đảng CSVN đa? mở ra cho đất nước ta và cả Đà
Lạt chuyển m?nh qua thời ky mới của nền kinh tế th? trường đ?nh hướng XHCN.
Ngày 6/6/1986, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết đ?nh số 67 - HĐBT
điều chỉnh đ?a giới hành chính Đà Lạt,
gồm 12 phường, 3 xa? với dân số gần 170.000 người.
Quy hoạch tổng thể thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm
2010 do viện quy hoạch ĐTNT - Bộ Xây dựng lập đa? được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt theo quyết đ?nh số 620/TTg ngày 27/10/1994.
Tiếp theo ngày 24/7/1999 Thủ tướng chính phủ quyết đ?nh nâng
cấp Đà Lạt lên đô th? loại 2 ( theo
quyết đ?nh số158/1999/QĐ - TTg ).
Từ khi quy hoạch chung Đà Lạt được phê duyệt, Chính quyền đ?a phương đa?
cho tiến hành quy hoạch chi tiết các khu chức năng chính của thành phố như khu
trung tâm, các khu nhà ở, quy? đất xây dựng nhà ở, các khu du l?ch…Đồng thời hệ
thống ky? thuật hạ tầng cu?ng được nâng cấp một bước với các dự án đầu tư về
cấp thoát nước, giao thông cải tạo lưới điện, bưu điện….
T?nh h?nh phát triển kinh tế xa? hội mau lẹ đa? tác động ít
nhiều đến việc xây dựng và phát triển thành phố theo qui hoạch được duyệt từ
năm 1994. Trước tầm nhìn mới theo đ?nh hướng QHTT phát triển đô th? cả nước đến
năm 2020, Đà Lạt cần được nghiên cứu
"Điều chỉnh QHTT Đà Lạt và vùng phụ
cận đến năm 2020".
Đến ngày 27/05/2002, Thủ tướng Chính phủ đa? phê duyệt điều
chỉnh quy họach chung thành phố Đà Lạt
và vùng phụ cận đến năm 2020 theo quyết đ?nh số 409/QĐ - TTg.
Đây là cơ sở quan trọng để Đà Lạt được chỉnh trang cải tạo,
xây dựng và phát triển có đ?nh hướng xứng danh là thành phố du l?ch xinh đẹp và
thơ mộng trên cao nguyên.
Tuy nhiên thực trạng, bộ mặt kiến trúc thành phố tới lúc này
đa? trở nên ho?n độn quá mức, nhất là ở khu trung tâm thương mại và các trục
nhà liên kế phố. Chính ở như?ng nơi đây, vấn đề thẩm my? kiến trúc của từng căn
nhà dù có được thiết kế đẹp, lại da?n đến một ngh?ch lý là vô t?nh góp phần làm
tăng sư lộn xộn, giảm phần thẩm my?
chung của cả da?y phố. Như vậy, t?m ra giải pháp để chỉnh trang và
đ?nh hướng sáng tác cho KTS ở như?ng khu vực nói trên là điều cần phải nghiên
cứu thêm, và đây cu?ng là vấn đề chung cho các đô th? trên cả nước!
Thực trạng các xu hướng sáng tác kiến trúc tại Đà Lạt- Lâm
Đồng.
Các xu hướng tiêu biểu trong sáng tác kiến trúc tại Đà Lạt:
" Xu
hướng khai thác h?nh thức kiến trúc Hiện đại.
Đối với kiến trúc hiện đại th? h?nh khối, vật liệu, ky?
thuật là như?ng yếu tố quan trọng. Tính thống nhất giư?a nội dung và h?nh thức
không quan trọng bằng tính thống nhất của tổng thể h?nh khối công tr?nh. Kiến
trúc công tr?nh Đài Truyền h?nh Lâm Đồng
là một ví dụ. Công tr?nh này do Công ty Tư vấn Công nghệ mới (TP HCM) nhận
trọng trách thiết kế. Có thể nói như?ng đường nét kiến trúc mới mẻ với xu hướng
hiện đại đa? tạo một tín hiệu mới cùng góp mặt với các xu hướng sáng tác kiến
trúc khác ở Lâm Đồng. Tuy nhiên trên tầm nh?n bao quát về cảnh quan đô th? Đà
Lạt, công tr?nh này h?nh như muốn tự tạo một dấu ấn độc đáo riêng, hoặc muốn
giới thiệu tính hiện đại của nghành nghề, chưa thật sự hài hòa trong bối cảnh
chung, chưa được sự đồng cảm của công
luận.
Trụ sở của Đài Truyền h?nh Lâm Đồng (XD 1999)
Một công tr?nh khác- Cục Hải Quan Đà Lạt: Bố cục h?nh khối
và đường nét mới đang được thử nghiệm cho thể loại Nhà làm việc, thoát ly hẳn
các xu hướng sáng tác các Nhà làm việc khác ở đ?a phương thường là như?ng công
tr?nh đối xứng.
Cục Hải Quan Đà Lạt. ( XD 2001- KTS Phan Hồng Trường)
Kiến trúc các Nhà làm việc khác.
Từ 1986 đến nay, hàng
loạt các công sở đa? được cải tạo nâng cấp hoặc xây dựng mới để đáp ứng nhu cầu
phát triển trong t?nh h?nh mới: hiện đại hoá công sở. Xu hướng thiết kế thể
loại công tr?nh này có như?ng điểm chung: h?nh khối cân đối, sảnh vào trang
trọng, đường bệ ở trục chính, có mái đón che mưa che nắng tuỳ mức độ quan trọng
của công tr?nh. Tuy nhiên bên cạnh đó va?n còn một số công tr?nh chạy theo lối
bố cục "quá tự nhiên chủ nghĩa", rập khuôn kiểu "nhân bản vô
tính" không chú trọng nghiên cứu khai thác tổ chức không gian cho phù hợp,
tạo ra sự rời rạc, vụn vặt thiếu tính thẩm my?.
Cục Thống kê Tỉnh Lâm Đồng (XD 2001)
Quy Hỗ trợ Đầu
tư.
Cục thuế Lâm
Đồng
Toà Án Tỉnh Lâm Đồng ( XD 2001- KTS Nguyễn Hoài Nam)
Toà Án Thành phố Đà Lạt.
Du lich nghỉ dưỡng là một thế mạnh kinh tế mũi nhọn của
thành phố Đà Lạt, cho nên các loại hình khách sạn phát triển rất nhanh. Thời
gian gần đây, tại Thành phố du lịch Đà Lạt xuất hiện nhiều khách sạn mới bên
cạnh hệ thống khách sạn cũ như: KS Dầu khí, KS Lavico, KS Seri, Á Đông, Hàng
không, Ngọc Lan…với kiến trúc khá đa dạng và tiêu chuẩn có thể đạt đến 1 hoặc 2
sao. Các khách sạn xây dựng mới đa số có h?nh thái kiến trúc hiện đại, sử dụng
mái ngói linh hoạt nhấn nhá mât tiền với bố cục hệ cửa sổ, mở cửa lớn và sử
dụng nhiều kính. Nhìn chung, đây là như?ng cố gắng t?m tòi của các KTS tác giả
khi phải thể hiện công tr?nh hài
hoà với phong cảnh thiên nhiên của thành
phố Đà Lạt.
KHÁCH SẠN GOLF 3 ( XD 1994 - KTS Lê Văn Rọt)
KHÁCH SẠN DẦU KHÍ ( XD 1995 - KTS Khương Văn Mười)
" Xu
hướng khai thác h?nh thức kiến trúc cu? .
Ap dụng chủ yếu ở các công tr?nh cu? được phục hồi cải tạo
lại như khách sạn Palace, khách sạn Đà Lạt, Empress… Đây là giải pháp quay lại
cái cu? va?n còn có giá tr?, v? nó đa?
hài hòa quen thuộc với đ?a điểm, với không gian kiến trúc có sẵn. Cu?ng là một
giải pháp t?nh thế an toàn trong khi chưa chưa t?m thấy một h?nh thức biểu hiện
mới nào khác.
- Khách
sạn Palace
(5 sao): là công tr?nh tiêu biểu cho
việc cải tạo xây dựng công tr?nh kiến trúc cu? có giá tr?. Qua nghiên cứu hồ sơ
và thực tế xây dựng, đa? thấy được xu hướng chính về kiến trúc đối với dự án
này là tôn tạo phục hồi h?nh thức kiến trúc, chỉ chú ý thêm về trang trí hiện
đại, đồng bộ cho đúng chức năng công tr?nh, cải tạo lại không gian sân vườn bên
ngoài cho phù hợp tinh sang trọng của công tr?nh.
KHÁCH
SẠN PALACE
( Liên doanh DRI nâng cấp lại năm 1994)
- Khách sạn Đà Lạt (4 sao): Cu?ng được thiết kế cải tạo dưới
h?nh thức cu?, và có bổ sung thêm phần mái đón chính theo yêu cầu mới để phù
hợp hơn với việc sử dụng. Xu hướng chung nhất va?n là tôn trọng giá tr? cổ của
các kiến trúc và tổ chức lại không gian bên trong cho đồng bộ và linh hoạt hơn.
KHÁCH SẠN NOVOTEL - ĐÀ LẠT ( Nâng cấp năm 1997)
- Các biệt thự cu? cu?ng đều mang thêm nội dung hiện đại,
nhưng về h?nh thức đều được giư? theo nguyên dạng, tạo ra một xu hướng rất đáng
khuyến khích và có tầm văn hoá cao, ma?u mực cho việc nghiên cứu về kiến trúc
đối với các công tr?nh cu?, co? có giá tr? tại các trung tâm đô th?.
CLB Golf Đalat
Một giải pháp an toàn thường được áp dụng đối với các công
tr?nh nâng cấp cải tạo, mở rộng qui mô như trường hợp của Trường Ky?
thuật Đà Lạt. Dựa trên cơ sở trường Petite Lycée cu? được xây dựng từ năm 1927,
Trường Ky?
thuật Đà Lạt được nâng cấp mở rộng để đáp ứng nhu cầu sử dụng mới theo tinh
thần tôn trọng, học tập nét đẹp của kiến trúc hiện hư?u, cố gắng lập lại một số
chi tiết vào kiến trúc mới như kiểu lợp mái, console, trụ hành lang, kiểu cửa cuốn
vòm... tạo thành một tổng thể thống nhất chấp nhận được.
Trường Ky? thuật Đà Lạt ( XD 2003-2004)
" Xu
hướng Biểu hiện: Khai thác tính biểu tượng của kiến trúc. Kiến trúc biểu tượng
dùng như?ng mảng khối h?nh học mang tính biểu hiện một cách khái quát để người
xem liên tưởng, không phải để h?nh dung cụ thể. Về mặt nghệ thuật biểu hiện ro?
nhất là Cung thiếu nhi Tỉnh Lâm Đồng xây dưng tại thành phố Đà Lạt ( 1986-
TS.KTS Đặng Việt Nga). Tác giả xuất phát từ nhu cầu sử dụng của đối tượng thiếu
nhi, gửi gắm h?nh thức biểu hiện mặt đứng chính của công tr?nh ví như là một
búp măng non đang hé nở. Sảnh chính được nghiên cứu tạo h?nh công phu và h?nh
ảnh mặt trời đang toả sáng chủ đạo cho toàn bộ không gian sảnh vào... Tổng thể
và các hạng mục còn lại khác đều được nghiên cứu chu đáo và có h?nh thức phù
hợp, gần gu?i với các hoạt động của thiếu nhi. Có thể xếp công tr?nh này vào
loại Xu hướng biểu hiện mang tính kể chuyện, rất de? thân thiện.
Nhà Thiếu nhi Tỉnh Lâm Đồng
Xu hướng này cu?ng thường thấy ở các công tr?nh văn hóa như
Kiến trúc Nhà thờ Thiên chúa giáo. Các kiến trúc liên quan đến Thiên chúa giáo
là như?ng công tr?nh có tầm cơ? xuất hiện sớm ở Lâm Đồng. Nhà thờ, Nhà nguyện
luôn là nơi linh thiêng gắn liền với đời sống tinh thần của bà con giáo dân. Về mặt quy hoạch không
gian đô th?, Nhà thờ là điểm mốc cần thiết, thường ở v? trí đẹp của các điểm
dân cư đông giáo dân. Quy mô, diện mạo kiến trúc nhà thờ phản ảnh mức độ sung
túc của khu vực dân cư đó. Kiến trúc Nhà thờ thường thể hiện nguyện vọng hướng
thượng của con chiên. Các KTS thiết kế nhà thờ thường đi theo xu hướng Hiện đại
biểu hiện đầy cảm hứng sáng tạo. Có thể kể đến Nhà thờ Liên Khương của KTS Đặng
Việt Nga, Nhà thờ Bảo Lộc, Nhà thờ Tân Bùi, Nhà thờ Lộc Tiến...
Nhà thờ
Bảo Lộc (KTS Ngô viết Thụ- P/A điều chỉnh Cty. ASCA)
Nhà thờ Tân Bùi
Ngoài ra còn phải kể đến một dạng công tr?nh văn hóa khác
như:
Tượng đài tưởng niệm
tại th? trấn Đồng Nai (Huyện Cát tiên): Xây dựng năm 1998, tổng thể công tr?nh
được nghiên cứu khá công phu, h?nh tượng nghệ thuật biểu hiện được tính khái
quát, hiện đại có sự t?m tòi phản ảnh đặc trưng của vùng đất có di sản (nơi có
di chỉ Cát Tiên- nhiều hiện vật Linga- Yoni to nhất nước).
Tượng đài tưởng niệm tại th? trấn Đinh văn (Huyện Lâm hà).
Xây dựng năm 2000. Tác giả là KTS Lê Hiệp đa? phản ảnh đươc xu hướng biểu hiện
Hiện đại nhưng đậm chất dân tộc, h?nh tượng de? hiểu, de? gần gu?i.
" Xu
hướng khai thác kiến trúc Dân tộc bản đ?a.
- Làng SOS - Trường Hermann Gmeiner Đà Lạt. Điển h?nh cho
khuynh hướng sáng tác t?m về đường nét văn hoá dân tộc đ?a phương. Tổng thể
công tr?nh đa? tạo nên một ấn tượng thẩm my? nhẹ nhàng khó quên. Tác giả KTS
Phạm Hưu? Quý đa? khéo sử dụng vật liệu đ?a phương ( đá chẻ, go?) và ky? thuật
bê tông cốt thép hiện đại, xử lý một số chi tiết đặc trưng để có một tác phẩm
hiện đại mang màu sắc dân tộc và đ?a phương. Một xu hướng đáng để nghiên cứu
học tập.
TRƯỜNG HERMANN GMEINER ( XD 1995- KTS Phạm Hư?u Quý) thuộc
làng SOS Đà Lạt
Làng SOS Đà Lạt ( XD trước 1975- Nâng cấp 1987)
Với xu hướng phát triển du l?ch sinh thái, du l?ch t?m hiểu
văn hóa, các loại h?nh tiện nghi phục vụ nhu cầu trú ngụ của du khách về gần
thiên nhiên cu?ng đang được chú ý phát triển ở Lâm Đồng, đặc biệt ở như?ng nơi
có thắng cảnh thiên nhiên đẹp. Xu hướng thiết kế thể loại các công tr?nh kiến
trúc này có nét đặc sắc riêng. Như?ng không gian cư trú truyền thống dân gia?,
như?ng mái nhà sàn dân tộc, thường là như?ng nguồn cảm hứng cho sáng tạo công
tr?nh theo phương châm thiết kế sinh thái: "mo?i kiến trúc gắn bó với
thiên nhiên ví như là một đoá hoa rừng nở mọc lên từ đất"... Khu du l?ch
Suối Tiên ở Đa Houai, Khu du l?ch Hồ Tuyền Lâm, Khu du l?ch núi Lang Biang ở
xa? Lat... là như?ng ví dụ thử nghiệm có tín hiệu khả quan, rất được sự quan
tâm của du khách bốn phương và và thu
hút cả sự chú ý của như?ng nhà đầu tư tiềm tàng.
KHU DU L?CH "
LANG BIANG RESORT " ( XD 2002- KTS Trần Công Hoà)
NHÀ
ĐÓN TIẾP KHU DU L?CH THÁC DATANLA (XD 2000- KTS Trần công Hoà)
" Xu
hướng hoài cổ khai thác tính chất cổ truyền Việt Nam.
Quay về với phương Đông cổ truyền, t?m kiếm một chút g? bản
sắc dân tộc cho một công tr?nh hiện đại là một hướng đi cân thiết đáng trân
trọng. Điển h?nh qua xu hướng thiết kế của Thiền Viện Trúc Lâm. Đây Là một công
tr?nh mang tính tiêu biểu, có quy mô lớn nhất trong số các chùa Thiền tông mới
được Hoà thượng Thích Thanh Từ chủ tr? khởi công xây dựng ngày 28-5-1993, khánh
thành ngày 9-3-1994. Toạ lạc trên ngọn đồi Phượng Hoàng rộng hơn 23 ha, nằm
cạnh hồ Tuyền Lâm và cách Đà Lạt 5 km, Thiền Viện Trúc Lâm đa? được KTS Ngô
Viết Thụ phác hoạ tổng thể, KTS Huỳnh Ngọc Ẩn thiết kế Chánh điện. Toà Chính
điện h?nh chư? nhật nẳm ở v? trí trung tâm, nh?n về hướng Nam qua cảnh quan thơ mộng bao la
của mặt hồ và rừng núi Tuyền Lâm. Bao bọc chung quanh chánh điện, là cả một
quần thể các công tr?nh kiến trúc chùa Việt truyền thốn. Kiến trúc Thiền viện
theo khuynh hướng hiện đại hoá đường nét kiến trúc chùa xưa: về h?nh thức là
nét kiến trúc dân tộc, về công năng, cấu trúc th? hiện đại. Mái nhà nhờ hệ kết
cấu khung cột BTCT với console đơ? mái vươn rộng ra trên 2m, tạo hiệu quả đặc
biệt của kiến trúc Á Đông. Các đầu đao hơi nhẹ vút lên một cách vừa phải trông
rất thanh thoát mềm mại, mô típ trang trí giản d?, không rườm rà, thể hiện
phong cách kiến trúc mới có tính dân tộc và hiện đại.
Nói chung, như một sự tiếp nối liên tục của truyền thống,
nét độc đáo trong các kiến trúc Phật giáo ở Lâm đồng thể hiên ro? trong việc
chọn lựa đ?a điểm xây dựng công tr?nh có không gian thiên nhiên đẹp và yên
tĩnh. H?nh thức Kiến trúc ngôi chùa luôn luôn phải có mái cong mềm mại hài hoà với khung cảnh sơn thuỷ hư?u t?nh của
của tự nhiên,
THIỀN VIỆN TRÚC LÂM
THIỀN VIỆN TRÚC LÂM- CHÁNH ĐIỆN
" Xu
hướng Trung dung: Chủ nghĩa Chiết trung ở thế kỷ 19 là sự trốn tránh cái khó
khi phải lựa chọn, đó là tính cơ hội và v? kỷ, đi t?m như?ng thứ de? dàng. Còn
ở kiến trúc Hậu hiện đại, chủ nghĩa Chiết trung mạnh me? và đa dạng một cách
triệt để hơn. học tập nét đẹp xưa, có chọn lọc, cải biên áp dụng mới: Trụ sở
Tỉnh Uỷ Lâm Đồng, Trụ sở Thành Ủy Đà
Lạt...
Trụ sở Tỉnh Uỷ Lâm Đồng- KTS Khương Văn Mười
" Xu
hướng Công năng: H?nh thức đơn giản hiện đại: các Cơ sở công nghiệp, một số
trường học, bệnh viện Bảo Lộc, Bệnh viện Đà Lạt, Bệnh viện Y học Dân tộc, công
tr?nh quy mô nhỏ...
" Xu
hướng sao chép của như?ng người không
có chuyên môn: bất chấp chân lý, các quy
luật... mie?n làm sao đạt được mục đích cá nhân. Tồn tại rải rác ở một số công
tr?nh cơ quan tại các Th? trấn, Th? tứ, tập trung ở các công tr?nh nhà ở gây ra
sự ho?n loạn trên qui mô lớn cho bộ mặt
các đô th?.
" Xu
hướng Ho?n tạp: Chú trọng h?nh thức cầu kỳ, muốn nổi bật, thể hiện sự khác lạ
không b?nh thường. Chủ yếu biểu hiện ở mảng nhà nhân dân tự xây.
Thực trạng Kiến trúc Nhà ở
1. Nhà ở: (Khảo sát điển h?nh tại TP Đà Lạt). Về nhà ở theo
số liệu thống kê hiện hành toàn Thành phố có khoảng 33.625 ngôi căn nhà với
tổng diện tích sử dụng là 1.884.359 m2 sàn, diện tích b?nh quân là 9,42m2
sàn/người. Đây là loại h?nh kiến trúc theo quy đ?nh do người dân tự thiết kế, tự đầu tư, có hoặc
không có sự tư vấn thiết kế của các KTS. Bàn về các xu hướng thiết kế trong
mảng nhà ở này cu?ng có nghĩa là nói về các xu hướng thẩm my? và quyền làm chủ
đa dạng, phức tạp của người dân.
- Biệt thự: Số lượng biệt thự ở Đà Lạt đến nay có khoảng
1.900 cái, trong đó khoảng 1.500 biệt thự được xây dựng từ trước 1975. Từ 1975
đến 1986 kinh tế khó khăn nên biệt thự hầu như không phát triển, đa phần là nhà
ở biệt lập có sân vườn khiêm tốn về diện
tích cu?ng như phong cách. Sau 1986, kinh tế có khá hơn và h?nh thành một bộ
phận cư dân khá giả, am hiểu và chú trọng vấn đề thẩm my? trong nghệ thuật tổ
chức không gian nhà ở. Trên như?ng lô đất b?nh quân khoảng 400 - 500m2, người
dân có khuynh hướng thiết kế xây dựng như?ng ngôi nhà biệt thự nhỏ xinh xắn và
gom mọi sinh hoạt vào ngôi nhà mà không phân chia riêng ra như?ng diện tích phụ
trợ như như?ng biệt thự của Tây Âu. Thời gian đầu như?ng năm 80, người ta còn
sử dụng vật liệu gạch đá như kết cấu ch?u lực và cách nhiệt, cánh âm th? cho
đến nay, vật liệu truyền thống và có rất nhiều ở Đà Lạt này trở thành chủ lực
trong trang trí nội, ngoại thất các biệt thự. Điểm đặc biệt của các biệt thự là
mái dốc lợp ngói hay tôn giả ngói (xu hướng tôn giả ngói không còn th?nh hành
từ năm 2002 trở về sau mà thay bằng ngói xi măng cao cấp và nhiều màu sắc) và
các loại cửa đều toàn bằng go?. Người dân cu?ng tiếp tục triển khai khuynh
hướng dùng sàn go? nhưng không phải sàn go? truyền thống mà loại go? cao cấp
lát trên sàn bê tông cốt thép. So với các kiểu biệt thự cổ, một số biệt thự mới
hiện nay có dáng vẻ hào nhoáng màu mè hơn v? in dấu ấn cá tính của gia chủ đậm
đà hơn sự tư vấn của đồ án thiết kế. Điều đáng mừng cho Đà Lạt là xu hướng làm
biệt thự mái bằng rất ít được chọn lựa, đa phần sử dụng các kiểu bố cục mái dốc
rất sinh động.
- Nhà ở biệt lập: Thời gian đầu phát triển, nhà biệt lập chủ
yếu là như?ng căn nhà b?nh thường xây dựng độc lập trên một khỏang đất tương
đối rộng hoặc gắn liền với vườn cây. Thời gian sau, khi nền kinh tế phát triển
tương đối, các nhà biệt lập được chăm chút hơn, đầu tư nhiều hơn về giải pháp
kiến trúc cu?ng như trang trí nội, ngọai thất; một số nhà biệt lập có dáng dấp
như biệt thự thu nhỏ tuy không có phần nhà phụ, nhà xe, nhà cho gia nhân như
các biệt thự xưa. Thời gian gần đây, do giá đất tăng cao nên khả năng mua đất
không được nhiều, các nhà biệt lập được xây dựng trên như?ng lô đất không được
rộng lắm ( khỏang 250 m2 đến 300 m2 nên thiếu không gian cho sân vườn và mất
tầm nh?n v? quá gần nhau. Chủ trương của Tỉnh Lâm Đồng kể từ năm 2003 là tất cả
các nhà biệt lập chỉ được xây dựng 2 tầng và có mái dốc lợp ngói hoặc. Có thể
nói thêm, đây là một bước chấn chỉnh đúng hướng và k?p thời của Tỉnh và Thành
phố Đà Lạt để hạn chế như?ng ảnh hưởng
không tốt đến vẻ đẹp cảnh quan kiến trúc vốn có của Thành phố Đà Lạt.
- Nhà liên kế có sân vườn: Đây là dạng nhà ở thuần túy ở
như?ng khu dân cư hiện hư?u ( các khu cư xá cu?) hay mới xây dựng trên các khu
đất nhỏ. Trước nhà được quy đ?nh chừa lại một khoảng sân nhỏ để trồng cây, hoa
hay làm sân ba?i tùy ý, giư?a các sân vườn
có hàng rào nhẹ. Đây là lọai h?nh hiện nay được ưa chuộng ở các khu dân
cư cần chỉnh trang nhưng không thể phát
triển thêm diện tích nhà và đất; quy đ?nh cho xây dựng cao không quá 3 tầng và khuyến khích các chủ
đầu tư lợp chung mái bằng ngói hay tôn giả ngói. Có một số nhà liên kế có sân
vườn ở căn b?a có khuynh hướng tách riêng tường và cải tạo lại mang dáng dấp
nhà biệt lập tuy mặt tiền không được rộng lắm. Vấn đề đáng nói chung của hai
lọai nhà liên kế và liên kế có sân vườn hiện nay là độ cao từng tầng và cách
trang trí, sử dụng vật liệu trang trí ở mặt nhà thường ít thống nhất với nhau
thậm chí đối chọi, đủ màu sắc, kiểu cách. Và về mặt quản lý, chưa có quy đ?nh
pháp lý nào điều chỉnh việc này một cách triệt để.
- Nhà liên kế phố: Tại khu trung tâm Thành phố Đà Lạt và các
đường phố thương mại chính trong Thành phố, trung tâm khu vực của các phường xa?, hiện đang có xu
hướng phát triển nhanh và phức tạp lọai h?nh nhà ở đặc biệt này. Đây là điều
tất yếu trong thời buổi kinh doanh d?ch vụ đang phát triển mạnh. Các khu nhà
phố thương mại trước đây thường là một da?y nhà nhiều căn, (do các nhà kinh
doanh điạ ốc xây dựng nhà ở kết hợp với cửa hàng buôn bán) cao không quá 2 tầng
và lợp chung một mái, thường là mái ngói cho ta cảm quan thống nhất hài hoà của
khung cảnh đường phố. Về sau này, khi làm ăn khá giả, có điều kiện phát triển
nâng cấp, mo?i người dân có xu hướng nâng tầng và tự do tô điểm mặt nhà theo sở
thích. Điểm cần chú ý đối với lọai h?nh này là người ta cứ muốn được phép xây
cao tối đa để tận dụng quy? đất hạn hẹp, chưa kể đến việc tận dụng đ?a h?nh để
xây dựng từ 1 đến 2 tầng hầm mà ở xứ sở đồi núi như Đà Lạt, Bảo Lộc de? b? nh?n thấy "cái
lưng" nhà rất khó ch?u này. Và trong t?nh h?nh như thế, các xu hướng thiết
kế tiến bộ dù có tài giỏi đến mấy cu?ng khó mà tự hào về sự đóng góp của m?nh
cho cảnh quan chung của phố th?
- Chung cư, nhà ở tập thể: Tại tỉnh Lâm Đồng và Thành phố Đà
Lạt, th? xa? Bảo Lộc nói riêng còn rất ít chung cư. Trước đây do đất rộng,
người thưa và tập quán thích yên lặng, độc lập của cư dân nên việc phát triển
chung cư rất hạn chế, chỉ có một số nhà công vụ, hoặc một số căn nhà biệt lập nhà
nước quản lý và bố trí cho nhiều hộ cùng ở. Do không được xây dựng đúng theo
tiêu chuẩn chung cư, nên các lọai nhà này không thể đáp ứng được cho người ở và
b? xâm hại khá nghiêm trọng. Trong t?nh h?nh dân số phát triển nhanh như hiện
nay, tại thành th?, lọai h?nh nhà ở này cần phải được khuyến khích phát triển.
Như?ng năm gần đây, Tỉnh Lâm Đồng đa? cho xây dựng một số chung cư, tuy chưa
đáp ứng nổi nhu cầu chung nhưng cu?ng dần h?nh thành một nếp suy nghĩ chọn lựa
mới khi cần giải quyết nhu cầu ăn ở và cách sống của cư dân, nhất là bộ phận
công chức, hay người độc thân. Chủ trương của Tỉnh Lâm Đồng hiện nay là trong
các khu quy họach dân cư mới, đều phải tính tóan dành đất để xây dựng các chung
cư, đặc biệt bố trí cho như?ng người thu nhập thấp, CBCC thuê hoặc mua...
Qua một số chung cư đa? được xây dựng tại TP Đà Lạt ( Khu
chung cư đường Đặng Thái Thân, Khu chung cư
C.5 đường Triệu Việt Vương, khu chung cư Phan Đ?nh Phùng..), de? nhận
thấy xu hướng biểu hiện chung nhất là loại kiến trúc đơn giản, sắp xếp sao cho
được nhiêu người ở và tiết kiệm về tài chính nhiều nhất. Biểu hiện về mặt nghệ
thuật kiến trúc không có g? đặc sắc đáng kể.
Kiến trúc nông thôn: ( Khảo sát đại diện vùng nông thôn của
TP Đà Lạt).
Đề cập khái quát các
vấn đề có tính chung và đại diện: Đà Lạt là một đô th? song va?n có như?ng khu
dân cư cấp xa? nằm khá xa trung tâm, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông
nghiệp nên mang h?nh thái của nông thôn. Sở dĩ đánh giá như thế v? ngọai trừ
xa? Tà Nung là xa? vùng đồng bào dân tộc ít người mới h?nh thành và phát triển
sau này, hai xa? còn lại là Xuân Trường và Xuân Thọ h?nh thành như như?ng th?
trấn nhỏ dọc theo tuyến quốc lộ 20 và tuyến đường sắt Đà Lạt - Phan Rang. Đây
là như?ng vùng nguyên liệu cho công nghiệp, có nhà máy chế biến các sản phẩm
nông nghiệp do người Pháp xây dựng phát triển cho đến nay và hệ thống hạ tầng
đến nay phát triển khá tốt. Do vậy kiến trúc các công tr?nh công cộng cu?ng
mang dáng dấp Châu Âu như các nhà ga,
nhà máy, một số nhà ở, trang trại của chủ đồn diền, các nhà thờ… Riêng nhà ở
nhân dân th? đa phần là nhà nhỏ trệt
mang đậm nét của các vùng nông thôn trong cả nước. Kiến trúc nông thôn trong đề
tài nghiên cứu này chủ yếu đề cập vấn đề nhà ở tại nông thôn và tạm thời phân
đ?nh thành hai loại:
- Nhà ở của người Kinh:Đà Lạt nói chung và các vùng xa trung
tâm Thành phố Đà Lạt nói riêng là vùng đất có mặt hầu hết nhân dân ta từ Nam
chí Bắc đến sinh cơ lập nghiệp. Đầu tiên là như?ng người dân di cư có tổ chức
từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến lập làng sinh sống chủ yếu bằng nghề
trồng rau và cây trái. Nhà cửa chủ yếu làm dạng ba gian hai chái, mái dốc lợp
tôn (thay cho rơm), vách ván ( thay cho vách đất). Nhà thường nhỏ và thấp (có
thể do trời lạnh). Trong ba gian nhà chính, gian giư?a luôn là bàn thờ (cho dù
là Lương hay Giáo), các phòng khác nằm 2 bên và phía sau, chái dùng làm bếp,
nhà ăn, phòng ngủ hay để dụng cụ sản xuất. Mo?i nhà thường có khuôn viên đất
rộng trồng cây xanh, hoa và làm các công tr?nh phụ như nhà chăn nuôi, vệ sinh.
Nhà ở hầu như chưa có bóng dáng bàn tay KTS. Nh?n chung xu hướng biểu hiện ro?
nét nhất là cố giư? nguyên vẹn h?nh thức và nội
dung căn nhà "truyền thống" ở quê hương xứ sở cu? của m?nh.
- Nhà ở vùng đồng bào
dân tộc: Điểm thay đổi cơ bản của các kiểu nhà trong vùng đồng bào dân tộc hiện
nay là vật liệu lợp và nền nhà. Bà con thích lợp ngói hoặc tôn để đảm bảo sử
dụng lâu dài, còn nền nhà th? sàn ván hạ thấp dần, không còn nuôi gia súc gia
cầm dưới sàn nhà và tại một số khu đ?nh canh đ?nh cư, bà con dân tộc đa? làm
nhà trên nền đất láng xi măng hoặc lát gạch các lọai. Đây là một bước tiến đáng
hoan nghênh trong vùng đồng bào dân tộc kèm theo sự cung cấp nhiều hơn các d?ch
vụ cơ sở hạ tầng ky? thuật của nhà nước, giúp bà con nâng cao đời sống và cải
thiện điều kiện vệ sinh, môi trường. Ro? ràng kiến trúc nhà ở dân tộc miền núi
đa? b? mai một, có xu hướng biểu hiện " kinh hoá" dần, đặt ra nhiều
vấn đề cần phải tiếp tục suy nghĩ!
NHẬN ĐỊNH ĐÁNH GIÁ CÁC XU
HƯỚNG.
1. Nhận định các xu hướng biểu
hiện trong sáng tác kiến trúc.
Thông qua việc khảo sát các
công trình kiến trúc khác nhau đã được xây dựng tại Tỉnh Lâm Đồng ( chủ yếu tại
TP Đà Lạt và Thị xă Bảo Lộc), chúng ta nhận thấy có một số điểm chung cho sự
tồn tại của các xu hướng đó là:
- Về qui mô công trình: chủ
yếu là các công trình vừa và nhỏ.
- Một số xu hướng đã thể hiện
hướng tìm tòi tích cực về bản sắc văn hoá dân tộc.
- Xuất hiện chủ nghĩa hình
thức hiện diện ở nhiều thể loại công trình khác nhau.
- Đã bước đầu chịu sự ảnh
hưởng của sự hội nhập thông qua việc tiếp nhận nguồn thông tin từ nhiều hướng,
nhiều phía, trong và ngoài nước.
- Các công trình văn hoá đã
định hình dần một số xu hướng nghệ thuật.
2. Các tác động đến các xu
hướng sáng tác trong kiến trúc tại Lâm Đồng.
Xem xét các xu hướng biểu hiện trong những
công trình kiến trúc đang có mặt tại Lâm Đồng, chúng ta nhận thấy một thực tế là đã có những sự tác
động quan trọng từ các yếu tố: điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế xã hội:
Về những tác động của điều
kiện tự nhiên:
Về những tác động có tính
cách bắt buộc từ góc độ quản lý nhà nước:
+ Vấn đề lớn như việc Bộ Xây
dựng ban hành văn bản cho phép nhân dân tự thiết kế loại nhà ở ≤ 3 tầng và ≤
200m2 và các qui định khác của nhà nước liên quan đến lĩnh vực quản
lý đô thị cũng đã tác động không nhỏ đến hành nghề của KTS.
+ Vấn đề quản lý xét duyệt
nguồn vốn đầu tư một cách máy móc áp đặt dựa trên tiêu chuẩn diện tích, định
mức vật tư… dường như đang tạo ra những mẫu thiết kế tương tự nhau ( các Trụ sở cơ quan, Nhà làm việc,
Trường học…).
+ Cần lưu ý rằng có một
nguyên nhân sâu xa và chi phối mạnh mẽ, toàn diện đến các xu hướng sáng tác là
vấn đề Quy hoạch đô thị: Phân lô nhà phố; chia nhỏ lô đất nhà biệt lập, biệt
thự; cho san ủi địa hình...
Các tác động khách quan có
vai trò quan trọng để hình thành các xu hướng sáng tác nêu trên. Có xu hướng
tích cục, nhưng cũng có xu hướng có tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền
kiến trúc Tỉnh nhà.
Nhận định chung
Có lẽ bài học của quá khứ phần nào sẽ giúp chúng ta tìm hiểu và nhận biết
ra được những yếu tố tạo ra những nét đặc thù của kiến trúc Đà Lạt:
- Điều kiện
môi trường thiên nhiên độc đáo của vùng Đà Lạt: địa hình, địa thế, khí hậu thời
tiết, vật liêu địa phương… luôn là đề bài hấp dẫn cho các giải pháp kiến trúc
từ xưa đến nay. So với cả nước, kiến trúc Đà Lạt tiêu biểu cho kiến trúc miền
núi, kiến trúc xứ lạnh …( Từ mái nhà sàn của cư dân bản địa cho đến kiến trúc
kiểu Au, Mỹ, Việt thời hiện đại).
- Những công
trình quy hoạch và kiến trúc của thời Pháp thuộc đã tạo dựng thành diện mạo đặc
thù đậm nét của thành phố Đà Lạt như một
thành phố của châu Au và điều này vẫn còn nguyên giá trị và sẽ còn tồn tại lâu
dài với thời gian.
- Kiến trúc
hiện đại trước 75 do các KTS Việt Nam thiết kế cũng đã để lại những
dấu ấn tốt đẹp (Giáo Hoàng chủng viện- KTS Tô Công Văn; Trung tâm nghiên cứu
nguyên tử- KTS Ngô Viết Thụ; Làng SOS…).
- Kiến trúc
hiện đại sau ngày Giải phóng thể hiện qua một số công trình tiêu biểu đã cho
thấy vẫn đang trong giai đoạn tìm tòi thử nghiệm, nhưng đã có một vài tín hiệu
đáng mừng qua một số công trình mới được xây dựng gần đây.
Trong thời gian gần đây, nền
Kiến trúc Việt Nam
có những tiến triễn rõ rệt cả về hình thức lẫn nội dung. Sự hội nhập và sự mở
cửa nền kinh tế hướng về thị trường đã đem lại những ảnh hưởng mới trong sáng
tạo và tư duy về kiến trúc. Giới KTS đã phần nào tiếp cận được các xu hướng
kiến trúc hiện đại trên thế giới, cũng như góp phần thay đổi diện mạo kiến trúc
nước nhà. Tuy nhiên trong số những công trình kiến trúc hiện đại gần đây, có
nhiều công trình kiến trúc còn mang tính sao chép, lượm lặt, mang dáng dấp xa
lạ, lạc lõng.
Sự phát triển của nền kinh tế
thị trường đã thúc đẩy sự phát triển của các đô thị và sự bùng nổ trong xây
dựng, với những hiện tượng tích cực cũng như tiêu cực đã cho thấy vai trò và
trách nhiệm của các nhà quản lý chưa thực sự hiệu quả {lúng túng, bị động,
không kiểm soát được tình hình). Nhiều vấn đề cụ thể đã được đặt ra như nhu cầu
cấp thiết về quy hoạch, thẩm mỹ kiến trúc, hiện đại, dân tộc, bản sắc …là những
vấn đề đòi hỏi nghiên cứu sâu về lý thuyết cũng lý luận vận dụng thích hợp.
·
PHẦN II:
Xây dựng lý thuyết về Kiến
trúc hiện đại Việt Nam.
Cơ sở khoa học từ lý luận
chung của thế giới.
Các đặc thù của VN, của địa
phương.
Điều kiện thực tiễn
Xu thế phát triển,
Cơ sở khoa học, từ lý luận
chung của thế giới:
Kiến trúc bắt đầu có mặt từ
những nhu cầu thiết thực của con người là tạo ra cho mình một chỗ dưới ánh mặt
trời, một không gian an toàn để sinh hoạt, với một sự tiện nghi thích ứng nào
đó. Từ xa xưa, khái niệm kiến trúc đã
luôn bao gồm 2 yếu tố gắn bó với nhau: đó là yếu tố kỹ thuật và yếu tố nghệ
thuật. Ngày nay, có thêm yếu tố thứ ba là yếu tố kinh tế.
Kiến trúc của từng thời kỳ
lịch sử đều tùy thuộc vào nền kinh tế, trình độ văn hóa, trình độ khoa học- kỹ
thuật, của một cộng đồng xã hội ở vào thời kỳ đó, là một bộ phận và có vai trò
phục vụ tích cực sự phát triển cộng đồng, với mục tiêu quan trọng là cải thiện
môi trường sống của con người.
Do vậy, kiến trúc cần được
phát triển theo hướng thích ứng với những điều kiện thực tế đã nêu ở trên cũng
như phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng địa lý: địa hình, địa
chất, khí hậu, thủy văn, mưa nắng…
Trước nhất kiến trúc Hiện đại
Việt nam cần theo đúng phương châm trong thiết kế kiến trúc như sau:
- Kiến trúc hiện đại phải
đáp ứng các tiêu chí:
Thích dụng,
Bền vững,
Kinh tế,
Mỹ quan.
- Kiến trúc phải hài hòa
với thiên nhiên và con người.
Một
trong những chức năng chủ yếu của Kiến trúc là tạo lập một không gian che chở
cho con người trước những điều kiện bất lợi của tự nhiên, mặt khác kiến trúc cũng cung cấp cho
con người nơi chốn để giao tiếp có lợi giữa con người với thiên nhiên. Kiến
trúc phải gắn bó với địa điểm, địa hình, địa thế, môi trường cảnh quan thiên nhiên, cảnh quan sinh hoạt…
- Kiến trúc phải mang tính
tiêu biểu của thời đại và tính kế thừa liên tục của truyền thống, lịch sử, phát
huy bản sắc địa phương, dân tộc.
Xu thế toàn cầu hóa là không
thể đảo ngược. Tuy vậy truyền thống từng vùng từng nước cần được bảo vệ và phát
huy, nhưng không phải bằng cách sao chép quá khứ mà bản địa hóa kiến trúc quốc
tế và quốc tế hóa kiến trúc bản địa.
Cuộc sống vẫn biến đổi từng
ngày, nền văn minh toàn cầu đã đưa mọi người lại gần với nhau, hiểu biết
nhau hơn. Xu thế quốc tế hóa đang tác
động nhiều mặt trong đời sống sinh hoạt xã hội: hình thức ăn mặc, tiện nghi
sinh hoạt, làm việc, tiện nghi nhà ở… Nhưng vượt lên tất cả những điều đó, bản
sắc của từng làng mạc, phố xá, văn hóa của từng dân tộc cần được bảo tồn. Cùng
với xu hướng toàn cầu hóa, mọi việc đã thay đổi. Thế giới hội nhập ngày nay
người ta đề cao vai trò bản sắc dân tộc. Càng nhiều bản sắc khác nhau càng làm
thế giới thêm đa dạng, phong phú, Đồng thời sự hòa nhập, sự ảnh hưởng qua lại
sẽ làm bản sắc đậm đà hơn. Vì vậy, Kiến trúc hiện đại Việt Nam nên đi theo chiều hướng nghiên
cứu, ứng dụng, phát huy truyền thống, bản sắc dân tộc để vận dụng vao công
trình hiện đại.
Bản sắc dân tộc trong kiến
trúc không nhất thiết phải là một đặc trưng nào đó thuộc hình thức bên ngoài,
mà còn thể hiện một cách kín đáo, sâu lắng ở một vài khía cạnh nào đó: ở cách
tổ chức không gian, bố trí mặt bằng, ở cách sử dụng những kinh nghiệm truyền
thống: hàng hiên, sân trong, phòng thờ trên sân thượng…. Đôi khi nó chỉ hiện
hữu tiềm ẩn trong tinh thần tôn trọng
những điều kiện thực tế của đất nước và tinh thần học hỏi truyền thống của
người KTS.
Các đặc thù của kiến
trúc Viêt Nam.
Đặc thù tự nhiên: Kiến trúc
phải phù hợp với điều kiện thiên nhiên tại chỗ:
Kiến trúc vùng nhiệt đới gió
mùa.
Kiến trúc miền đồng bằng.
Kiến trúc thích ứng với cảnh
quan.
Kiến trúc sinh thái.
Đặc thù văn hóa:
Triết lý Đông phương:
Phong thủy: Vận dụng thuật Phong thủy của
người xưa trong việc lựa chọn địa điểm, bố trí không gian kiến trúc từ bên
ngoài cho đến bên trong.
Quy luật Am Dương: Quy luật
trong thiên nhiên là âm dương phải cân bằng. Trong nghệ thuật kiến trúc, quy
luật âm dương được cảm nhận qua cách xử lý về mặt hình thức như là: hình khối
đặc - rỗng, khoảng sáng – khoảng tối, chỗ dày -
chỗ thưa, khối cao - khối thấp,
chỗ lồi – chỗ lõm, mặt thô - mặt trơn,…
Kiến trúc đậm đà bản sắc dân
tộc:
Bản sắc dân tộc trong Kiến
trúc không phải một đặc trưng nào đó thuộc hình thức của một công trình kiến
trúc. Tính chất dân tộc của công trình, cũng như tinh thần dân tộc của người
Kiến trúc sư phải toát ra ngay từ cái quan niệm đã hình thành tác phẩm. Bản sắc
dân tộc có thể được thể hiện một cách kín đáo ở một vài khía cạnh nào đó: cách
tổ chức mặt bằng, không gian, ở cách sử dụng thiết thực như: giếng trời, hàng
hiên… Đôi khi nó chỉ hiện diện ở một dang tiềm ẩn, trong cái tinh thần thiết
thực, tôn trọng những điều kiện thực tế của đất nước mình và tinh thần học hỏi
truyền thống của người Kiến trúc sư.
Điều kiện thực tiễn của
kiến trúc Đà Lạt.
Đặc thù tự nhiên: Kiến trúc Đà
Lạt phải phù hợp với điều kiện thiên nhiên tại chỗ:
Kiến trúc xứ lạnh.
Kiến trúc miền núi.
Kiến trúc thích ứng với cảnh
quan thiên nhiên.
Kiến trúc sinh thái.
Đặc thù văn hóa.
Triết lý Đông phương:
Phong thủy: Vận dụng thuật Phong thủy của
người xưa trong việc lựa chọn địa điểm, thế đất cao tốt hơn thấp, kiến trúc tựa
lưng vào sườn núi, mở rộng tầm nhìn về phía thung lũng…
Quy luật Am Dương: cảm nhận
qua cách xử lý hình thức kiến trúc theo lối tương phản về hình khối, chiều
rộng- chiều cao, bề mặt, về đường nét, về vật liệu…
Kiến trúc kiểu Pháp thích ứng
với cảnh quan thiên nhiên Đà Lạt:
Những công trình kiến trúc một thời kiểu Pháp,
đã và đang tồn tại là một sự thật hợp quy luật, chiếm ưu thế trong diện mạo đô
thị Đà Lạt. Kiến trúc hiện đại của Đà Lạt, trước nhất phải có dáng vẻ hài hòa
với bao cảnh lân cận là hướng thiết kế
dễ chọn lựa, an toàn, hoặc khó khăn hơn khi thiết kế công trình hiện đại là
phải theo cách xử lý tương phản bất ngờ giữa cái cũ và cái mới, như ở nhiều
trường hợp đã thực hiện trên thế giới.
Kiến trúc hài hòa với thiên
nhiên:
Từ xa xưa, kiến trúc của người dân tộc bản địa
đã phải nép mình trong thiên nhiên. Bao nhiêu thế hệ kiến trúc đã để lại cho
chúng ta nhận thấy được những nét riêng biệt của một số công trình. Các công
trình của Thành phố Đà Lạt thường kết hợp hài hòa với không gian bao cảnh chung
quanh. Từ những công trình công cộng, những ngôi biệt thự của giới quý tộc sang
trọng, cho đến những ngôi nhà nhỏ bình an, yên ổn của giới bình dân, tất cả đều
như có ý thức gắn bó mật thiết với thiên nhiên chung quanh, từ gần đến xa xa.
Cây xanh, vườn hoa bao quanh khuôn viên công trình, bồn hoa ở lan can, ở bệ cửa
sổ…hay cả mảng tường đá rêu phủ ở góc nhà.
Kiến trúc đậm đà bản sắc dân
tộc:
Đà Lạt là thành phố mới hơn 110 năm tuổi, xưa
là vùng đất cao nguyên hoang sơ với cư dân bản địa là người dân tộc Lat. Trên
đường hình thành và phát triển, Đà Lạt là vùng đất lành, nơi tụ hội dân cư từ
mọi miền đất nước về đây làm ăn, sinh sống. Với vốn văn hóa đa dạng như vậy,
con đường tạo dựng bản sắc của kiến trúc địa phương Đà Lạt cũng vừa dễ lại vừa
khó. Vấn đề còn lại có lẽ là tài năng và vốn sống được thấm nhuần văn hóa địa
phương của người sáng tác!
Các giải pháp hỗ trợ sáng
tác:
Nắm lại hiểu biết nhất định
về những nguyên tắc thiết kế tổng quát có thể sẽ giúp cho KTS đóng khung giới
hạn và đáp ứng nhiều giải pháp cho những vấn đề trong thiết kế kiến trúc. Những
khái niệm cơ bản của lý thuyết kiến trúc như là không gian, hình thể và trật
tự, thủ pháp trong bố cục…
· -
Vấn đề:
·
Trường hợp thiết kế ở khu liên kế phố: Tranh
chấp hay thống nhất với lân cận?
·
Khi thiết kế mặt ngoài của một công trình, điều
quan trọng trong nghiên cứu xử lý là làm thế nào công trình phải có sự liên hệ
hài hòa với các công trình lân cận để đảm bảo đạt được sự thống nhất chung.
·
Giải pháp đề nghị:
Xem xét tỷ lệ, hình dạng, vật liệu và khung cảnh của
các công trình lân cận. Hãy sử dụng cùng tỷ lệ, hình dạng, và vật liệu để công
trình tự nói lên tính thống nhất chung và góp phần tạo dựng cảm xúc của cộng
đồng.
Tạo lập một tiếng nói chung cho các công trình trong
khu vực, ví dụng như thủ pháp tạo mảng xanh gắn kết với công trình, hoặc có một
mái che vươn ra dành cho khách bộ hành trước dãy phố buôn bán.
PHẦN III: Kiến trúc hiện
đại Việt Nam có kế thừa truyền thống và tạo
lập bản sắc địa phương.
Sơ bộ điểm lại thực trạng
phát triển xây dựng, kiến trúc ở Đà Lạt – Lâm Đồng thời gian qua, chúng ta đã nhìn
nhận ra một số xu hướng trong sáng tác kiến trúc có thể là xu hướng tiêu biểu,
tập trung là xu hướng kiến trúc hiện đại. Từ đó, trong thực tiễn vẫn còn nhiều
điều kiện tác động buộc chúng ta phải
tiếp tục suy nghĩ, đào sâu nghiên cứu khi phải bàn về nền "Kiến trúc hiện
đại Việt Nam có kế thừa truyền thống và tạo
lập bản sắc địa phương". Có thể nói lên một vài suy nghĩ tản mạn như sau:
+ Nền Kiến trúc hiện đại VN
đang phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã
hội. Hiện tại, kiến trúc phản ánh trung thực những thực trạng xã hội chứa đựng
nhiều bề bộn và ưu tư.
+ Ở khắp nước ta, các làng
xóm còn tiềm ẩn bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng địa phương, của mỗi vùng đất,
và tất cả lại hợp thành bản sắc văn hóa của cả dân tộc. Đà Lạt- Lâm Đồng cũng
không phải là ngoại lệ. Đây chính là một nguồn cảm hứng tiềm tàng, phong phú mà
mỗi KTS cần phải thấm nhuần có chọn lọc để nghiên cứu sáng tác trong các công
trình hướng về tìm kiếm bản sắc.
+ Kiến trúc của bất kỳ dân
tộc nào đều cần có sự kế thừa và liên tục, phản ánh được sự phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội của dân tộc đó. Và thời đại nào cũng cần có đường lối của nền
kiến trúc bản địa, từ nông thôn đến thành thị.
+ Một kiến trúc hiện đại cũng
đồng nghĩa với một kiến trúc đẹp. Cái đẹp của kiến trúc hiện đại không phải là
những mảng khối bê tông tách biệt hẳn vối lịch sử và truyền thống, tách biệt
hẳn với môi trường thiên nhiên. Một kiến trúc đẹp phải là một kiến trúc đượm
tính nhân bản và đậm đà bản sắc.
+ Cần phải xây dựng một tương
quan hợp lý giữa hiện đại và truyền thống mà theo đó truyền thống tạo cơ sở cho
KTS sáng tạo tiếp nhận được những cái
mới tinh hoa của nhân loại.
+ Một công trình kiến trúc
hiện đại, hoàn toàn có thể chứa đựng những yếu tố truyền thống trong cách tổ
chức không gian, trong quan niệm bố cục hình khối kiến trúc, thẩm mỹ cũng như
trong kỹ thuật xây dựng để thích ứng với những điều kiện kinh tế cụ thể. Những
yếu tố này cũng phải được hiện đại hóa để thích nghi với những nhu cầu của cuộc
sống hiện tại cũng như để thích nghi với
những tiến bộ kỹ thuật xây dựng mới. Đây cũng là quy luật biện chứng của sự kế
thừa, chuyển tiếp từ một quan niệm truyền thống đến một quan niệm hiện đại.
+ Bản sắc dân tộc trong kiến
trúc không phải là một khái niệm giản đơn, nó không chỉ là một phẩm chất thuộc
về hình thức, Trái lại, nó có một nội dung vô cùng súc tích và sâu sắc. Nó là
nền tảng của một nền kiến trúc, là kết tinh những nét kiến trúc đặc thù, nói lên
óc sáng tạo, trình độ văn hóa, thẩm mỹ, sinh hoạt tinh thần và vật chất của một
cộng đồng con người, ở một thời kỳ lịch sử
nhất định.
+ Nói khác đi, tùy theo những
điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, sinh hoạt của con người, kiến trúc của
mỗi dân tộc ở mỗi thời đại có bản sắc riêng của mình và của thời đại đó.
+ Xây dựng nền kiến trúc Việt
Nam theo định hướng dân tộc và hiện đại đòi hỏi sự tham gia của nhiều thành
phần KTS, không chỉ những người làm sáng tác thiết kế mà cả lực lượng KTS làm
công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, phê bình lý luận và những người tham gia công việc quản lý nhà nước về quy
hoạch, kiến trúc xây dựng ( nếu là KTS thì quá tốt).
+ Cần phải có một chiến lược
cụ thể về quy hoạch đô thị và nông thôn, một phương hướng chỉ đạo cho xây dựng
kiến trúc, phù hợp phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng địa phương trong
cả nước. Để bước đầu xây dựng một nền kiến trúc hiện đại, khoa học, bản sắc dân
tộc dựa trên nguyên tắc phát huy nội lực là chính.
+ Mặt khác, cần nghiên cứu và
hoàn tất các luật lệ về quy hoạch, kiến trúc, xây dựng để cụ thể hóa những định
hướng chung với những hướng dẫn thiết thực có hiệu lực pháp lý bắt buộc.
+ Hội KTS Việt Nam sẽ đưa ra
các chủ trương đường lối cụ thể nhằm định hướng cho các KTS trong sáng tác,
nghiên cứu, ở bất cứ vị trí công tác nào, cũng làm tốt vai trò của mình, góp
phần xây dựng một nền kiến trúc việt Nam hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc
dân tộc.
Mong rẵng cùng với nỗ lực
chung của cà nước, chúng ta sẽ tạm thời đúc kết được những cơ sở lý luận cần
thiết định hướng cho công cuộc xây dựng và phát triển một nền kiến trúc Việt
Nam hiện đại phù hợp bước phát triển của nền kinh tế quốc gia, một nền kiến
trúc thích ứng đậm tính nhân văn, đa dạng, đầy màu sắc và bền vững!
PHẦN IV: KẾT LUẬN, KIẾN
NGHỊ.
Lướt nhìn qua bức tranh tổng thể về sự thay đổi phát
triển của dáng vóc kiến trúc Đà Lạt- Lâm Đồng, chúng ta tự hào về những thành
tựu nhất định, nhưng vẫn có những băn khoăn cần kiến nghị đề xuất:
- Cần có kế hoạch tổng kết kiến trúc ở tầm vĩ mô và ở cấp
độ địa phương. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu phê bình về kiến trúc nhằm tạo ra
những định hướng cho việc phát triển kiến trúc hiện đại trong tương lai.
- Về những tác động cần thiết từ góc độ quản lý
nhà nước: Để cho bộ mặt kiến trúc đô thị ngày càng phát triển có nề nếp,
khang trang hơn, đảm bảo được về mặt trật tư đô thị, cần phải có các tiêu chí
về quản lý quy hoạch - kiến trúc được nghiên cứu thực sự khoa học, phù hợp với
điều kiện đặc thù địa phương, để cho các nhà
sáng tác kiến trúc phải tuân thủ
khi thiết kế công trình, và đảm bảo đáp ứng được những yêu cầu cơ bản nhất theo
định hướng thẩm mỹ chung,
- Mặc dù nhà nước
có cho phép người dân tự thiết kế và chịu trách nhiệm về chất lượng, an toàn công trình nhà ở của
mình, song dưới góc độ của cơ quan quản lý nhà nước đề nghị các công trình kiến
trúc từ nhà ở nhân dân đến các công trình dân dụng, công nghiệp của nhà nước
hoặc của các thành phần kinh tế khác đều phải được những người thiết kế có
chuyên môn thiết lập và được các tổ chức quản lý ở các địa phương thường xuyên
hoạt động kiểm tra theo dõi việc xây dựng không giấy phép, sai giấy phép, sai
thiết kế để có biện pháp ngăn chặn xử lý từ đầu, không để cho công trình hoàn
thành rồi mới xử lý vi phạm sẽ làm ảnh hưởng đến trật tự quản lý đô thị, đến dư
luận không tốt trong nhân dân.
- Về vấn đề đạo đức nghề nghiệp KTS: Từ trong môi trường
giáo dục, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức chuyên môn, cần phải quan tâm hướng
dẫn thêm về đạo đức nghề nghiệp cho người KTS tương lai có bản lĩnh, có quan
điểm rõ ràng, và có phương pháp làm việc khoa học. Hội Kiến trúc sư cũng nên có
các hình thúc hỗ trợ sinh hoạt nghề nghiệp cho các KTS hành nghề theo đúng định
hướng chung.
- Vai trò tư vấn, phản biện của Hội KTS cần được sự quan
tâm hơn nữa của Nhà nước.
- Riêng với điều kiện đặc thù tự nhiên của Đà Lạt – Lâm
Đồng, những người tham gia công tác thiết kế cần thống nhất cao nguyên tắc tôn
trọng thiên nhiên, không nên tác động xấu phá vỡ địa hình cảnh quan hiện hữu
của đô thị. Cần xác định không gian kiến trúc công trình xây dựng được hình
thành theo các dạng tổ hợp :
Kiến trúc trục phố tại các
Trung tâm thương mại, dịch vụ.
Kiến Trúc các điểm chủ thể
trên các điểm đỉnh Đồi cao bao quanh TP.
Kiến Trúc dạng “ thế địa hình
“ theo các sườn đồi ven thung lũng
Kiến trúc biệt thự và nhà
vườn
Kiến trúc phong cảnh được bố
trí sử dụng thiên nhiên .
Hình thái kiến trúc Đà Lạt
nên theo xu hướng kiến trúc đa hình khối, nhiều lớp mảng, có mái dốc đa dạng,
tổ hợp hình thể nhiều phương và khai
thác sử dụng địa hình tại chỗ.
- Đưa yếu tố lịch sử văn hoá
địa phương vào Kiến trúc: hiện nay nền Kiến trúc cũng bị chi phối và đôi khi bị
chìm vào lối suy nghĩ thực dụng thời hiện đại. Cần phải chú trọng đến những
khía cạnh văn hóa bản sắc thấm nhuần trong sáng tác các công trình kiến trúc
hiện đại và tương lai.
Đà Lạt, 08/09/2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.